Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Vợ chồng A Phủ lớp 12 ngắn gọn bao gồm dàn ý chi tiết cùng 6 bài mẫu hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp từ các bài văn đạt điểm cao trên toàn quốc. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các bạn tham khảo để từ đó hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình
Đề bài: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Vợ chồng A Phủ.
Dàn ý Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Vợ chồng A Phủ lớp 12
Dàn ý Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Vợ chồng A Phủ – Số 1
I. Mở bài:
Bạn đang xem: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Vợ chồng A Phủ ngắn gọn, hay nhất (6 Mẫu)
- Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ nằm trong tập Truyện Tây Bắc – kết quả của chuyến đi thực tế 8 tháng cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc 1952. Tập truyện đã nhận được giải nhất về truyện kí của Hội văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955.
- Vốn sống và tình yêu với miền đất Tây Bắc đã thôi thúc Tô Hoài viết về đề tài Tây Bắc. Song để dựng lại một cách chân thực và sinh động bức tranh về cuộc sống, con người Tây Bắc với những sắc thái riêng của vùng đất này phải kể đến sự góp mặt của những biện pháp nghệ thuật đặc sắc ở ngòi bút Tô Hoài.
II. Thân bài:
a. Nghệ thuật tả cảnh
* Mục đích
– Làm nổi bật chất Tây Bắc. Ở bề nổi, chất Tây Bắc bộc lộ rõ nhất qua những nét đặc sắc của thiên nhiên, của cuộc sống sinh hoạt với những phong tục, tập quán vừa mang đậm bản sắc văn hóa vùng cao vừa không ít những dấu hiệu của lối sống còn mông muội, lạc hậu.
* Đối tượng và cách thức cụ thể
– Cảnh sắc thiên nhiên:
- Chọn thời điểm: thời điểm tết đến, xuân về là lúc Tây Bắc đẹp mất với sự gặp gỡ của cái bừng nở ở thế giới tự nhiên với cái bừng nở trong tâm hồn của con người.
- Cách thể hiện: kết hợp giữa tả và gợi, xây dựng quan hệ tương đồng, hài hoà giữa cảnh thiên nhiên và cảnh sinh hoạt của con người đã tạo lên sức hấp dẫn của bức tranh thiên nhiên Tây Bắc: sắc màu của thiên nhiên và sắc màu cuộc sống đã hòa quyện vào nhau (“khi cỏ gianh vàng ửng, hoa thuốc phiện nở đỏ, nở tím trên núi cao cũng là khi những chiếc váy hoa sặc sỡ được phơi trên mỏm đá đầu làng”).
– Cảnh sinh hoạt, phong tục:
- Cảnh sinh hoạt ngày tết: Nhà văn chọn những chi tiết tiêu biểu nhất cho nét sinh hoạt của người dân miền núi để miêu tả (uống rượu, nhảy đồng, sân chơi chung với các trò chơi đánh pao, đánh quay, thổi sáo…). Những chi tiết được chọn và dựng lại bằng một thứ ngôn ngữ miêu tả giản dị như đời sống tự nhiên chảy vào tác phẩm.
- Cảnh đêm tình mùa xuân: Chọn được 2 chi tiết đặc sắc nhất trong nét sinh hoạt văn hoá độc đáo này và dựng lại một cách sinh động, tự nhiên. Đó là cảnh trai gái rủ nhau đi chơi mùa xuân (thời gian là nửa đêm, tín liệu là tiếng gõ vách, hành động là dỡ cửa bước ra rừng chơi). Đó là cảnh trai gái hẹn hò, ngỏ lời yêu thương bằng quả pao, quả yến, tiếng sáo, tiếng khèn và những bài hát tỏ tình độc đáo. Tất cả làm nên màu sắc trữ tình độc đáo cho bức tranh sinh hoạt và chất trữ tình thấm thía cho trang văn Tô Hoài.
- Cảnh sự kiện: Đây là một biểu hiện đậm nét của tập tục dã man trong chế độ phong kiến miền núi. Tính chất dã man ấy được dựng lại thông qua những nghịch lý: xử kiện là thực hiện công lý song trong cuộc xử kiện ấy, công lý đã bị bóp méo nghiêm trọng để mang một bộ mặt bất công đến đáng kinh sợ. Bản án đưa ra đáng lẽ để răn đe, trừng phạt kẻ có tội lại trở thành tai họa giáng xuống đầu những kẻ thân cô thế cô khiến họ không thể kháng cự, không có cách nào để được giải thoát.
– Nhận xét:
- Cái tài của nhà văn là đã tìm ra những chi tiết có ý nghĩa khéo léo tổ chức chúng để làm nổi bật đặc điểm chính của cảnh, của vật, của việc mà mình miêu tả.
- Giá trị của những trang văn tả cảnh này là không chỉ dừng lại một cách sinh động cảnh trí, nếp sinh hoạt, phong tục của vùng cao Tây Bắc mà còn tạo ra một cái nền thích hợp để làm bộc lộ nét bi thảm của số phận và vẻ đẹp của sức sống tiềm tàng của con người trên vùng đất đó.
b. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
* Nghệ thuật mô tả diễn biến tâm lý
– Sử dụng rộng rãi thủ pháp tương phản: Nhà Pá Tra giàu có và cô Mị luôn cúi mặt, mặt buồn rười rượi; phòng giam Mị chật hẹp và không gian bên ngoài phóng khoáng, tự do; cảnh u ám, chết lặng trong buồng Mị và sự rộn ràng của những ngày xuân, những đêm tình mùa xuân.
– Đi sâu vào đời sống nội tâm để khắc họa tính cách. Nội tâm nhân vật được khắc họa bằng những cách thức cụ thể:
- Mượn hình tượng thiên nhiên để diễn tả tâm trạng (mùa xuân của thiên nhiên khơi gợi sức sống thanh xuân trong tâm hồn Mị, ngọn lửa hơ tay trong đêm mùa đông gợi ngọn lửa âm ỉ trong tâm hồn mình).
- Trực tiếp miêu tả diễn biến tâm lý một cách hợp lý và tinh tế với từng tình huống cụ thể: trong đêm tình mùa xuân, tiếng sáo bên ngoài đã đánh thức khát khao tình yêu, khát khao sống trong Mị. Âm thanh tiếng sáo càng gần thì khát vọng trong Mị càng mạnh mẽ. Cho đến khi tiếng sáo bên ngoài đã nhập hẳn vào trong lòng, trong đầu Mị thì Mị bắt đầu có những hành động để thực hiện khát khao ấy. Trong đêm mùa đông, giọt nước mắt A Phủ gợi nhắc giọt nước mắt chảy xuống không tự lau đi được khi Mị bị trói, điểm chung trong số phận của những con người luôn có thể bị trói đến chết đã khơi dậy lòng căm phẫn và ý thức về sự bất công, hành động cứu người đã thúc đẩy quyết định tự cứu mình.
- Giọng kể của nhà văn nhập vào dòng tâm tư nhân vật, làm nổi lên ý nghĩ, tâm trạng và cả những trạng thái chập chờn của tiềm thức nhân vật.
* Nghệ thuật xây dựng tính cách
- Xây dựng nét tính cách ổn định, thống nhất mà cũng phong phú với những vận động, đổi thay vừa bất ngờ vừa tất yếu. Mị là cô gái có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ. Khi buộc phải sống như một con vật đã dám chết như một con người. Khi bên ngoài câm lặng là khi sức sống âm ỉ đã dồn vào bên trong để chờ cơ hội bùng phát. Khi sẵn sàng chết thay cho người khác cũng là khi quyết tâm sống trào dâng mạnh mẽ.
- Làm nổi bật sự khác biệt giữa các tính cách: Mị và A Phủ có sức sống mạnh mẽ sống ở Mị sức mạnh đã dồn vào bên trong nên tác giả chủ yếu miêu tả đời sống nội tâm. Ở A Phủ, sức sống lại bộc lộ ra thành vẻ nam tính trong những hành động dữ dội quyết liệt và lời nói dứt khoát.
c. Ngôn ngữ và cách kể
- Ngôn ngữ: Đậm chất miền núi, biểu hiện ở lối tư duy gắn liền với thiên nhiên, hòa quyện và đồng nhất với thiên nhiên. Nét đặc sắc là ở chỗ, Tô Hoài đã vận dụng cách nói hồn nhiên, giàu hình ảnh của người miền núi song không sa vào sự sao chép tự nhiên chủ nghĩa mà có chọn lọc, nâng cao đến trình độ chuẩn mực của ngôn ngữ văn học.
- Cách kể: Xây dựng lối trần thuật linh hoạt với sự dịch chuyển của điểm nhìn trần thuật (khi đặt bên ngoài để quan sát khách quan, khi đặt bên trong để thể hiện thấm thía những suy nghĩ, tình cảm trong lòng nhân vật).
III. Kết bài:
- Tô Hoài đã kết hợp và vận dụng tài tình những phương tiện, biện pháp nghệ thuật khác nhau để làm bật một bức tranh sinh động về cuộc sống và con người ở vùng cao Tây Bắc.
- Những thành công về nghệ thuật góp phần thể hiện thành công ý đồ tư tưởng của nhà văn trong tác phẩm. Đó là cơ sở để tác phẩm cũng như các tập Truyện Tây Bắc được đánh giá là thành công đột xuất của nhà văn xuôi kháng chiến chống Pháp.
Dàn ý Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Vợ chồng A Phủ – Số 2
1. Mở bài:
– Giới thiệu về nhà văn Tô Hoài và truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”.
– Khái quát về đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn.
2. Thân bài:
a. Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật:
– Thể hiện thông qua diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm mà Mị cởi trói cho A Phủ:
- Mị từ một cô gái xinh đẹp, yêu đời trở nên lầm lũi như “con rùa nuôi trong xó cửa” khi bị bắt làm dâu gạt nợ cho gia đình thống lí.
- Trong đêm tình mùa xuân, Mị chợt thức tỉnh, Mị sống lại với khát khao tuổi trẻ, Mị nhận ra mình còn trẻ, Mị muốn được đi chơi.
- Trong đêm cởi trói cứu A Phủ: Mị đồng cảm với hoàn cảnh của A Phủ, nhận thức được tình cảnh đáng thương “chỉ đêm nay, đêm mai thôi người kia sẽ phải chết”.→ Mị cắt dây cởi trói cứu A Phủ và giải cứu cho chính mình.
→ Tô Hoài đã miêu tả thành công tâm trạng của Mị từ vô cảm đến xót thương bản thân mình, xót thương cho người khác và cuối cùng là ý thức phản kháng, khao khát sống và tự do.
b. Nghệ thuật miêu tả phong tục, sinh hoạt, thiên nhiên vùng Tây Bắc:
– Nhà văn đã miêu tả thiên nhiên Tây Bắc với sự hùng vĩ, thơ mộng “cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội” hay “những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ”.
– Tô Hoài cũng phác hoạ hết sức rõ ràng và chân thực, độc đáo các tục lệ như “bắt vợ”, trình ma, xử kiện của người dân tộc Mông đất Hồng Ngài.
c. Nghệ thuật trần thuật:
– Phong cách trần thuật uyển chuyển, linh hoạt, truyền thống nhưng rất sáng tạo.
– Tô Hoài chủ yếu vẫn tuân theo lối trần thuật theo dòng thời gian.
– Xen kẽ các đoạn hồi ức của nhân vật vào đó một cách hết sức tự nhiên.
– Vận dụng kiến thức điện ảnh để làm đồng hiện cả quá khứ, hiện tại và tương lai của nhân vật.
3. Kết bài:
– Khẳng định giá trị của tác phẩm.
6 Bài mẫu Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Vợ chồng A Phủ lớp 12 hay nhất đạt điểm 9, 10
Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Vợ chồng A Phủ – Mẫu 1
Tô Hoài là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn với bút lực dồi dào. Không chỉ nổi tiếng với tác phẩm viết cho thiếu nhi “Dế mèn phiêu lưu kí” mà các tác phẩm của ông còn mang đậm nét văn hóa, lối sống, nếp cảm nếp nghĩ của đồng bào dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc. Tiểu biểu là tác phẩm: “Vợ chồng A Phủ”. Trong tác phẩm, ngoài giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực, giá trị nghệ thuật cũng khiến người đọc rất ấn tượng.
Trước tiên, tác phẩm đã thể hiện được cốt truyện mạch lạc, hướng tới thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Xoay quanh câu chuyện về cuộc đời của hai vợ chồng Mị và A Phủ. Từ những người lao động chân chính trở thành nô lệ của giai cấp cầm quyền, họ đã được giác ngộ Cách mạng, đứng lên chiến đấu để bảo vệ hạnh phúc của chính mình và đồng bào.
Không chỉ thế, tác giả còn thành công trong việc xây dựng nhân vật với số phận mang ý nghĩa điển hình sâu sắc. Nổi bật là nhân vật Mị và A Phủ. Nếu cô Mị được giới thiệu là một cô gái dân tộc xinh đẹp và tràn đầy sức sống. Nhưng hoàn cảnh đưa đẩy khiến cô gái ấy trở thành con dâu gạt nợ của nhà Thống lí Pá Tra. Món nợ của bố Mị khi cưới mẹ Mị. Đây là món nợ truyền kiếp đối với người người lao động nghèo, nó chẳng khác gì một thứ tội: “tội tổ tông”. Đối với bọn phong kiến, đây là hình thức cho vay nặng lãi đẩy người lao động nghèo vào tình trạng bị bần cùng hóa. Gia đình thống lí lợi dụng hủ tục của miền núi (tục cướp vợ) để bắt cóc Mị. Bản thân cô Mị đang hồi hộp đêm hò hẹn đầu tiên, trong lòng đang ngập tràn hạnh phúc thì rơi xuống đáy sâu của nỗi bất hạnh. Bọn chúng còn lợi dụng tục “cúng trình ma” để hoàn chỉnh việc biến một người con gái xinh đẹp, có tài thổi sáo, hiếu thảo, chăm chỉ, tự trọng và nhất là yêu tự do, khát khao tình yêu trở thành một nô lệ. Sự thay đổi tâm trạng của cô Mị có sự diễn biến sâu sắc thể hiện sự am hiểu tâm lí nhân vật của tác giả. Từ một cô gái yêu đời, yêu tự do trở thành con dâu gạt nợ- một người phụ nữ bị tê liệt về tinh thần và cảm xúc, chẳng còn biết phản kháng hay mơ ước gì, cứ lầm lũi kiếp trâu ngựa hầu hạ gia đình thống lí cho đến đêm tình mùa xuân, tâm hồn Mị sống lại như ngày còn tự do. Khi bị A Sử trừng phạt vì dám có ý định chơi, Mị lại trở về hình ảnh của cô gái lầm lũi nhưng khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ, Mị thổn thức và đau khổ, xót thương cho số phận của cả mình và A Phủ. Cô gái tưởng chừng chỉ biết cặm cụi cả đời làm nô lệ đã dám cắt dây cởi trói cho một người xa lạ.
A Phủ được giới thiệu là một người mồ côi, một thân một mình, bị bán xuống đồng tháp, trốn trở lại đồng cao rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Từ nhỏ, A Phủ đã gan bướng, dũng cảm. Chàng trai lao động giỏi, không ngại những việc nặng nhọc, nguy hiểm, là niềm mơ ước của bao cô gái. Tuy vậy, A Phủ vẫn đi chơi ngày tết, mơ ước tìm bạn kết đôi. Cho thấy đây là một chàng trai khao khát hạnh phúc và tình yêu. A Phủ như đứa con, như cánh chim của núi rừng Tây Bắc. Nhân vật A Phủ bị rơi vào hoàn cảnh bất hạnh qua vụ xử kiện vô lý của gia đình nhà thống lí Pá Tra. Từ vụ xử kiện này, A Phủ từ một chàng trai tự do yêu đời trở thành một nô lệ tàn đời mãn kiếp cho nhà thống lí. Nguyên nhân cũng chính vì A Phủ dám cả gan đánh A Sử. Trong cảnh A Phủ đánh nhau với A Sử, Tô Hoài đã sử dụng một loạt động từ mạnh: chạy vụt ra, vung tay, ném, xốc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé áo, đánh tới tấp. Đọc đoạn văn này, người đọc có cảm tưởng được chứng kiến một cách đầy hả hê trận đòn của chàng trai nghèo trừng trị đám con quan cậy quyền, cậy thế.
Tuy vậy, tất cả những mơ ước khát vọng đó đã chấm dứt khi chàng trở thành nô lệ của nhà thống lí. Bản án trong phiên xử kiện này: A Phủ ban đầu bị buộc tội chết rồi lại được tha. Với thống lí Pá Tra, A Phủ sống để làm việc trả nợ (nộp vạ 100 đồng bạc trắng). Chàng trai yêu tự do ngày nào bị biến thành con nợ truyền kiếp. Tuy sự việc khác nhau nhưng cách thức bị bó buộc và hành hạ về thể xác và tinh thần của hai nhân vật vốn không liên quan là Mị và A Phủ đều giống nhau. Đó là cách bọn cầm quyền, thống trị ở các địa phương đày đọa người dân trước khi được Cách mạng giải phóng. A Phủ bị bắt làm các công việc nặng nhọc nguy hiểm, trở thành nô lệ không công do món nợ không biết đến ngày nào mới trả hết. A Phủ cũng không dám nghĩ đến việc trốn do quyền lực khủng khiếp của nhà thống lí Pá Tra. Dù làm việc vất vả, khổ cực nhưng chỉ cần một sai lầm cũng khiến A Phủ phải chịu tội. Tai họa ập đến với A Phủ khi lỡ để hổ ăn mất một con bò. A Phủ bị trói vào cọc. Tính mạng của con người bị rẻ rúng chưa bằng một con vật. Nhà thống lí mất một con bò, nhưng A Phủ lại phải trả giá bằng mạng sống của mình. Đó là một hành động dã man, mất nhân tính của bọn thống trị, coi thường mạng sống của người lao động chân chính. Nhưng cũng chính từ sự bất hạnh này đã đem đến cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ và cảm xúc cho A Phủ và Mị.
Không chỉ vậy, giá trị nghệ thuật của tác phẩm còn được thể hiện những trang văn của tác giả thấm đẫm chất thơ. Từ phong cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc đến cảnh sinh hoạt, những phong tục của người miền núi và cả tâm hồn của con người Tây Bắc khát khao tự do và tình yêu “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên các nhà kho. Trẻ em đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đốt những những lều quanh nương để sưởi lửa. ở Hồng Ngài, người ta thành lệ, cứ ăn tết thì gặt hái vừa đoạn, không kể ngày tháng. ¡n tết thì gặt hái vừa đoạn, không kể ngày tháng. ăn tết thế cho kịp mưa xuân xuống, đi vỡ nương mới.”, “Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, rét càng dữ. Nhưng trong các làng Mông Ðỏ, những chiếc váy hoa đã được phơi ra mỏm đá, xoè như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện nở trắng lại nở màu đỏ hau, đỏ thẫm, rồi nở màu tím man mát. Ðám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà”.
Qua tác phẩm, người đọc thấy được giá trị nghệ thuật đặc sắc được thể hiện qua tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài. Từ đó, thấy được tài năng của một trong những cây bút văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Vợ chồng A Phủ – Mẫu 2
Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Những tác phẩm của ông thể hiện được vốn sống phong phú, lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động cùng với vốn từ vựng giàu có, nghệ thuật miêu tả tâm lý vô cùng tinh tế. “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm thể hiện rõ phong cách cùng tài năng nghệ thuật xuất sắc của Tô Hoài.
“Vợ chồng A Phủ” được Tô Hoài sáng tác năm 1952, sau chuyến đi thực tế của ông cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc. Thông qua tác phẩm, ông muốn phản ánh số phận bi thảm của những người dân người vùng miền núi dưới ách thống trị của giai cấp phong kiến. Đồng thời ông cũng ca ngợi vẻ đẹp đầy sức sống trong tâm hồn họ cũng như chỉ ra con đường giúp họ đổi đời khi họ bắt gặp ánh sáng cách mạng. Không chỉ thành công về mặt nội dung, “Vợ chồng A Phủ” còn rất thành công về mặt nghệ thuật với nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, nghệ thuật miêu tả sinh hoạt, trang phục, thiên nhiên cùng nghệ thuật trần thuật vô cùng đặc sắc.
Với nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, ta thấy Tô Hoài đã rất thành công trong việc tái hiện những diễn biến nội tâm tinh tế mà phức tạp của nhân vật Mị. Mị là người con gái đất Hồng Ngài, xinh đẹp, hiếu thảo và tài hoa, thế nhưng cô lại có một số phận rất bi thảm: bị bắt cóc trở thành con dâu “gạt nợ” nhà thống lí Pá Tra. Từ đó, Mị sống trong vô cảm, buồn tủi “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, lúc nào cũng “cúi đầu, mặt buồn rười rượi”. Tưởng chừng Mị cứ sống những ngày tháng buồn tủi như thế cho đến một đêm tình mùa xuân, tâm hồn Mị đã bừng dậy, tràn trề sức sống. Trong tình huống này, Tô Hoài đã rất tinh tế khi miêu tả tâm lý Mị từ khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình đến khi Mị thức tỉnh những ý thức về bản thân. Tiếng sáo và men rượu đã đưa Mị trở về những kỉ niệm ngọt ngào của quá khứ. Mị chợt ý thức được quyền sống của bản thân. Nếu trước đây, Mị tưởng mình là “con trâu, con ngựa” trong nhà thống lý thì giờ đây, Mị đã ý thức được mình là một người con gái đang còn son trẻ “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ”. Chính lúc ấy niềm khao khát được đi chơi xuân như bao người chợt bùng lên trong tâm hồn Mị. Điều đó chứng tỏ sâu thẳm trong trái tim Mị vẫn khát khao tự do, tình yêu và hạnh phúc.
Lúc mà khát vọng đi chơi trỗi dậy cũng là lúc Mị đau khổ hơn bao giờ hết bởi cuộc sống hôn nhân không tình yêu, không hạnh phúc với A Sử “không có lòng với nhau mà phải ở với nhau”. Sự dằn vặt trong tâm tư đã khiến hồi sinh ý thức mãnh liệt về quyền sống đồng thời làm bừng lên ý chí phản kháng của Mị. Mị muốn tìm tới cái chết như một sự giải thoát khỏi sự đau khổ “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay”. Thế nhưng vượt qua ý nghĩ tìm đến cái chết, Mị khao khát được tự do, tình yêu, hạnh phúc. Vậy nên Mị đã đứng lên hành động, vào buồng, “lấy váy, quần tóc” để chuẩn bị đi chơi xuân, để quyết liệt giành giật với số phận tự do, hạnh phúc mà Mị đã bị tước đoạt. Đến khi bị A Sử trói đứng ở cột nhà, Mị đau đớn bởi dây trói “thít lại đau nhức” thế nhưng tâm hồn Mị vẫn còn “lơ lửng” theo tiếng sáo. Dây trói chỉ có thể trói được thể xác chứ không thể trói được tâm hồn tự do của Mị. Tiếng sáo gọi bạn dẫn Mị “đến những đám chơi, những cuộc chơi” mà Mị “nồng nàn tha thiết nhớ”. Tô Hoài đã miêu tả những chuyển biến tâm lý của Mị hết sức tinh tế và phức tạp của Mị trong đêm tình mùa xuân, từ một cô Mị “lùi lũi”, buồn bã, không còn sức sống, chỉ trong một đêm đã bừng dậy ý thức sống của bản thân, ý thức phản kháng. Tất cả những điều đó được nhà văn Tô Hoài ghi lại một cách cụ thể và sinh động.
Sự thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lý của Tô Hoài còn được thể hiện ở tâm trạng của nhân vật Mị khi cô cởi trói cho A Phủ. Nếu như trong đêm tình mùa xuân, Mị chỉ là khao khát tự do, khao khát được sống thì trong đêm Mị cởi trói cho A Phủ, trong tâm hồn Mị còn bùng lên ý thức đấu tranh chống lại cường quyền, chống lại sự áp bức để giành lấy tự do cho chính mình. Sau cuộc “nổi loạn” đêm tình mùa xuân, Mị lại trở về cuộc sống cam chịu, vô cảm như trước đó, vẫn lặp lại thói quen thổi lửa hơ tay khi trời chưa sáng, Mị vô cảm với mọi thứ kể cả khi nhìn thấy A Phủ bị trói ở cột, Mị cũng vẫn “thản nhiên thổi lửa hơi tay”. Thậm chí Mị còn vô cảm đến mức cảm thấy nếu A Phủ ” là cái xác chết đứng đấy. Thì cũng thế thôi”, Mị chẳng mảy may mà xúc động. Nhưng đến khi nhìn thấy giọt nước mắt lăn dài trên mặt A Phủ thì lòng nhân hậu, lòng căm thù giai cấp cầm quyền, ý thức phản kháng lại bừng cháy trong tâm hồn của cô. Những diễn biến tâm lý trong Mị được Tô Hoài miêu tả vô cùng cụ thể. Đầu tiên là nỗi thương mình khi chính Mị “cũng bị trói như thế. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miếng, xuống cổ, không biết lau đi được”. Ý thức thương mình chính là sợi dây đồng cảm để Mị xót thương cho A Phủ. Và cũng vì thế, Mị ý thức được bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị “chúng nó thật độc ác”. Lòng căm thù giai cấp thống trị tàn ác đã thổi bùng lên ý chí phản kháng của Mị, đó là một yếu tố tinh thần để những người lao động như Mị vùng lên quật khởi. Mị đã quyết định “rút con dao nhỏ cắt lúa cắt nút dây mây” mà cắt đứt sợi dây trói cho A Phủ. Rồi chính Mị cũng băng đi, đuổi theo A Phủ để tìm lấy một con đường sống cho chính bản thân mình. Một phút “Mị đứng lặng trong bóng tối” là cuộc đấu tranh nội tâm giằng xé, quyết liệt của Mị giữa đi hay ở, giữa lựa chọn vùng lên hay cam chịu, giữa cái sống và cái chết. Cuối cùng Mị đã băng đi với khát vọng được sống mãnh liệt. Ở tình huống này, Tô Hoài đã miêu tả nội tâm nhân vật bằng bút pháp hiện thực. Ông đã tinh tế phát hiện ra niềm khao khát được sống tiềm tàng trong con người Mị để dựng lên bức tranh nội tâm nhân vật hết sức đặc sắc.
Thành công về nghệ thuật trong Vợ chồng A Phủ còn phải kể tới nghệ thuật miêu tả phong tục, thiên nhiên, sinh hoạt của những người đồng bào dân tộc thiểu số hết sức đặc sắc của nhà văn Tô Hoài. Với vốn kiến thức và từ vựng phong phú, ông đã miêu tả khung cảnh của thiên nhiên vùng Tây Bắc hết sức hùng vĩ và thơ mộng với “cỏ gianh vàng ừng” hay “những chiếc váy hoa” được đem phơi “trên mỏm đá xoè ra như con bướm sặc sỡ”. Đồng thời ông cũng khắc hoạ được những phong tục rất riêng của những con người vùng Tây Bắc như tục “bắt vợ”, tục ném pao, tục ăn tết, trình ma, hay tục “xử kiện” của những người dân tộc Mông. Ngòi bút của Tô Hoài đã khắc hoạ chi tiết, sinh động những hình ảnh của “tiếng sáo, tiếng khèn” gọi bạn hay tục ăn tết ở Hồng Ngài “khi gặt hái vừa xong bất kể ngày tháng nào”.
Thành công thứ ba trong nghệ thuật của Vợ chồng A Phủ đó chính là nghệ thuật trần thuật. Phong cách trần thuật của Tô Hoài vừa uyển chuyển, linh hoạt, vừa truyền thống nhưng cũng rất sáng tạo. Tô Hoài chủ yếu vẫn tuân theo lối trần thuật theo trình tự thời gian, tạo nên một dòng chảy liền mạch cho câu chuyện. Thế nhưng cũng có lúc ông đan xen vào đó những đoạn hồi ức của nhân vật một cách rất tự nhiên như đoạn “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu trên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Thêm vào đó là việc vận dụng kĩ thuật đồng hiện của nghệ thuật điện ảnh để tái dựng lại những hình ảnh của nhân vật khiến cho người đọc khó phân biệt được là hiện tại, quá khứ hay tương lai, tất cả như đồng hiện tại thời điểm đó: “Mị nhớ lại đời mình. Mị lại tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ đã chẳng trốn được rồi, lúc ấy, bố con Pá Tra sẽ bảo lá Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, mị phải chết trên cái cọc ấy”.
Qua việc phân tích Vợ chồng A Phủ chúng ta có thể hình dung rõ nét bức tranh cuộc sống của những người nông dân nghèo vùng Tây Bắc dưới chế độ phong kiến miền núi, đồng thời thấy được nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, miêu tả thiên nhiên, con người vùng Tây Bắc, nghệ thuật trần thuật rất tinh tế của Tô Hoài. Những thành công này đã chứng minh cho ngòi bút sắc sảo, tài hoa của một nhà văn xuất sắc – Tô Hoài.
Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Vợ chồng A Phủ – Mẫu 3
Truyện Vợ chồng A Phủ đã rất thành công khi miêu tả chân thực số phận nô lệ cực khổ của người dân lao động nghèo Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn cường quyền phong kiến miền núi. Mị và A Phủ là điển hình cho những số phận khổ đau bị thần quyền và cường quyền ràng buộc, bóc lột, áp bức đến cùng kiệt.
Truyện còn phơi bày bản chất tàn bạo, bất nhân của giai cấp phong kiến thống trị ở miền núi. Cha con thống lí Pá Tra là đại diện tiêu biểu cho sức mạnh ấy. Chúng xem con người như những công cụ làm việc, như con thú được nuôi trong nhà. Chúng mặc sức hành hạ, đánh đập khi cảm thấy bực bội hoặc để làm trò vui mỗi khi chúng muốn.
Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi Tây Bắc cũng được miêu tả sâu sắc bằng tấm lòng trân trọng của nhà văn. Toàn bộ khung cảnh núi rừng Tây Bắc dưới ngòi bút của nhà văn trở nên tươi đẹp, hiền hòa như muốn che chở cho con người. Con người hòa vào thiên nhiên trong những hội xuân tưng bừng. Thiên nhiên đi vào cuộc sống, tràn ngập trong từng bước chân, từng tiếng hát. Mỗi lá cây, mỗi ngọn cỏ đều rưng rức sự sống, trở thành một phần trong tâm hồn những con người bình dị, chất phác.
Nét đẹp phong tục văn hóa của người dân tộc vùng cao cũng được tập trung khắc họa đậm nét. Dù trong đói khổ, bị áp bức tinh thần nhưng con người vẫn luôn khát khao được sống, được yêu, được ca hát giữa núi rừng và ánh trăng. Tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết. Tiếng khèn lá réo rắt gọi mời thổn thức nơi đầu non cuối bãi mãi là ấn tượng đẹp không thể quên trong lòng người đọc.
Vợ chồng A Phủ còn là bài ca ca ngợi và khẳng định mạnh mẽ niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc cháy bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, con người cũng không mất đi khát vọng sống tự do và hạnh phúc. Trong vô thức, Mị vẫn muốn đi chơi dẫu đang bị trói và những cơn đau hành hạ. Dù không còn muốn sống nữa nhưng Mị vẫn muốn cứu A Phủ, muốn người khác được sống. Và khi thức ngộ được hoàn cảnh, Mị đã tự tìm lấy con đường sống cho chính mình.
Truyện còn thể hiện lòng yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc của nhà văn đối với thân phận đau khổ của người lao động nghèo miền núi, lên tiếng phê phán quyết liệt những thế lực chà đạp con người. Thông qua câu chuyện, nhà văn đã chỉ ra cho người dân miền núi Tây Bắc nói riêng, những số phận khổ đau nói chung con đường tự giải thoát khỏi những bất công, con đường làm chủ vận mệnh của mình.
Từ trong tuyệt vọng, họ đã tìm thấy con đường sáng, con đường đi đến tương lai dù biết rằng phía trước vẫn còn muôn vàn trắc trở. Mị và A Phủ đã cùng đến Hồng Ngài. Họ bắt đầu xây dựng cuộc sống mới với niềm tin tưởng lớn lao. Họ còn được giác ngộ lý tưởng Cách mạng và tham gia giải phóng bản làng ra khỏi sự áp bức của thực dân và cường quyền miền núi. Họ thực sự đã tìm thấy con đường sống đích thực cho mình và cho nhiều người khác.
Tô Hoài đã rất thành công khi lựa chọn cách kể chuyện điềm tĩnh, chắc chắn, lối cuốn, đầy bất ngờ. Cách giới thiệu nhân vật tự nhiên mà ấn tượng. Cách dẫn dắt tình tiết khéo làm cho mạch truyện phát triển và vận động liên tục, biến đổi hấp dẫn mà không rối, không trùng lặp. Các nhân vật lần lượt xuất hiện trong hoàn cảnh của họ, mạnh mẽ, đầy sức sống. Họ bước vào câu chuyện và tạo lập nên các tình huống gây cấn, thu hút người đọc.
Ngôn ngữ kể chuyện sinh động, chọn lọc và đầy sáng tạo. Lối văn giàu tính tạo hình, thấm đẫm chất thơ. Hình tượng nhân vật nổi bậc lên với những đặc điểm điển hình ở họ. Mị xinh đẹp nhưng buồn bã. Một nỗi buồn triền miên, dai dẳng, có sức hủy hoại lớn. A Phủ khỏe khoắn, lực lưỡng, tài năng, hứa hẹn một cuộc đời đẹp đẽ. Nhưng hoàn cảnh khắc nghiệt đã khiến cho anh mất dần sức trai trẻ.
Nghệ thuật miêu tả tâm lý tinh tế và phát triển tính cách nhân vật hợp lý. Nhà văn ít tả hành động mà chủ yếu khắc họa nội tâm. Nhiều khi mới chỉ là các ý nghĩ chập chờn trong tiềm thức nhân vật. Nhân vật chủ yếu sống bằng thế giới nội tâm. Các xung đột cũng thầm kín diễn ra, âm thầm mà mạnh mẽ. Đặc biệt là ở nhân Mị.
Nghệ thuật tả cảnh đặc sắc. Cảnh thiên nhiên thơ mộng của núi rừng Tây Bắc được miêu tả bằng ngôn ngữ giàu chất thơ và chất tạo hình (cảnh mùa xuân về trên núi Hồng Ngài). Đời sống lao động và văn hóa của người miền núi với những nét sinh hoạt phong tục riêng, sinh động. Từ cảnh đêm tình mùa xuân đầy luyến lưu đến cảnh cúng trình ma oan nghiệt được miêu tả tỉ mỉ. Kể cả cảnh xử kiện cũng được trình bày một cách rõ ràng. tất cả phơi bày trước mắt người động hết sức sinh động như cuộc sống đang diễn ra.
Tác phẩm đặt ra vấn đề số phận con người miền núi trước và sau Cách mạng. Những con người dưới đáy xã hội, những con người bị tước đoạt hết tài sản, bị bóc lột sức lao động và bị xúc phạm nặng nề về nhân phẩm. Giải quyết vấn đề số phận con người, Tô Hoài đã thức tỉnh họ, đưa họ đến với ánh sáng cách mạng và mở ra cho họ một cuộc sống mới.
Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Vợ chồng A Phủ – Mẫu 4
Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông luôn hấp dẫn người đọc bởi những nét độc đáo trong việc quan sát và diễn tả về những số phận con người miền núi. Tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” – tác phẩm không chỉ xuất sắc về mặt nội dung mà còn vô cùng thành công về mặt nghệ thuật. Những đặc sắc về nghệ thuật trong truyện là yếu tố quan trọng góp phần đưa “Vợ chồng A Phủ” trở thành một truyện ngắn tiêu biểu cho nền văn học thời kì này.
Nghệ thuật là hình thức của tác phẩm, là những thứ giúp cho chúng ta cảm nhận được nội dung ý nghĩa bên trong. Đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm trước hết được thể hiện ở nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc. Câu chuyện mở đầu bằng hình ảnh của Mị, về quá khứ, những gì mà Mị đã trải qua. Khi Mị dần trở nên tuyệt vọng, A Phủ bỗng xuất hiện như một người cùng khổ. Hai số phận tưởng như song song mà nay lại giao nhau, bởi những khổ đau họ đã trải qua, bởi sức sống tiềm tàng ẩn giấu bên trong tâm hồn của họ. Họ cùng chạy đi, cùng hướng đến ánh sáng nơi cuối con đường. Thông qua việc xây dựng tình huống truyện mới lạ, tác phẩm đã phơi bày những sự tàn bạo, bất nhân của giai cấp thống trị miền núi. Ngoài ra, tác phẩm còn thể hiện được khát vọng sống, sống một cách đúng nghĩa, sống như một con người của những người lương thiện như Mị và A Phủ.
Đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm còn thể hiện ở việc khắc họa hình tượng nhân vật, đặc biệt là ở phương diện miêu tả tâm lí. Cả hai nhân vật Mị và A Phủ đều thể hiện những nét tính cách của người dân lao động miền núi. Mị được miêu tả với sự lặng lẽ, âm thầm, nhẫn nhục nhưng ẩn trong đó là sức sống tiềm tàng, khao khát được tự do và hạnh phúc. A Phủ thì lại gan góc, chất phác,… Để miêu tả hai nhân vật này, tác giả đã chọn những điểm nhìn khác nhau, từ đó hình thành nên những tính cách khác nhau. Ở Mị, tác giả nhấn mạnh vào những khoảnh khắc Mị suy tưởng, Mị nghĩ đến quá khứ, hiện tại, tương lai. “Cứ uống ực từng bát. Rồi say. Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn những người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước.” Niềm vui ấy khiến Mị ý thức được rằng “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.” Điều đó thể hiện được khát khao tự do của cô, khát khao tự do giữa hiện thực đau đớn. Để rồi cô tủi thân, khi nhớ lại rằng mình đang có một cuộc sống bất hạnh: “A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau.” Mị chợt muốn chết, mà muốn chết tức là cô đã nhận ra trong tư tưởng của mình có sự phản kháng, cô không còn muốn sống kiếp sống này nữa. Những suy ngẫm của Mị giúp chúng ta nhận ra một tâm hồn đẹp đẽ đang chết dần chết mòn, một sức sống mãnh liệt đang trỗi dậy mạnh mẽ. Còn ở A Phủ, tác giả nhấn mạnh vào hành động, để thấy được những vẻ đẹp của một người con trai vùng cao. A Phủ là một người yêu chính nghĩa. Bất bình trước sự lộng quyền của A Sử, dẫu biết đó là con quan, A Phủ vẫn “chạy vụt ra, vung tay ném con quay vào mặt A Phủ”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kẹp dập đầu xuống, xé vai áo đánh tới tấp”. Đó là sự phẫn nộ trước những cảnh bất công, phi lý cho cuộc đời, cho thấy được sự gan góc của A Phủ.Ngoài ra, có một chi tiết cho thấy được niềm khát khao được sống của anh, đó là vào lúc Mị cắt dây trói cho anh. Sau nhiều đêm bị trói, bị hành hạ, A Phủ đã quỵ xuống. Nhưng tình yêu cuộc sống đã khiến anh vùng dậy và chạy đi. Những bước chạy của anh là bước chạy của sự đấu tranh, của sự phấn đấu vươn đến tự do, giải phóng chính mình.
Một trong những thành công về nghệ thuật của tác phẩm, còn là việc tái hiện lối sống động vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi Tây Bắc. Toàn bộ khung cảnh núi rừng Tây Bắc dưới ngòi bút của nhà văn trở nên tươi đẹp, hiền hòa. Con người hòa vào thiên nhiên trong những hội xuân tưng bừng. Thiên nhiên đi vào cuộc sống, tràn ngập trong từng bước chân, từng tiếng hát. “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi và cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội.” Điều đó là nhờ cách kể chuyện giàu chất thơ và chất tạo hình của tác giả. Khung cảnh núi rừng hiện ra đầy thơ mộng, dịu dàng.
Nét đẹp phong tục văn hóa của người dân tộc vùng cao cũng được tập trung khắc họa đậm nét. Con người khát khao được sống, được yêu, được ca hát giữa núi rừng và ánh trăng, “Đến Tết năm ấy, Tết thì vui chơi, trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Những nhà có con gái thì bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách”, đó còn là “Những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi.”
Có thể nói, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật đặc sắc. Đó là nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, nghệ thuật tạo tình huống truyện, miêu tả sinh hoạt, phong tục và tâm lí nhân vật. Từ giá trị nghệ thuật ấy, chúng ta có thể hiểu hơn về giá trị nhân đạo sâu sắc được gửi gắm trong tác phẩm: sự lên án tội ác của bọn thống trị và khẳng định sức sống ngoan cường, khát vọng tự do tiềm tàng ở người dân lao động vùng cao Tây Bắc. Nhờ những giá trị ấy, mà tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” vẫn luôn có sức sống bền bỉ trong tâm hồn những người yêu văn chương.
Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Vợ chồng A Phủ – Mẫu 5
Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài đã rất thành công khi miêu tả chân thực số phận nô lệ cực khổ của người dân lao động nghèo Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn cường quyền phong kiến miền núi. Mị và A Phủ là điển hình cho những số phận khổ đau bị thần quyền và cường quyền ràng buộc, bóc lột, áp bức đến cùng kiệt.
Vợ chồng A Phủ đã phơi bày bản chất tàn bạo, bất nhân của giai cấp phong kiến thống trị ở miền núi. Cha con thống lí Pá Tra là đại diện tiêu biểu cho sức mạnh ấy. Chúng xem con người như những công cụ làm việc, như con thú được nuôi trong nhà. Chúng mặc sức hành hạ, đánh đập khi cảm thấy bực bội hoặc để làm trò vui mỗi khi chúng muốn.
A Phủ được giới thiệu là một người mồ côi, một thân một mình, bị bán xuống đồng tháp, trốn trở lại đồng cao rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Từ nhỏ, A Phủ đã gan bướng, dũng cảm. Chàng trai lao động giỏi, không ngại những việc nặng nhọc, nguy hiểm, là niềm mơ ước của bao cô gái. Tuy vậy, A Phủ vẫn đi chơi ngày tết, mơ ước tìm bạn kết đôi. Cho thấy đây là một chàng trai khao khát hạnh phúc và tình yêu. A Phủ như đứa con, như cánh chim của núi rừng Tây Bắc. Nhân vật A Phủ bị rơi vào hoàn cảnh bất hạnh qua vụ xử kiện vô lý của gia đình nhà thống lí Pá Tra. Từ vụ xử kiện này, A Phủ từ một chàng trai tự do yêu đời trở thành một nô lệ tàn đời mãn kiếp cho nhà thống lí. Nguyên nhân cũng chính vì A Phủ dám cả gan đánh A Sử. Trong cảnh A Phủ đánh nhau với A Sử, Tô Hoài đã sử dụng một loạt động từ mạnh: chạy vụt ra, vung tay, ném, xốc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé áo, đánh tới tấp. Đọc đoạn văn này, người đọc có cảm tưởng được chứng kiến một cách đầy hả hê trận đòn của chàng trai nghèo trừng trị đám con quan cậy quyền, cậy thế.
Tuy vậy, tất cả những mơ ước khát vọng đó đã chấm dứt khi chàng trở thành nô lệ của nhà thống lí. Bản án trong phiên xử kiện này: A Phủ ban đầu bị buộc tội chết rồi lại được tha. Với thống lí Pá Tra, A Phủ sống để làm việc trả nợ (nộp vạ 100 đồng bạc trắng). Chàng trai yêu tự do ngày nào bị biến thành con nợ truyền kiếp. Tuy sự việc khác nhau nhưng cách thức bị bó buộc và hành hạ về thể xác và tinh thần của hai nhân vật vốn không liên quan là Mị và A Phủ đều giống nhau. Đó là cách bọn cầm quyền, thống trị ở các địa phương đày đọa người dân trước khi được Cách mạng giải phóng. A Phủ bị bắt làm các công việc nặng nhọc nguy hiểm, trở thành nô lệ không công do món nợ không biết đến ngày nào mới trả hết. A Phủ cũng không dám nghĩ đến việc trốn do quyền lực khủng khiếp của nhà thống lí Pá Tra. Dù làm việc vất vả, khổ cực nhưng chỉ cần một sai lầm cũng khiến A Phủ phải chịu tội. Tai họa ập đến với A Phủ khi lỡ để hổ ăn mất một con bò. A Phủ bị trói vào cọc. Tính mạng của con người bị rẻ rúng chưa bằng một con vật. Nhà thống lí mất một con bò, nhưng A Phủ lại phải trả giá bằng mạng sống của mình. Đó là một hành động dã man, mất nhân tính của bọn thống trị, coi thường mạng sống của người lao động chân chính. Nhưng cũng chính từ sự bất hạnh này đã đem đến cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ và cảm xúc cho A Phủ và Mị.
Một trong những thành công về nghệ thuật của tác phẩm, còn là việc tái hiện lối sống động vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi Tây Bắc. Toàn bộ khung cảnh núi rừng Tây Bắc dưới ngòi bút của nhà văn trở nên tươi đẹp, hiền hòa. Con người hòa vào thiên nhiên trong những hội xuân tưng bừng. Thiên nhiên đi vào cuộc sống, tràn ngập trong từng bước chân, từng tiếng hát. “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp tên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi và cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội.” Điều đó là nhờ cách kể chuyện giàu chất thơ và chất tạo hình của tác giả. Khung cảnh núi rừng hiện ra đầy thơ mộng, dịu dàng.
Nét đẹp phong tục văn hóa của người dân tộc vùng cao cũng được tập trung khắc họa đậm nét. Con người khát khao được sống, được yêu, được ca hát giữa núi rừng và ánh trăng, “Đến Tết năm ấy, Tết thì vui chơi, trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Những nhà có con gái thì bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách”, đó còn là “Những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”.
Tính cách của Mị cũng như A Phủ được nhà văn thể hiện rất độc đáo, mang phẩm chất tiêu biểu của người Mông: âm thầm mà mãnh liệt; mộc mạc, đơn sơ mà dữ dội khôn lường. Và trên hết là lối sống phóng khoáng, tự do, hồn nhiên đầy bản lĩnh của họ. Những phẩm chất này khiến người Mông mang một sinh lực dồi dào, họ có đủ sức mạnh để vượt qua bất cứ sự áp bức, đè nén nào.
Tóm lại, truyện ngắn Vợ chồng A Phủ ra đời đã hơn nửa thế kỉ, nhưng cho đến nay nó vẫn nguyên vẹn giá trị và sức hút đối với nhiều thế hệ bạn đọc trong nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật; sự tinh tế trong diễn tả đời sống nội tâm và trong quan sát những nét lạ về phong tục tập quán, cá tính người Mông cùng lối trần thuật linh hoạt, lời văn tinh tế giàu chất thơ và đậm màu sắc dân tộc. Tác phẩm cung cấp cho người đọc nhiều tri thức lạ về vùng cao Tây Bắc trong quá khứ và hiện tại.
Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Vợ chồng A Phủ – Mẫu 6
Tô Hoài là nhà văn lớn trong văn học hiện đại Việt Nam. Sáng tác của ông thiên về diễn tả những sự thật của đời thường. Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng trên đất nước. Văn của ông hấp dẫn bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động, vốn từ vựng giàu có và cách sử dụng đắc địa, tài ba.
Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài được viết năm 1953, in trong tập Truyện Tây Bắc, cho đến nay hơn nửa thế kỉ đã trôi qua, nhưng vẫn nguyên vẹn giá trị và sức thu hút với người đọc bởi những đặc sắc nghệ thuật của nó.
Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ không chỉ đem lại cho người đọc giá trị thẩm mĩ về nội dung mà đặc sắc hơn là nghệ thuật viết truyện của Tô Hoài. Với lối kể chuyện lôi cuốn, miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế; với cách dựng cảnh sinh động, gợi cảm; với ngôn ngữ giàu chất thơ, chất tạo hình, Tô Hoài đã đem đến cho người đọc những trang văn hấp dẫn và vốn hiểu biết văn hoá sâu rộng về con người và đời sống các dân tộc vùng cao Tây Bắc.
Thành công nhất của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là nghệ thuật xây dựng nhân vật. Xây dựng nhân vật Mị, nhà văn sử dụng thủ pháp tương phản, miêu tả những mâu thuẫn giữa hoàn cảnh và số phận; giữa ngoại hình với nội tâm và sự phát triển tính cách của nhân vật đạt tới mức biện chứng. Điều đó được thể hiện rất rõ qua hai tình huống: Trong đêm tình mùa xuân và trong đêm đông Mị cắt dây trói cứu A Phủ.
Mị từ một cô gái hồn nhiên, yêu đời, hạnh phúc bỗng chốc thành người bất hạnh, thân nô lệ, mất tự do, phải sống với người không yêu, làm việc quần quật suốt ngày, bị áp chế về tinh thần, bị đánh đập, ngược đãi. Tâm hồn, tinh thần Mị bị tê liệt, cam chịu. Mị sống như cái xác không hồn, lầm lũi như con rùa trong xó cửa, bị giam trong căn buồng u tối như địa ngục trần gian… tưởng như không bao giờ thoát ra được.
Đêm tình mùa xuân trở về trên rẻo cao, tiếng sáo gọi bạn và hơi men đã làm thức tỉnh tâm hồn yêu sống và khát vọng tự do của Mị. Mị muốn đi chơi xuân nhưng lần ấy, Mị đã bị A sử trói đứng vào cột nhà trong căn buồng u tối, giá lạnh. Vòng dây tàn bạo siết chặt thể xác nhưng tinh thần Mị vẫn cứ mộng du theo tiếng sáo. Hơi men và tiếng sáo nâng đỡ tâm hồn Mị… Song Mị lại bị rơi vào tình trạng bi đát, vô vọng trầm trọng hơn.
Nếu ở đêm tình mùa xuân Mị chưa thực hiện được khát vọng tự do của mình thì phải đến đêm mùa đông năm sau, Mị mới có hành động đột biến, quyết liệt để thay đổi số phận. Mị cắt dây trói cứu A Phủ, giải phóng cho cả hai người khỏi ách kìm kẹp, khổ đau, mở ra một trang đời mới. Số phận và tâm lí của Mị được nhà văn phác hoạ như một “hình sin”, mỗi khi “đồ thị” đi xuống là để tạo sức nén cho nhân vật lần sau vút cao hơn và giành chiến thắng.
A Phủ cũng được nhà văn thể hiện sống động và chân thực vối những nét tính cách đặc trưng của người dân lao động miền núi. Nếu Mị là nhân vật tâm trạng thì A Phủ lại được xây dựng là nhân vật hành động.
Hành động của A Phủ thể hiện sự táo bạo, gan góc, tự do, dũng mãnh nhưng cũng rất cam chịu và hiền lành. A Phủ bị áp bức tàn bạo nhưng trong anh luôn tiềm ẩn một sức mạnh phản kháng mãnh liệt, dữ dội. Đó là những phẩm chất tốt để sau này họ có thể tự đứng lên giải phóng đời mình. Tính cách của Mị cũng như A Phủ được nhà văn thể hiện rất độc đáo, mang phẩm chất tiêu biểu của người Mông: âm thầm mà mãnh liệt; mộc mạc, đơn sơ mà dữ dội khôn lường. Và trên hết là lối sống phóng khoáng, tự do, hồn nhiên đầy bản lĩnh của họ. Những phẩm chất này khiến người Mông mang một sinh lực dồi dào, họ có đủ sức mạnh để vượt qua bất cứ sự áp bức, đè nén nào.
Mở đầu như một câu chuyện cổ tích nhưng lại là một mảnh đời, một số phận hiện thực. Cách kể đan xen giữa quá khứ và hiện tại; giữa kể và tả. Đặc biệt là cách dựng cảnh, tạo không khí rất đặc sắc như cảnh A sử hành hạ Mị trong đêm tình mùa xuân; cảnh A Phủ đánh A Sử; cảnh xử kiện A Phủ…
Cách miêu tả cảnh trí, nếp sống sinh hoạt, phong tục tập quán cũng thật độc đáo, mang phong vi đặc trưng của vùng Tây Bắc như tục cướp vợ, tục lễ cúng trình ma, tục xử kiện, ốp đồng,… chứng tỏ nhà văn rất am hiểu về một vùng đất mà nhà văn gắn bó, yêu mến. Vốn ngôn ngữ phong phú, giàu tính tạo hình, giàu chất thơ và sáng tạo.
Tóm lại, truyện ngắn Vợ chồng A Phủ ra đời đã hơn nửa thế kỉ, nhưng cho đến nay nó vẫn nguyên vẹn giá trị và sức hút đối với nhiều thế hệ bạn đọc trong nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật; sự tinh tế trong diễn tả đời sống nội tâm và trong quan sát những nét lạ về phong tục tập quán, cá tính người Mông cùng lối trần thuật linh hoạt, lời văn tinh tế giàu chất thơ và đậm màu sắc dân tộc. Tác phẩm cung cấp cho người đọc nhiều tri thức lạ về vùng cao Tây Bắc trong quá khứ và hiện tại.
*****
Trên đây là 6 bài mẫu Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Vợ chồng A Phủ lớp 12 ngắn gọn hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình với điểm số cao nhất.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học tập
- Cảm nhận của anh (chị) về vùng đất và con người miền cực nam của Tổ quốc qua truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh Hạ lớp 12 (9 Mẫu)
- Anh (chị) hãy bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra” lớp 12 (10 Mẫu)
- Buy-phông, nhà văn Pháp nổi tiếng, có viết: “Phong cách chính là người”. Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? lớp 12 (12 Mẫu)
- Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên lớp 12 (7 Mẫu)
- Viết bài văn trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận, theo chủ đề: một tác phẩm văn học mới ra đời và đáng được nhiều người quan tâm bàn luận lớp 12
- Viết bài văn nghị luận trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận khác nhau lớp 12 (3 Mẫu)