Học TậpLớp 12

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài ngắn gọn, hay nhất (25 Mẫu)

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài lớp 12 ngắn gọn bao gồm dàn ý chi tiết cùng 25 bài mẫu hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp từ các bài văn đạt điểm cao trên toàn quốc. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các bạn tham khảo để từ đó hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình

Đề bài: Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

Mục lục

Dàn ý Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài lớp 12

Dàn ý Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Số 1

1. Mở bài

Bạn đang xem: Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài ngắn gọn, hay nhất (25 Mẫu)

* Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

– Tô Hoài là một trong những cây bút truyện ngắn nổi tiếng của văn học Việt Nam hiện đại.

– “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm làm nên tên tuổi của ông.

2. Thân bài

a. Khái quát chung

– “Vợ chồng A Phủ” được rút từ tập “Truyện Tây Bắc”.

– Để trả món nợ của cha, Mị phải trở thành dâu nhà thống lý, sống một cuộc sống khổ cực, bị kìm hãm tự do.

→ Câu chuyện về Mị đã phần nào giúp người đọc hiểu được số phận cùng cực của con người dưới sự thống trị của bọn phong kiến chúa đất.

b. Phân tích chi tiết

* Nhân vật Mị

– Trước khi về làm dâu nhà thống lí, Mị là một cô gái xinh đẹp, vui tươi, yêu đời và tràn đầy sự sống.

– Sống ở nhà thống lý trước hết Mị phải chịu bóc lột về thể xác. Mị phải làm việc cực khổ cho nhà thống lý không phân biệt ngày hay đêm, làm việc hết ngày này qua tháng nọ, không ngừng nghỉ.

– Không chỉ vậy, Mị còn bị chồng mình là A Sử đánh đập, hành hạ.

– Khát vọng sống của Mị được trỗi dậy trong đêm tình mùa xuân nhưng nó đã bị trói lại bởi chính sự hành hạ dã man của A Phủ.

– Trong đêm đông giá rét, hành động cứu A Phủ của Mị cho thấy Mị vẫn là một cô gái giàu yêu thương, đồng cảm; hành động vụt chạy theo A Phủ cho thấy Mị là người yêu tự do, mong muốn được làm chủ cuộc sống của mình.

→ Mị có sức sống tinh thần mạnh mẽ → chế độ cai trị của bọn lãnh chúa có tàn bạo đến nhường nào thì cũng không ngăn được khát khao được sống của con người.

* Nhân vật A Phủ

– A Phủ mồ côi cha mẹ từ nhỏ, cậu đã trở thành một món hàng, một vật trao đổi và chính thức mất đi tự do từ

đó.

– Là một chàng trai khoẻ mạnh, tính tình phóng khoáng.

– Một con người mạnh mẽ, có thể vượt lên mọi khắc nghiệt của cuộc sống để lao động nuôi sống bản thân mình.

– Số phận bất hạnh đã đẩy A Phủ vào cảnh làm người ở gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra.

– Ở đây, A Phủ cũng bị đày đọa, bóc lột, bị đối xử vô cùng rẻ rúng nhưng vẫn luôn khao khát tự do.

– Kết thúc truyện A Phủ và Mị cùng nhau bỏ trốn khỏi nhà thống lí, giải phóng bản thân, hướng về tự do.

c. Đánh giá chung

– Thành công trong việc xây dựng nhân vật.

– Là kết tinh của giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.

3. Kết bài

Khái quát về giá trị tác phẩm

Dàn ý Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Số 2

I. Mở bài

  • Tô Hoài là nhà văn có lối trần thuật hóm hỉnh, ông có sở trường về loại truyện phong tục và hồi kí.
  • Vợ chồng A Phủ được in trong tập Truyện Tây Bắc, tác phẩm là sự phản ánh nỗi khổ của đồng bào Tây Bắc dưới ách thống trị của thực dân Pháp, đồng thời ngợi ca vẻ đẹp con người nơi đây.

II. Thân bài

1. Nhân vật Mị

a. Trước khi trở thành con dâu gạt nợ

– Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo. Mị đã từng yêu, luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu. Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố.

b. Từ khi trở thành con dâu gạt nợ

  • Nguyên nhân: món nợ truyền kiếp từ thời cha mẹ Mị, tục cướp vợ của người Mông đem về cúng trình ma. Người lao động bị cả cường quyền và thần quyền buộc chặt.
  • Mị phải chịu những đày đọa về thể xác: phải làm việc không kể ngày đêm, “không bằng con trâu con ngựa” ; bị đánh đập dã man: bị trói, đạp vào mặt,…
  • Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau: một cô gái lúc nào cũng “mặt buồn rười rượi”, không quan tâm đến thời gian (hình ảnh ô cửa sổ), sống lầm lũi “như con rùa nuôi trong xó cửa”, “ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”.

– Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy:

  • Âm thanh cuộc sống bên ngoài (tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình,..) đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ.
  • Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm…”, với khát khao tự do, thắp sáng căn phòng tối, muốn “đi chơi tết” chấm dứt sự tù đày.
  • Khi bị A Sử trói, lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi. Lúc vùng dậy cô chợt tỉnh trở về với hiện thực.

– Nhận xét: Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ.

– Khi A Phủ làm mất bò, bị phạt trói đứng:

  • Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là cái xác không hồn.
  • Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ khiến Mị đồng cảm, chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau,… phải chết”.
  • Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây đay cởi trói cho A Phủ. Mị sợ cái chết, sợ nhà thống lí, cô chạy theo A Phủ tìm lối thoát.

– Nhận xét: Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.

2. Nhân vật A Phủ

– Số phận: mồ côi cha mẹ, không còn người thân, lớn lên đi làm thuê, sau đó trở thành người ở gạt nợ nhà thống lí Pá Tra.

– Khi trở thành người ở gạt nợ:

  • Nguyên nhân: đánh con quan, thua cuộc trong vụ xử kiện quái gở.
  • A Phủ chịu sự đày đọa về mặt thể chất: phải làm những công việc nặng, nguy hiểm: “đốt rừng, cày nương, săn bò tót,…”, không có giá trị bằng một con bò, làm mất bò mà bị trói đứng đến chết.

– Tích cách:

  • Lúc nhỏ mạnh mẽ, gan bướng: khi bị bán xuống cánh đồng thấp lại trốn lên núi cao
  • Lớn lên là chàng trai khỏe mạnh chăm chỉ, tháo vát, biết làm mọi công việc. Là người biết bất bình trước bất công (đánh A Sử), khao khát tự do (nén đau để vùng chạy khi được cắt dây trói).

– Nhận xét: A Phủ được nhìn từ bên ngoài với những lời nói ngắn gọn, hành động dữ dội mạnh mẽ.

III. Kết bài

  • Nghệ thuật: ngôn ngữ, cách nói đậm chất miền núi, lối trần thuật linh hoạt với sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật, miêu tả thành công tâm lí nhân vật và hình ảnh thiên nhiên.
  • Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc: sự cảm thông với số phận đau khổ của những con người chịu áp bức, tố cáo lên án bọn thống trị miền núi, bọn thực dân, ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng trong mỗi con người Tây Bắc.

25 Bài mẫu Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài lớp 12 hay nhất đạt điểm 9, 10

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Mẫu 1

Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” mà nhà văn Tô Hoài đã giành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập “Truyện Tây Bắc” (1953) của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng để viết truyện này.

Tô Hoài thành công trong “Vợ chồng A Phủ” không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái “dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mắt buồn rười rượi”. Đó là tâm lý của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ.

Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làm Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó. Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân.

Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi, rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa… Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột.

Thế nhưng sợi dây ấy chỉ có thể “trói” được thân xác Mị chứ không thể “trói” được tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình.

Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngời lên ở chỗ đó.

Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay “Dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”.

Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác.

Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, “Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ.

Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”.

Lý trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn ác hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi.

Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này, chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”.

Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư?

Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng… Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này.

Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi, còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua.

Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân – hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi.

Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài – một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến…

Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nự Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó.

Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật, tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống. Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy.

Nét phong cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn – giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 – 1955. Và “Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài.

Đối với riêng em, truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp em ngày càng trân trọng khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn “Đời thừa”.

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Mẫu 2

Tô Hoài là nhà văn tài năng, cần mẫn, ông sáng tác trên nhiều thể loại. Ở thể loại nào ông đạt được những thành tựu xuất sắc. Ông là nhà văn của sự thật đời thường, ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau. Trước cách mạng ông chủ yếu hướng ngòi bút của mình về nông thôn nghèo và thế giới loài vật, sau cách mạng ông hướng đến những vùng nông thôn rộng lớn, đặc biệt là Tây Bắc. Vợ chồng A Phủ là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc của ông.

Nhân vật trung tâm trong tác phẩm là Mị, cô gái trẻ trung, xinh đẹp nhưng số phận lại vô cùng bất hạnh. Vẻ đẹp của Mị được minh chứng qua việc “trai đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị” Mị mang nhan sắc rực rỡ của người con gái tuổi mới lớn, độ tuổi đẹp đẽ, căng tràn sức sống nhất. Không chỉ xinh đẹp, mà Mị còn rất tài năng, tài thổi sáo của Mị nức tiếng gần xa, biết bao người mê đắm, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.

Dù gia cảnh nghèo nàn, vẫn luôn nợ tiền nhà thống lí Pá Tra, nhưng khi biết nhà thống lí muốn bắt mình về làm con dâu để gạt nợ, cô đã lập tức cầu xin cha cho mình được đi làm để trả nợ dần: “Con sẽ làm nương ngô giả nợ thay cho bố”, vì cô tự tin vào khả năng, sức khỏe của mình: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô” và hơn hết cô gái trẻ ấy con mang trong mình cái khát vọng được sống cuộc đời tự do: “Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Dù Mị hội tụ đầy đủ những phẩm chất để được hưởng một cuộc sống tự do, hạnh phúc nhưng số phận lại vô cùng bất hạnh, bị các thế lực, thần quyền và cường quyền chà đạp, áp bức.

Vì món nợ truyền kiếp, cuối cùng Mị bị A Sử con trai thống lí Pá Tra bắt về làm con dâu gạt nợ. Cũng chính từ giờ phút đó cuộc sống bi kịch đổ ập xuống đời cô. Ban đầu khi mới về nhà thống lí, trong Mị vẫn mong manh xuất hiện ý thức phản kháng: đêm nào cô cũng khóc, và đến cuối cùng cô đã đi đến quyết định ăn lá ngón tự tử. Người ta chỉ muốn chết khi ý thức được nỗi khổ của mình, khi sự chịu đựng đã đạt đến giới hạn. Nhưng tình yêu thương gia đình đã khiến Mị từ bỏ ý định đó, vì nếu cô chết đi, món nợ vẫn còn, cha cô lại phải gánh chịu. Mị chấp nhận quay trở lại với cuộc sống lầm lũi, bất hạnh.

Khi người ta sống trong đau đớn và khổ cực trong một thời gian quá dài, tự nhiên sẽ mất đi cảm giác về cái khổ, cái bất công. Khi Mị làm dâu đã quen, cô quên đi nỗi đau khổ về thể xác. Thời gian của Mị không tính bằng thời gian đơn thuần mà bằng lượng công việc cô làm, việc này nối tiếp việc kia, dường như không có lúc nào người con gái ấy được nghỉ ngơi. Từ một người con gái trẻ trung, đầy sức sống, Mị biến thành công cụ lao động, mất đi ý niệm về thời gian, về tuổi trẻ.

Không chỉ vậy Mị còn phải gánh chịu nỗi đau khổ về tinh thần: “Ai có việc ở xa về, có việc vào nhà thống Lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”, “lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Và chính Mị cũng tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa trong nhà này. Bằng biện pháp so sánh, đã cho thấy nỗi khổ bị đẩy lên đến tận cùng của Mị.

Đặc biệt là hình ảnh ẩn dụ về căn buồng mà Mị ở: “kín mít, chỉ có một cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào nhìn ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Đây thực chất không phải là nơi để con người sinh sống mà nó như một địa ngục trần gian, dùng để giam hãm cuộc đời Mị.

Và nó cũng chẳng khác gì một nấm mồ chôn vùi thanh xuân, tuổi trẻ và hạnh phúc của một người con gái lương thiện, giàu sức sống. Đoạn văn cho thấy hiện thực xã hội thối nát đương thời, đã chà đạp lên quyền sống và hạnh phúc của con người. Đồng thời cũng là lời nói cảm thương cho những số phận bất hạnh dưới ách thống trị của bọn phong kiến miền núi.

Nhưng ẩn sâu trong tâm hồn tưởng chừng như đã héo úa, không còn niềm tin ấy nữa lại là sức sống tiềm tàng vô cùng mãnh liệt. Sức sống ấy được thể hiện rõ nhất trong đêm tình mùa xuân. Không phải ngẫu nhiên mà sức sống đó được khơi nguồn, trước hết do Mị nhận sự tác động từ không khí mùa xuân ấm áp, đầy tình tứ, những đồi cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy phơi trên mỏm đá xòe rộng ra như những cánh bướm sặc sỡ.

Cùng với đó là âm thanh náo nhiệt, rộn rã của đám trẻ con và đặc biệt là sự xuất hiện của tiếng sáo. Tiếng sáo xuất hiện từ xa đến gần, ban đầu là ở bên ngoài, sau đó gần như hòa làm một trong Mị: “Rập rờn trong đầu Mị”. Trong hồn Mị sống lại những khát khao được yêu đương, khát vọng được sống hạnh phúc của ngày xưa, từ cõi vô cảm, quên lãng, Mị trở về cõi nhớ. Đồng thời cũng không thể thiếu đi chất xúc tác của hơi men, Mị uống cả hũ rượu, uống ừng ực từng bát, Mị say rồi ngồi lịm đi, mơ màng nhớ về quá khứ tự do.

Những chất xúc tác đó đã tạo nên hành trình vượt thoát, để Mị tìm lại chính bản thân mình. Trong lòng Mị thấy phơi phới trở lại, cái cảm giác mà tưởng rằng bấy lâu nay đã mất. Mị ý thức được rằng: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Nhưng sự thật phũ phàng, Mị muốn đi chơi nhưng lại không được đi, nên Mị quay về buồng. Trong hơi men của rượu lại một lần nữa sức sống trỗi dậy. Mị lấy ống mỡ, sắn một miếng thắp lên cho sáng, đây không chỉ là hành động thắp sáng vật lí đơn thuần mà nó còn biểu tượng cho khát vọng, niềm tin được giải thoát, thắp sáng chính cuộc đời Mị.

Cô quấn lại tóc, lấy cái váy chuẩn bị đi chơi thì bị A Sử chặn đứng lại bằng hành động vô cùng thô bạo. Mị bị trói đứng ở cột, nhưng A Sử chỉ trói được thân xác Mị, chứ không thể trói được khát vọng, sức sống trong Mị. Trong tâm tưởng cô vẫn thả hồn theo tiếng sáo và những cuộc chơi. Sáng hôm sau Mị tỉnh lại và tiếp diễn chuỗi ngày sống mòn, sống mỏi.

Và để cho cuộc vượt thoát của Mị được thành công, Tô Hoài đã tạo ra tình huống gặp gỡ bất ngờ giữa Mị và A Phủ. A Phủ là người ở của thống lí, do làm mất bò nên bị trói đứng. Sau đêm tình mùa xuân Mị rơi vào trạng thái tê liệt, nhưng gặp A Phủ đã thức dậy trong cô khát vọng sống. Giọt nước mắt “mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” đã có tác động mạnh mẽ đế Mị, khiến Mị ý thức được nỗi đau khổ của mình, tự thương thân và thương người. Điều đó đã dẫn đến hành động cởi dây trói và bỏ đi theo A Phủ, hướng đến cuộc đời tự do, hạnh phúc phía trước.

Xây dựng nhân vật Mị, Tô Hoài đã phơi bày một cách chân thực số phận cực khổ của người dân lao động Tây Bắc dưới ách áp bức của giai cấp thống trị miền núi. Đồng thời thể hiện niềm cảm thương với số phận khổ đau của nhân vật Mị. Và phát hiện, trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của tâm hồn của Mị với sức sống tiềm tàng, mãnh liệt.

Ngoài nhân vật Mị, ta cũng không thể không nhắc đến nhân vật A Phủ. A Phủ là người có số phận bất hạnh, cha mẹ mất, cậu trở thành món hàng trao đổi, mất tự do ngay từ khi còn bé. Khi lớn lên do không có nhà cửa, tiền bạc, ruộng nên không thể lập gia đình. Nhưng dù vậy A Phủ lại mang trong mình những phẩm chất hết sức đẹp đẽ, A Phủ mang trong lối sống phóng khoáng, mạnh mẽ, tự lực kiếm sống, vươn lên hoàn cảnh khắc nghiệt để sống là một con người dũng cảm, tự tin, yêu đời.

Nhưng số phận bất hạnh, A Phủ bị biến thành người ở gạt nợ một cách hết sức phi lí. Cậu bị đày đọa về thể xác, bị lợi dụng sức khỏe triệt để, sức khỏe bị rẻ rúng khôn cùng. Nhưng trong con người ấy vẫn luôn tồn tại khao khát tự do, hạnh phúc mãnh liệt. Ngay khi được Mị giải cứu, A Phủ và Mị đã cùng nhau bỏ trốn nơi địa ngục đó để tìm đến một cuộc sống đẹp đẽ, tự do hơn.

Nét nghệ thuật đặc sắc nhất trong tác phẩm là nghệ thuật xây dựng nhân vật. Mị được xây dựng theo kiểu nhân vật tâm trạng, còn A Phủ là kiểu nhân vật hành động. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, cũng như phong tục tập quán tài tình. Ngôn từ giản dị, linh hoạt, giàu cảm xúc, mang đậm chất dân tộc. Các yếu tố nghệ thuật đó đã góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.

Vợ chồng A Phủ là kết tinh của giá trị hiện thực và nhân đạo. Tác phẩm đã lên án tố cáo chế độ phong kiến miền núi chà đạp, áp bức quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Bên cạnh đó tác phẩm cũng thấm đẫm tinh thần nhân đạo: Cảm thương cho số phận những người lao động nghèo bất hạnh, bị tước đoạt đi quyền sống, bị hành hạ cả thể xác và tinh thần. Đồng thời trân trọng ngợi ca sức sống tiềm tang, luôn biết hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn.

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Mẫu 3

Tô Hoài đã kể lại rằng: “Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và con người miền Tây đã để thương, để nhớ trong tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên. Tôi không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi ra khỏi hốc núi làng Tà Xùa rồi cùng vẫy tay gọi theo: Chéo lù! Chéo lù!”. Có lẽ đây chính là lí do để ông viết tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” như lời tri ân dành cho con người nơi rẻo cao Tây Bắc.

Truyện ngắn này được in trong tập “Truyện Tây Bắc” (1952) và được tặng giải Nhất – Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. “Vợ chồng A Phủ” là bức tranh Tây Bắc với những phong tục, tập quán riêng biệt. Ở phần một của tác phẩm, Tô Hoài đã chủ yếu khắc họa cuộc sống của nhân vật Mị và A Phủ khi họ ở Hồng Ngài, sống cuộc sống nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra.

Trước khi về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí, Mị là một cô gái xinh đẹp, yêu đời, yêu cuộc sống tự do. Mị có tài thổi sáo giỏi, “thổi lá cũng hay như thổi sáo” khiến “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Tuy sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, ngày xưa bố mẹ phải vay tiền để cưới nhau, đến khi mẹ Mị chết vẫn chưa trả hết nợ nhưng Mị luôn có ý thức về cuộc sống của mình. Cô đã nói với bố: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu” khi thống lí muốn bắt Mị về làm con dâu gạt nợ. Đó là tiếng nói của sự phản kháng tục dùng con người làm vật thế mạng cho món nợ tiền bạc của các dân tộc miền núi. Lệ tục cổ hủ này đã cướp đi cuộc sống tự do của biết bao con người. Đồng thời câu nói ấy cũng thể hiện niềm tin vào sức sống của bản thân trong con người Mị. Mị tin rằng mình có thể làm nương ngô để trả nợ thay cho bố.

Nhưng Mị đã bị A Sử cướp và đem về “cúng trình ma” nhà thống lí. Cuộc đời của Mị đã gắn liền với số phận của người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra. Cô phẫn uất, đau đớn cho chính thân phận của mình. Có đến hàng mấy tháng, đêm nào cô cũng khóc. Mị định tự tử bằng lá ngón nhưng cô “không đành lòng chết” vì thương bố. Có lẽ chết là cách tốt nhất để Mị giải thoát cuộc đời nô lệ, Mị sẽ không phải xót xa hay căm hờn gì nữa.

Từ thái độ phản kháng, Mị trở nên cam chịu hoàn cảnh. Mị đã quen với cái khổ, “Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa” quần quật làm việc cả ngày lẫn đêm không được nghỉ ngơi. Những công việc hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bẻ bắp, quay sợi, dệt vải, chẻ củi, cõng nước,…cứ nối tiếp nhau “vẽ ra trước mặt” thúc giục cô phải làm. Phải chăng vì thế mà “mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Càng ngày, Mị càng câm lặng, chấp nhận số phận mà không một lời oán trách. Khuôn mặt cô dù trong hoàn cảnh nào cũng “buồn rười rượi”. Người phụ nữ ấy đã bị những khổ cực làm chai lì cảm xúc, mất hết ý niệm về thời gian, không gian vì buồng Mị nằm có cái cửa sổ có một lỗ vuông bằng bàn tay, “lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”.

Tưởng rằng Mị đã vô cảm với thế giới bên ngoài nhưng chính thiên nhiên Tây Bắc vào mùa xuân mà âm thanh của tiếng sáo là tác nhân khơi dậy lòng yêu đời, sức sống trong con người Mị. Tiếng sáo đã đánh thức tâm hồn bấy lâu ngủ quên của cô. Mị cảm nhận được âm hưởng ‘thiết tha bổi hổi” của tiếng sáo gọi bạn đi chơi. Không khí của những ngày Tết khiến Mị “sống về những ngày trước”. Mị uống rượu, “uống ừng ực từng bát” như nuốt trôi đi tất cả niềm phẫn uất vào trong. Tâm hồn Mị “phơi phới trở lại”. Điều đặc biệt là Mị đã có ý thức về bản thân, cô nhận ra mình vẫn còn trẻ và muốn được đi chơi ngày Tết. Mong muốn đã chuyển sang thành hành động: “Mị lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng” rồi quấn lại tóc, “lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách” sửa soạn đi chơi. Tiếng sáo lửng lơ, mời gọi khiến Mị không thể chối từ. Cô đã thực sự hồi sinh và lột xác để thoát ra khỏi vòng áp chế của các thế lực cường quyền, thần quyền, phụ quyền. Nhưng ý định của Mị chưa thực hiện được thì cô đã bị A Sử trói đứng vào cột nhà bằng cả thúng sợi đay. Dường như Mị đã quên đi nỗi đau về thể xác để tâm hồn đi theo những cuộc chơi. Tiếng chân ngựa đạp vào vách đưa Mị trở về thực tại, “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Thân phận làm dâu gạt nợ nhà thống lí không khác gì thậm chí là không bằng thân phận của những con vật như con trâu, con ngựa.

Ẩn đằng sau con người cam chịu đó là một sức sống tiềm tàng đến mãnh liệt. Điều ấy được thể hiện qua chi tiết Mị cắt dây trói cho A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài. Đây cũng là hành động cởi trói, tự giải thoát cho chính mình. Nó xuất phát từ tấm lòng “thương người như thể thương thân” của cô. Mị đã tự giải thoát cho mình khỏi sự áp bức, đè nén của cường quyền, thần quyền, phụ quyền. Hành động tuy có tính tự phát nhưng vô cùng hợp lí.

Không chỉ khắc họa thân phận người phụ nữ, Tô Hoài còn khắc họa thân phận của người đàn ông miền núi chịu cuộc đời nô lệ. Đó là A Phủ, anh mồ côi cha mẹ từ khi còn nhỏ, không có người thân thích. Anh trở thành món hàng để đổi lấy thóc của người Thái nhưng “A Phủ gan bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ trốn lên núi, lưu lạc đến Hồng Ngài”. Tuy nghèo khó nhưng A Phủ biết lao động để tự nuôi sống bản thân. Anh biết “đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”. Vì thế nhiều cô gái đã ví có được A Phủ “cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Con người A Phủ có sự gan góc, biết vượt qua khó khăn, khổ cực và nguy hiểm. Anh sống tự do, gần gũi với thiên nhiên nhưng vì tội đánh con thống lí mà phải chịu thân phận nô lệ.

A Phủ đánh A Sử không phải do tính cách hiếu chiến, ngang tàn mà là do anh không chấp nhận sự thống trị, lên ngôi của cái ác. Sự áp chế của cường quyền đã đẩy một con người tự do, phóng khoáng trở thành một con người cam chịu số phận. A Phủ phải chịu những trận đòn roi tàn nhẫn nhưng anh “chỉ im như cái tượng đá”. Anh đã chấp nhận cuộc đời đi ở trừ nợ cho nhà thống lí. Vì mải mê bẫy chim mà A Phủ để hổ bắt mất một con bò. A Phủ bị trói đứng vào cột bằng “dây mây quấn từ chân đến vai”. Tình cảnh này đã lay động được tình thương, lòng đồng cảm của Mị. Cô nghĩ rằng: “Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết” và Mị đã cắt dây trói cứu A Phủ. Hành động “quật sức vùng lên chạy” phần nào cho thấy khát vọng sống, khát vọng chấm dứt thân phận đi ở trừ nợ của anh. Anh đã thức tỉnh để đến với khu du kích Phiềng Sa, tham gia vào cách mạng.

Truyện “Vợ chồng A Phủ” chứa đựng những giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo cao cả.Thông qua tác phẩm, nhà văn Tô Hoài muốn tố cáo chế độ phong kiến và giai cấp thống trị bóc lột con người bằng hình thức cho vay nặng lãi. Vì món nợ của cha mẹ mà Mị bị mang ra làm vật thế mạng. Ông cũng lên án những hủ tục lạc hậu như “cúng trình ma” đã buộc con người vào vòng mê tín, khiến họ không dám thoát ra vòng vây để tự cứu lấy mình. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện lòng xót xa, cảm thông với những người dân lao động miền núi phải cam chịu sự áp bức của tầng lớp thống trị thủ đoạn, gian ác. Tô Hoài ca ngợi sức sống mãnh liệt tiềm tàng trong con người họ. Chính sức sống ấy đã giúp họ giải thoát họ khỏi cuộc đời nô lệ để đến với cách mạng, đến với cuộc sống tự do.

Bằng bút pháp cá thể hóa, nhà văn đã xây dựng nên hai nhân vật đại diện cho những con người có phẩm chất tốt đẹp nhưng phải chịu số phận bất hạnh, đau khổ. Mị tiêu biểu cho kiểu nhân vật tâm trạng và A Phủ tiêu biểu cho kiểu nhân vật hành động. Làm nền cho sự nổi bật của con người trong thiên truyện là bức tranh thiên nhiên Tây Bắc tuyệt đẹp: “gió thổi vào gianh vàng ửng”, “trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”. Đây là những chi tiết nghệ thuật giàu tính tạo hình. Cùng với đó là các phong tục, tập quán như tục bắt vợ, cảnh phạt vạ, cảnh xử kiện được hiện lên độc đáo. Truyện được kể theo ngôi thứ ba, điểm nhìn trần thuật có sự thay đổi từ điểm nhìn của người đi xa về đến điểm nhìn của người trong cuộc nên vừa mang tính khách quan lại vừa chứa chan sự cảm thông với nhân vật. Ngoài ra, Tô Hoài còn xây dựng những chi tiết giàu sức gợi và ý nghĩa như chi tiết tiếng sáo, tiếng chân ngựa đạp vào vách,… Ngôn ngữ văn xuôi đậm chất thơ cũng là một yếu tố quan trọng tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm.

Với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã mang đến cho bạn đọc cái nhìn bao quát, toàn diện về bức tranh cuộc sống của người dân Tây Bắc. Trang sách đã khép lại nhưng dư âm của nó thì còn vang mãi. Và tuy Tô Hoài đã ra đi nhưng những tác phẩm của ông vẫn vẹn nguyên giá trị trong lòng bạn đọc hôm nay và cả mai sau.

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Mẫu 4

Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại VN , ông đã để cho thế hệ sau số lượng tác phẩm đạt kỉ lục .Vợ chồng A Phủ là 1 trong số truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông . tác phẩm mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Đặc biệt truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị , qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách mạng của nhân dân Tây Bắc và cũng góp phần thể hiện sự bạo tàn của chế độ phong kiến ở miền núi lúc bấy giờ qua đó lên án tố cáo chế độ bạo tàn đó.

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ lấy ấn tượng bởi cách mở đầu bằng việc giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý.“Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa . Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi” . Lẽ ra Mị là một người vợ của một nhà giàu có thì phải có cuộc sống sung túc nhưng qua cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa ; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Từ những miêu tả đó khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ , bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng. Mị trước đó vốn là một người con gái đẹp ,có khả năng âm nhạc, cô giỏi sáo và giỏi uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo” . Là một cô gái nhạy cảm giàu khát khao yêu thương , được yêu, nhưng vì hoàn cảnh, Mị buộc phải bán mình cho nhà thống lí về làm vợ của A Sử và từ đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh.

Không chỉ nói tới nỗi đau thể xác của Mị mà còn khắc họa cả nỗi đau về tinh thần và tâm hồn của Mị. Một cô gái mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm , “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” . Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng” . Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô .

Chính vì vậy có những lúc Mị đã từng muốn chết mà không được chết , vì cô vẫn còn đó món nợ của người cha .. Chính lúc này cô gái còn đáng thương hơn khi sống kiếp người dùng mình để trả nợ cho gia đình cho cha mà chịu bán mình và sống cuộc đời cơ cực . Bởi chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống . Còn khi đã không thiết chết , nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn và đó cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi .

Dù không một chút tình cảm với A sử nhưng với Mị thì A Sử vẫn là chồng Danh nghĩa và Mị phải phục tùng hắn chứ không phải là chăm sóc của một người vợ dành cho người chồng của mình nữa. Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn dần , khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác : “Mị muốn đi chơi . Mị cũng sắp đi chơi” . Phải tới thời điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du : quấn lại tóc , với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo . Tất cả những việc đó , Mị đã làm như trong một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử hỏi “.nhưng phũ phàng thay A Sử trói Mị vào cột, rồi lẳng lặng khoác thêm vòng bạc đi chơi , bỏ mặc Mị trong trạng thái mộng du đang chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân . Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du.

Mị một trong những nhân vật tiêu biểu nhất của chuyên là người gỡ nút thắt của truyện, ở cô một người con gái nhỏ bé nhưng có sức sống mãnh liệt. Mị và A phủ cuối cùng cũng tìm tới với một cuộc sống tự do hào phóng ở một vùng đất mới. Đây là cách mà Tô Hoài muốn thực hiện.

Những lời văn như chính tác giả đang chứng kiến mọi thứ, tuy nhẹ nhàng nhưng tỉ mỉ chi tiết và để lại nhiều cảm xúc trong lòng người đọc. Truyện còn góp phần thể hiện 2 tư tưởng lớn đó là hiện thực và nhân đạo. Vợ chồng A Phủ đã phản ánh được một cách khá chân thực và sinh động bức tranh đời sống xã hội của dân tộc miền núi Tây Bắc trước ngày giải phóng Điện Biên. Cách khai thác của tác giả đã tạo ra thành công có ý nghĩa khai phá về đề tài miền núi trong văn học Việt Nam.

Qua tác phẩm người đọc thấy được trong vùng giặc Pháp chiếm đóng thời bấy giờ vẫn tồn tại chế độ lang đạo Thổ Ty, và nó còn khắc nghiệt tàn ác hơn nhiều so với chế độ phong kiến thực dân ở miền xuôi. Hiện thân của chế độ lang đạo Thổ Ty dã man ấy chính là cha con nhà thống lý Pá Tra. Chúng đã lợi dụng  cường quyền cùng hủ tục phong kiến miền núi để biến những người lao động thành nô lệ không công, lao động khổ sai như trâu ngựa để làm giàu cho chúng.

Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ không chỉ vạch trần tội ác của bọn phong kiến miền núi mà còn phơi bày tội ác của bọn thực dân Pháp lâu nay đang chiếm đóng Tây Bắc..

Không chỉ dừng lại với giá trị hiện thực, mà còn ẩn chứa những giá trị nhân đạo sâu sắc. Từ chính niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau của con người,sự trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng vươn dậy của họ. Và trong tác phẩm chủ nghĩa nhân đạo mới không chỉ yêu thương, đồng cảm với những nỗi khổ của con người mà còn hướng tới, nhằm giải phóng cho con người khỏi mọi xiềng xích áp bức khổ ,xây dựng cuộc sống hạnh phúc cho mình. Cách kết truyện khi Mỵ và A phủ tháo chạy,đi tìm miền đất mới .. là một trong số những nét tiêu biểu này.

Qua tác phẩm Vợ chồng A Phủ , tác giả đã góp phần tái hiện một cách chân thực và sâu sắc những giá trị về cuộc sống, những triết lí sống nhân văn, những sụ cảm thông của chính tác giả với đứa con tinh thần của mình.Qua tác phẩm, Tô Hoài đã lên án những thế lực phong kiến miền núi, thế lực thực dân xâm lược; và ông đặc biệt  thông cảm sâu sắc với số phận của người nông dân miền núi đồng thời khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của họ.

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Mẫu 5

Viết về những số phận bất hạnh, tình cảnh đáng thương của con người đều không phải là điều mới mẻ ở bất cứ nền văn học nào. Đặc biệt, trong văn học Việt Nam, thân phận người phụ nữ đã trở thành một đề tài quen thuộc từ xưa tới nay. Với Tô Hoài và tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, lần đầu tiên văn học Việt Nam được chứng kiến số phận thương đau của người phụ nữ miền núi.

“Vợ chồng A Phủ” được in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Đây là kết quả của tác giả khi được cử đi viết về đời sống nhân dân ở những vùng mới giải phóng. Đằng sau cái hùng vĩ, nên thơ của núi rừng vùng cao là biết bao tiếng khóc nỉ non của những cô gái, những người đàn bà có kiếp sống như “con rùa nuôi lùi lũi trong xó cửa”.

Nhân vật Mị xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.” Mị xuất hiện trong sự tương phản với thế giới xung quanh. Một bên là cô gái trẻ trung xinh đẹp, một bên là những đồ vật vô hồn. Một cô gái đương tuổi xuân thì sao lại gắn mình với những điều buồn tẻ đến thế? Vẻ mặt “buồn rười rượi” của người con gái ấy cũng đến từ sự đối lập trong cuộc sống của cô với nhà thống lý. Dẫu “nhà Pá Tra làm thống lý, ăn của dân nhiều , đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó có bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn” nhưng ở đây, Mị lại là vợ A Sử – con trai thống lý. Chân dung của Mị – một thiếu phụ buồn được Tô Hoài khắc họa rất ấn tượng, mở đầu bằng những lời kể xa xăm như bước ra từ trang cổ tích. Nhà văn đưa người đọc đến với miền sơn cước xa xôi bằng giọng kể nhẹ nhàng, tha thiết nhưng lại ngầm đặt ra một tình huống có vấn đề. Tại sao nhà Pá Tra giàu như thế mà Mị lại sầu muộn thế kia? Vì đâu mà cô câm lặng sống cạnh những đồ vật im lìm, tách mình khỏi những âm vang vui tươi của đời sống như thể?

Cuộc đời và số phận của Mị dần dần được hé lộ. Trước khi về làm dâu nhà thống lý, Mị là một cô gái trẻ trung, xinh đẹp. Nàng như bông hoa ban thanh khiết, trong trẻo, tràn đầy nhựa sống của núi rừng Tây Bắc. Có bao trai làng vì say mê bông hoa ấy mà “đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. Nàng còn rất tài năng, thường cuốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Là người con của miền đất trập trùng núi đá, bạt ngàn gió và hoa nên Mị cũng mang trong mình một trái tim rạo rực, nóng ấm cùng một tâm hồn khoáng đạt. Mị khao khát yêu và được yêu, nhiều lần rung động trước những âm thanh hò hẹn của tình yêu khi xuân đến. Điều đáng quý nhất ở Mị chính là sự chăm chỉ, tấm lòng hiếu thảo, yêu thương gia đình. Nàng van lơn cha: “Con đã biết cuốc nương làm ngô, con làm nương ngô trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu.” Mị thà làm lụng cực nhọc còn hơn bước chân vào cuộc hôn nhân không có tình yêu, trở thành nô lệ cho nhà thống lý. Khi bị nhà thống lý Pá Tra bắt về, Mị đau khổ và muốn tìm tới cái chết bằng lá ngón. Chi tiết này cho thấy lòng tự trọng cao cả của Mị. Cuối cùng, vì lời nói của cha: “Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt trả nợ. Mày chết rồi, không lấy ai làm nương ngô trả được nợ, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi!” mà Mị đã từ bỏ cái chết. Cô biết rằng mình chết thì cha mình còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nên Mỵ lại trở lại nhà thống lý, chấp nhận kiếp sống làm thân trâu ngựa.

Như vậy, ta có thể thấy ở Mị hội tụ đầy đủ những vẻ đẹp của một người con gái vùng cao Tây Bắc. Với những phẩm chất đáng trọng ấy, nàng xứng đáng có một tương lai tươi sáng, cuộc đời hạnh phúc. Thế nhưng, số phận của Mị càng về sau lại càng chìm vào tăm tối. Mị hay bà Ảng (Cứu đất cứu mường), Mát (Mường Giơn) xuất hiện trong văn Tô Hoài đều không phải là một hình ảnh cá biệt mà là tiêu biểu cho rất nhiều người phụ nữ vùng cao khi ấy.

Sức sống, tuổi xuân, nhan sắc của Mị tàn úa từ khi về nhà thống lí. Pá Tra là hiện thân của thần quyền và cường quyền, tước đi hạnh phúc của Mị ngay từ khi cô chưa chào đời. Tất cả bắt đầu từ ngày bố Mị lấy mẹ Mị nhưng không đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lý. Hai vợ chồng lao động vất cả đời mà về già mà cũng chưa xong nợ. Người vợ chết cũng chưa trả hết nợ. Món nợ tổ tông ấy cứ thế truyền đến đời Mị. Chi tiết này cho thấy sự tàn ác, tham lam của bọn phong kiến chúa đất miền núi, chúng bóc lột người dân từ đời này qua đời khác. Nỗi đau đớn của Mị càng nhân lên gấp bội khi bị A Sử bắt về làm vợ, bị tước đoạt quyền tự do và hạnh phúc. Khi ngồi trong buồng, Mị nghe thấy tiếng nhạc sinh tiền cúng ma rập rờn nhảy múa. Âm thanh ghê rợn, quái đản ấy đã chấm dứt thanh xuân của Mị. Trong suốt thời gian ở nhà thống lý, đêm nào Mị cũng khóc. Bao nhiêu công việc nặng nhọc dồn hết lên đôi vai nhỏ bé, vất vả hơn cả trâu cả ngựa. Còn muốn chết để thoát khỏi sự kìm hãm của thống lý tức là vẫn còn khao khát sống. Thế nhưng, sau một thời gian, Mị đã bị bóc lột đến mức chẳng còn hi vọng, hóa thành con rối vô hồn, “lúc nào cũng nhớ lại những việc giống nhau, mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cách tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế.” Cô quen với nếp sống tù túng, quẩn quanh, chẳng còn thiết tha tự do. Có thể thấy nhà thống lý đày đọa Mị cả về tâm hồn lẫn thể xác. Căn buồng bị nằm tăm tối, u ám hệt như nơi giam giữ một tù nhân. Nỗi ám ảnh về “cúng trình ma” cũng kìm kẹp tinh thần Mị, khiến cô trở thành một nạn nhân của cường quyền và thần quyền.

Với cương vị là người “nâng giấc cho những kẻ cùng đường tuyệt lộ”, Tô Hoài không để Mị rơi vào bi kịch của sự tuyệt vọng. Nhà văn đã phát hiện ở Mị sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Điều này được thể hiện ở tâm trạng, hành động của Mị trong mùa xuân. Bức tranh thiên nhiên ở Hồng Ngài năm ấy thật đẹp. Nhà văn miêu tả thiên nhiên miền núi đầy sức sống, rực rỡ sắc màu. Hồng Ngài được tô điểm bởi màu vàng ửng của cỏ gianh, cái sặc sỡ của những chiếc váy hoa trên mỏm đá, xoè như con bướm. Các sắc đỏ hau, đỏ thậm, tím man mát hòa vào nhau. Con người cũng vui tươi hơn bởi có tiếng đám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Mị nghe tiếng sáo rủ bạn đi chơi mà thiết tha bồi hồi. Những đêm tình mùa xuân đã tới. Trong đêm tình mùa xuân, khi người người nô nức, Mị cũng lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát. Lòng Mỵ đang sống về ngày trước, âm vang tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Thế nhưng Mị không bước ra đường mà lại từ từ vào buồng. Lòng Mị vâng lên tiếng nói: “Mỵ trẻ, Mỵ vẫn còn trẻ. Mỵ muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mỵ không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau.” Lúc ấy, tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường.

” Anh ném pao

Em không bắt

Em không yêu

Quả pao rơi rồi…”

Thế nhưng, lúc ấy A Sử vừa ở đâu về, lại sửa soạn đi chơi. Bao lâu nay, nó vẫn đương rình bắt nhiều người con gái nữa về làm vợ. Cuộc đời Mị đã không còn hy vọng nên Mị cũng không màng tới Sử. Sức sống bất giác bùng lên mãnh liệt, Mỵ quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách. A Sử liền bước lại, lấy thắt lưng trói tay Mị và xách cả một thúng sợi đay ra trới đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mỹ xoã xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột. Điều bất ngờ là Mị khao khát hạnh phúc, mong muốn được tự do đến mức dường như không biết mình đang bị trói. Mị còn vùng bước đi nhưng chân đau không cựa được.Trở về với thực tại, Mị chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách và đau lòng nghĩ mình không bằng con ngựa. Sáng hôm sau, Mị bàng hoàng tỉnh và trong nỗi đau đớn tột cùng, Mị cố cựa xem mình còn sống hay chết.

Như vậy, Tô Hoài đã miêu tả rất kĩ càng quá trình diễn biến tâm lí, sự vận động trong nhận thức của nhân vật Mị. Mị từ một cô gái trẻ trung, xinh đẹp đã trở thành một thiếu phụ bất hạnh và rồi sức sống lại bùng lên mạnh mẽ. Tuy nhiên, sợi dây trói của A Sử, nỗi ám ảnh về thần quyền vẫn chưa buông tha mị. Chính vì vậy, chi tiết Mị cởi trói cho A Phủ chính là một bước ngoặt thay đổi cuộc đời Mị.

A Phủ là một chàng trai không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc nên không thể lấy nổi vợ. Trong ngày tết đến, A Phủ chẳng có quần áo mới như nhiều trai khác. Vì thế sinh sự đánh nhau ở Hồng Ngài. Khi bị Pá Tra bắt, A Phủ lẳng lặng ra vác chiếc cọc gỗ và cuộn dây mây trên gác bếp xuống. Tự tay A Phủ đóng cọc xuống bên cột, Pá Tra đẩy A Phủ vào chân cột, hai tay bắt ôm quặt lên, chỉ còn cổ và đầu lúc lắc được. Mỗi ngày, mặc cho mọi người ra vào ăn uống tấp nập thì A Phủ vẫn chỉ đứng nhắm mắt cho tới đêm khuya. Trong những ngày ấy, Mị chẳng hay biết đến sự xuất hiện của A Phủ. Đêm nào cũng thế, Mỵ dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần. Thậm chí, khi ngọn lửa bùng lên, Mị nhìn sang và thấy mắt A Phủ trừng trừng mà Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Mị trở nên cằn cỗi, chỉ biết đến mỗi ngọn lửa.

“Nước mắt là giọt châu của loài người.” Điều này rất đúng với Tô Hoài. Nhà văn đã xây dựng một chi tiết đặc sắc để đánh thức tâm hồn Mị, mở lối thoát cho số phận hai con người. Khi thấy dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hóm má đã xám đen của A Phủ, Mỵ chợt nhớ đến khi A Sử trói Mỵ “Trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết. Nó bắt mình chết cũng thôi. Nó đã bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Chỉ đêm mai là người ta chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết.” Suy nghĩ ấy cho thấy sự căm phẫn bùng lên trong tâm hồn Mị Mị thấy thương xót và oan uổng thay cho A Phủ và tưởng tượng ra cảnh bản thân chết trên cái cọc ấy nếu dám cứu A Phủ. Ấy thế mà Mị cũng không thấy sợ. Mị rón rén bước lại và rút con dao nhỏ cắt nút dây mây. Đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng chỉ thì thào được vài tiếng. Trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ đành quật sức vung lên và chạy.

A Phủ chạy đi rồi mà Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Đây là lúc nội tâm nhân vật diễn ra sự đấu tranh gay gắt. Cuối cùng, với tinh thần phản kháng mạnh mẽ, Mị đã chọn rời khỏi nhà thống lý và đuổi kịp A Phủ. Câu nói: “Ở đây chết mất” cho thấy sự thức tỉnh hoàn toàn trong nhận thức của nhân vật. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa cứu lấy chính mình.

Với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã khắc họa chân thực cuộc sống của đồng bào vùng cao và đặc biệt là người phụ nữ. Nhà văn đã phát hiện và trân trọng, ngợi ca những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý, nâng niu khát vọng sống, tự do, hạnh phúc cùng tinh thần phản kháng của họ. Từ đó, tác giả còn lên tiếng tố cáo những thế lực thần quyền và cường quyền, bọn phong kiến chúa đất miền núi cướp đi hạnh phúc con người.

Về mặt nghệ thuật, nhà văn đã vận dụng vốn sống phong phú của mình để miêu tả chân xác về thiên nhiên, phong tục tập quán của con người vùng cao. Không chỉ vậy, ngôn ngữ sinh động, nghệ thuật xây dựng và miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc cùng giọng trần thuật nhẹ nhàng mà sâu lắng cùng bút pháp kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn đã góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.

“Vợ chồng A Phủ” chính là một tác phẩm được tạo nên từ tài năng và tâm huyết của nhà văn. Với tác phẩm này, Tô Hoài không chỉ là một nhà văn của phong tục mà còn thực sự là “nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”.

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Mẫu 6

Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, là nhà văn đã ghi dấu ấn sâu sắc trong nền văn học Việt Nam với hơn 70 năm tuổi nghề, để lại cho độc giả một kho tàng văn hóa nghệ thuật đồ sộ với đa dạng các thể loại như truyện ngắn, tiểu thuyết, hồi kí, truyện dài… Bất kì thể loại nào ông tham gia cũng đều gặt hái được những thành công nhất định. Trong số đó phải kể đến truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, một tác phẩm xuất sắc của ông trong thể loại truyện ngắn và đã được chuyển thể thành phim. Tác phẩm này được coi là một trong những thành tựu xuất sắc của tác giả.

Vợ chồng A Phủ được in trong tập Truyện Tây Bắc xuất bản lần đầu năm 1954. Tác phẩm bao gồm hai phần: phần trích học trong sách giáo khoa là phần đầu kể về cuộc sống đau đớn, tủi nhục của Mị và A Phủ trong nhà thống lí Pá Tra và kết thúc bằng chi tiết Mị cắt đứt dây trói để cứu A Phủ. Họ rời khỏi Phiềng Sa và theo đuổi con đường cách mạng để giải phóng quê hương.

Trước khi trở thành con dâu nhà thống lí, Mị là một cô gái xinh đẹp, chăm chỉ, hiếu thảo và ẩn chứa đầy những ước mơ về hạnh phúc trong tâm hồn. Mị có tài thổi sáo và kèn lá xuất sắc nên có nhiều chàng trai say mê và theo về tận nhà đứng kín cả đầu vách. Nhưng khi bị bắt về làm con dâu gạt nợ nhà thống lí, Mị thực sự trở thành một nô lệ sống như kiếp vật, bị vùi dập, bị bóc lột, chà đạp, bị cướp đoạt mọi quyền tự do.

Tác giả đã mở đầu truyện bằng việc mô tả hai tình huống trái ngược: Mị ngồi quay sợi gai bên tảng đá, gần con đường mòn. Suốt ngày lao động vất vả, dù quay sợi, dệt vải, hay chẻ củi, mang nước,… Mị luôn cúi mặt, tràn đầy buồn phiền. Cùng với cảnh nhà thống lí quyền quý, giàu có là sự tấp nập của người ra vào. Đây là cách mà nhà văn sử dụng để tạo ra tình huống “có vấn đề” trong cách kể truyện truyền thống, mở đường cho người đọc tham gia vào cuộc hành trình tìm hiểu những bí ẩn về số phận của nhân vật.

Cuộc sống của Mị trong nhà thống lí như một kiếp vật, Mị bị cướp đoạt sức lao động. Cuộc sống của Mị đúng nghĩa là sự đau khổ, tủi cực của một kẻ nô lệ. Có những tháng mà đêm nào Mị cũng khóc và suy ngẫm trong ấm ức. Mị từng tìm đến lá ngón để tự giải thoát nhưng trước sự thống thiết của người cha già cả đời nghèo khổ, lòng hiếu thảo trỗi dậy mạnh mẽ. Mị kìm nén nỗi đau và chấp nhận trở lại cuộc sống kiếp ngựa trâu. Thông qua việc sử dụng thủ pháp so sánh tương đồng, Tô Hoài đã làm nổi bật cuộc đời khốn khó của Mị. Mị tự thấy mình giống như con ngựa con trâu vì “là con ngựa phải đổi ở tàu ngựa nhà nà đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”.

Nhà văn nhấn mạnh Mị không thể sánh bằng con trâu hay con ngựa, vì con trâu con ngựa còn có thời gian nghỉ ngơi, đêm đến chúng được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ. Trong khi đó, cuộc đời của phụ nữ trong căn nhà này đầy mệt mỏi, làm việc không ngừng suốt đêm ngày, đến mức Mị tự nghĩ “ở lâu trong cái khổ, Mị đã quen rồi”. Công việc lặp đi lặp lại từng ngày từng tháng đã trở nên đơn điệu, nhàm chán,… Mị chỉ biết cúi mặt làm việc mà không muốn suy nghĩ, tồn tại vật vờ như một cái xác không hồn. Mỗi ngày, Mị càng trở nên im lặng như “con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa”. Hình ảnh con rùa lùi lũi gợi nhớ câu ca dao “Thương thay thân phận con rùa/ Ở đình đội hạc, ở chùa đội bia”, là một biểu trưng cho thân phận phụ thuộc và cuộc sống khốn khó của phụ nữ trong xã hội phong kiến. Và Mị là một ví dụ điển hình cho số phận đó.

Căn buồng của Mị kín mít, tối tăm, tù túng, lạnh lẽo và ảm đạm, “có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Đời sống tối tăm, tủi nhục đã vùi dập và áp đảo con người Mị – một con người trẻ trung và yêu đời ngày nào – đến nỗi Mị đã không nhận ra chính bản thân mình. Đó là sự biến đổi, tha hóa của cuộc đời Mị do xã hội tạo ra. Mị bị tra tấn cả về thể xác và tinh thần. Chi tiết về “lỗ vuông” gợi lên cảm giác ám ảnh và bức bối, ngột ngạt về một địa ngục trần gian, tượng trưng cho một cuộc sống bế tắc. Tiếng nói nhân quyền của con người đã được nhà văn cất lên để vạch trần và lên án những tội ác của bọn chúa đất miền núi, làm mất đi nhựa sống và phá hủy niềm vui sống của con người nơi đây.

Khi mùa xuân về, Mị háo hức muốn đi chơi. Tuy nhiên, ước muốn của Mị chưa kịp lóe lên thì đã bị A Sử dập tắt. Mị bị A Sử trói đứng suốt đêm trong căn buồng tối tăm. Dây trói xiết chặt vào da thịt khiến Mị đau đớn đến mức như bị đứt ra từng mảng. Nỗi đau đơn và xót xa khiến Mị nghĩ rằng kiếp sống của mình không thể sánh bằng kiếp ngựa. Từ đó, tinh thần Mị chìm sâu vào cảm giác tuyệt vọng. Mị phải sống với một người chồng không yêu mình, không những không được yêu thương mà Mị còn bị A Sử hành hạ và đánh đập tàn nhẫn. Khi A Sử bị A Phủ đánh, Mị phải vào rừng hái thuốc và xoa bóp cho hắn. Nhưng trong những lúc Mị đau đớn và mệt mỏi quá, A Sử lại co chân đạp thẳng vào mặt Mị – hành động đó chỉ có ở một con ác thú. Đau đớn và xót xa thay. Trên núi, trong những đêm đông giá lạnh, nếu không có bếp lửa sưởi ấm làm bạn, Mị đã chết tàn chết héo. Mỗi đêm, Mị phải thức dậy thổi lửa, hơ tay không biết bao nhiêu lần. Có một đêm, khi A Sử bất ngờ trở về và thấy Mị ngồi đấy, hắn đánh Mị ngã ngay xuống sàn bếp. Hành động đó thật tàn nhẫn và dã man, không phải là một mối quan hệ vợ chồng, mà chính là mối quan hệ chủ – tớ.

Một trong những thành công của tác phẩm chính là nghệ thuật mô tả tâm lí và phân tích tâm lí của nhân vật. Ngòi bút nhà văn thật tinh tê và sâu sắc khi mô tả diễn biến tâm lí, sức sống tiềm tàng và sự biến đổi số phận của nhân vật. Mị – người phụ nữ tưởng chừng như cam chịu số phận, không còn đủ sức vượt thoát nhưng trong hoàn cảnh có thể, Mị vẫn bật lên làm chủ cuộc đời. Điều đó được biểu hiện ở chính đêm tình mùa xuân trên rẻo cao.

Đêm tình mùa xuân đã làm thức tỉnh tình yêu cuộc sống và khát vọng tự do trong Mị. Trên đỉnh núi, tiếng sáo reo lên mời gọi Mị đi chơi, làm tim Mị đập nhanh, xao xuyến bồi hồi. Hòn than bị vùi lấp dưới tầng tro tàn bấy lâu nay giờ đã được cơn gió xuân thổi tới, làm bùng lên ngọn lửa yêu sống và khao khát tự do. Nhẩm theo điệu nhạc, Mị ừng ực uống từng bát rượu như thể muốn quên đi mọi đắng cay trong cuộc sống. Tiếng sáo và hương rượu ngọt lịm đã đưa Mị trở về quá khứ tươi đẹp, Mị nhớ lại thời gian trước, Mị muốn đi chơi, thổi sáo và kèn, nhảy múa cùng đám bạn. Mị cảm thấy mình vẫn trẻ lắm.

Cuộc sống như con trâu con ngựa trong nhà thống lĩnh bỗng nhiên thay đổi, khiến Mị không còn sợ hãi. Ký ức đã dường như bị chìm sâu, nhưng đột nhiên lại tỏa sáng, thức tỉnh những khát vọng trong Mị. Quá khứ tươi đẹp, hiện tại khắc nghiệt khiến Mị lại mong muốn kết thúc cuộc sống này, không phải suy nghĩ, không phải đau khổ. Tuy nhiên, tiếng sáo gọi bạn vẫn vang vọng trên đường, xâm nhập sâu vào trái tim đau xót của Mị. Tiếng sáo như một lời mê hoặc, quyến rũ, hấp dẫn Mị đi chơi. Mị không còn quan tâm đến bất cứ điều gì khác, tinh thần Mị trỗi dậy, thoát khỏi cuộc sống hiện tại. Mị thêm dầu vào đèn để làm nó sáng hơn, cột tóc lại, với bàn tay lấy chiếc váy hoa, không cần biết A Sử đã bước vào căn phòng và hỏi: “Cậu muốn đi chơi à?” Trong trái tim Mị, chỉ còn tiếng sáo và khao khát tự do.

Tô Hoài cảm nhận được ý thức trỗi dậy mạnh mẽ trong Mị. Mị nhận ra tuổi trẻ và vẻ đẹp của mình, nhận thức được sự mất tự do, bị đè nén trong suốt thời gian qua. Mị nhận ra quyền làm người của mình và quyết tâm thực hiện một hành động quyết liệt: đi chơi. Mị muốn thoát khỏi cảnh ngục tối tăm để được tự do, hít thở không khí xuân, tìm lại những ngày tháng tươi đẹp đã qua. Tuy nhiên, khát vọng không thể cứu vãn số phận. Cơ thể yếu đuối của Mị bị sợi dây tàn bạo của A Sử trói chặt vào cây cột trong căn phòng tối tăm cho đến sáng hôm sau. Bước chân vùng đi đã đánh thức Mị trở lại hiện tại, sợi dây siết chặt làm da thịt đau nhức, Mị nhận ra sự tàn ác của thực tại. Giấc mơ đẹp tan biến trong chớp mắt. Mị đau lòng “nghĩ mình không bằng con ngựa”. Hai biểu tượng của ước mơ tự do và thực tại hiện ra qua hai âm thanh trái ngược: tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng chân ngựa đạp vào vách, bóp nghẹt trái tim của Mị. Mị đau đớn, xót xa nhận ra rằng kiếp con người chẳng bằng con vật “đời người đàn bà lấy chồng ở Hồng Ngài một đời chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng”.

Khi khát vọng được đi chơi, sống tự do trong những đêm tình mùa xuân đã tan biến, Mị lại rơi vào một tình huống đau thương hơn. Mị bị dìm xuống sâu hơn kiếp trâu ngựa, quyền làm người bị tước đoạt. Cảnh ngộ đó là một lời lên án và tố cáo hành động tàn ác của cha con nhà thống lí – đại diện cho tầng lớp thống trị ở miền núi.

Khát vọng tự do của Mị trong đêm tình mùa xuân năm trước chưa thể thực hiện, nhưng trong đêm đông lạnh giá này, Mị đã quyết định cắt đứt dây trói, cứu A Phủ và giải phóng chính mình. Đây là một bước ngoặt mạnh mẽ, làm thay đổi toàn bộ cuộc đời của Mị. Nhà văn xây dựng nhân vật Mị bằng cách đặt nhân vật vào tình huống đối nghịch giữa hoàn cảnh và số phận, ngoại hình và tâm trí, để mang đến những điểm bất ngờ trong cách giải quyết. Từ sau đêm tình mùa xuân đầy nghiệt ngã kia, Mị dần trở nên lì lợm, vô cảm và tuyệt vọng. Cuộc đời Mị có lẽ sẽ tiếp diễn như vậy nếu không có sự xuất hiện của A Phủ. Cảnh A Phủ bị cha con thống lí trói đứng vào cột giữa những ngày giá rét của Hồng Ngài, bị bỏ mặc đói khát đã thức tỉnh tinh thần phản kháng trong người phụ nữ yếu đuối tưởng chừng như không còn sức sống này.

Ý thức sống của Mị đã thức tỉnh bởi cảnh A Phủ bị trói trong đêm mùa đông. Một lần nữa, Mị trở dậy trong đêm, Mị nhìn thấy đôi mắt A Phủ mở trừng trừng, biết rằng A Phủ vẫn còn sống “một dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã sạm đen lại”. Đây là chi tiết quan trọng trong quá trình biến đổi tâm lí của Mị. Mị bỗng nhớ lại năm trước, khi Mị bị A Sử trói đứng trong căn nhà này, tóc bị quấn ngang cổ, nước mắt chảy xuống không thể lau được, đau đớn và bất lực, tương tự như A Phủ bây giờ. Trái tim thương tổn của Mị đột nhiên tràn đầy lòng thương hại và đồng cảm. Mị quyết định cắt dây trói để cứu A Phủ. Khi dây trói bị cắt đứt, A Phủ nỗ lực vùng lên và chạy trốn. Mị đứng im lặng trong bóng tối, nhìn chiếc cột trống không, hoảng hốt nhận ra sự nổi loạn của chính mình. Cái chết đang chờ đợi ngay trước mắt. Bằng bản năng, Mị lao theo A Phủ “A Phủ cho tôi đi ! Ở đây thì chết mất”.

Tình huống xảy ra nhanh chóng, bất ngờ và tự nhiên nhưng rất logic và phù hợp với sự phát triển tính cách của nhân vật. Hành động cắt dây trói cho A Phủ là một bước cắt đứt, chấm dứt sự khổ đau trong quá khứ cho cả hai người. Như những con chim vừa thoát khỏi lồng tối, họ băng băng xuống dốc núi về phía tự do. Không giống như chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố trôi dạt trong bóng tối đêm như một tấm bùa không lối thoát, cũng không giống Chí Phèo của Nam Cao rút dao giết kẻ thù rồi chấm dứt cuộc sống của mình. Trong đường cùng bế tắc nhất, ý thức sống đã biến thành một hành động phản kháng mạnh mẽ, táo bạo, Mị vùng lên chống lại cường quyền, chế độ áp bức, chống lại mọi sự đàn áp, sỉ nhục và vật hóa con người, cứu lấy cuộc sống, giành lại hạnh phúc mà Mị bị cướp đoạt và A Phủ từng khao khát. Cuộc đời của hai con người đau khổ từ đây đã được hồi sinh, mở ra một trang mới.

Xây dựng nhân vật A Phủ trong tác phẩm, Tô Hoài muốn tô đậm thêm bức tranh hiện thực về đời sống cơ cực, tăm tối của đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao dưới ách thống trị của bọn thực dân, chúa đất.

Sự xuất hiện đột ngột của A Phủ gây ấn tượng mạnh cho người đọc, đó là cảnh A Phủ đấm A Sử. A Phủ cũng giống như Mị, là một người dân nghèo bị gia đình thống lí Pá Tra áp bức, cưỡng ép và biến thành con nợ – nô lệ. Tuy nhiên, cả hai đều có tình yêu và khao khát tự do. A Phủ trở thành một đứa trẻ mồ côi cha mẹ từ khi mới mười tuổi trong một trận dịch bệnh khủng khiếp. Anh trở thành một đứa trẻ bơ vơ bị người trong làng bán đi đổi lấy ít thóc để ăn. Thay vì chấp nhận số phận, A Phủ đã quyết định trốn lên vùng cao, làm thuê và lang thang đến Hồng Ngài để kiếm sống.

Từ khi còn nhỏ, A Phủ đã có cá tính rất đặc biệt đó là sự gan dạ, có ý thức phản kháng mỗi khi không chịu nổi những điều bất công. Khi A Sử phá đám chơi của A Phủ và bạn bè, anh đã không chịu đựng và “xộc tới nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”. Tuy nhiên, hành động phản kháng ấy của A Phủ đã khiến anh bị gia đình thống lí trói và đánh đập, lăng mạ rất dã man trong cuộc xử kiện. A Phủ phải quỳ gối chịu trận mưa roi và khói thuốc phiện, không được phép nói, không có cơ hội để thanh minh. Sau khi phiên xử kiện kết thúc, từ đó trở đi, A Phủ đã trở thành nô lệ suốt đời cho gia đình thống lí, như một hình thức để trả nợ.

Tô Hoài đã thông qua cuộc đời và số phận của A Phủ để lên án tội ác của giai cấp thống trị ở miền núi, đặc biệt là cha con thống lí Pá Tra. Chúng đã đã móc nối với bọn thực dân để đẩy những con người tốt bụng, chân thành vào tình cảnh đáng thương, bị cướp đoạt sức lao động và quyền tự do, biến họ thành nô lệ.

“Vợ chồng A Phủ” đã phản ánh một hiện thực về cuộc sống của người lao động ở vùng cao Tây Bắc. Câu chuyện thu hút và quyến rũ người đọc thông qua cách kể độc đáo của Tô Hoài. Nó mở đầu như một câu chuyện cổ tích, nhưng thực chất lại là cuộc sống và số phận thực tế. Nhà văn xen kẽ giữa quá khứ và hiện tại, khiến người đọc trải qua nhiều tình cảm khác nhau. Nghệ thuật xây dựng và phân tích tâm lí nhân vật cũng là một thành công trong ngòi bút của Tô Hoài. Thông qua việc xây dựng hai nhân vật Mị và A Phủ, nhà văn lên án thế lực thực dân phong kiến miền núi đã áp bức, đàn áp và cướp đoạt quyền sống và hạnh phúc của con người.

Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” đã khép lại, để lại trong tâm hồn của người đọc vẻ đẹp của lòng nhân đạo, tình yêu thương và sự đồng cảm sâu sắc với những cuộc đời nghèo khó. Thông qua hai nhân vật Mị và A Phủ, nhà văn đã khắc họa sức sống mãnh liệt và tinh thần phản kháng của những người lao động nghèo, luôn chiến đấu để tìm đường đến ánh sáng tự do.

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Mẫu 7

Tô Hoài là một ngôi sao rất sáng trong nền văn học Việt Nam, ông sáng tác từ rất sớm và được dư luận chú ý ngay từ những tác phẩm đầu tay. Bằng sự hiểu biết sâu rộng nhiều lĩnh vực và vốn sống phong phú về phong tục, tập quán của nhiều dân tộc ở nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước nên sáng tác của Tô Hoài thiên về diễn tả những tình cảnh của đời thường. Tác phẩm của Tô Hoài luôn hấp dẫn người đọc bởi lối kể chuyện hóm hỉnh, sinh động, bởi vốn từ vựng giàu có lạ thường. Năm 1996, Tô Hoài được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật.

Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ sáng tác năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc (1953), được tặng giải Nhất – giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Đây là tác phẩm mang lại nhiều thành công cho nhà văn Tô Hoài, để lại nhiều ấn tượng rất lớn trong lòng bạn đọc. Tác phẩm đặc biệt lôi cuốn, hấp dẫn nhờ lời văn giản dị, mộc mạc, am hiểu văn hóa dân tộc, và điểm cốt lõi là nêu bật được giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Qua đó cũng nói lên quá trình đến với cách mạng, con đường mở ra tự do hạnh phúc của những số phận đau khổ.

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ kể về hai cuộc đời, hai số phận đó là Mị và A Phủ. Mị – một cô gái xinh đẹp bị bắt về làm con dâu trừ nợ nhà Thống lý Pá tra, cuộc đời cô tăm tối và đau khổ từ đó. A Phủ vì dám đánh con quan A Sử khi A Sử phá cuộc chơi của đám trai làng trong ngày hội mùa xuân, từ đó A Phủ bị phạt vạ và phải làm đầy tớ không công nhà Thống lý. Hai cuộc đời đau khổ gặp nhau, trong đêm mùa đông lạnh giá Mị đã cắt dây cứu A Phủ bỏ trốn, tìm đến Phiềng Sa, họ thành vợ chồng và tìm đến với cách mạng. Câu truyện hiện lên với đầy chân thực, mộc mạc nhưng cũng lồng ghép vào đó là tinh thần nhân đạo sâu sắc của tác giả gửi gắm.

Ngay đầu tác phẩm nhà văn Tô Hoài đã đưa một hình ảnh giản dị, chân thật nhưng lại có sức ám ảnh rất lớn đối với bạn đọc. Hình ảnh “ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tầng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa”. Hình ảnh cô gái ấy là Mị, một cô gái hiền hậu, xinh đẹp, là vợ A Sử con trai Thống Lý Pá Tra. Cuộc đời Mị trải qua rất nhiều đau khổ khi phải sống tại ngôi nhà ấy, vô hồn trong bể khổ.

Cuộc đời Mị hiện lên dần dần qua những trang văn đầy hiện thực những cũng đầy xúc cảm bằng ngòi bút tài hoa của tác giả. Mị là một cô gái xinh đẹp, khỏe mạnh,nhưng vì nhà nghèo cô đã bị bắt về nhà Thống Lý Pá Tra làm vợ A Sử, nói đúng nghĩa cô phải làm con dâu gạt nợ. Lúc đầu, bằng con mắt ngây thơ, trong sáng, bằng sự nhiệt tình của tuổi trẻ Mị đã khuyên cha, “con biết cuốc nương, làm ngô, con sẽ cuốc tương, làm ngô trả nợ thay cha, cha đừng bán con cho nhà Thống Lý”.

Tuy nhiên, cái xã hội ngày ấy, đồng bào dân tộc ta bị áp bức bởi bọn chúa đất ức hiếp người dân vô tội, và cho vay nặng lãi chính là thủ đoạn đầy thâm độc, ép con người ta tới bước đường cùng. “Ông lão nhớ câu nói của thống lý dạo trước; cho con gái về nhà thống lý thì trừ được nợ. Thế là cha mẹ ăn bạc nhà giàu kiếp trước, bây giờ người ta bắt con trừ nợ. Không làm thế nào khác được rồi”. Mị bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà Thống lý, thực sự khó thoát khỏi số kiếp đau khổ. Sự giằng buộc bởi sự thâm ác của chế độ cũ nhưng thêm vào đó cũng có một phần của hủ tục, phong tục xưa cũ còn lưu lại, Mị còn bị buộc chặt hơn với cái số phận con dâu trừ nợ vì “đã trình ma” ở nhà Thống Lý sống làm người của nhà Thống Lý chết cũng làm ma nhà Thống Lý Pá Tra.

Cuộc sống ấy đã khiến cô nghĩ đến cái chết “Một hôm, Mị trốn về nhà, hai tròng mắt còn đỏ hoe. Trông thấy bố, Mị quỳ, úp mặt xuống đất, nức nở. Bố Mị cũng khóc, đoán biết lòng con gái”.

“Mày về chào lậy tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn quan lại bắt trả nợ. Mày chết rồi, không lấy ai làm nương ngô, trả được nợ, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi!”. Sự thật vẫn mãi là sự thật, đã xảy ra thực sự khó mà thay đổi, Mị đau khổ tìm đến cái chết, một sự giải thoát đầy tiêu cực, bế tắc. Thế nhưng cuộc đời khéo đùa giỡn, Mị không thể chết, Mị thương cha mà không thể chết. Cha cô đã già, cô chết đi ông cũng sẽ đau lòng gấp bội, nhưng chết đâu phải đã hết, nợ vẫn còn đó, sự ác nghiệt vẫn còn đó, cái chết ấy đâu thay đổi được gì. Mị vứt nắm là ngón xuống đất, cô chỉ biết khóc, giọt nước mắt trong tuyệt vọng. Những chuỗi ngày đau khổ sẽ mãi kéo dài từ đó.

Từ đó trở đi, cuộc sống của Mị đều như người không hồn, lầm lũi, vất vả, nói là con dâu nhà nhiều đất, nhiều thuốc phiện nhất vùng nhưng Mị phải lao động như người hầu, không có thời gian nghỉ ngơi. Năm nào cũng vậy, làm những công việc giống nhau, “tước đay, bẻ bắp”, cứ lặp đi, lặp lại tẻ nhạt, mệt mỏi. Cuộc sống của cô gái xinh đẹp ngày nào giờ chỉ một màu u ám. Căn phòng của Mị không có đủ ánh sáng, nhìn ra cái ô cửa nhỏ “chỉ một màu mờ mờ trắng trắng không rõ”, đầy tù túng, vây hãm. Mị còn tự nhủ cuộc sống của mình còn không bằng con trâu, không bằng con ngựa.

Cuộc sống cứ trôi đi, trôi đi, các xác không hồn ấy phải trải qua những nỗi đau khó tả, nỗi đau thể xác khi phải làm việc như trâu ngựa, nhưng nỗi đau ấy đâu thể bằng nỗi đau trong tim, nỗi đau của người con gái mất đi hạnh phúc, mất đi hi vọng “Ở lâu trong cái khổ Mị đã quen khổ rồi”. Rồi đêm tình mùa xuân lại đến, mùa xuân, mùa của yêu thương, mùa của muôn hoa khoe sắc, trai gái hẹn hò. Tiếng sáo lay động lòng người.

“Mày có con trai con gái

Mày đi nương

Ta không có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu”

Tiếng sáo gọi bạn tha thiết, khiến Mị nghĩ đến những ngày tháng đã qua, Mị thổi sáo rất hay, thổi lá cũng hay như thổi sáo, rồi chợt bừng lên bao suy nghĩ “Mị còn trẻ, Mị vẫn muốn đi chơi”. Đâu phải rằng ở lâu trong cái khổ mà con người mãi phải tăm tối. Mị cũng đã bùng lên một tia sáng nhỏ trong lòng, Mị như phơi phới trở lại, diễn biến tâm trạng nhân vật có sự thay đổi. Nhà văn Tô Hoài đã rất khéo léo đưa những chi tiết tả thực, nhẹ nhàng nhưng sống động để diễn tả tâm lý nhân vật. “Mị đứng dậy sắn ít mỡ bỏ vào ống dầu cho sáng,… rồi lấy cái váy hoa…”.

Trong một phút suy nghĩ cô đã muốn vượt khỏi cái địa ngục, vượt ra ngoài căn phòng tối tăm để đến với cuộc sống ngoài kia. Không khí nhộn nhịp, đêm tình đầy mong ước đáng ra Mị phải được hưởng, đã rất lâu, rất lâu Mị không được sống lại cảm giác ấy. Quả thực, ngòi bút của nhà văn đã luồn lách rất sâu vào tâm lý nhân vật của mình mới có thể lột tả cho bạn đọc thấy rõ được một tâm hồn đang trỗi dậy.

Trong lúc Mị muốn được giải thoát, chỉ là một đêm thôi, một đêm như bao người khác “người ta cũng có vợ có chồng, người ta cũng được đi chơi, đằng này Mị và A Sử không có lòng với nhau mà vẫn phải sống với nhau”. Một suy nghĩ đầy sự phản kháng đã hiện lên, tuy nhiên trong lúc ấy Mị đã bị A Sử chặn lại. Bằng bản tính thâm độc của con quan chúa đất, hắn trói Mị vào cột, thậm chí còn cuốn tóc mị một cách dã man khiến Mị không sao cử động được. Suy nghĩ đã bị vùi tắt, nước mắt chảy xuống trong đau đớn cả về thể xác lẫn tâm hồn, phải nói gì đây khi cuộc sống là vậy, khi bọn tàn ác vẫn còn thì bao số phận, bao con người vẫn bị vùi lấp vào đau khổ. Mị chỉ còn nghe thấy tiếng ngựa đạp vách, ánh sáng đèn dầu bị A Sử dập tắt, còn lại chỉ một khe hở le lói yếu ớt. Hiện thực hiện lên đầy trần trụi, tố cáo sự tàn ác của bọn thống trị thời đó nhưng cũng đầy thương cảm đối với nhân vật Mị.

Cũng trong đêm tình mùa xuân ấy, nhân vật A Phủ xuất hiện. Một anh chàng khỏe mạnh, dũng mãnh đã dám đánh A Sử khi hắn phá vỡ cuộc vui của đám trai làng tìm bạn. Vì đánh A Sử nên số phận của A Phủ cũng bị rơi vào nhà Thống Lý Pá Tra, cái địa ngục trần gian đã đẩy con người ta đến cái bế tắc cùng cực dường như chỉ nghĩ đến cái chết mới có thể giải thoát. Sau đêm đánh A Sử trọng thương, A Phủ bị người nhà Thống Lý phạt rất nặng bị đánh bầm dập nhưng anh không kêu lên một tiếng, thể hiện một con người gan dạ, cứng cỏi vô cùng. A Phủ bị phạt vạ một trăm quan tiền, một trăm quan tiền chẵn. Vậy như là món nợ truyền kiếp này đến bao giờ mới hết “đời mày không trả được thì đời con mày… đời cháu mày phải trả…”.

Vậy là A Phủ phải ở đợ, làm thuê không công cho nhà Thống Lý, nào là những công việc vất vả đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò chăn ngựa, quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò rừng. Thực sự không còn có cái gọi là công bằng, công lý ở cái xã hội ấy mà chỉ còn áp bức bóc lột. Cuộc sống của nhân dân trước cách mạng khổ đau đã hiện lên rất rõ qua hai nhân vật Mị và A Phủ.

Và một lần để lỡ hổ ăn thịt mất bò nhà Thống Lý, A Phủ lại bị phạt nặng, anh bị người nhà Thống Lý trói vào chặt vào cột bằng sợi mây siết chặt. Trong đêm mùa đông giá rét A Phủ bị đánh đập dã man, bị bỏ đói mấy ngày liền, thực sự không còn tính người, không còn coi tính mạng con người bằng súc vật nữa. Đêm mùa đông ấy, nếu như không có sự giải thoát thì A Phủ sẽ chết, chắc chắn là phải chết.

Mùa đông giá rét ở Hồng Ngài thật khiến con người ta sợ hãi, hai số phận gặp nhau Mị và A Phủ. Hai con người bị giam chặt, kìm hãm, bị áp đặt cuộc sống, mọi thứ của cuộc đời dần như vô nghĩa. Khi Mị bắt gặp ánh mắt của A Phủ, khi Mị nhìn ánh lửa và nghĩ đến cuộc sống của bản thân mình, một ánh sáng trong tâm trí như đã hiện lên. Tâm trạng nhân vật Mi như có một chuyển biến đầy rõ nét hơn nữa, Mị đã quyết định cắt dây cứu A Phủ. Đây là kết quả tất yếu của một quá trình bị dồn nén, áp bức về tinh thần, đọa đày về thể xác, bây giờ đã đến lúc phải chấm dứt. Mị cắt dây trói cứu A Phủ đồng thời cũng là tự cắt đứt sợi dây vô hình đã trói chặt cô vào quãng đời tủi nhục. Hành động nhanh nhẹn, dứt khoát cứu một con người như mang lại chính sự sống cho Mị và rồi Mị và A Phủ đã cùng nhau trốn đi. Họ đã chốn đến Phiếng Sa sống một cuộc đời mới, mở ra hạnh phúc mới và tìm đến được với ánh sáng cách mạng.

Trong giá trị hiện thực của tác phẩm đã ẩn chứa giá trị nhân đạo sâu xa. Có căm thù giai cấp thống trị và xã hội bất công, tác giả mới lên tiếng tố cáo mạnh mẽ. Có thực sự cảm thương số phận đau khổ của con người, tác giả mới viết nên những trang văn gây xúc động mạnh mẽ như vậy.

Tính nhân đạo của tác phẩm trước hết thể hiện ở sự bênh vực và cảm thông sâu sắc với số phận của những con người bất hạnh như Mị và A Phủ. Ở khía cạnh này, Tô Hoài tỏ ra có sự am hiểu sâu sắc từ đời sống vật chất đến đời sống tâm lí của đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc.

Thành công cơ bản của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là nghệ thuật xây dựng nhân vật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Cả hai nhân vật Mị và A Phủ đều thể hiện một cách sống động vả chân thực những nét riêng, nét lạ trong tính cách của người Mông nói riêng và đồng bào miền núi nói chung. Trên hết là một lối sống mộc mạc, hồn nhiên, phóng khoáng, tự do. Những phẩm chất này khiến người Mông có một sinh lực sống dồi dào khiến họ đủ sức mạnh để vượt qua bất cứ sự áp bức đè nén nào.

Mị bề ngoài lặng lẽ, âm thầm, nhẫn nhục nhưng bên trong sôi nổi một khát vọng sống, khát vọng tự do và hạnh phúc. A Phủ táo bạo, gan góc mà chất phác, tự tin. Cả hai cùng là nạn nhân của bọn chúa đất, quan lại thống trị miền núi tàn bạo, độc ác. Trong con người họ tiềm ẩn sự phản kháng vô cùng mãnh liệt.

Ngòi bút diễn tả tâm lý nhân vật của nhà văn Tô Hoài chính là một độc đáo của tác phẩm, nhất là diễn tả tâm lý nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân để lại nhiều ám ảnh đối với bạn đọc. Sự thay đổi trong tâm lý nhân vật được diễn tả rõ nét cho thấy nhà văn là một người rất tinh tế, tài hoa, biết nhiều, hiểu nhiều và đầy cảm thông đối với cuộc sống của những người dân khổ cực.

Qua tác phẩm Vợ chồng A Phủ cho ta thấy cuộc sống đầy khổ cực của nhân dân ta trước cách mạng, tố cáo mạnh mẽ xã hội thời bấy giờ sự lộng quyền của bọn nhà giàu chúa đất ép con người ta đến bước đường cùng. Tác phẩm cũng đề cao giá trị con người, giá trị của sự đổi thay vùng lên phản kháng, người dân đã đến với cách mạng, tìm đến với tự do, hạnh phúc. Những trang văn cũng chính là tiếng nói làm nổi bật lên nét tài hoa của nhà văn Tô Hoài để tên tuổi ấy mãi đi vào lòng bạn đọc.

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Mẫu 8

Trong văn xuôi hiện đại Việt Nam ở thế kỷ XX thì đề tài miền núi khá là được chú ý. Dù chủ đề cũ nhưng nhà văn luôn có cách khai thác vấn đề rất sâu, làm bật lên hình ảnh nhân vật. Mỗi nhà văn sẽ có những cái nhìn khác nhau và Tổ Hoài đã thể hiện Sự đồng cảm trước thân phận khổ đau của người dân miền núi, đặc biệt là phụ nữ điển hình trong tác phẩm này là Mị của Tô Hoài sẽ khác với những nhà văn khác, đó là một điểm riêng ở Tô Hoài.

Trong Vợ Chồng A Phủ Mị được khắc họa lên là một cô gái có số phận éo le, tủi phận nhưng phẩm chất đẹp vô cùng. Cô gái đẹp người Mèo này sống trong thời đại phong kiến đầy rẫy những phong tục vô lí, áp bức. Bố mẹ Mị khất nợ nên Mị chính là người bị bắt để trả món nợ này, chủ nợ là Thống lí Pá Tra đòi bắt về làm dâu gạt nợ.

Từ đây bao đau thương, tủi nhục của cô gái này bắt đầu xảy ra, mang danh là về làm dâu nhưng thực chất là nô lệ cho nhà thống lí. Mị trở thành một cô gái vô cảm trước mọi thứ, tê liệt ý thức, sống mà như không sống chính vì những thói áp đặt, vũ phu đánh đập, tra tấn tàn bạo khiến Mị đau khổ không nói nên lời, cuộc sống từng phút giây như đày đọa.

Từ khi cuộc sống của Mị bị cuồng chân trong nhà Thống Lí thì những giấc mơ của Mị tan biến, phai mờ dần trong tâm trí và cô ngày ngày phục vụ không công còn bị đối xử tàn ác. Khi làm dâu nhà giàu những tưởng Mị sẽ có một cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy nhưng không phải, tất cả chỉ là vỏ bọc bên ngoài.

Mị ngày qua ngày lầm lũi trong bếp, nơi xó cửa làm việc quần quật từ sáng đến khuya. Năm này qua năm khác Mị chỉ quanh quẩn trong căn phòng mờ tối, một chút ánh sáng lọt qua khe cửa sổ bé tí chẳng biết là sương hay khói. Mị, từ một cô gái tuổi xanh tươi, trăng tròn với bao khát vọng, yêu đời thì bỗng trở thành một người phụ nữ dần tàn lụi, cam chịu.

Mị làm việc không có thời gian nghỉ, quần quật từ sáng đến tối “con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ. Đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào việc cả ngày lẫn đêm”. Có thể thấy số phận của côn vùi chôn, giờ chỉ còn là một cô Mị chịu đựng sống một cách vô nghĩa, không chút cảm xúc nữa rồi. Sau nhiều lần buồn đau, kháng cự, lấy lá ngón để mà tìm đến cái chết, kết liễu đời mình giải thoát tất cả mà không được thì giờ đây Mị chẳng tha thiết gì, cảm xúc trong cô chai sạn đi.

Dù rằng bên ngoài thấy Mị mặc kệ trước mọi thứ nhưng sâu thẳm trong tâm hồn của cô gái trẻ này vẫn luôn âm ỉ một khát khao cháy bỏng được tự do, được sống là chính mình, cuộc sống của riêng cô. Lòng ước muốn ấy nó như lớp lửa nhỏ âm ỉ trong lớp tro tàn kia, chỉ cần một làn gió thổi qua sẽ khiến nó bùng thật mạnh mẽ. Chính vì bị ép vào đường cùng, thương và hiếu thảo với cha mẹ nên Mị phải hi sinh bản thân để cứu gia đình nên cô đành sống kiếp người đen tối, đau khổ.

Đêm mùa xuân năm ấy lại đến rộn ràng, náo nức khắp đất trời với tiếng nhảy múa, ca hát, thổi sáo hòa trong bản giao hưởng thiên nhiên. Lúc này ở trong nhà nghe vọng vào, Mị không còn lầm lì trong cảm xúc chai sạn nữa, cảm xúc được đánh thức trở lại. Tiếng sáo vang lên trong đầu Mị những giai điệu vui tươi, Mị nhẩm bài hát nhớ về những tháng ngày đẹp đẽ đã từng có.

Không chịu đựng Mị lấy rượu uống ừng ực để quên đi bao sầu đau, tủi hờn. Khi đó Mị như thấy mình trẻ lại, Mị vui lắm hừng hực sức sống trở lại và Mị vùng lên sửa soạn đi chơi. Thế nhưng mọi thứ đang dang dở thì A Sử phát hiện và trói Mị vào cột. Lúc này cơn đau từ tâm hồn đến thể xác trỗi dậy. Mị khao khát được đi chơi nhưng A Sử đã dập tắt, bóp chết khát khao mong manh kia.

Một lần nữa sức sống trong Mị trỗi dậy mãnh liệt khi nhìn thấy A Phủ – một tôi tớ cho Thống Lí đang bị trói. Nước mắt của A Phủ rơi xuống thức tỉnh Mị phải vùng dậy đòi lấy quyền được sống, được yêu thương, tự do cho chính mình. Thế là Mị đã cùng A Phủ trốn thoát tìm lấy cuộc sống tự do của riêng họ.

Tô Hoài đã rất tài tình trong nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật Mị. Chính ngòi bút tinh tường ấy đã dẫn lối người đọc len lỏi vào trong tâm hồn, cảm xúc của Mị, nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của cô gái này.

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Mẫu 9

Tô Hoài một nhà văn tài năng với nhiều thể loại, một cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học Việt Nam hiện đai. Ông là nhà văn của sự thật đời thường, là người có vốn hiểu biết phong phú và sâu sắc về các phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau. Trước Cách mạng, ngòi bút của ông chủ yếu hướng về vùng nông thôn nghèo và thế giới loài vật. Sau Cách mạng, phong cách của ông có sự chuyển hướng, lúc này ngòi bút của ông lại hướng đến những vùng nông thôn rộng lớn hơn, đặc biệt là Tây Bắc.

Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là thành quả của chuyến đi thực tế lên vùng Tây Bắc của ông. Tác phẩm đã lên án, phê phán, tố cáo chế độ phong kiến miền núi đang chà đạp, áp bức quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Bên cạnh đó, tác phẩm cũng mang đậm tinh thần nhân đạo. Cảm thương cho số phận khổ đau của những người lao động nghèo bất hạnh, bị tước đoạt đi quyền sống, quyền tự do, bị hành hạ cả về thể xác lẫn tinh thần. Đồng thời còn trân trọng ngợi ca sức sống tiềm tàng mãnh liệt và luôn biết hướng đến một tương lai tốt đẹp của họ.

Bằng kết cấu hồi tưởng, trần thuật ở hiện tại sau đó ngược trở về quá khứ Tô Hoài đã tạo được những dấu ấn cá nhân riêng biệt qua lối kể chuyện đầy linh hoạt của mình. Trước khi về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra, Mị là một cô gái xinh đẹp, hồn nhiên, yêu đời và có tài thổi sáo. Đặc biệt, Mị còn là cô gái rất giàu lòng tự trọng luôn muốn làm chủ và muốn tự định đoạt chính cuộc đời của mình. Mị là nỗi niềm ao ước của biết bao chàng trai trong làng. Thế nhưng cuộc đời thật nhiều trái ngang, nó đã xô đẩy Mị, làm trái lại với tất cả những gì mà cô mong muốn. Chỉ vì muốn giúp cha trả món nợ truyền kiếp từ xa xưa mà Mị bỗng dưng trở thành dâu gạt nợ nhà họ Lý kia. Bị ràng buộc về món nợ, Mị còn bị ràng buộc cả về những hủ tục hôn nhân lạc hậu. Nỗi đau khổ chồng chất lên một cô gái trước đây từng ao ước có một cuộc sống tự do, luôn khát khao có được hạnh phúc. Chỉ đến đây thôi ta cũng đã nhìn thấy cái xã hội mà bọn lang đạo, bọn phong kiến chúa đất miền núi đã bóc lột, đã áp bức, đã tước đi quyền tự do của biết bao nhiêu con người lao động nghèo. Ba tiếng “dâu gạt nợ” như hé mở cho người đọc thấy một cuộc sống chồng chất những đau thương, khổ cực, những bi kịch mà Mị đang phải gánh chịu.

Mị – một cô gái vốn yêu đời, hồn nhiên, tràn đầy sức sống như thế, một người con vô cùng hiếu thảo, biết ý thức được cái giá của sự tự do nên đã xin cha lên làm nương lấy tiền trả nợ, còn khẩn nguyện xin “đừng bán con cho người giàu” nhưng vì sự đàn ép, vì hủ tục lạc hậu mà cướp đi ước mơ, hoài bão, chôn vùi đi thanh xuân tươi đẹp và sự tự do của một cô gái. Mị đã bị A Sử cướp và đem về để “cúng trình ma” nhà thống lí. Cuộc đời Mị từ đây gắn liền với số phận của người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí. Cô phẫn uất, đau khổ, thương xót cho chính thân phận của mình. Đau khổ cùng cực nên Mị đã định tự tử bằng lá ngón nhưng cô “không đành lòng chết” vì còn thương cha. Có lẽ chết là cách tốt nhất để Mị có thể giải thoát cuộc đời nô lệ của mình, sẽ không phải xót xa hay căm hờn gì nữa nhưng khi chết rồi cha vẫn phải trả nợ, nên cô đành ngậm ngùi ôm nỗi tủi nhục mà sống tiếp.

Từ thái độ phản kháng kịch liệt, Mị lại trở nên cam chịu, chấp nhận hoàn cảnh. Lâu dần nên Mị cũng đã quen với cái khổ, cuộc sống của Mị còn không bằng con trâu, con ngựa, quần quật làm việc cả ngày lẫn đêm không được nghỉ ngơi. Mọi công việc trong nhà như hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, quay sợi, dệt vải, bẻ bắp, chẻ củi, cõng nước,…nó cứ nối tiếp nhau “vẽ ra trước mặt” bắt cô phải làm. Cả ngày Mị chẳng nói chẳng rằng, lúc nào cũng cúi gằm mặt xuống “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Càng ngày, Mị càng trở lên câm lặng, chấp nhận số phận, cam chịu với cuộc sống đầy bất công mà không một lời oán trách. Đau khổ về thể xác, đến tinh thần cũng bí bách khôn nguôi, còn điều gì đáng buồn hơn khi lấy chồng mà người bên cạnh không phải là người mình thương yêu, đến sự sẻ chia, lời ủi ăn cũng chẳng có, chứ nói gì đến người bạn tâm tình những lúc chán nản, mệt nhoài. Thật đau đớn thay cho những kiếp người nghèo khổ, bất hạnh, phải chịu biết bao nỗi bất công, bao nỗi tuyệt vọng ngập tràn. Mọi thức đổ ập lên người, nên lúc này đây, Mị đang phó mặc, buông xuôi số phận của mình. Đọc những dòng miêu tả Mị lúc này, ta cảm thấy xót thương, đồng cảm cho số phận con người và cũng căm phẫn thật nhiều. Xót thương cho cuộc đời tăm tối khổ đau của nàng, căm phẫn với cái chế độ tàn nhẫn đầy rẫy sự bất công của xã hội của đã đẩy con người ta đến đường cùng tăm tối.

Những tưởng rằng Mị đã hoàn toàn vô cảm với thế giới bên ngoài, nhưng chính cảnh sắc thiên nhiên Tây Bắc vào mùa xuân và âm thanh vang vọng của tiếng sáo là tác nhân đánh thức, khơi dậy lòng yêu đời, sức sống đã bị vùi lấp trong con người Mị. Tiếng sáo ấy đã đánh thức tâm hồn đã bị ngủ quên của Mị bấy lâu. Mị cảm nhận được âm hưởng ‘thiết tha bồi hồi” trong tiếng sáo gọi bạn đi chơi bên ngoài lễ hội. Không khí nhộn nhịp, náo nức của những ngày Tết khiến Mị như “sống về những ngày trước”. Mị lén uống rượu, “uống ừng ực từng bát” như muốn nuốt trôi đi tất cả những phẫn uất vào trong. Tâm hồn Mị bỗng “phơi phới trở lại”. Điều đặc biệt là Mị đã lấy lại ý thức về bản thân, cô đã nhận ra rằng mình vẫn còn trẻ và vẫn muốn được đi chơi ngày Tết. Từ mong muốn chuyển sang thành hành động, Mị thắp đèn lên chiếu sáng căn phòng tối tăm ấy, quấn lại tóc rồi lấy cái váy hoa để sửa soạn đi chơi. Hành động thắp sáng căn phòng của Mị cũng giống như đang thắp sáng cuộc đời của Mị vậy. Mị đã thực sự hồi sinh và muốn vùng vẫy để thoát khỏi vòng áp chế của các thế lực cường quyền, thần quyền và phu quyền. Nhưng trớ trêu thay, đó mới chỉ là ý định mà thôi, Mị chưa kịp thực hiện thì đã bị A Sử phát hiện và trói cô vào cột nhà bằng cả thúng sợi đay. Nhưng lúc này, tâm hồn Mị vẫn còn lửng lơ theo tiếng sao mà quên đi nỗi đau về thể xác đến khi nghe tiêng chân ngựa đạp vào vách Mị mới chợt tỉnh về về thực tại. Làm dâu nhà giàu nhưng thân phận của Mị lại không khác gì thậm chí là không bằng con trâu, con ngựa.

Là một người lặng lẽ, âm thầm cam chịu là vậy nhưng ẩn sâu trong tâm hồn là một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Điều ấy được thể hiện qua hành động Mị cắt dây trói giải cứu A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài. Đây cũng là hành động tự cởi trói, tự giải thoát cho chính cuộc đời của mình. Nó xuất phát từ tấm lòng đồng cả, thương người rồi thương cả mình. Mị đã tự giải thoát cuộc đời mình khỏi sự áp bức, bóc lột của cường quyền, thần quyền. Hành động này tuy có tính tự phát nhưng nó lại vô cùng hợp lí.

Không chỉ khắc họa thân phận bèo bọt, bất hạnh của người phụ nữ, Tô Hoài còn khắc họa thân phận của người đàn ông miền núi cũng phải chịu những sự bất công của xã hội. Đó là A Phủ – một chàng trai nghèo, vốn mồ côi cha mẹ từ khi còn nhỏ lại chẳng có người thân thích. Khi còn nhỏ, A Phủ trở thành món hàng để đổi lấy thóc của người Thái nhưng, anh là một người gan bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, nên đã trốn lên núi và lưu lạc đến Hồng Ngài. Tuy nghèo khó nhưng A Phủ biết tự lao động, chăm chỉ làm lụng để nuôi sống bản thân. Anh biết và thông thạo mọi công việc từ đúc lưỡi cày, đục cuốc, cày giỏi và còn đi săn bò tót rất bạo. Vì thế nên nhiều cô gái mong muốn có được A Phủ và còn ví rằng có được anh “cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. A Phủ còn là một chàng trai tốt bụng, có sự gan góc, biết vượt qua khó khăn và biết bất bình trước những sự bất công. Trước sự hống hách, ngạo mạn của A Sử – con trai nhà thống lý, A Phủ đã ra tay đòi lại công bằng, anh đã đánh cho A Sử một trận nhừ tử, và cũng chính vì thế mà A Phủ bị bắt và phải là con nợ làm thuê để trả nợ cho nhà thống lý.

A Phủ đánh A Sử không phải do anh hiếu chiến, ngang tàn mà là do anh không chấp nhận sự bất công của xã hội, sự thống trị và sự lên ngôi của cái ác. Sự áp chế của cường quyền đã đẩy một con người yêu tự do, phóng khoáng như A Phủ trở thành một con người cam chịu số phận. Anh đã chấp nhận cuộc đời ở đợ để trừ nợ cho nhà thống lí. Một lần vì mải mê bẫy nhím mà A Phủ để hổ bắt mất một con bò. Vì vậy mà A Phủ đã nhà thống lý trói đứng vào cột nhà cho tới chết. Chịu những cảnh đòn roi đau đớn đến chết đi sống lại, thấy thương xót, tủi nhục với số phận của mình, A Phủ đã không cầm lòng được mà rơi nước mắt. Cũng chính điều này đã lay động được tình thương, lòng đồng cảm của Mị. Và cuối cùng Mị đã quyết định cắt dây trói cứu A Phủ. Hành động “quật sức vùng lên chạy” đã phần nào cho thấy khát vọng sống, khát vọng chấm dứt thân phận đi ở trừ nợ, khát vọng tự do của anh mãnh liệt đến dường nào. Mị xin A Phủ đi cùng, cả hai đã cùng nhau chạy trốn khỏi Hồng Ngài, thoát khỏi trốn ngục từ đã giam giữ cả thể xác lẫn tinh thần của họ. Và cuối cùng họ đã thức tỉnh tìm đến với con đường cách mạng, con đường duy nhất có thể giải thoát và tìm về sự tự do.

“Vợ chồng A Phủ” mang những giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.Thông qua tác phẩm, nhà văn Tô Hoài muốn lên án tố cáo chế độ phong kiến lúc bấy giờ và giai cấp thống trị đã bóc lột con người bằng hình thức cho vay nặng lãi. Vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ mà Mị bị mang ra làm vật thế mạng. Đồng thời ông cũng lên án những hủ tục lạc hậu, cổ hủ như “cúng trình ma” đã buộc con người vào vòng mê tín, khiến họ không dám đứng lên, thoát ra vòng vây để tự cứu lấy mình. Ngoài ra, nhà văn cũng thể hiện lòng thương xót, cảm thông với số phận của những người dân lao động miền núi phải cam chịu sự áp bức, bóc lột của tầng lớp thống trị thủ đoạn, gian ác. Từ đó ca ngợi sức sống mãnh liệt tiềm tàng ẩn sâu trong mỗi con người họ. Chính sức sống ấy đã giúp giải thoát cuộc đời họ và tìm đến với cách mạng, đến với cuộc sống tự do.

Bằng bút pháp cá thể hóa, nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng của hai nhân vật Mị và A Phủ – đại diện cho những con người lao động nghèo có phẩm chất tốt đẹp nhưng phải chịu số phận bất hạnh, đau khổ. Mị tiêu biểu cho kiểu nhân vật tâm trạng còn A Phủ thì tiêu biểu cho kiểu nhân vật hành động. Làm nền cho sự nổi bật của con người ấy trong thiên truyện là bức tranh cảnh sắc thiên nhiên Tây Bắc tuyệt đẹp: “gió thổi vào gianh vàng ửng” và “trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên những mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”. Những câu văn giàu tính tạo hình. Cùng với đó là các phong tục, tập quán của người miền núi như tục bắt vợ, cảnh phạt vạ hay cảnh xử kiện được hiện lên một cách độc đáo. Truyện được kể theo ngôi thứ ba, với điểm nhìn trần thuật có sự thay đổi từ điểm nhìn của người đi xa về tới điểm nhìn của người trong cuộc vì vậy nó vừa mang tính khách quan lại vừa chứa chan sự cảm thông với nhân vật. Ngôn ngữ văn xuôi mang đậm chất thơ cũng là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự lôi cuốn, sức hấp dẫn của tác phẩm.

Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc một cái nhìn bao quát, toàn diện hơn về bức tranh cuộc sống của người dân vùng Tây Bắc. Trang văn ấy tuy đã khép lại nhưng dư âm của nó thì còn vang vọng mãi trong tâm trí. Và tuy Tô Hoài đã ra đi nhưng những tác phẩm nghệ thuật, những giá trị nhân văn của ông vẫn vẹn nguyên giá trị trong lòng bạn đọc hôm nay và cả mai sau.

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Mẫu 10

Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Sáng tạo của ông thiên về diễn tả những sự thật của đời thường. Theo ông:”viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không thể tầm thường cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc. Ông cũng có một vốn hiểu biết phong phú sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. Chính vì như vậy, tác phẩm của ông luôn luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải.

Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” trích trong tập “Truyện Tây Bắc” viết năm 1953 của nhà văn là kết quả của chuyến thâm nhập thực tế của ông đối với mảnh đất Tây Bắc. Tô Hoài đã có công khai khẩn cho một vùng đất bị văn học bỏ quên. Tác phẩm là bức tranh chân thực về cuộc sống và số phận khổ đau của những người dân nghèo miền núi cao Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn thực dân, chúa đất, đồng thời, tác phẩm là bài ca về sức sống và vẻ đẹp của con người nơi đây mà tiêu biểu là nhân vật Mị.

Mở đầu tác phẩm, nhà văn đã giới thiệu về Mị qua hai nghịch cảnh. Một bên là cô Mị ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.

Một bên là cảnh nhà thống lí giàu có, người ra vào tấp nập. Mị là một con người mà như lẫn vào các vật vô tri, nghĩa là con người mà không khác gì đồ vật, kiếp người mà không khác gì kiếp vật. Đây là thủ pháp tạo tình huống “Có vấn đề” trong lối kể chuyện truyền thống giúp người đọc tham gia vào hành trình tìm hiểu những bí ẩn về số phận nhân vật và những vẻ đẹp ẩn sâu trong những con người ấy mà ở đây chính là về Mị.

Trước hết, Mị là một cô gái có số phận khổ đau. Chỉ vì một món nợ truyền kiếp mà Mị phải vào làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra, phải sống một kiếp người khổ đau. Về nhà thống lí, Mị bị chà đạp, vùi dập, cướp đoạt tất cả mọi quyền. Mị sống như kiếp vật. Bề ngoài là con dâu nhưng thực chất là con nợ.

Nỗi khổ đau nhất ở Mị là con nợ thông thường dù khốn khổ đến mấy còn có hi vọng thoát khỏi thân phận con nợ sau khi đã trả hết nợ cho chủ, oái ăm thay, Mị là con nợ nhưng cũng là con dâu (Con dâu gạt nợ) đã bị “Cúng trình ma nhà nó rồi, chạy đâu cho thoát, chỉ còn cách chịu đựng đến tàn đời mà thôi”. Thực ra, Mị đã sớm linh cảm thấy cuộc đời đau khổ của mình nên ngay từ đầu Mị đã van xin cha “Đừng bán con cho nhà giàu”. Mị sẽ tự cuốc nương, trồng ngô để thay cha trả nợ. Thế nhưng nguyện vọng chính đáng ấy không thể chống lại âm mưu thâm độc của cha con nhà thống lí.

Những ngày tháng sống trong thân phận làm dâu gạt nợ là những chuối ngày dằng dặc đau thương của Mị, Mị sống trong tủi cực, đúng nghĩa với một nô lệ khổ sai. Mị bị biến thành một thứ công cụ lao động trong tay cha con thống lí. Suốt năm suốt tháng Mị cực nhục âm thầm trong công việc, “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, se đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời như thế” Những việc giống nhau, tiếp nhau sẽ vẽ ra trước mặt mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại.

Với thư pháp so sánh tương đồng, nhà văn đã làm nổi bật cuộc đời cơ cực của Mị, Mị nghĩ mình cũng là con trâu, con ngựa vì là con trâu, con ngựa thì phải đổi ở tàu ngựa nhà này đến tàu ngựa nhà khác, là trâu ngựa thì chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Thậm chí “con ngựa con trâu làm còn có lúc, đêm còn được đúng gãi chân nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc cả đêm cả ngày” Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa đến nỗi ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi. Lời cắt nghĩa ấy của tác giả đã minh giải tình trạng Mị bị đày đọa đến mức tê liệt.

Càng ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Cửa buồng Mị ở âm u lạnh lẽo, nó kín mít chỉ có một cái cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trắng trắng không biết là sương hay nắng. Mị cứ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra đến bao giờ chết thì thôi.

Đây là chi tiết gây ám ảnh về một địa ngục trần gian ngột ngạt bức bối. Đó là một ẩn dụ, bế tắc về một cuộc đời, một số phận, con dâu mà như tù nhân khổ sai. Nhà văn đã cất lên tiếng nói nhân quyền của con người để vạch trần tố cáo tội ác của bọn chúa đất vô đạo ở miền núi đã làm khô cạn nhựa sống, làm tàn lụi cả niềm vui sống của những con người tha thiết yêu đời, yêu tự do.

Mị còn bị trói buộc bởi nhiều thế lực: thân quyền, cường quyền, nam quyền. Vì quyền lực mà cha con thống lí đã bắt Mị làm dâu gạt nợ. Ở nhà thống lí, Mị bị tước đoạt cả những quyền tự do tối thiểu. Mị không được đi chơi xuân trong khi A Sử đã có vợ hẳn vẫn đi chơi xuân, hắn còn trực rình bắt mấy người đàn bà nữa về làm vợ… Những thế lực vô hình thi nhau hù dọa Mị.

Trước đây, đã có lần Mị muốn chết nhưng không thể bởi lòng hiếu thảo không cho phép Mị quyên sinh. Giờ đây, khi không còn cái gì ngăn cản nữa thì Mị lại buông xuôi, sống vật vờ như cái xác không hồn. Chính lúc này, hoàn cảnh của người con gái ấy càng đáng thương hơn. Bởi trước đây, khi Mị muốn chết là muốn chống lại hoàn cảnh, đó là biểu hiện của lòng ham sống, còn giờ đây khi không tưởng đến cái chết có nghĩa là lòng yêu tha thiết cuộc sống đã không còn.

Đời Mị lặng lẽ trôi đi. Ách áp bức dai dẳng và nặng nề của bọn thực dân chúa đất miền núi đã khiến cho Mị hoàn toàn tê liệt. Dưới ngòi bút của Tô Hoài, dù Mị là cô gái mang số phận khổ đau, dù cuộc sống của Mị trong nhà thống lí là những chuỗi ngày dài đau khổ thì ở Mị vẫn sáng lên những vẻ đẹp không thể bị mờ đi, mòn đi bởi những khổ đau của số phận. Mị vốn là một người con gái đẹp.

Nhà văn không trực tiếp miêu tả mà gợi vẻ xinh đẹp ấy qua lời kể: “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị” Mị còn có tài thổi sáo hay. Mỗi lần Mị uốn chiếc là trên môi, thổi là còn hay hơn thổi sáo “Trai làng nhiều người mê, nhiều đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác” Tài năng âm nhạc ấy báo hiệu vẻ đẹp tràn đầy của tâm hồn. Trái tim Mị đã bao lần rung lên trước những âm thanh, những tín hiệu hẹn hò.

Không chỉ xinh đẹp, Mị còn là người con hiếu thảo, khi cha mẹ Mị mang nợ nhà thống lí, Mị đã xin cha được làm nương thay cha trả nợ. Nhưng khi nguyện vọng không thành thì Mị đã báo hiếu cho cha bằng cả cuộc đời con gái tươi trẻ đẹp đẽ của mình.

Tưởng trừng sức sống trong Mị đã lụi tàn, nhưng không! Vượt lên trên số phận, hoàn cảnh sống khổ đau tủi nhục, trong chiều sâu dáng hình câm lặng héo úa kia vẫn tiềm tàn một sức sống mạnh mẽ. Sức sống ấy vẫn âm thầm, ấm nóng như một viên than hồng bị tro tàn bao phủ. Nó chỉ chờ dịp là bùng lên mạnh mẽ, dữ dội.

Sức sống tiềm tàng vốn có trong Mị, nó đa dạng và bí ẩn. Sức sống ấy ẩn ngay trong nỗi buồn, trong sự cam chịu, trong hành động phản kháng tìm đến nắm lá ngón tự tử ở thời gian đầu làm dâu gạt nợ nhà thống lí. Sức sống ấy bùng lên mạnh mẽ trong sự trỗi dậy của lòng yêu đời, khát vọng hạnh phúc của Mị trong đêm tình mùa xuân. Khát vọng ấy vốn bị vùi dập bấy lâu nay trong một tâm hồn chai sạn vì đau khổ và nó bất chợt cháy lên thật nồng nàn, xa xót trong đêm tình mùa xuân. Có một bước chuyển, bước ngoặt tâm lý rất lớn diễn ra trong tâm hồn Mị.

Nhà văn không hề đơn giản trong miêu tả tâm hồn mà còn sự dẫn dắt chuyển biến bất ngờ, hợp lý. Sự chuyển biến tâm lý lớn lao ấy bắt nguồn từ nhiều duyên cơ. Trước hết là do đất trời vào xuân, lòng người rạo rực đón xuân: “Hồng Ngài năm ấy ăn Tết vào giữa lúc gió thổi cỏ gianh vàng ửng, gió và rét dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi, xòe trên những mỏm đá như những con bướm sặc sỡ. Đám trẻ đợi Tết chơi quay cười ầm trên sân chơi trước nhà”. Bức tranh có tác động rất lớn đến tâm hồn Mị.

Cùng với bức tranh xuân, một tác nhân nữa là hơi rượu “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu, Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát rồi say đến lịm người” Phải chăng, Mị đang uống cái đắng cay của phần đời đã qua, hay uống cái khát khao của phần đời chưa đến. Cuộc rượu tàn lúc nào Mị không hề hay biết, người về hết chỉ còn mình Mị trở lại giữa nhà. Thế rồi Mị nhớ lại ngày xưa, Mị còn trẻ trung, xinh đẹp, hồn nhiên. Mị khao khát hạnh phúc…

Và cuối cùng có thể nói, tiếng sao có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị hồi sinh. Nhà văn Tô Hoài đã dụng công miêu tả tiếng sao. Thoạt đầu, xa, từ ngoài đầu núi vọng lại, Mị nghe tiếng sáo “Thiết tha bồi hồi”, Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi. Lát sau tiếng sáo “Văng vẳng gọi bạn đầu làng” lòng Mị đang sống về ngày trước. Rồi lòng Mị vẫn đi theo tiếng sáo gọi bạn yêu.

Tiếng sáo nặng khát vọng hạnh phúc lớn dần, chiếm trọn vẹn tâm hồn Mị. Như vậy, trong đêm tình mùa xuân, hơi rượu và tiếng sáo gọi bạn tình, Mị đã vượt ra khỏi trạng thái tê dại, vô cảm bấy lâu nay để thức dậy, để hồi sinh Tô Hoài đã rất tinh tế khi miêu tả những yếu tố liên quan bên ngoài để tác động đến nội tâm nhân vật ở thời khắc này lòng Mị đầy mâu thuẫn, lòng Mị phơi phới trở lại, Mị muốn đi chơi xuân nhưng cũng chính lúc này: “Nếu có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại, nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra”.

Nghịch cảnh ấy cho ta thấy khi niềm khao khát sống hồi sinh thì tự nó sẽ có một mãnh lực, xung đột một mất, một còn với trạng thái vô nghĩa lý của thực tại. Ngòi bút của Tô Hoài đã lách sâu vào những khe kín của tâm hồn nhân vật để phát hiện những nét đẹp, nét riêng trong tính cách nhân vật. Sức sống tiềm tàng còn được thể hiện ở hành động đi chơi xuân. Từ ý nghĩ đã trở thành hành động.

Mị chuẩn bị kỹ lưỡng, chăm chút, đường hoàng, Mị quấn lại tóc, xắn một miếng mỡ bỏ vào đèn, khêu đèn cho sáng. Hành động ấy cho thấy Mị như đang thắp lên ngọn đèn trong cuộc đời triền miên tăm tối của mình. Mị với thêm chiếc váy cổ hoa ở trong vách… Mị làm như một người tự do đường hoàng, không hề đếm xỉa đến sự có mặt của A Sử. Trong hoàn cảnh nghiệt ngã khát vọng tình yêu càng bộc lộ mãnh liệt. Trong hoàn cảnh bị A Sử trói đứng, tóc Mị xõa xuống, hắn quấn luôn tóc Mị vào cột làm cho Mị không nói không nghiêng được.

Nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ đang chật vật bất lực. Suốt đêm, Mị đau như dứt từng miếng thịt, lúc mê lúc tỉnh thế nhưng tâm hồn Mị vẫn mê mải đi theo tiếng sáo gọi bạn theo những cuộc chơi, những đám chơi. Như vậy, A Sử và thế lực tàn bạo ở miền núi có thể trói buộc được thể xác Mị nhưng không thể nào trói buộc được tâm hồn Mị, không thể nào vùi dập được sức sống bất diệt trong Mị.

Chính trong đêm tình mùa xuân, ý thức về quyền sống đã trở về trong tâm hồn Mị. Có thể nói, sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân còn có những biểu hiện cảm động. Mị đã xót xa đồng cảm với những con người cùng cảnh ngộ. Buổi sáng âm u trong căn nhà gỗ, Mị bàng hoàng tỉnh giữa bốn bề im lặng, Mị xót thương những người đàn bà cùng cảnh ngộ như mình, không biết các chị vợ anh, vợ chú có còn ở nhà, không biết tất cả những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan đã được đi chơi hay là cũng đang bị trói như Mị.

“Mị nghẹn ngào khi nhớ lại câu chuyện về một người đàn bà cũng bị chết vì trói đứng ở nhà thống lí. Những biểu hiện của sự sống tiềm tàng trong đêm tình mùa xuân này chính là cơ sở tạo nên sự vùng dậy, tháo cũi sổ lồng của Mị trong đêm đông sau này. Đỉnh điểm của sự sống tiềm tàng chính là sự vùng dậy của Mị trong đêm đông cùng hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ.

Cả Mị và A Phủ hai con người đau khổ, có những nét tương đồng vì hoàn cảnh, số phận, đều là nạn nhân của nhà thống lí. Nếu Mị là con dâu gạt nợ nhà thống lí thì A Phủ là người ở trừ nợ vì đánh bại con quan làng năm ấy A Phủ chăn bồ ngoài rừng, vì mải bẫy nhím, chẳng may bị hổ vồ mất một con bò, vì thế A Phủ bị thống lí Pá Tra trói đứng vào cột. Chính nỗi bất hạnh của A Phủ, chính sự tàn độc của cha con thống lí đã làm thức dạy tinh thần phản kháng của Mị.

Mấy đêm đầu A Phủ bị trói, Mị vẫn trở dậy, vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, Mị chỉ còn biết ở với ngọn lửa, nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi. Chi tiết này khiến cho ta phải rùng mình trước một số phận bị đày đọa, bị vùi dập tới mức cực đoan.

Lại một đêm nữa, Mị trở dậy thổi lửa hơ tay. Khi ngọn lửa bùng lên cùng lúc Mị lé mắt trông xa thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở “một dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” Đây là chi tiết đầu mối của sự đột biến trong tâm lý của Mị. Nhà văn Tô Hoài đã tỏ ra rất am hiểu những chuyển biến kỳ diệu trong tâm hồn nhân vật. Chính giọt nước mắt của chàng trai người Mông gan góc, quả cảm đã tác động trực tiếp đến Mị.

Mị nhớ mình, thương mình ngày trước cũng bị trói đứng trong cái nhà này, tóc quấn vào cột, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không lau đi được, đắng chát và bất lực, khác gì A Phủ bây giờ. Mị thương người giờ đây cũng bị đày đọa như mình. Mị thương những tôi tớ khác, lòng thương lớn dần thành nỗi hận, biến thành lòng căm thù cha con thống lí, “Chúng nó thật độc ác”. Cái thương, cái giận lớn dần lấn át nỗi sợ hãi, cuối cùng biến thành hành động Mị cầm dao, cắt dây cởi trói cứu A Phủ, cùng A Phủ chạy khỏi Hồng Ngài là hành động bộc phát nhưng vẫn nằm trong logic, sức sống nội tâm của nhân vật.

Đó là đỉnh điểm của sức sống tiềm tàng, khát vọng tự do, khát vọng về quyền sống đã bùng lên, tất cả tạo nên sức mạnh trong hành động tháo cũi xổ lồng của Mị và A Phủ. Mị không những cắt dây cởi trói cứu A Phủ mà còn cắt đứt sợi dây vô hình trói buộc cuộc đời Mị với nhà thống lí. So với Chị Dậu (trong Tắt Đèn), anh Pha (trong Bước đường cùng) hay Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên… thì kết cục của Mị đã tươi sáng hơn Mị đã vùng dậy, tự giải thoát bằng chính sức mạnh của mình.

Như vậy, qua vẻ đẹp về ngoại hình, tấm lòng hiếu thảo cùng sức sống tiềm tàng mãnh liệt, tất cả đã tạo nên một vẻ đẹp riêng của Mị – Một cô gái có số phận khổ đau nhưng luôn mang trong mình vẻ đẹp về cả nội tâm lẫn bên ngoài. Để khắc họa thành công về số phận khổ đau và vẻ đẹp riêng có của Mị. Ở Mị nhà văn chú trọng lối văn miêu tả những diễn biến tâm lý trong thế giới nội tâm đa dạng, bí ẩn.

Từ đó, khắc họa lên tính cách nhân vật. Điều đó rất phù hợp trong việc xây dựng nhân vật nữ tính. Bên cạnh đó, Mị còn được nhà văn thể hiện rất độc đáo mang phong cách tiêu biểu của người Mông âm thầm mà mãnh liệt, mộc mạc đơn sơ mà dữ dội khôn lường.

Qua tác phẩm, Mị hiện lên như một điển hình cho số phận khổ đau của đồng bào vùng núi Tây Bắc dưới ách cai trị của bọn thực dân, chúa đất miền núi. Đồng thời, nhân vật Mị cũng là điển hình cho bài ca về khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, ý thức vùng lên phản kháng đi tìm cuộc sống tự do.

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Mẫu 11

Tô Hoài là một trong những nhà văn có tên tuổi lớn của văn học hiện đại Việt Nam với tuổi đời và tuổi nghề dài, ông đã để lại cho người đọc một kho tàng các tác phẩm xuất sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Khi nhắc đến Tô Hoài, không thể không đề cập đến tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Truyện được in trong tuyển tập Truyện Tây Bắc, là một bức tranh thực tế, phản ánh cuộc sống khắc nghiệt của những người dân nghèo miền núi dưới sự áp bức của thực dân Pháp.

Về nội dung, Vợ chồng A Phủ là lời tố cáo đanh thép chế độ thực dân nửa phong kiến, phản ánh chân thực mâu thuẫn căng thẳng giữa các giai cấp và cuộc sống tăm tối của người lao động nghèo ở miền núi Tây Bắc. Tác phẩm bắt đầu bằng câu chuyện về hoàn cảnh của nhân vật Mị: “Ai ở xa về, có dịp ghé qua nhà thống lí Pá Tra thường thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Dù làm công việc quay sợi, thái cỏ cho ngựa, dệt vải hay chẻ củi, hoặc đang cõng nước từ suối lên, cô ấy luôn cúi mặt, mang nét mặt buồn rười rượi. Vẻ buồn bã, âm thầm cùng với công việc vất vả của Mị hoàn toàn trái ngược với sự giàu có và tấp nập của gia đình nhà thống lí. Tô Hoài đã mở đầu tác phẩm với một tình huống mâu thuẫn như vậy, gợi lên sự tò mò nơi độc giả và đồng thời hé mở sự khổ đau trong số phận của Mị khi vào nhà chồng.

Trước khi trở thành dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là một cô gái H’mông xinh đẹp, tài năng và hiếu thảo. Tiếng sáo của Mị khiến các chàng trai trong làng “đứng nhẵn cả chân vách buồng”. Tuy nhiên, chỉ vì gia đình nghèo, không đủ tiền trả nợ cho nhà thống lí, Mị bị buộc phải làm dâu để trừ nợ. Từ đó, mọi hi vọng về hạnh phúc và tương lai của cô đã tan biến như khói. Bị coi là một con nợ, trả nợ xong là thôi, nhưng Mị vẫn phải sống như một người con dâu. Một cổ hai gông, tất cả đã đẩy Mị vào vòng tuần hoàn của đau khổ. Mỗi đêm sau khi bị bắt đi, Mị đều khóc và một lần cô đã thậm chí trốn về nhà với ý định tự sát bằng việc ăn lá ngón. Từ chi tiết này, chúng ta có thể thấy tinh thần phản kháng kiên cường, Mị không chấp nhận số phận đang đối diện. Quyết định tìm đến cái chết không phải là biểu hiện của sự đầu hàng hay từ bỏ, mà là tiếng nói phản kháng mạnh mẽ của một con người luôn khao khát tự do và hạnh phúc.

Đối với Mị, làm dâu nhà thống lí Pá Tra còn đáng sợ hơn cái chết, bởi vì ở đó, cô không được đối xử như một con người, không được lên tiếng quyết định cuộc đời mình, không có tự do cũng như hạnh phúc. Nhưng vì cha, Mị lại chấp nhận tiếp tục sống và chịu đựng: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa…”.

Từ một người con gái đầy sức sống, Mị giờ đây “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Hình ảnh căn buồng Mị nằm với chiếc “cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng” như một nhà giam không những giam hãm thân xác mà còn vây khốn tâm hồn Mị. Đó cũng là hiện thực đầy tàn khốc của những người dân nghèo dưới ách thống trị của bọn địa chủ phong kiến. Họ không chỉ bị tước đoạt tự do thân thể, mà tinh thần họ cũng vướng phải gông xiềng của lề thói, hủ tục.

Giữa bức tranh tăm tối ấy, đêm tình mùa xuân cùng tiếng sáo gọi bạn réo rắt như thổi một làn gió mới làm bùng lên ngọn lửa yêu thương, khát vọng sống tiềm tàng ngỡ đã vụt tắt. Tiếng sáo được Tô Hoài miêu tả nhiều lần với nhiều tầng bậc khác nhau: “Ngoài đầu núi…thổi”, “Tai Mị… gọi bạn”, “Trong đầu… sáo”, “Tiếng sáo… chơi”. Tiếng sáo gợi nhớ về kỉ niệm, tiếng sáo thôi thúc Mị tìm đến niềm hạnh phúc yêu thương.

Tuy nhiên, A Sử đã xuất hiện và dập tắt khát vọng sống trong Mị bằng cách lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Sau đó, hắn xách cả thúng sợi đay ra và trói Mị vào cột nhà. Tóc Mị rủ xuống. A Sử còn quấn tóc Mị lên cột, làm cho cô không thể cúi đầu hay nghiêng mình nữa”. Sự lạnh lùng và tàn ác của A Sử đối với Mị không phải là một trường hợp đơn lẻ, trước đó đã có một người phụ nữ khác bị trói đến chết trong ngôi nhà này. Từ đây, bức tranh về tội ác dã man của địa chủ phong kiến trở nên rõ ràng. Đối với những kẻ này, cuộc sống của con người không quan trọng hơn con trâu hay con ngựa.

Bên cạnh hình tượng nhân vật Mị là A Phủ, một thanh niên mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lao động giỏi “chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê”. Vì đánh con quan, A Phủ bị phạt vạ và từ đó trở thành nô lệ cho nhà thống lí. Có thể thấy, dù là một chàng trai gan góc, mạnh mẽ, nhưng cuối cùng, A Phủ cũng như Mị, không thể thoát khỏi bàn tay tội ác của bọn địa chủ phong kiến, ở đây đại diện là nhà thống lí Pá Tra. Ở trong nhà thống lí Pá Tra, sinh mạng người dân nghèo không bằng cả súc vật. Chỉ vì làm mất bò, A Phủ bị trói đứng giữa trời đông lạnh lẽo. Và giọt nước mắt của anh là giọt nước mắt của sự đắng cay, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng. Đây là chi tiết vô cùng đắt giá. Giọt nước mắt ấy thể hiện tâm trạng tuyệt vọng của A Phủ đồng thời nó cũng làm dậy lên niềm đồng cảm, xót thương và sức sống ngỡ đã chai sạn trong Mị.

Trong tình huống hiện tại mà A Phủ đang trải qua, Mị nhớ lại đêm mùa xuân khi cô bị A Sử trói vào cột nhà. Cô bỗng cảm thấy xót xa cho chàng trai tội nghiệp ấy và đồng thời cũng thương xót cho tình cảnh của chính mình. Nước mắt của A Phủ như làm tái sinh khát vọng sống trong Mị, những khát khao mà suốt thời gian dài đã bị tàn phá bởi sự áp bức của thế lực phong kiến. Hành động của Mị khi cắt dây trói để giải thoát A Phủ và cùng nhau chạy trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra là sự thức tỉnh của sức sống tiềm tàng, khao khát tự do và hạnh phúc của con người bị áp bức. Có thể nói, thông qua tài năng vượt trội, Tô Hoài đã xây dựng những hình tượng nhân vật vô cùng chân thực và sống động. Nếu Mị đại diện cho phụ nữ miền núi Việt Nam trong thời kỳ trước Cách mạng và kháng chiến chống Pháp, thì A Phủ đích thực mang trong mình nét đẹp của thanh niên dân tộc miền núi Tây Bắc: trung thực, cương trực, khỏe mạnh, dù bị đẩy vào số phận khổ đau nhưng không bao giờ mất đi khát vọng tự do.

Bên cạnh việc tái hiện bức tranh hiện thực về sự tàn ác của tầng lớp thống trị và cuộc sống u tối của nhân dân, tác phẩm cũng trở thành một bài ca về tình người, về khát vọng sống và tự do. Hành động cắt đứt dây trói, những bước chân vội vã trốn thoát khỏi nhà thống lí và dưới lá cờ Cách mạng của Mị và A Phủ chính là sự vùng lên tự nhiên của những con người không chịu khuất phục trước số phận. Tác giả truyền đạt sự đồng cảm, lòng thương xót đồng thời còn đầy tự hào, ca ngợi khi viết về họ và cuộc sống của họ. Điều đó chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm này.

Về mặt nghệ thuật, tác phẩm chứng tỏ sự tài năng của Tô Hoài trong việc diễn giải câu chuyện và miêu tả tâm lý nhân vật. Đặc biệt, với nét vẽ tài tình, Tô Hoài đã tái hiện một vụ án sống động và đầy sức tố cáo, từ đó phơi bày sự đàn áp tàn bạo của bọn thống trị trong vùng miền núi. Qua giọng kể vừa khách quan vừa nhập vai vào nhân vật, cùng ngôn ngữ sống động, tinh tế và sáng tạo, bức tranh về thiên nhiên và cuộc sống hàng ngày của người dân miền Tây Bắc được tái hiện một cách chân thật và gợi cảm xúc mạnh mẽ.

Tóm lại, có thể khẳng định, “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm mẫu mực nhất khi viết về thiên nhiên và con người miền núi. Qua “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã khẳng định tên tuổi của mình trong văn đàn đồng thời ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc bao thế hệ.

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Mẫu 12

Nếu như tác phẩm Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài mang một giọng hồn nhiên trong sáng thì tác phẩm Vợ chồng A Phủ của ông lại mang màu sắc dân tộc đậm đà, chất thơ chất trữ tình thấm đượm. Qua tác phẩm, nhà văn đã dựng nên một bức tranh hiện thực của hai cuộc đời: Mị và A Phủ, những bức tranh đó cũng chứa chan một tấm lòng nhân đạo của Tô Hoài.

Mị, một cô gái xinh đẹp trẻ trung, nhưng lại mang một kiếp sống nghèo của kẻ “thấp cổ bé họng”. Cha mẹ cô không thể trả nổi món nợ nhà thống lí thế là món nợ ấy truyền sang Mị. Tên thống lí tàn bạo ấy lại muốn bắt Mị làm “con dâu gạt nợ”. Mà quan đã muốn là trời muốn, cô Mị về làm dâu nhà quan mà trong lòng mang một mối uất ức không thể giãi bày. Tiếng làm dâu nhưng lại là một thứ nô lệ không hơn không kém, cô mất tất cả quyền sống, quyền được xem là một con người. Ngày trước dẫu nghèo nhưng được tự do, yêu đời, giờ đây vẫn nghèo vẫn cực nhọc lại nhục nhã chịu kiếp sống nô lệ.

Qua kiếp sống của Mị, nhà văn bộc lộ một tấm lòng thương người, chua xót cho số phận con người, và cũng qua đó Tô Hoài đã vạch trần cái bản chất bóc lột của giai cấp thống trị. Người ta dùng cái thế lực và tiền bạc “cướp người đàn bà đem về trình ma”, thế là người đàn bà cũng bị cái “ma” vô hình trói cả cuộc đời trong nhà ấy, “chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”.

Mị đã khổ nhiều rồi, trong cái địa ngục trần gian ấy, lại càng khổ hơn khi phải chấp nhận mình là kiếp trâu kiếp ngựa. Cả những con người cứng rắn, có lẽ không khỏi động lòng khi đọc đến câu “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”… Khổ mà đến “quen” rồi quả thật ý thức con người đã bị tê liệt, đã mất đi cái “yếu tố xã hội” để được xem là con người.

Chuỗi ngày cực nhục đã cướp đi của Mị sức sống tài năng, cướp đi những thất vọng tuổi trẻ những “lúc hồi hộp chờ đợi người yêu”. Lúc nào và bao giờ cũng thế, công việc cứ nối tiếp nhau vẽ ra trước mặt Mị, cứ những công việc quen thuộc làm đi làm lại “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp… Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế”. Khổ quá, cái khổ cứ chực bóp nát cuộc đời Mị, thế sao Mị không tự tử chết đi cho rồi? Không được bởi “Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ. Mị đành trở lại nhà thống lí”.

Cuộc sống trong cái địa ngục khủng khiếp đã bào mòn đi trái tim yêu đời của Mị, giờ đây nó đã trở nên trơ lì, chai sạn. Mị chỉ còn biết vùi đầu vào công việc: “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa”, “càng ngày mị càng không nói, cứ lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa”. Thế giới của Mị thu vào một “cái buồng kín mít, chỉ có chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Ý thức đã hoàn toàn biến dạng, Mị nhìn ra cuộc đời bằng ô cửa sổ, mà lại chẳng biết gì ngoài ấy thì có phải Mị đã quên mình là con người!

Rõ ràng Tô Hoài đã tuân thủ nguyên tắc biện chứng của chủ nghĩa hiện thực một cách nghiêm ngặt: hoàn cảnh đã tác động vào tính cách Mị. Vợ chồng A Phủ chính là một bản cáo trạng đanh thép kết án những bọn cường hào thống lí và Tô Hoài đã mở rộng tấm lòng mình để bao bọc, che chở, bênh vực cho những người phụ nữ miền núi chịu hai tầng bóc lột.

Bức tranh hiện thực được hoàn chỉnh hơn với sự xuất hiện của A Phủ, một chàng trai khỏe mạnh cường tráng, trung thực. Chỉ vì những cuộc ẩu đả thường tình mà A Phủ bị đưa ra xử kiện thật là vô lí. Nhưng vấn đề ở chỗ: Người đúng là con dân còn kẻ sai là con quan, hơn nữa, quan lại là người xử kiện. Như thế chẳng biết “công lí” có còn ngự trị nơi quan đường? Chỉ biết rằng A Phủ đang là một con chim xoãi cánh trong bầu trời tự do bỗng chốc bị nhốt trong lồng, bị trở thành nô lệ. Dường như cuộc đời A Phủ có lặp lại ít nhiều những biến thái của cuộc đời Mị. Đó là số phận chung cho những người miền núi thời bấy giờ.

Nhắc đến tác phẩm, người ta nhắc đến tính hiện thực và giá trị nhân đạo. Hiện thực mà chỉ bằng tố cáo phê phán thì còn khiếm khuyết, “nhân đạo” mà chỉ có yêu và ghét thì chưa phải là nhân đạo. Nhà văn cần phải hiểu nhân vật và tìm ra con đường tất yếu mà nhân vật phải đi. Tính cách nhân vật phát triển theo hoàn cảnh và được Tô Hoài phân tích theo con đường phát triển của tâm lí nhân vật. Thiết nghĩ đây mới là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo độc đáo của tác phẩm.

Nhân cách Mị bị chôn vùi trong cái địa ngục trần gian là hợp lí, sống cho ra người thì không sống được muốn chết cũng không chết được. Có phải Mị đã ở cái trạng thái “sống dở chết dở”. Rồi Mị phải quen, phải chịu đựng, và trở nên chai lì như một cỗ máy. Liệu Mị có còn lối thoát? Nếu như có một hoàn cảnh đã làm tê liệt ý thức con người thì sẽ có một hoàn cảnh để vực dậy trong lòng họ một sức sống. Nghe như mơ hồ nhưng đó là sự thực.

Khi chứng kiến A Phủ bị trói, lúc đầu “Mị thản nhiên thổi lửa hơ tay… nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Nhưng “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ” chính là “hoàn cảnh” đã giúp Mị sống dậy. “Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lóe Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Mị bắt gặp dòng nước mắt ấy và nhớ về mình, Mị cũng phải trói đứng thế kia và Mị cũng khóc “nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được”.

Dòng nước mắt là sự đồng cảm giữa hai con người. Dòng nước mắt của A Phủ đã làm bỏng rát vết thương trong lòng Mị. Tất cả thôi thúc Mị cởi trói cho A Phủ và cả hai người “lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi”. Họ đến lập nghiệp ở Phiềng Sa. Thế rồi chẳng bao lâu sau, cái đồn Tây, lại lù lù xuất hiện, cha con thống lí lại vào ở đó. Trước mắt hai người chỉ còn một sự lựa chọn: trở về kiếp sống nô lệ hoặc chống kẻ thù. Cách mạng rồi sẽ đến với họ và họ sẽ trở thành người của cách mạng.

Muốn phân biệt giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo là điều không phải dễ. Thực ra, cả hai hòa quyện vào nhau, đan xen vào nhau. Có ghét nhà văn mới tố cáo bọn thống lí Pá Tra, có thương cảm nhà văn mới viết được những câu văn đầy xúc động, có hiểu nhà văn mới đi sâu vào cuộc sống tâm lí con người. Và Tô Hoài có thông cảm với nhân vật lắm mới có thể xét đoán tinh tế cuộc sống tinh thần của Mị.

Những ngày tháng đầu tiên ở nhà thống lí, Mị cứ khóc có đến hàng mấy tháng, thế rồi định ăn lá ngón để tự tử vì không chịu nhục. Nhưng vẫn cố sống, sống một cách gượng gạo vì chữ hiếu. Mị nghèo vật chất nhưng không nghèo tình thương, lòng Mị vẫn âm ỉ một khao khát sống khao khát được tự do. Nếu như nhà văn lạnh lùng theo chủ nghĩa hiện thực khách quan thì làm sao nhà văn nắm bắt được cái khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng vẫn “tồn tại đời đời” ấy.

Rõ ràng nhà văn Tô Hoài tuân theo chủ nghĩa hiện thực nhưng ông tin rằng hoàn cảnh dẫu có khắc nghiệt vẫn không thể vùi dập hoàn toàn nhân tính. Hoàn cảnh tác động tính cách nhưng không giết chết tính cách. Trải qua hơn nửa thế kỉ, tác phẩm vẫn còn còn nguyên giá trị hiện thực và nhân đạo cao cả của nó. Vì vậy truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” mới mãi mãi đọng lại trong lòng người đọc.

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Mẫu 13

Tô Hoài một nhà văn tài năng với nhiều thể loại, một cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông là nhà văn của sự thật đời thường, là người có vốn hiểu biết phong phú và sâu sắc về các phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau. Trước Cách mạng, ngòi bút của ông chủ yếu hướng về vùng nông thôn nghèo và thế giới loài vật. Sau Cách mạng, phong cách của ông có sự chuyển hướng, lúc này ngòi bút của ông lại hướng đến những vùng nông thôn rộng lớn hơn, đặc biệt là Tây Bắc.

Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là thành quả của chuyến đi thực tế lên vùng Tây Bắc của ông. Tác phẩm đã lên án, phê phán, tố cáo chế độ phong kiến miền núi đang chà đạp, áp bức quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Bên cạnh đó, tác phẩm cũng mang đậm tinh thần nhân đạo. Cảm thương cho số phận khổ đau của những người lao động nghèo bất hạnh, bị tước đoạt đi quyền sống, quyền tự do, bị hành hạ cả về thể xác lẫn tinh thần. Đồng thời còn trân trọng ngợi ca sức sống tiềm tàng mãnh liệt và luôn biết hướng đến một tương lai tốt đẹp của họ.

Bằng kết cấu hồi tưởng, trần thuật ở hiện tại sau đó ngược trở về quá khứ Tô Hoài đã tạo được những dấu ấn cá nhân riêng biệt qua lối kể chuyện đầy linh hoạt của mình. Trước khi về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra, Mị là một cô gái xinh đẹp, hồn nhiên, yêu đời và có tài thổi sáo. Đặc biệt, Mị còn là cô gái rất giàu lòng tự trọng luôn muốn làm chủ và muốn tự định đoạt chính cuộc đời của mình. Mị là nỗi niềm ao ước của biết bao chàng trai trong làng. Thế nhưng cuộc đời thật nhiều trái ngang, nó đã xô đẩy Mị, làm trái lại với tất cả những gì mà cô mong muốn. Chỉ vì muốn giúp cha trả món nợ truyền kiếp từ xa xưa mà Mị bỗng dưng trở thành dâu gạt nợ nhà họ Lý kia. Bị ràng buộc về món nợ, Mị còn bị ràng buộc cả về những hủ tục hôn nhân lạc hậu. Nỗi đau khổ chồng chất lên một cô gái trước đây từng ao ước có một cuộc sống tự do, luôn khát khao có được hạnh phúc. Chỉ đến đây thôi ta cũng đã nhìn thấy cái xã hội mà bọn lang đạo, bọn phong kiến chúa đất miền núi đã bóc lột, đã áp bức, đã tước đi quyền tự do của biết bao nhiêu con người lao động nghèo. Ba tiếng “dâu gạt nợ” như hé mở cho người đọc thấy một cuộc sống chồng chất những đau thương, khổ cực, những bi kịch mà Mị đang phải gánh chịu.

Mị – một cô gái vốn yêu đời, hồn nhiên, tràn đầy sức sống như thế, một người con vô cùng hiếu thảo, biết ý thức được cái giá của sự tự do nên đã xin cha lên làm nương lấy tiền trả nợ, còn khẩn nguyện xin “đừng bán con cho người giàu” nhưng vì sự đàn ép, vì hủ tục lạc hậu mà cướp đi ước mơ, hoài bão, chôn vùi đi thanh xuân tươi đẹp và sự tự do của một cô gái. Mị đã bị A Sử cướp và đem về để “cúng trình ma” nhà thống lí. Cuộc đời Mị từ đây gắn liền với số phận của người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí. Cô phẫn uất, đau khổ, thương xót cho chính thân phận của mình. Đau khổ cùng cực nên Mị đã định tự tử bằng lá ngón nhưng cô “không đành lòng chết” vì còn thương cha. Có lẽ chết là cách tốt nhất để Mị có thể giải thoát cuộc đời nô lệ của mình, sẽ không phải xót xa hay căm hờn gì nữa nhưng khi chết rồi cha vẫn phải trả nợ, nên cô đành ngậm ngùi ôm nỗi tủi nhục mà sống tiếp.

Từ thái độ phản kháng kịch liệt, Mị lại trở nên cam chịu, chấp nhận hoàn cảnh. Lâu dần nên Mị cũng đã quen với cái khổ, cuộc sống của Mị còn không bằng con trâu, con ngựa, quần quật làm việc cả ngày lẫn đêm không được nghỉ ngơi. Mọi công việc trong nhà như hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, quay sợi, dệt vải, bẻ bắp, chẻ củi, cõng nước,…nó cứ nối tiếp nhau “vẽ ra trước mặt” bắt cô phải làm. Cả ngày Mị chẳng nói chẳng rằng, lúc nào cũng cúi gằm mặt xuống “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Càng ngày, Mị càng trở lên câm lặng, chấp nhận số phận, cam chịu với cuộc sống đầy bất công mà không một lời oán trách. Đau khổ về thể xác, đến tinh thần cũng bí bách khôn nguôi, còn điều gì đáng buồn hơn khi lấy chồng mà người bên cạnh không phải là người mình thương yêu, đến sự sẻ chia, lời ủi ăn cũng chẳng có, chứ nói gì đến người bạn tâm tình những lúc chán nản, mệt nhoài. Thật đau đớn thay cho những kiếp người nghèo khổ, bất hạnh, phải chịu biết bao nỗi bất công, bao nỗi tuyệt vọng ngập tràn. Mọi thức đổ ập lên người, nên lúc này đây, Mị đang phó mặc, buông xuôi số phận của mình. Đọc những dòng miêu tả Mị lúc này, ta cảm thấy xót thương, đồng cảm cho số phận con người và cũng căm phẫn thật nhiều. Xót thương cho cuộc đời tăm tối khổ đau của nàng, căm phẫn với cái chế độ tàn nhẫn đầy rẫy sự bất công của xã hội của đã đẩy con người ta đến đường cùng tăm tối.

Những tưởng rằng Mị đã hoàn toàn vô cảm với thế giới bên ngoài, nhưng chính cảnh sắc thiên nhiên Tây Bắc vào mùa xuân và âm thanh vang vọng của tiếng sáo là tác nhân đánh thức, khơi dậy lòng yêu đời, sức sống đã bị vùi lấp trong con người Mị. Tiếng sáo ấy đã đánh thức tâm hồn đã bị ngủ quên của Mị bấy lâu. Mị cảm nhận được âm hưởng ‘thiết tha bồi hồi” trong tiếng sáo gọi bạn đi chơi bên ngoài lễ hội. Không khí nhộn nhịp, náo nức của những ngày Tết khiến Mị như “sống về những ngày trước”. Mị lén uống rượu, “uống ừng ực từng bát” như muốn nuốt trôi đi tất cả những phẫn uất vào trong. Tâm hồn Mị bỗng “phơi phới trở lại”. Điều đặc biệt là Mị đã lấy lại ý thức về bản thân, cô đã nhận ra rằng mình vẫn còn trẻ và vẫn muốn được đi chơi ngày Tết. Từ mong muốn chuyển sang thành hành động, Mị thắp đèn lên chiếu sáng căn phòng tối tăm ấy, quấn lại tóc rồi lấy cái váy hoa để sửa soạn đi chơi. Hành động thắp sáng căn phòng của Mị cũng giống như đang thắp sáng cuộc đời của Mị vậy. Mị đã thực sự hồi sinh và muốn vùng vẫy để thoát khỏi vòng áp chế của các thế lực cường quyền, thần quyền và phu quyền. Nhưng trớ trêu thay, đó mới chỉ là ý định mà thôi, Mị chưa kịp thực hiện thì đã bị A Sử phát hiện và trói cô vào cột nhà bằng cả thúng sợi đay. Nhưng lúc này, tâm hồn Mị vẫn còn lửng lơ theo tiếng sao mà quên đi nỗi đau về thể xác đến khi nghe tiêng chân ngựa đạp vào vách Mị mới chợt tỉnh về về thực tại. Làm dâu nhà giàu nhưng thân phận của Mị lại không khác gì thậm chí là không bằng con trâu, con ngựa.

Là một người lặng lẽ, âm thầm cam chịu là vậy nhưng ẩn sâu trong tâm hồn là một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Điều ấy được thể hiện qua hành động Mị cắt dây trói giải cứu A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài. Đây cũng là hành động tự cởi trói, tự giải thoát cho chính cuộc đời của mình. Nó xuất phát từ tấm lòng đồng cả, thương người rồi thương cả mình. Mị đã tự giải thoát cuộc đời mình khỏi sự áp bức, bóc lột của cường quyền, thần quyền. Hành động này tuy có tính tự phát nhưng nó lại vô cùng hợp lí.

Không chỉ khắc họa thân phận bèo bọt, bất hạnh của người phụ nữ, Tô Hoài còn khắc họa thân phận của người đàn ông miền núi cũng phải chịu những sự bất công của xã hội. Đó là A Phủ – một chàng trai nghèo, vốn mồ côi cha mẹ từ khi còn nhỏ lại chẳng có người thân thích. Khi còn nhỏ, A Phủ trở thành món hàng để đổi lấy thóc của người Thái nhưng, anh là một người gan bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, nên đã trốn lên núi và lưu lạc đến Hồng Ngài. Tuy nghèo khó nhưng A Phủ biết tự lao động, chăm chỉ làm lụng để nuôi sống bản thân. Anh biết và thông thạo mọi công việc từ đúc lưỡi cày, đục cuốc, cày giỏi và còn đi săn bò tót rất bạo. Vì thế nên nhiều cô gái mong muốn có được A Phủ và còn ví rằng có được anh “cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. A Phủ còn là một chàng trai tốt bụng, có sự gan góc, biết vượt qua khó khăn và biết bất bình trước những sự bất công. Trước sự hống hách, ngạo mạn của A Sử – con trai nhà thống lý, A Phủ đã ra tay đòi lại công bằng, anh đã đánh cho A Sử một trận nhừ tử, và cũng chính vì thế mà A Phủ bị bắt và phải là con nợ làm thuê để trả nợ cho nhà thống lý.

A Phủ đánh A Sử không phải do anh hiếu chiến, ngang tàn mà là do anh không chấp nhận sự bất công của xã hội, sự thống trị và sự lên ngôi của cái ác. Sự áp chế của cường quyền đã đẩy một con người yêu tự do, phóng khoáng như A Phủ trở thành một con người cam chịu số phận. Anh đã chấp nhận cuộc đời ở đợ để trừ nợ cho nhà thống lí. Một lần vì mải mê bẫy nhím mà A Phủ để hổ bắt mất một con bò. Vì vậy mà A Phủ đã nhà thống lý trói đứng vào cột nhà cho tới chết. Chịu những cảnh đòn roi đau đớn đến chết đi sống lại, thấy thương xót, tủi nhục với số phận của mình, A Phủ đã không cầm lòng được mà rơi nước mắt. Cũng chính điều này đã lay động được tình thương, lòng đồng cảm của Mị. Và cuối cùng Mị đã quyết định cắt dây trói cứu A Phủ. Hành động “quật sức vùng lên chạy” đã phần nào cho thấy khát vọng sống, khát vọng chấm dứt thân phận đi ở trừ nợ, khát vọng tự do của anh mãnh liệt đến dường nào. Mị xin A Phủ đi cùng, cả hai đã cùng nhau chạy trốn khỏi Hồng Ngài, thoát khỏi trốn ngục từ đã giam giữ cả thể xác lẫn tinh thần của họ. Và cuối cùng họ đã thức tỉnh tìm đến với con đường cách mạng, con đường duy nhất có thể giải thoát và tìm về sự tự do.

“Vợ chồng A Phủ” mang những giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.Thông qua tác phẩm, nhà văn Tô Hoài muốn lên án tố cáo chế độ phong kiến lúc bấy giờ và giai cấp thống trị đã bóc lột con người bằng hình thức cho vay nặng lãi. Vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ mà Mị bị mang ra làm vật thế mạng. Đồng thời ông cũng lên án những hủ tục lạc hậu, cổ hủ như “cúng trình ma” đã buộc con người vào vòng mê tín, khiến họ không dám đứng lên, thoát ra vòng vây để tự cứu lấy mình. Ngoài ra, nhà văn cũng thể hiện lòng thương xót, cảm thông với số phận của những người dân lao động miền núi phải cam chịu sự áp bức, bóc lột của tầng lớp thống trị thủ đoạn, gian ác. Từ đó ca ngợi sức sống mãnh liệt tiềm tàng ẩn sâu trong mỗi con người họ. Chính sức sống ấy đã giúp giải thoát cuộc đời họ và tìm đến với cách mạng, đến với cuộc sống tự do.

Bằng bút pháp cá thể hóa, nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng của hai nhân vật Mị và A Phủ – đại diện cho những con người lao động nghèo có phẩm chất tốt đẹp nhưng phải chịu số phận bất hạnh, đau khổ. Mị tiêu biểu cho kiểu nhân vật tâm trạng còn A Phủ thì tiêu biểu cho kiểu nhân vật hành động. Làm nền cho sự nổi bật của con người ấy trong thiên truyện là bức tranh cảnh sắc thiên nhiên Tây Bắc tuyệt đẹp: “gió thổi vào gianh vàng ửng” và “trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên những mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”. Những câu văn giàu tính tạo hình. Cùng với đó là các phong tục, tập quán của người miền núi như tục bắt vợ, cảnh phạt vạ hay cảnh xử kiện được hiện lên một cách độc đáo. Truyện được kể theo ngôi thứ ba, với điểm nhìn trần thuật có sự thay đổi từ điểm nhìn của người đi xa về tới điểm nhìn của người trong cuộc vì vậy nó vừa mang tính khách quan lại vừa chứa chan sự cảm thông với nhân vật. Ngôn ngữ văn xuôi mang đậm chất thơ cũng là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự lôi cuốn, sức hấp dẫn của tác phẩm.

Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc một cái nhìn bao quát, toàn diện hơn về bức tranh cuộc sống của người dân vùng Tây Bắc. Trang văn ấy tuy đã khép lại nhưng dư âm của nó thì còn vang vọng mãi trong tâm trí. Và tuy Tô Hoài đã ra đi nhưng những tác phẩm nghệ thuật, những giá trị nhân văn của ông vẫn vẹn nguyên giá trị trong lòng bạn đọc hôm nay và cả mai sau.

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Mẫu 14

Tô Hoài là nhà văn tài năng, cần mẫn, ông sáng tác trên nhiều thể loại. Ông là nhà văn của sự thật đời thường, ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau. Trước Cách mạng, ông chủ yếu hướng ngòi bút của mình về nông thôn nghèo và thế giới loài vật. Sau Cách mạng, ông hướng đến những vùng nông thôn rộng lớn, đặc biệt là Tây Bắc.

“Vợ chồng A Phủ” là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc của ông. Tác phẩm đã lên án tố cáo chế độ phong kiến miền núi chà đạp, áp bức quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Bên cạnh đó, tác phẩm cũng thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Cảm thương cho số phận những người lao động nghèo bất hạnh, bị tước đoạt đi quyền sống, bị hành hạ về thể xác lẫn tinh thần. Đồng thời trân trọng ngợi ca sức sống tiềm tàng, luôn biết hướng đến một tương lai tốt đẹp.

Tiêu biểu cho những con người, những số phận ấy chính là Mị, một phụ nữ đã chịu muôn vàn cay đắng. Song, cũng chính người phụ nữ ấy luôn tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt để khi bị chà đạp đến tận cùng đã trỗi dậy mạnh mẽ. Mị xuất hiện ngay từ những dòng đầu của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Đó là hình ảnh một cô con gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa ở nhà thống lí Pá Tra. Nhưng thực ra, đây là một cô Mị khác, còn cô Mị ngày xưa dường như đã chết rồi.

Trước khi về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí, Mị là một cô gái xinh đẹp, yêu đời, yêu cuộc sống tự do. Mị có tài thổi sáo giỏi “thổi lá cũng hay như thổi sáo” khiến “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Tuy sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, ngày xưa bố mẹ phải vay tiền để cưới nhau, đến khi mẹ Mị chết vẫn chưa trả hết nợ nhưng Mị luôn có ý thức về cuộc sống của mình.

Cô đã nói với bố: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu” khi thống lí muốn bắt Mị về làm con dâu gạt nợ. Đó là tiếng nói của sự phản kháng tục dùng con người làm vật thế mạng cho món nợ tiền bạc của các dân tộc miền núi. Lệ tục cổ hủ này đã cướp đi cuộc sống tự do của biết bao con người. Đồng thời câu nói ấy cũng thể hiện niềm tin vào sức sống của bản thân trong con người Mị. Mị tin rằng mình có thể làm nương ngô để trả nợ thay cho bố.

Nhưng Mị đã bị A Sử cướp và đem về “cúng trình ma” nhà thống lí. Cuộc đời của Mị đã gắn liền với số phận của người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra. Cô phẫn uất, đau đớn cho chính thân phận của mình. Có đến hàng mấy tháng, đêm nào cô cũng khóc. Mị định tự tử bằng lá ngón nhưng cô “không đành lòng chết” vì thương bố. Có lẽ chết là cách tốt nhất để Mị giải thoát cuộc đời nô lệ, Mị sẽ không phải xót xa hay căm hờn gì nữa.

Từ thái độ phản kháng, Mị trở nên cam chịu hoàn cảnh. Mị đã quen với cái khổ, “Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa” quần quật làm việc cả ngày lẫn đêm không được nghỉ ngơi. Những công việc hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bẻ bắp, quay sợi, dệt vải, chẻ củi, cõng nước,…cứ nối tiếp nhau “vẽ ra trước mặt” thúc giục cô phải làm. Phải chăng vì thế mà “mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Càng ngày, Mị càng câm lặng, chấp nhận số phận mà không một lời oán trách. Khuôn mặt cô dù trong hoàn cảnh nào cũng “buồn rười rượi”.

Người phụ nữ ấy đã bị những khổ cực làm chai lì cảm xúc, mất hết ý niệm về thời gian, không gian vì buồng Mị nằm có cái cửa sổ có một lỗ vuông bằng bàn tay, “lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Tưởng rằng Mị đã vô cảm với thế giới bên ngoài nhưng chính thiên nhiên Tây Bắc vào mùa xuân mà âm thanh của tiếng sáo là tác nhân khơi dậy lòng yêu đời, sức sống trong con người Mị. Tiếng sáo đã đánh thức tâm hồn bấy lâu ngủ quên của cô. Mị cảm nhận được âm hưởng ‘thiết tha bổi hổi” của tiếng sáo gọi bạn đi chơi.

Không khí của những ngày Tết khiến Mị “sống về những ngày trước”. Mị uống rượu, “uống ừng ực từng bát” như nuốt trôi đi tất cả niềm phẫn uất vào trong. Tâm hồn Mị “phơi phới trở lại”. Điều đặc biệt là Mị đã có ý thức về bản thân, cô nhận ra mình vẫn còn trẻ và muốn được đi chơi ngày Tết. Mong muốn đã chuyển sang thành hành động: “Mị lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng” rồi quấn lại tóc, “lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách” sửa soạn đi chơi. Tiếng sáo lửng lơ, mời gọi khiến Mị không thể chối từ. Cô đã thực sự hồi sinh và lột xác để thoát ra khỏi vòng áp chế của các thế lực cường quyền, thần quyền, phu quyền.

Không chỉ khắc họa thân phận người phụ nữ, Tô Hoài còn khắc họa thân phận của người đàn ông miền núi chịu cuộc đời nô lệ. Đó là A Phủ, anh mồ côi cha mẹ từ khi còn nhỏ, không có người thân thích. Anh trở thành món hàng để đổi lấy thóc của người Thái nhưng “A Phủ gan bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ trốn lên núi, lưu lạc đến Hồng Ngài”. Tuy nghèo khó nhưng A Phủ biết lao động để tự nuôi sống bản thân. Anh biết “đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”. Vì thế nhiều cô gái đã ví có được A Phủ “cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”.

Con người A Phủ có sự gan góc, biết vượt qua khó khăn, khổ cực và nguy hiểm. Anh sống tự do, gần gũi với thiên nhiên nhưng vì tội đánh con thống lí mà phải chịu thân phận nô lệ. A Phủ đánh A Sử không phải do tính cách hiếu chiến, ngang tàn mà là do anh không chấp nhận sự thống trị, lên ngôi của cái ác. Sự áp chế của cường quyền đã đẩy một con người tự do, phóng khoáng trở thành một con người cam chịu số phận. A Phủ phải chịu những trận đòn roi tàn nhẫn nhưng anh “chỉ im như cái tượng đá”. Anh đã chấp nhận cuộc đời đi ở trừ nợ cho nhà thống lí.

Vì mải mê bẫy chim mà A Phủ để hổ bắt mất một con bò. A Phủ bị trói đứng vào cột bằng “dây mây quấn từ chân đến vai”. Tình cảnh này đã lay động được tình thương, lòng đồng cảm của Mị. Cô nghĩ rằng: “Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết” và Mị đã cắt dây trói cứu A Phủ. Hành động “quật sức vùng lên chạy” phần nào cho thấy khát vọng sống, khát vọng chấm dứt thân phận đi ở trừ nợ của anh. Anh đã thức tỉnh để đến với khu du kích Phiềng Sa, tham gia vào Cách mạng.

Thông qua tác phẩm, nhà văn Tô Hoài muốn tố cáo chế độ phong kiến và giai cấp thống trị bóc lột con người bằng hình thức cho vay nặng lãi. Vì món nợ của cha mẹ mà Mị bị mang ra làm vật thế mạng. Ông cũng lên án những hủ tục lạc hậu như “cúng trình ma” đã buộc con người vào vòng mê tín, khiến họ không dám thoát ra vòng vây để tự cứu lấy mình. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện lòng xót xa, cảm thông với những người dân lao động miền núi phải cam chịu sự áp bức của tầng lớp thống trị thủ đoạn, gian ác.

Tô Hoài ca ngợi sức sống mãnh liệt tiềm tàng trong con người họ. Chính sức sống ấy đã giúp họ giải thoát họ khỏi cuộc đời nô lệ để đến với cách mạng, đến với cuộc sống tự do. Bằng bút pháp cá thể hóa, nhà văn đã xây dựng nên hai nhân vật đại diện cho những con người có phẩm chất tốt đẹp nhưng phải chịu số phận bất hạnh, đau khổ. Mị tiêu biểu cho kiểu nhân vật tâm trạng và A Phủ tiêu biểu cho kiểu nhân vật hành động.

Làm nền cho sự nổi bật của con người trong thiên truyện là bức tranh thiên nhiên Tây Bắc tuyệt đẹp: “gió thổi vào gianh vàng ửng”, “trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”. Đây là những chi tiết nghệ thuật giàu tính tạo hình. Cùng với đó là các phong tục, tập quán như tục bắt vợ, cảnh phạt vạ, cảnh xử kiện được hiện lên độc đáo.

Truyện được kể theo ngôi thứ ba, điểm nhìn trần thuật có sự thay đổi từ điểm nhìn của người đi xa về đến điểm nhìn của người trong cuộc nên vừa mang tính khách quan lại vừa chứa chan sự cảm thông với nhân vật. Ngoài ra, Tô Hoài còn xây dựng những chi tiết giàu sức gợi và ý nghĩa như chi tiết tiếng sáo, tiếng chân ngựa đạp vào vách,… Ngôn ngữ văn xuôi đậm chất thơ cũng là một yếu tố quan trọng tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm.

Với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã mang đến cho bạn đọc cái nhìn bao quát, toàn diện về bức tranh cuộc sống của người dân Tây Bắc. Trang sách đã khép lại nhưng dư âm của nó thì còn vang mãi. Và tuy Tô Hoài đã ra đi nhưng những tác phẩm của ông vẫn vẹn nguyên giá trị trong lòng bạn đọc hôm nay và cả mai sau.

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Mẫu 15

Tô Hoài là một trong những tác giả lớn của nền văn học Việt Nam. Với vốn hiểu biết sâu rộng, phong phú, ông đã để lại cho đời vô số tác phẩm giàu ý nghĩa. Trong đó, không thể không kể đến “Vợ chồng A Phủ”. Truyện ngắn đã tái hiện thành công hình ảnh đẹp đẽ, giàu sức sống của nhân dân Tây Bắc. Đồng thời, phê phán sự lộng hành của bọn cường quyền ác bá.

“Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn được rút ra từ tập “Tây Bắc”. Với lối trần thuật tự nhiên cùng vốn từ vựng rộng, bình dân, thông tục, Tô Hoài đã đem đến cho độc giả câu chuyện về Mị và A Phủ. Đây là những con người lương thiện, phải chịu cảnh đau khổ vì chế độ thực dân, bị bọn chủ đất ức hiếp, chèn ép. Họ đã dám vùng lên chống trả, tìm đến tương lai tự do, hạnh phúc cho chính mình. Qua hai nhân vật chính, tác giả đồng thời bày tỏ tình yêu thương dành cho bà con dân tộc trên vùng núi Tây Bắc.

Thể hiện rõ nhất tư tưởng chủ đề của tác phẩm phải kể đến Mị. Đây vốn là một cô gái xinh đẹp, vui tươi, yêu đời. Vì món nợ của gia đình, cô buộc phải chấp nhận về làm dâu nhà thống lí Pá Tra. Từ đó, cuộc sống của Mị trở nên tù túng, khổ đau hơn bao giờ hết. Cô không chỉ phải chịu tra tấn về thể xác mà còn cả về tinh thần. Mị bị bắt làm việc bất kể ngày đêm, chẳng bằng con trâu, con ngựa. A Sử – chồng của Mị, cũng thường xuyên đánh đập, chửi mắng cô không thương tiếc. Trong đêm tình mùa xuân, với tâm hồn tươi trẻ, Mị muốn đi chơi, muốn được hòa mình vào không khí vui tươi ngoài kia. Ấy vậy mà A Sử lại đánh Mị, trói cô vào cột. Lúc này đây. Mị đã tuyệt vọng hoàn toàn. Cô không còn chút hi vọng nào về một cuộc sống tươi đẹp, tự do như những ngày xưa cũ nữa. Giờ đây, cô phải chấp nhận sống trong chốn “ngục tù” đầy rẫy đau khổ này. Tận khi nhìn A Phủ bị trói đứng, cô vẫn “thản nhiên thổi lửa hơ tay”. Mị biết số phận của anh ta và Mị giống nhau, làm sao có thể vượt thoát ra được. Nhưng rồi, thấy giọt nước mắt lăn trên “hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ, Mị chợt thức tỉnh. Cô đau đớn, xót xa nghĩ về cuộc đời mình, về những đắng cay, tủi cực đã chịu đựng bao năm qua, về cả sự độc ác của nhà thống lí. Và cô đã quyết định cắt dây trói, thả A Phủ đi rồi cũng chạy vụt theo, tránh xa khỏi nơi tăm tối này. Có thể nói, Mị chính là đại diện cho những số phận bé nhỏ bị chà đạp, không có cả quyền làm người trong cái xã hội đầy bất công ấy.

Bên cạnh đó, nhân vật A Phủ cũng góp phần không nhỏ truyền tải tư tưởng của tác phẩm. Mất cha mẹ từ nhỏ, A Phủ bị coi như một món hàng để đem ra trao đổi. Không muốn chịu đựng  cảnh đó , anh đã bỏ trốn rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Tuy có cuộc sống khốn khó nhưng anh chưa bao giờ mất đi những phẩm chất đáng quý. A Phủ mạnh mẽ, tính tình phóng khoáng, giàu nghị lực và khát vọng sống. Bằng hai bàn tay trắng, anh tự mình lao động, làm việc, kiếm tiền nuôi sống bản thân. Ấy vậy nhưng xã hội bấy giờ đâu có tha cho những con người lương thiện. Anh cũng phải vào làm người ở trong nhà thống lí để trừ nợ, thường xuyên bị đánh đập, hành hạ không thương tiếc. Rồi chỉ vì để hổ bắt mất bò, A Phủ bị phạt trói đứng vào cột nhà, bỏ mặc cho chết đói, chết khát. Dù đã sức cùng lực kiệt nhưng khi thấy cơ hội vượt thoát khỏi cái chốn ngục tù này, anh vẫn “quật sức vùng lên, chạy”. Hành động đó đã cho độc giả thấy được khát vọng sống mãnh liệt tiềm tàng trong mỗi con người.

Qua hai nhân vật Mị và A Phủ, Tô Hoài đã phản ánh vô cùng chân thực những mảnh đời bất hạnh dưới sự áp bức, thống trị mà bọn thực dân, chúa đất gây nên. Đồng thời, ca ngợi tinh thần phản kháng, sức sống mãnh liệt của bà con nhân dân Tây Bắc. Bằng giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế cùng cách miêu tả giàu tính tạo hình, đậm chất thơ và phong vị dân tộc, nhà văn đã đem đến bức tranh tuyệt đẹp về cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số.

Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” chính là minh chứng cho tài năng vượt trội của Tô Hoài về mảng văn xuôi. Với tác phẩm, ông đã khẳng định được vị thế của mình trong dòng chảy không ngừng của văn học. Qua đó, thể hiện tấm lòng nhân đạo cao cả cùng sự phê phán, tố cáo chế độ cai trị tàn bạo đã hành hạ, chèn ép con người khi xưa.

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Mẫu 16

“Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài. Truyện ngắn là kết quả của 8 tháng tham gia chiến dịch Tây Bắc, sống và gắn bó nghĩa tình với đồng bào dân tộc của nhà văn. Có thể nói, “Vợ chồng A Phủ” là bức tranh chân thực về cuộc sống sinh hoạt của người dân lao động vùng núi cao dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi.

Về nội dung, “Vợ chồng A Phủ” chính là lời tố cáo đanh thép chế độ thực dân nửa phong kiến. Truyện đã phản ánh chân thực mâu thuẫn giai cấp căng thẳng và cuộc sống tăm tối của nhân dân lao động nghèo ở miền núi Tây Bắc. Tác phẩm mở đầu bằng lời kể về hoàn cảnh nhân vật Mị: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa.

Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Vẻ âm thầm, buồn bã cùng công việc vất vả của Mị hoàn toàn đối lập với sự giàu sang, tấp nập của gia đình nhà thống lý. Bằng cách mở đầu đầy nghịch lí như vậy, Tô Hoài gợi được sự tò mò nơi độc giả đồng thời cũng hé mở số phận đau khổ của Mị trong nhà chồng.

Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là một cô gái H’mông xinh đẹp, tài hoa, hiếu thảo. Tiếng sáo của Mị khiến trai bản “đứng nhẵn cả chân vách buồng”. Nhưng, chỉ vì nghèo, không trả nổi tiền cho nhà thống lí nên Mị đã bị bắt về làm dâu gạt nợ. Từ đây, bao nhiêu hi vọng về hạnh phúc, về tương lai của cô như vụt tắt. Là con nợ, trả nợ xong là thôi nhưng đằng này Mị còn là một cô con dâu. Một cổ 2 gông, tất cả đã đẩy cuộc đời Mị vào vòng tuần hoàn của khổ đau.

Khi mới bị bắt, đêm nào Mị cũng khóc, có lần cô trốn về nhà định ăn lá ngón tự tử. Qua nhưng chi tiết này, ta thấy được tinh thần phản kháng quyết liệt, không chấp nhận số phận của Mị. Quyết định tìm đến cái chết của cô không phải là biểu hiện của sự đầu hàng, buông xuôi. Đó là tiếng nói phản kháng đầy mạnh mẽ của một con người luôn khát khao tự do, khát khao hạnh phúc.

Đối với Mị, làm dâu nhà thống lí Pá Tra còn đáng sợ hơn cái chết, bởi vì ở đó, cô không được đối xử như một con người, không được lên tiếng quyết định cuộc đời mình, không có tự do cũng như hạnh phúc. Nhưng vì cha, Mị lại chấp nhận tiếp tục sống và chịu đựng: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa…”.

Từ một người con gái đầy sức sống, Mị giờ đây “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Hình ảnh căn buồng Mị nằm với chiếc “cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng” như một nhà giam không những giam hãm thân xác mà còn vây khốn tâm hồn Mị. Đó cũng là hiện thực đầy tàn khốc của những người dân nghèo dưới ách thống trị của bọn địa chủ phong kiến. Họ không chỉ bị tước đoạt tự do thân thể, mà tinh thần họ cũng vướng phải gông xiềng của lề thói, hủ tục.

Giữa bức tranh tăm tối ấy, đêm tình mùa xuân cùng tiếng sáo gọi bạn réo rắt như thổi một làn gió mới làm bùng lên ngọn lửa yêu thương, khát vọng sống tiềm tàng ngỡ đã vụt tắt. Tiếng sáo được Tô Hoài miêu tả nhiều lần với nhiều tầng bậc khác nhau: “Ngoài đầu núi…thổi”, “Tai Mị… gọi bạn”, “Trong đầu… sáo”, “Tiếng sáo… chơi”. Tiếng sáo gợi nhớ về kỉ niệm, tiếng sáo thôi thúc Mị tìm đến niềm hạnh phúc yêu thương.

Thế nhưng, A Sử xuất hiện và giết chết khát vọng sống trong Mị, hắn “lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa”. Sự lạnh lùng, tàn ác của A Sử đối với Mị không phải là một trường hợp cá biệt, trước đó, có người đàn bà cũng đã bị trói đến chết trong nhà này. Đến đây, bức tranh về tội ác dã man của bọn địa chủ phong kiến được hiện lên rõ nét. Đối với chúng, mạng sống con người chẳng khác gì con trâu, con ngựa.

Bên cạnh hình tượng nhân vật Mị là A Phủ, một thanh niên mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lao động giỏi “chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê”. Vì đánh con quan, A Phủ bị phạt vạ và từ đó trở thành nô lệ cho nhà thống lí. Có thể thấy, dù là một chàng trai gan góc, mạnh mẽ, nhưng cuối cùng, A Phủ cũng như Mị, không thể thoát khỏi bàn tay tội ác của bọn địa chủ phong kiến, ở đây đại diện là nhà thống lí Pá Tra.

Ở trong nhà thống lí Pá Tra, sinh mạng người dân nghèo không bằng cả súc vật. Chỉ vì làm mất bò, A Phủ bị trói đứng giữa trời đông lạnh lẽo. Và giọt nước mắt của anh là giọt nước mắt của sự đắng cay, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng. Đây là chi tiết vô cùng đắt giá. Giọt nước mắt ấy thể hiện tâm trạng tuyệt vọng của A Phủ đồng thời nó cũng làm dậy lên niềm đồng cảm, xót thương và sức sống ngỡ đã chai sạn trong Mị.

Tình cảnh của A Phủ làm Mị nhớ lại đêm mùa xuân mà cô bị A Sử trói nơi cột nhà. Cô chợt cảm thấy xót thương cho chàng trai tội nghiệp kia, xót thương cho tình cảnh của chính mình. Dòng nước mắt của A Phủ như thổi bùng khát vọng sống trong Mị mà lâu nay bị lớp tro tàn phong kiến phủ kín. Hành động Mị cắt dây trói cứu thoát A Phủ và chạy khỏi nhà thống lí Pá Tra là sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng, khao khát tự do hạnh phúc của con người bị áp bức

Có thể nói, bằng tài năng tuyệt vời của mình, Tô Hoài đã xây dựng nên những hình tượng nhân vật vô cùng chân thực và sống động. Nếu Mị là hình tượng tiêu biểu cho phụ nữ miền núi nước ta trong thời kì trước Cách mạng đến những năm kháng chiến chống Pháp thì A Phủ mang nét đẹp tiêu biểu cho những thanh niên dân tộc miền núi Tây Bắc: thật thà, chất phát, khoẻ mạnh tuy bị đẩy vào số phận khổ đau nhưng không nguôi khát vọng tự do.

Bên cạnh bức tranh hiện thực về tội ác của giai cấp thống trị cùng cuộc sống tăm tối của nhân dân, tác phẩm còn là một bài ca về tình người, bài ca về khát vọng sống, khát vọng tự do. Hành động cắt đứt dây trói, bước chân gấp gáp chạy khỏi nhà thống lí và đứng dưới là cờ Cách mạng của Mị và A Phủ chính là sự vùng lên tất yếu của những con người không đầu hàng số phận. Tác giả bày tỏ sự đồng cảm, xót thương nhưng cũng đầy tự hào, ngợi ca khi viết về họ và cuộc đời của họ. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm này,

Về nghệ thuật, tác phẩm cho thấy tài năng trong việc dẫn chuyện và miêu tả tâm lí nhân vật của Tô Hoài. Đặc biệt, dưới ngòi bút miêu tả bậc thầy, Tô Hoài cũng đã phác họa cho người đọc một cuộc xử kiện sống động và giàu sức tố cáo, từ đó vạch trần sự áp bức dã man của bọn thống trị miền núi. Qua giọng kể khi thì khách quan, khi thì nhập vào nhân vật, cùng ngôn ngữ sinh động, chọn lọc, có sáng tạo, bức tranh về thiên nhiên và cuộc sống sinh hoạt của người dân Tây Bắc đã được hiện lên vô cùng chân thật và xúc động.

Tóm lại, có thể khẳng định, “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm mẫu mực nhất khi viết về thiên nhiên và con người miền núi. Qua “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã khẳng định tên tuổi của mình trong văn đàn đồng thời ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc bao thế hệ.

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Mẫu 17

Tô Hoài là một trong những cây bút truyện ngắn nổi tiếng của văn học Việt Nam hiện đại. Với lối trần thuật hóm hỉnh cùng sở trường về loại truyện phong tục và hồi ký ông đã để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị. “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm làm nên tên tuổi của ông.

“Vợ chồng A Phủ” được rút từ tập “Tây Bắc”. Tác phẩm kể về cuộc sống nô lệ của Mị và A Phủ trong nhà thống lý Pá Tra. Để trả món nợ của cha, Mị phải trở thành dâu nhà thống lý, sống một cuộc sống khổ cực, bị kìm hãm tự do. Trong lời kể của Tô Hoài, cuộc sống của Mị hiện lên trong cảnh giàu sang nhưng ẩn sâu bên trong đó là một cuộc sống bị giam cầm cả thể xác lẫn tâm hồn. Câu chuyện về Mị đã phần nào giúp người đọc hiểu được số phận cùng cực của con người dưới sự thống trị của bọn phong kiến chúa đất.

Tô Hoài đã khéo léo sử dụng kết cấu hồi tưởng, trần thuật ở hiện tại rồi ngược về quá khứ để kể về cuộc đời Mị một cách vô cùng linh hoạt. Trước khi về làm dâu nhà thống lí, Mị là một cô gái xinh đẹp, vui tươi, yêu đời và tràn đầy sự sống. Thế nhưng chỉ vì muốn trả món nợ truyền kiếp của cha mẹ mà cô phải làm dâu nhà thống lí. Cuộc sống hôn nhân không có tình yêu của Mị không chỉ bị trói buộc bởi món nợ truyền kiếp mà còn bị ràng buộc bởi những tập tục cổ hủ, lỗi thời. Cách gọi “dâu gạt nợ” từ đó mà hé mở cuộc sống đầy đau thương cùng những bi kịch mà Mị phải chịu đựng.

Sống ở nhà thống lí trước hết Mị phải chịu bóc lột về thể xác. Mị phải làm việc cực khổ cho nhà thống lí không phân biệt ngày hay đêm, làm việc hết ngày này qua tháng nọ, không ngừng nghỉ. Mị giống như bị cột trong vòng quay luẩn quẩn của công việc, không có tự do, không có lối thoát. Qua cách kể của Tô Hoài, Mị hiện lên như một cỗ máy lao động không công trong nhà thống lí Pá Tra để rồi đã nhiều hơn một lần Mị thấy mình còn không bằng kiếp trâu ngựa trong nhà.

Nói về tháng ngày Mị sống ở nhà thống lí nhiều người cho rằng đây là một cuộc sống đang dần bị vật hóa. Không chỉ vậy, Mị còn bị chồng mình là A Sử đánh đập, hành hạ. Đã nhiều lần hắn uống say về rồi lôi Mị ra đánh một cách vô lý nhưng đỉnh điểm nhất là trong đêm tình mùa xuân. Một cô gái đã mất hết tự do, ngày ngày chỉ quanh quẩn với công việc bỗng nhận ra những âm thanh của mùa xuân, muốn được ra ngoài đi chơi thì lại bị chính chồng của mình trói lại, đánh đập. Trong đoạn này, Tô Hoài đã miêu tả chi tiết hành động tàn nhẫn của A Sử, từ cách hắn trói đứng Mị, cột tóc Mị đến cách đánh đập Mị.

Câu chuyện hiện lên như một thước phim quay chậm dần lột tả hết bộ mặt tàn ác của tầng lớp thống trị ngang tàn mà A Sử là đại diện tiêu biểu nhất. Ở nhà thống lí, Mị đã phải sống một cuộc sống bị trói buộc cả thể xác lẫn tinh thần. Cô không chỉ bị ngăn cách với cuộc sống ngoài kia đến nỗi mất hết khái niệm về thời gian mà còn bị tước đi quyền sống, quyền được làm người.

Cũng trong đêm tình mùa xuân ấy sức sống tiềm tàng trong Mị đã trỗi dậy. Không còn là câu chuyện về cô gái hàng ngày phải sống trong đau đớn, khổ cực rồi dần thành quen với cái khổ, âm thanh tiếng sáo gọi bạn tình đã đánh thức khao khát được yêu thương trong sâu thẳm tâm hồn Mị. Chính tiếng sáo đó cũng thức tỉnh ý thức về quyền sống, quyền làm người trong Mị.

Nghệ thuật độc thoại nội tâm đã được Tô Hoài khai thác thành công khi ông khéo léo “luồn lách” ngòi bút vào từng ngóc ngách của đời sống tâm hồn Mị. Ông miêu tả chi tiết đến từng hành động, khắc họa rõ nét đến từng tâm trạng để thấy sự thay đổi trong con người Mị. Sự thay đổi của một cô gái đã cam chịu với số phận cùng cực, muốn vùng lên để làm chủ cuộc sống của chính mình. Nhưng rồi cô lại bị chính người chồng của mình trói buộc lại. Đó là hành động trói buộc cả về thể xác lẫn tâm hồn Mị.

Sau đêm hôm đó, người đọc lại thấy hiện lên hình ảnh cô Mị lầm lũi ngày nào. Ý thức về cuộc sống tự do mới nhen nhóm lại tiếp tục bị tê liệt bởi cuộc sống khổ sai cùng cực, bởi sự đánh đập, hành hạ dã man. Những tưởng rằng tất cả điều đó đã làm mất đi niềm khát khao sống trong Mị nhưng không ai có thể ngờ rằng nó lại chính là động lực to lớn để Mị cởi trói cứu A Phủ trong đêm đông giá rét. Hành động cởi trói của Mị đã giải thoát cho A Phủ nhưng nó cũng giống như Mị đang tự giải thoát cho chính mình, Mị đã tự đi tìm quyền sống và tự trao cho mình quyền được sống, quyền được làm người.

Có thể thấy từng nét thay đổi trong thế giới nội tâm của Mị đều được nhà văn tái hiện, miêu tả vô cùng chân thật. Cũng chính từ việc khai thác triệt để tính cách tâm hồn Mị, Tô Hoài đã từng bước đưa người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Hóa ra Mị không phải là một cô gái cam chịu. Hóa ra chế độ cai trị của bọn lãnh chúa có tàn bạo đến nhường nào thì cũng không ngăn được khát khao được sống, được làm người của Mị nói riêng và nhân dân lao động nói chung. Miêu tả Mị, Tô Hoài không chỉ thể hiện sự xót xa, đồng cảm của mình với những số phận bị chà đạp, bị cướp đi quyền được làm người mà ông còn gián tiếp tố cáo xã hội nhơ nhuốc đã tước đi quyền sống của con người.

Bên cạnh việc khắc họa thành công nhân vật Mị, A Phủ cũng là một nhân vật đáng được quan tâm trong tác phẩm này. A Phủ mồ côi cha mẹ từ nhỏ, cậu đã trở thành một món hàng, một vật trao đổi và chính thức mất đi tự do từ đó. Là một đứa trẻ mồ côi, lớn lên không có sự bảo bọc, chăm sóc của cha mẹ, cũng không có một mái nhà để nương tựa, ruộng vườn không có, tiền bạc cũng không nên A Phủ cũng không thể xây dựng tổ ấm cho mình. Nhưng những điều đó không làm mất đi phẩm chất cao đẹp trong con người này.

A Phủ là một chàng trai khoẻ mạnh, tính tình phóng khoáng. Anh là một con người mạnh mẽ, có thể vượt lên mọi khắc nghiệt của cuộc sống để kiếm tiền nuôi sống bản thân mình. Nhưng số phận bất hạnh cứ bám theo, đày đọa A Phủ để rồi giống như Mị, A Phủ cũng bị biến thành một người ở gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra. Ở đây, A Phủ cũng bị đày đọa, bóc lột, bị đối xử vô cùng rẻ rúng.

Nhưng cuộc sống có tàn khốc đến đâu cũng không thể kìm hãm được khát khao tự do trong con người này. Ngay trong cái đêm đông được Mị giải cứu, A Phủ đã cùng Mị trốn khỏi nơi “ngục tù” đày đọa đó để đi tìm cuộc sống tốt đẹp hơn cho chính mình. Kết thúc truyện A Phủ và Mị cùng nhau bỏ trốn khỏi nhà thống lí, giải phóng bản thân, hướng về tự do.

Có thể thấy, hai nhân vật, hai tính cách, hai kiểu miêu tả: nếu Mị là kiểu nhân vật tâm trạng thì A Phủ lại là nhân vật hành động nhưng lại vô cùng hài hòa cùng tạo nên một “Vợ chồng A Phủ” vô cùng thành công trong lòng độc giả. Bên cạnh đó, nghệ thuật miêu tả thiên nhiên cùng những phong tục tập quán đã làm nên một bức phông nền vùng cao chân thật, sống động để hai nhân vật có thể thỏa sức bộc lộ những nét tính cách của mình.

Với tất cả những điều đó “Vợ chồng A Phủ” được đánh giá là tác phẩm kết tinh giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Tác phẩm không chỉ là bản án tố cáo chế độ cai trị tàn bạo mà còn thể hiện niềm xót xa, trân trọng của nhà văn với những kiếp người phải sống trong sự cai trị đó.

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Mẫu 18

Những năm tháng kháng chiến anh dũng, hào hùng của dân tộc chính là đề tài thu hút sự quan tâm của tất cả các tác giả văn học. Hình tượng chủ yếu được tập trung đến là người lính, sự giác ngộ cách mạng của quân chúng nhân dân. Tô Hoài không nằm ngoài mạch chảy chung của văn học, nhưng cái riêng của ông chính là tìm đến những cái rất mới, rất lạ để phán ảnh hiện thực cuộc sống. Ngòi bút của ông hướng về những người nông dân miền núi, tìm và phát hiện vẻ đẹp của họ. Vợ chồng A Phủ chính là tác phẩm nghệ thuật thành công nhất, đánh dấu bước chuyển mình của tác giả. Đây là tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân đạo và chất hiện thực.

Mị là một cô gái trẻ, xinh đẹp, và giàu sức sống. Cô sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, có món nợ truyền khiếp của bố mẹ. Và Mị chính là người phải gánh lấy món nợ truyền kiếp ấy. Thống lí Pá Tra muốn cô thành cô dâu gạt nợ, mà thực chất chính là bắt một kẻ người làm, người hầu không công về cho nhà mình. Bằng sự độc ác, xảo trá của mình, hắn đã lợi dụng hủ tục cướp vợ mà bắt cô trở về nhà, cúng trình mà nhà hắn, và cũng chính từ lúc ấy cuộc đời Mị bước vào trang bi ai, thảm kịch. Ngòi bút sắc sảo của Tô Hoài đã vạch trần bộ mặt, bản chất của giai cấp bóc lột ẩn sau những hủ tục cũ kĩ, thối nát. Mị mang tiếng được lấy về làm vợ nhưng thực chất chỉ là một kẻ nô lệ, một nô lệ mọt kiếp để người ta hành hạ, bóc lột.

Những ngày Mị ở nhà A Sử quả sống như trong địa ngục, cô không được nhận tình yêu thương, chia sẻ, ngược lại chỉ quần quật làm, đôi khi còn bị ngược đãi, đánh đập về thể xác. Mị lúc nào cũng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Nơi ở của cô chỉ là một căn phòng bé, chiếc cửa sổ bé xíu, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng.

Dường như hoàn cảnh sống đó đã mài mòn ý chí, tinh thần ham sống của Mị, khiến Mị không còn tinh thần phản kháng, thật đau đớn và chua xót biết bao, “ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”. Quả thực không ai có thể ngờ rằng, một cô gái tràn đầy tình yêu cuộc sống, ham mê sống mãnh liệt như vậy lại có lúc buông xuôi cuộc đời, số phận của mình như vậy. Chính hoàn cảnh tù ngục đó đã bào mòn, đẩy Mị vào bước đường tê liệt ý thức. Tô Hoài đã tỏ ra vô cùng sắc sảo, khi lý giải nguyên nhân này bằng tâm lí “con ma nhà thống lí” đã nhận mặt mình từ buổi cúng trình ma, nên cả đời này cô chỉ có thể chôn vùi cuộc đời mình ở đây. Điều đó đã phản ánh sự tàn độc của bọn cường hào, dung thần quyền và cường quyền để áp chế đời sống vật chất và tinh thần của một con người. Tác giả đã cung cấp những thông tin vô cùng giá trí, bóc trần bản chất xã hội vô nhân đạo, cho thấy thân phận bất hạnh của những người nông dân nghèo khổ.

Nhưng nếu chỉ mang trong mình giá trị hiện thực, thì tác phẩm này của Tô Hoài chắc chắn sẽ không có được thành công vang dội đến vậy. Theo chúng tôi, điều quan trọng nhất tạo nên thành công của tác phẩm này chính là khả năng phân tích tâm lí nhân vật, để nhân vật tìm thấy ánh sáng cuối đường, đây đồng thời cũng chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Bằng khả năng phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Tô Hoài đã logic hóa, điều chỉnh hợp lí diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị. Mị từ chỗ bị tha hóa, bị mài mòn về ý thức và nghị lực sống vì bị đày ải, khổ cực qua, cô sống trong nhẫn nhịn, chiu đựng. Ban đầu về nhà thống lí Pá Tra cô còn có ý định ăn là ngón tự tử, nhưng sợ liên lụy cha, nhưng ngay cả khi cha đã chết đi thì tinh thần phản kháng của cô đã ông còn nữa. Cô làm việc như một cái máy, không ý thức cho tương lai, cho ngày mai…. Vậy yếu tố nào, nhân tố nào có thể tác động khiến cô thức tỉnh?

Điều kì diệu ấy chính là ở tiếng sáo. Tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết, tiếng sáo cũng là tiếng gọi của cuộc sống ngày xưa. Hơn nữa tiếng sáo lại xuất hiện trong một khung cảnh đầy xuân sắc khiến Mị tha thiết, bồi hồi, khiến cô lập tức nhớ lại những năm tháng tuổi trẻ ngập đầy hành phúc. Cũng chính tiếng sáo đã giúp cô ý thức được “mình vẫn con trẻ” và “bao nhiêu người có chồng vẫn đi chơi xuân”. Tiếng sáo tiếp tục văng vẳng bên tai, càng làm tâm hồn cô thức tỉnh hơn nữa. Cùng với hơi men, đã khiến Mị có một quyệt định thật táo bạo, ấy là cô muốn đi chơi và hiện thực hóa nó bằng việc vào nhà để thay quần ào đí chơi, để được sống như một con người thực sự. Đây có thể coi một bước đột biến tâm lí rất lớn của Mị. Nó không hề phi logic mà ngược lại tấy hợp lí, đay là kết quả của quá trình tác động của hoàn cảnh đến với tính cách nhân vật.

Quá trình tâm lí thứ hai, chính là cuộc gặp gỡ và giải cứu bất ngờ A Phủ vào một đêm đông. Mị gặp A Sử bị trói đứng đâu phải chỉ một đêm đó, mà có lẽ là đã rất nhiều đêm rồi. Nhưng tại sao phải đến tận thời điểm đó cô mới giải cứu A Phủ. Bởi đó chính là giọt nước mắt rơi trong hõm má sâu hoắm của A Phủ từ từ rơi xuống đã tác động mãnh liệt đến tâm lí cô. Giọt nước mắt đó mang đến sự đồng cảm sâu sắc giữa những con người cùng khổ. Đến lúc này đây ý thức phản kháng của cô càng bùng lên mãnh liệt, nó đã thể hiện sáng rõ qua câu nói: “Người kia việc gì phải chết?”. Ý thức đã dần quay trở về trong cô. Và chính lúc đó cô cũng có một quyết định vô cùng táo tạo, tháo dây trói cho A Phủ và tự giải cứu chính mình. Hành động của Mị tuy là bột phát, nhưng nó cũng là kết quả của một quá trình bừng tình sau những đêm đông dài bị đóng bang về ý thức và tinh thường. Lòng đồng cảm, tình yêu thương và hơn hết là khát vọng tự do của một trái tim yêu cuộc sống mãnh liệt đã thúc đẩy cô thoát khỏi cuộc sống tù đày, khổ ải này.

Bằng ngòi bút phân tích tâm lí vô cùng chân thực, tinh tế, Tô Hoài đã khắc họa thành công quá trình đi từ khổ đau đến hạnh phúc, ánh sáng của người lao động. Hạnh phúc của họ không gì khác chính là khi tìm được ánh sáng lí tưởng của cách mạng. Cuộc đời của họ từ đây đã được mở sang một trang mới.

Giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ quả thực thật khó mà tách bạch cho rõ rang. Hai yếu tố này đan xen, hòa quyện vào với nhau. Đồng thời còn kết hợp với nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật tài tình, logic càng nhấn mạnh, làm rõ hơn nữa hành trình đến với ánh sáng của nhân vật. Dù tác phẩm thấm đẫm giá trị hiện thực nhưng ta cũng không thể phủ nhận rằng trong từng câu từng chữ vẫn có những tình cảm hết sức chân thành đằm thắm. Phải có tình cảm như vậy thì ông mới phát hiện được vẻ đẹp khuất lấp, những biểu hiện tinh tế trong tâm trạng của nhân vật được.

Với vợ chồng A Phủ, Tô Hoài nâng niu, trân trọng từng bước phát triển tâm lí, từng tình cảm yêu thương của họ. Để từ đó ông phát hiện ra sức sống mãnh liệt ở những con người này. Đồng thời ông cũng thể hiện sự cảm thông, trân trọng những khát vọng tự do, chân chính của họ. Hai yếu tố hiện thực và nhân đạo hòa quyện vào nhau đã giúp cho sự thành công của tác phẩm này.

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Mẫu 19

Cuối năm 1952, nhà văn Tô Hoài đi với bộ đội trong chiến dịch Tây Bắc. Sau khi tìm hiểu chung, Tô Hoài quyết định đi sâu vào những khu du kích của đồng bào các dân tộc thiểu số trên vùng núi cao. Chuyến đi kéo dài tám tháng đã để lại những ấn tượng sâu sắc và tình cảm tốt đẹp cho nhà văn. Tô Hoài kể lại: “Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên. Tôi không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi tại dốc núi làng Tà Xùa rồi cùng vẫy tay gọi theo: “Chéo lù! Chéo lù” (Trở lại! Trở lại!).

Không bao giờ tôi quên được lúc vợ chồng Lý Nủ Chu tiễn chúng tôi dưới chân núi Cao Phạ cũng vẫy tay kêu: “Chéo lù! Chéo lù!”. Hai tiếng: Trở lại! Trở lại! chẳng những nhắc tôi có ngày trở lại, phải đem trở lại cho những người thương ấy của tôi một kỉ niệm tấm lòng mình, một cái gì làm hiển hiện lại cả cuộc đời người Mèo (Mông) trung thực, chí tình, dù gian nan thế nào bao giờ cũng đợi cán bộ, đợi bộ đội, bao giờ cũng mong anh em trở lại […]. Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi […]. Ý thiết tha với đề tài này là một quyết định. Vì thế tôi viết Truyện Tây Bắc”.

Truyện Tây Bắc gồm ba truyện (Cứu đất cứu mường, Mường Giơn và Vợ chồng A Phủ) viết năm 1953, ngay sau chuyến thâm nhập thực tế Tây Bắc của tác giả. Tập truyện này được tặng Giải Nhất, Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1954-1955.

Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn đặc sắc nhất trong tập Truyện Tây Bắc, cũng là một trong những truyện ngắn hay nhất của văn xuôi Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp. Tác phẩm là bức tranh chân thực về cuộc sống và số phận đau khổ của người nông dân nghèo miền núi dưới ách áp bức của các thế lực phong kiến và thực dân, đồng thời là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do của con người miền núi, là hình ảnh con đường giải phóng và cuộc đổi đời của họ khi đến với cách mạng.

Dưới đây chỉ phân tích nửa đầu của truyện: quãng đời ở Hồng Ngài của Mị và A Phủ, đây cũng là phần thành công hơn của tác phẩm. Trong phần này, tác giả tập trung giới thiệu và miêu tả về cuộc sống và số phận của hai nhân vật chính: Mị và A Phủ, thể hiện sức sống tiềm tàng và sự gặp gỡ của hai con người cùng một cảnh ngộ nô lệ ấy.

Mị xuất hiện ngay trong mấy dòng đầu của truyện. Tô Hoài sử dụng thủ pháp miêu tả phác hoạ ngoại hình để gợi mở nội tâm nhân vật và đặt nhân vật trong sự đối lập với khung cảnh xung quanh: giữa cảnh giàu có, tấp nập của nhà thống lí Pá Tra “nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng” thì Mị luôn được đặt ở vị trí cạnh tảng đá và bên tàu ngựa. Mị như gắn vào với những cảnh vật ấy, tạo nên một cảnh sống riêng, im lìm, tăm tối, cực nhọc của kiếp sống đọa đày, nó phơi bày ra bên cạnh cái giàu sang, tấp nập của nhà thống lí, nhưng chính nó là một phần trong bức tranh trọn vẹn của nhà thống lí. Chân dung nhân vật được khắc họa bằng một nét đậm: “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.

Sau khi đã giới thiệu nhân vật bằng một vài nét phác hoạ chân dung gây chú ý cho người đọc, tác giả mới kể lại câu chuyện Mị về làm dâu gạt nợ cho nhà Pá Tra.

Mị là cô gái trẻ, đẹp và giàu lòng yêu đời, lại chăm chỉ và hiếu thảo. Mị đang sống những ngày tươi đẹp của tuổi yêu đương, dù trong cảnh nghèo khó. Không ít chàng trai đã theo đuổi cô gái nghèo ấy. Mùa xuân đến, Mị đang sống trong niềm sung sướng hồi hộp chờ nghe tiếng sáo quen thuộc của người yêu. Thế nhưng chính trong một đêm xuân như thế, Mị đã bị bắt cóc về làm dâu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Nguyên do chỉ vì món nợ truyền kiếp của bố mẹ Mị. Ngày trước hai người lấy nhau, không có tiền cưới, phải đến vay tiền thống lí, bố của Pá Tra. Mị phải mang món nợ truyền kiếp ấy như một thứ “tội tổ tông” của người nghèo, từ lúc ra đời! Tô Hoài đã tố cáo một hình thức bóc lột phổ biến của bọn phong kiến ở miền núi cũng như ở miền xuôi: nạn cho vay nặng lãi. Nó đã cột chặt bao nhiêu người nghèo vào số phận nô lệ, phụ thuộc vào bọn chủ nợ giàu có.

Trong thời gian đầu bị bắt về làm vợ A Sử, Mị đã phản kháng quyết liệt: hàng mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, rồi Mị định tự tử bằng lá ngón. Nhưng có chết thì món nợ vẫn còn. Bố già còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ. Thế là Mị không đành lòng chết.

Những năm tháng làm dâu trong nhà Pá Tra là một chuỗi dài triền miên những cực nhọc vất vả nối tiếp không dứt đến mức dường như đã làm tê liệt cả ý thức về bản thân và những mong muốn thay đổi số phận ở Mị. “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Củng cố thêm cái ách áp bức nặng nề ấy còn là sự áp chế về tinh thần bởi mê tín, thần quyền. Mị bị ràng buộc bởi ý nghĩ rằng bố con Pá Tra đã “trình ma” mình là người nhà nó thì chỉ còn biết ở cho đến lúc chết rũ xác trong nhà nó mà thôi. Chân dung Mị được khắc đậm một nét này: “cúi mặt không nghĩ ngợi nữa”, “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa”, lúc nào “cũng cúi mặt buồn rười rượi”. Căn buồng Mị nằm lúc nào cũng âm u, chạng vạng với cái cửa sổ “một lỗ vuông bằng bàn tay”, là một biểu tượng gắn với cuộc đời nhân vật. Cái cửa sổ “Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”. Thậm chí Mị cũng không có ý nghĩa vẻ cái chết nữa: “Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa”. Mị sống như một cái bóng vật vờ, sống mà như đã chết, không còn cả ý thức về thời gian nữa. Mị không còn nhớ mình về làm dâu nhà Pá Tra đã bao nhiêu năm. Với Mị, sự chuyển đổi của thời gian, trong một ngày hay trong một năm, cũng chẳng gợi cho cô một ấn tượng, cảm xúc gì, vẫn chỉ là một cái màu nhờ nhờ trăng trắng “không biết là sương hay là nắng”, cái sắc màu mờ mờ đùng đục của những hoàng hôn đằng đẵng buồn tẻ và tê tái.

Ở đoạn đầu của truyện, cuộc sống của Mị bị giam hãm trong cái không gian chật hẹp và tù đọng của nhà Pá Tra, với một nhịp điệu buồn tẻ, nặng nề của những công việc khổ sai lặp di lặp lại, trong một thời gian ngưng đọng như không dĩ vãng và không tương lai. Lời trần thuật với nhịp chậm, trầm lặng tạo ra giọng điệu có chiều sâu thấm đượm nỗi xót xa và thương cảm.

Phải chăng tâm hồn Mị đã hoàn toàn nguội lạnh? Cô Mị một thời trẻ đẹp, khát khao hạnh phúc đã hoàn toàn cam chịu thân phận nô lệ, sống mà như đã chết. Không, ngòi bút của Tô Hoài không chỉ phơi bày cái đen tối, ảm đạm của cuộc đời mà còn thiết tha hướng tới phía sự sống và ánh sáng. Ngòi bút của nhà văn đã tìm sâu vào tận cùng của ý thức và trong đáy sâu tiềm thức nhân vật để khơi bừng lên chút ánh sáng và hơi ấm của niềm ham sống khát khao hạnh phúc.

Sự thức tỉnh đời sống ý thức của Mị trước hết là nhờ tác động của hoàn cảnh, một hoàn cảnh khá “điển hình” – đấy là mùa xuân về trên miền núi cao Tây Bắc. Mùa xuân gợi dậy ở con người, ở thiên nhiên sức sống tiềm tàng và những khát vọng. Người Mông ăn Tết khi ngô lúa đã gặt xong, mùa xuân có thêm niềm vui thu hoạch mùa màng. Cái Tết năm ấy đến vào lúc gió và rét dữ dội, nhưng vẫn không ngăn được những sắc màu của mùa xuân trong thiên nhiên và cả ở con người. Sự sống của tạo vật và con người như được mùa xuân khơi dậy, làm bừng tỉnh. Và thời điểm để ngọn lửa sống trong lòng Mị bừng lên đã đến. Đấy là một “đêm tình mùa xuân”. Tiếng sáo gọi bạn tình cứ thiết tha, bồi hồi “tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Với Mị, tiếng sáo gọi bạn là biểu tượng lôi cuốn nhất của mùa xuân, của khát vọng hạnh phúc: “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị” hết núi này sang núi khác. Cái nồng nàn của đêm xuân lại được tăng thêm bởi bữa rượu ngày Tết, trong tiếng chiêng đánh ầm ĩ và những người lên đồng, người hát: “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu, Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say…”. Chính trong một trạng thái đã được kích thích bởi men rượu, bởi những âm thanh náo động của bữa cơm cúng ma trong nhà Pá Tra và sự lôi cuốn của tiếng sáo gọi bạn ngoài đường, Mị đã vượt ra khỏi tâm trạng thờ ơ, nguội lạnh lâu nay của mình. Dấu hiệu đầu tiên là Mị sống lại với những hồi tưởng về những ngày xuân quá khứ, những kỉ niệm đẹp về ngày trước, những ngày hạnh phúc ngắn ngủi của tuổi trẻ. Bằng việc nhớ lại quá khứ, Mị đã vượt qua tình trạng sống “phi thời gian”, sống mà như đã chết bấy lâu nay, rồi Mị sống lại với niềm ham sống của tuổi trẻ: “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Sức sống bấy lâu nay bị đè nén, tưởng đã tắt lịm, thì nay bỗng bật trào dậy. Phản ứng đầu tiên đến với Mị là ý nghĩ: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Ý nghĩ về cái chết lúc này là sự phản kháng với hoàn cảnh, nó chứng tỏ rằng Mị đã ý thức lại được tình cảnh đau xót dai dẳng của mình. Trong khi ấy thì tiếng sáo – biểu tượng của khát vọng tình yêu và tự do – cứ theo sát diễn biến tâm trạng của Mị. Nó là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa trong lòng Mị. Tiếng sáo từ chỗ là một hiện tượng ngoại cánh (“tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”) đã xâm nhập thế giới nội tâm của Mị, trở thành một hiện hữu ở trong tâm linh nhân vật: “Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”.

Đến đây đã xảy ra bước phát triển quyết định: từ những sôi sục trong tâm tư, Mị bước tới hành động. Đầu tiên là một hành động có nhiều ý nghĩa: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Đấy là một hành động của sự thức tỉnh. Mị thắp sáng ngọn đèn trong càn phòng vốn âm u, mờ mịt của mình, cũng tức là Mị thắp lên một ánh sáng trong cuộc đời tăm tối triền miên của mình trong nhà Pá Tra. Và hành động này thúc đẩy hành động tiếp theo, như những đợt sóng tiếp nhau. Dường như không đếm xỉa gì đến những trói buộc khắt khe của nhà Pá Tra, đến A Sử, Mị tự mình hành động như một con người tự do, theo tiếng gọi của lòng mình: quấn lại tóc, rút lấy cái váy hoa, sửa soạn đi chơi Tết.

Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy mạnh mẽ thì nó bị dập xuống phũ phàng: A Sử bước vào, thản nhiên, lầm lì, trói đứng Mị vào cây cột nhà: tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, rồi y “tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại”. Cái kĩ càng, rành rẽ của từng động tác biểu hiện một sự tàn ác đến thản nhiên của A Sử.

Suốt cái đêm bị trói vào cột ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé giữa niềm khao khát sống tự do và thực tại nghiệt ngã. Ban đầu, Mị như quên những vòng dây trói và những đau đớn thể xác mà vẫn sống với tiếng sáo, “tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi” ở ngoài kia, đến nỗi Mị “vùng bước đi”. Nhưng rồi những vòng dây trói thít chặt và nỗi đau đớn đến tê dại toàn thân đã kéo Mị trở về với thực tại. Thay thế cho tiếng sáo gọi bạn, chỉ còn “tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Thực tại phũ phàng đã bóp chết những khao khát tự do và hạnh phúc ở Mị.

Ngòi bút của Tô Hoài đã thấm nhuần tinh thần nhân đạo, thể hiện ở niềm tin và sự trân trọng niềm khát khao vươn lên đời sống tự do và hạnh phúc của những con người bị đọa đày đau khổ. Đấy là sự tiếp nối tinh thần nhân đạo truyền thống trong văn học dân tộc.

Đến đây, giữa lúc xung đột đã dẫn đến căng thẳng, tác giả tạm thời mở nút cho tình tiết này bằng sự xuất hiện của A Phủ trong cuộc đánh nhau của toán thanh niên làng bên với A Sử. Đây cũng là lối giới thiệu nhân vật một cách tự nhiên và gây sự chú ý ngay từ đầu.

Cũng như Mị, A Phủ được tác giả giới thiệu bằng sự xuất hiện đột ngột, gây chú ý cho người đọc, rồi mới kể về lai lịch của anh. A Phủ xuất hiện trong cuộc đánh nhau của trai làng bên với bọn A Sử.

Lũ phá đám ta đêm qua đây rồi.

– A Phủ đâu? A Phủ đánh chết nó đi!

Một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay gổ ngát lăng vào giữa mặt. Nó vừa kịp bưng tay lên. A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”. A Phủ xuất hiện đối đầu với A Sử thật hiên ngang và trận đòn đánh mới áp đảo và hả hê làm sao! (Chú ý câu văn mô tả cảnh này bằng một loạt từ chỉ hành động với nhịp nhanh, mạnh, dồn dập: chạy vụt ra, vung tay ném, xộc tới nắm, kéo đập đầu, xé, đánh tới tấp).

A Phủ là một thanh niên nghèo, suốt đời đi làm thuê làm mướn, không có ruộng, không có cả đến cái vòng bạc đeo cổ để đi chơi Tết. Cha mẹ đã chết cả trong một trận dịch đậu mùa, A Phủ đã từng bị bắt bán xuống vùng người Thái,… Nhưng chính cuộc sống cùng cực ấy đã hun đúc thêm ở A Phủ một sức sống mạnh mẽ, lòng ham chuông tự do và một tính cách thật gan góc, cùng với một tài năng lao động đáng quý. A Phủ thạo và ham thích những công việc lao động nặng nhọc mà khó khăn, nguy hiểm: “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”, “Đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”. A Phủ là đứa con của núi rừng tự do. Cuộc sống phóng khoáng, ưa tự do, gần gũi thiên nhiên và chất phác của A Phủ cũng là một nét tính cách đặc trưng của người Mông.

Việc A Phủ bị bắt làm người ở gạt nợ càng làm tăng thêm sức tố cáo của tác phẩm: một chàng trai khoẻ mạnh, gan góc, vốn không nợ nần gì nhà Pá Tra, lại lao động giỏi, sống tự do như chim trời giữa núi rừng, vậy mà cuối cùng cũng không thoát khỏi ách áp bức của chúa đất, phải rơi vào thân phận kẻ nô lệ suốt đời trong nhà Pá Tra. Hơn thế nữa, cho đến cả đời con, đời cháu cũng vậy, bao giờ trả hết nợ mới thôi !

Cảnh bọn chức việc trong làng xử kiện A Phủ lại thêm một bức tranh cụ thể sống động, giàu sức tố cáo vé một tập tục là hiện thân của ách áp chế kiểu trung cổ ở miền núi. Cuộc xử kiện diễn ra trong khói thuốc phiện mù mịt “tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp” và “Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút”, cứ thế suốt từ trưa cho đến hết đêm. Còn A Phủ gan góc, quỳ chịu đòn chỉ im như tượng đá.

Mị và A Phủ cùng cảnh nô lệ trong nhà Pá Tra, nhưng không phải họ đã gặp gỡ nhau ngay được. Nhưng rồi một cảnh ngộ xảy đến với A Phủ. A Phủ đi chăn bò để hổ bắt mất một con. Pá Tra trói đứng A Phủ vào cọc ở giữa nhà, một tình cành bị trói chờ chết như năm nào Mị đã phải chịu. Lúc đầu, nhìn A Phủ bị trói, Mị vẫn chưa có một suy nghĩ gì. Nào phải đâu Mị là người nhẫn tâm, chỉ vì những hành động tội ác trong nhà Pá Tra là chuyện diễn ra hằng ngày và Mị cũng chỉ là một nạn nhân bất lực mà thôi. Hơn nữa, Mị vẫn đang chìm trong trạng thái sống gần như vô cảm. Nhưng đến một đêm, khi Mị trở dậy thổi lửa sưởi, “Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Chính dòng nước mắt ấy của A Phủ, dòng nước mắt tuyệt vọng, đau đớn của người trai Mông gan góc, quả cảm đã đánh thức đời sống ý thức và tình cảm ở Mị. Mị bừng tinh, thoát khỏi tình trạng “vô cảm”, mà dấu hiệu đầu tiên của sự thức tính ấy cũng lại là sự hồi tưởng. Kí ức sống dậy, Mị nhớ lại những nỗi đau đớn khi bị trói đứng vào cột. “Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”. Mị nhớ đến một người đàn bà khác đã từng bị trói đến chết. Từ sự xót thương người đồng cảnh ngộ, ở Mị đã hình thành mối đồng cảm giai cấp tự nhiên. Ý nghĩ cứu A Phủ đã mạnh hơn cả nỗi lo sợ cho chính mình. Từ tình cảm và ý nghĩ ấy, ắt dẫn tới hành động quyết định của Mị: cắt dây trói cứu A Phủ. Cắt dây trói cứu A Phủ, Mị cũng đã tự cắt sợi dây trói buộc đời mình với nhà Pá Tra.

Để tự cứu mình, Mị đã chạy theo A Phủ thoát khỏi địa ngục nhà Pá Tra. Đến dây cái vòng trói buộc cuộc đời Mị và A Phủ đã được tháo gỡ nút thứ nhất. Mặc dù đây chỉ là những hành động đấu tranh tự phát, nhưng cũng chính là từ những khát vọng tự do và sự phản kháng mạnh mẽ ấy mà họ sẽ nhanh chóng đến với cách mạng, để giải phóng triệt để cho số phận của mình và của những người nghèo khổ khác.

Thành công của truyện Vợ chồng A Phủ trước hết là ở cốt truyện mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường giác ngộ của người nông dân miền núi, cũng như của nhân dân lao động nói chung trong sự gặp gỡ cách mạng. Mô típ cốt truyện này rất tiêu biểu cho các tác phẩm văn xuôi trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp, cũng như cả trong văn học từ năm 1945 đến 1975. Nhưng tác phẩm gây được ấn tượng sâu sắc là ở nghệ thuật xây dựng nhân vật. Nhân vật vừa mang tính tiêu biểu cho tầng lớp, giai cấp vừa có được những nét cá tính khá rõ. A Phủ thì mạnh mẽ, gan góc mà bộc trực, cả tin, chất phác. Mị giàu sức sống nhưng trầm lắng hơn, có một đời sống nội tâm sôi nổi dưới vẻ ngoài lặng lẽ.

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Mẫu 20

Tây Bắc là mảnh đất đã gây biết bao thương nhớ cho các nhà văn trong đó có Tô Hoài. “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm được ông sáng tác năm 1952 và in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Đây là kết quả của chuyến đi thực tế tám tháng lên vùng cao Tây Bắc của nhà văn. Nổi bật trong truyện ngắn này là nhân vật Mị, người đã gây được nhiều ấn tượng, cảm xúc cho bạn đọc.

Mị là nhân vật chính trong phần mở đầu của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Đây là nhân vật tiêu biểu, đại diện cho số phận của những người con dâu gạt nợ ở miền núi. Mị có hoàn cảnh thật đáng thương, bất hạnh. Cô được sinh ra trong một gia đình nghèo khổ. Vì không có tiền cưới vợ nên bố Mị đã vay tiền bố của thống lí Pá Tra, mỗi năm phải nộp lãi một nương ngô. Đến khi mẹ của Mị chết vẫn chưa trả hết số nợ.

Trước khi về làm dâu gạt nợ nhà thống lí, Mị là cô gái xinh đẹp, có tài thổi kèn lá hay như thổi sáo. Những đêm tình mùa xuân “trai đến đứng nhẵn vách đầu buồng Mị”. Mị có sức hút, sức hấp dẫn như bông hoa rừng đầy hương sắc. Vẻ đẹp của cô gái người Mông khiến chàng trai nào cũng muốn có được.

Mị là cô gái yêu tự do, dám lên tiếng phản đối lệ tục dùng con người làm vật thế mạng cho món nợ vật chất của người thân còn tồn tại trong cuộc sống của người dân Tây Bắc. Khi thống lí Pá Tra nói với bố Mị rằng: “Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho” thì Mị thẳng thắn trả lời: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Lời nói của Mị đã chứng tỏ cô là một người có nhận thức sâu sắc về cuộc sống, Mị chấp nhận làm nương ngô cả đời để trả nợ chứ không làm con dâu gạt nợ và sống cuộc sống mất tự do trong nhà thống lí.

Khi bị bắt về làm con dâu gạt nợ, Mị vô cùng đau đớn và phẫn uất: “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Mị chuẩn bị sẵn lá ngón để tự tử nhưng nghĩ đến bố “Mị không đành lòng chết”. Hành động định tự tử của Mị nhìn bề ngoài là hành động tiêu cực nhưng thực chất lại thể hiện sự đấu tranh mãnh liệt đòi giải thoát kiếp trâu ngựa. Hành động ấy còn thể hiện thái độ không chấp nhận cuộc sống thực tại, không chấp nhận thân phận nô lệ của Mị.

Nhưng thời gian trôi đi khiến sự phản kháng trong con người Mị không còn mạnh mẽ nữa. Cô được giới thiệu gián tiếp qua lời kể của tác giả nên khiến câu chuyện khách quan và chân thực hơn. Hình ảnh người con gái ấy hiện lên qua các công việc “ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi, đi cõng nước dưới khe suối. Bất kể làm gì thì “cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.

Mị gần như câm lặng và cam chịu số phận “Ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi”.. Gia đình thống lí Pá Tra “có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”, giàu có là vậy nhưng con dâu phải làm việc như thân trâu ngựa. Mị cũng tưởng mình là con trâu, con ngựa “chỉ biết việc ăn cỏ, việc đi làm mà thôi”. Nhưng con trâu, con ngựa “làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ” còn Mị phải làm việc cả đêm lẫn ngày, không một phút nghỉ tay. Những công việc hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bẻ ngô, hái củi, tước sợi đay hiện ra như một dòng chảy không bao giờ ngừng khiến Mị “lùi lũi như con rùa nơi trong xó cửa”.

Dường như cuộc sống của người con dâu gạt nợ đã khiến cô trở nên câm lặng, “càng ngày Mị càng không nói”. Không những thế, Mị còn mất hết ý niệm về thời gian, không gian. Điều ấy được tác giả đặc tả qua chi tiết: “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Và chính Mị cũng đã nghĩ rằng “mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”.

Ngỡ tưởng cô gái ấy tồn tại như cái xác không hồn trong nhà thống lí nhưng không khí của mùa xuân đã làm tâm hồn và lòng yêu đời của Mị trỗi dậy. Tiếng sáo rủ bạn đi chơi mang âm hưởng bồi hồi, tha thiết, rạo rực khiến Mị nhớ đến quá khứ, nhớ đến cuộc sống tự do của mình trước đây. Mị nhẩm thầm theo lời bài hát:

“Mày có có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta không có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu”.

Tiếng sáo có sức quyến rũ đến lạ kì. Nó đưa Mị trở về sống với những cảm xúc của một thời tươi trẻ. Mị không còn “lùi lũi”, chịu đựng nữa. Dường như cô muốn thoát ra khỏi cái vỏ bọc để sống đúng là chính mình. Mị uống rượu, “uống ừng ực từng bát” rồi Mị say, “Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về những ngày trước”. Trước đây, Mị đã từng là một cô gái thổi sáo giỏi, “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”.

Không khí của những đêm tình mùa xuân tràn về khiến lòng Mị phơi phới trở lại và “đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Mị nhận ra mình vẫn còn trẻ lắm và cũng muốn đi chơi như bao nhiêu người khác. Ý định muốn đi chơi của Mị đã trở thành hành động khi cô “lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào ống đèn cho sáng” rồi “quấn lại tóc”, “với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Hành động ấy của Mị đã thể hiện sự hồi sinh trong tâm hồn, thể hiện một sức sống mãnh liệt mà bấy lâu nay bị những khổ cực đè nén khiến nó không có cơ hội được bộc lộ.

Nhưng giữa lúc lòng yêu đời trỗi dậy mãnh liệt thì cũng là lúc Mị bị vùi dập phũ phàng. A Sử biết Mị muốn đi chơi nên “xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà”, A Sử “quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa”. Trong không gian của bóng tối, Mị vẫn nghe thấy những âm thanh dìu dặt của tiếng sáo, nó “đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”.

A Sử có thể trói buộc Mị về thể xác nhưng không thể trói buộc được Mị về tâm hồn. Tiếng sáo da diết như mời gọi đã khiến “Mị vùng bước đi” nhưng Mị không thể cất bước vì “tay chân đau không cựa được”. Nỗi đau về thể xác khiến Mị quay về thực tại, Mị đau đớn, “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Mị đã ý thức được cuộc sống thực tại và xót xa cho số phận của bản thân mình.

Bằng một sức sống mãnh liệt tiềm ẩn bên trong con người, Mị đã tự giải thoát cho chính mình qua hành động cắt dây trói, giải cứu cho A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài đến khu du kích Phiềng Sa. A Phủ là người đối đầu với A Sử – con trai thống lí Pá Tra trong lần A Sử cùng chúng bạn kéo vào làng chơi và dọa đánh bọn con trai lạ. Vì đấu tranh cho cái thiện, cho chính nghĩa mà A Phủ bị bắt làm nô lệ cho nhà thống lí.

Khi nhìn thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”, Mị chợt nhớ lại đêm mình bị A Sử trói đứng như thế. Từ thản nhiên, thờ ơ, Mị đã có sự đồng cảm với tình cảnh, thân phận của A Phủ. Suy cho cùng, cả hai người đều là những vật thế mạng cho món nợ của người thân hoặc của chính mình.

Giai cấp thống trị ở miền núi đã lợi dụng lệ tục cổ hủ đó để bóc lột sức lao động của họ biến họ trở thành thân trâu ngựa làm giàu cho mình. Bằng tấm lòng thương người, Mị đã “cắt nút dây mây” và bảo A Phủ “Đi ngay”. Hành động ấy vô cùng táo bạo bởi nếu gia đình thống lí biết thì Mị sẽ là người bị trói thay vào chỗ của A Phủ.

Khát vọng giải thoát bản thân và khát vọng về một cuộc sống tự do đã thôi thúc Mị bỏ trốn cùng A Phủ. Sức sống trong cô đã bùng lên mạnh mẽ để đấu tranh chống lại cường quyền, thần quyền và phu quyền. Hành động cắt dây trói cho A Phủ cũng là hành động cắt dây trói cho chính mình, chấm dứt cuộc đời nô lệ, bị áp chế của Mị.

Có thể nói, Mị là linh hồn của phần một trong truyện “Vợ chồng A Phủ”. Nhân vật này được Tô Hoài khắc họa bằng bút pháp cá thể hóa và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế. Qua nhân vật Mị, nhà văn đã thể hiện những tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Đây cũng là một trong những yếu tố góp phần quan trọng làm nên sự thành công của tác phẩm.

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Mẫu 21

Tô Hoài là một tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị như: Dế Mèn phiêu lưu ký, Giăng Thề, Quê nghèo,… Tập truyện Tây Bắc cũng là một trong những thành tựu vô cùng xuất sắc, một lần nữa khẳng định tên tuổi của ông trên văn đàn. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” trích trong tập “Truyện Tây Bắc” đã để lại cho người đọc nhiều ấn tượng với giá trị nhân văn sâu sắc.

Truyện kể về cuộc sống của nhân vật Mị, một cô gái vùng núi Tây Bắc. Mị vốn là một người con gái xinh đẹp, có tài thổi sáo, lại là người con hiếu thảo, biết chăm lo giúp đỡ gia đình. Nhưng số phận trớ trêu khi Mị buộc phải chấp nhận bán mình làm con dâu nhà thống lý để trả món nợ truyền kiếp của gia đình. Có lẽ, trong xã hội lúc bấy giờ, có vô số người đang phải chịu cảnh trái ngang như Mị vậy, bởi hình thức cho vay nặng lãi của bọn người như Pá Tra mà họ phải dùng cả cuộc đời, thậm chí đánh đổi tương lai và hạnh phúc của bản thân để trả.

Ngày về làm dâu, Mị mất hết quyền tự do, bao nỗi uất ức, đau khổ đều mình nàng gánh chịu. Đau đớn thay cho phận đàn bà, phận con nợ hẩm hiu với cuộc sống lầm lũi, trước kia Mị trẻ đẹp yêu đời bao nhiêu thì giờ đây càng tồi tệ, thê thảm bấy nhiêu: “Có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”, có lúc Mị chỉ muốn dùng nắm lá ngón mà tự tử, kết thúc cuộc đời khổ nhục, nhưng vì nghĩ đến bố, nàng đành ngậm ngùi cam chịu. Tình thân chính là thứ duy nhất khiến Mị cố gắng để chịu đựng, bởi hơi ai hết, Mị hiểu cha nàng đã khổ quá nhiều rồi. Những vất vả, công việc nặng nhọc nơi nhà thống lý đều một tay Mị làm, con dâu mà không khác con ở là bao.

Lâu dần, Mị quen với cái khổ, rồi cũng chẳng màng gì nữa, cứ thế lầm lũi qua ngày: “Mị quên với cái khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình là con trâu, con ngựa… chỉ biết việc ăn cỏ, việc đi làm mà thôi”. Bao công việc giặt đay, bẻ bắp, hái thuốc phiện,..Mị đều làm mà không một lời than vãn, mà có than vãn cũng chẳng ai quan tâm đến.

Đau khổ về thể xác, tinh thần cũng bí bách khôn nguôi, có điều gì buồn hơn khi lấy chồng mà người bên cạnh không phải người mình thương, đến sự sẻ chia, lời ủi an cũng chẳng có, lấy gì làm người bạn tâm tình những lúc chán nản, mệt nhoài: “Mỗi ngày Mị càng không nói… rùa nuôi trong xó cửa”. Thật đau đớn thay cho những kiếp người nghèo khổ, chịu bao bất công, bao nỗi tuyệt vọng ngập tràn. Dường như, lúc này đây, Mị đang phó mặc cho số phận mình vậy. Đọc những dòng miêu tả Mị lúc này, ta thấy xót thương, đồng cảm và căm phẫn thật nhiều. Xót thương cho cuộc đời nàng, căm phẫn với cái chế độ tàn nhẫn bất công của xã hội của đã đẩy con người đến đường cùng tăm tối.

Tuy sống cam chịu, lầm lũi nhưng bên trong Mị vẫn âm ỉ một sức sống mãnh liệt chỉ chực chờ để bụng tỏa. Khi xưa Mị là cô gái trẻ yêu đời, khao khát tự do, có niềm tin yêu cuộc sống. Sức trẻ, khát vọng hạnh phúc ấy không lụi tắt mà chỉ bị kìm xuống bởi những bất công, bạo tàn. Để rồi vào đêm tình mùa xuân, khi khắp vùng trời Tây Bắc đang chào đón mùa xuân tới cùng tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha, lòng Mị lại bồi hồi rạo rực với những kỉ niệm xưa: “Ngoài đầu núi lấp ló có tiếng ai thổi sáo gọi bạn đi chơi. Nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi”.

Tiếng sáo đã thôi thúc Mị tiếp tục đứng lên, tiếp tục sống, thôi thúc bao nỗi khát khao trong lòng nàng. Mị tìm đến men rượu, hơi rượu đã đưa Mị về với những kí ức xưa “Mị thấy phơi phới trở lại”. Rồi Mị tìm đến nơi góc nhà, lấy ống mỡ bỏ vào đèn thắp lên thứ ánh sáng le lói, thứ ánh sáng của niềm tin nơi tăm tối, ngục tù.

Nhưng rồi, thật tàn nhẫn, tên A Sử tàn ác kia đã đứng trước mặt Mị, hắn không cho nàng đi chơi, hắn trói nàng vào cột nhà bằng những sợi đay rừng. Chính hắn đã dùng bàn tay tàn ác kia trói buộc cuộc đời nàng, giờ đây đến cả điều ước đơn giản muốn được đi chơi xuân cũng bị hắn vùi dập. Lúc này đây là nỗi đau thể xác đang hành hạ nàng nhưng lòng Mị vẫn đang mê say với tiếng sáo tha thiết kia. Có những phút Mị vùng bước đi nhưng không thể làm gì khác, thực tại quá phũ phàng đã bóp nghẹt một lần nữa khát vọng cuộc đời nàng.

Sau đêm mùa xuân ấy, Mị quay trở lại với cuộc sống của “con trâu con ngựa”, lầm lũi cam chịu. Khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng ngoài sân, Mị cũng dửng dưng vô cảm bởi lẽ cảnh người bị trói, bị hành hạ nhà thống lí đã quá quen thuộc trong nhận thức của Mị. Tỉnh dậy trong ánh lửa bập bùng, Mị thấy dòng nước mắt đang rơi dài trên má A Phủ. Giọt nước mắt ấy khiến Mị nhớ lại ngày trước, nàng cũng từng phải chịu nỗi hành hạ, đớn đau biết bao nhiêu rồi nàng nhớ đến chuyện người đàn bà xưa kia bị trói chết đứng trong nhà, rồi nàng lo sợ rằng có lẽ đêm nay, đêm mai nữa thì người kia cũng sẽ phải chịu chết thôi.

Mị chìm vào suy nghĩ, sự đấu tranh nội tâm đưa Mị đi đến hành động quyết liệt là cắt dây trói cho A Phủ. Dù biết đây là hành động có thể khiến bản thân bị trọng tội, song Mị đã chấp nhận hi sinh chính mình để cứu lấy con người tội nghiệp kia. Đây là một hành động thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ của con người trước tội ác, bất công đồng thời thấy được tình thương yêu giữa những người nghèo khổ dành cho nhau. Cũng vào lúc ấy, Mị đã quyết định đi theo A Phủ, đó là một sự lựa chọn đúng đắn để Mị giải thoát cho cuộc đời mình.

Đọc Vợ chồng A Phủ, ta mới thấy được tài năng của Tô Hoài trong việc khắc họa tâm lí nhân vật. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ đều gắn với những tính cách, những chuyển biến tâm lí đầy tinh vi của nhân vật được thể hiện rõ nét. Truyện đã vạch trần được những tội ác, sự bất công ngang trái của xã hội xưa, nói lên tiếng nói thương cảm của nhà văn với những người dân miền núi chịu nhiều khổ cực. Ngoài ra, Tô Hoài còn đưa đến một thông điệp về giá trị sống: Trong cực khổ, bần hàn vẫn cần cố gắng, sống và quyết tâm vươn tới những chân trời tự do, tin tưởng ở tương lai tươi đẹp.

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Mẫu 22

Với vốn hiểu biết phong phú về phong tục, tập quán của người dân miền núi cùng lối trần thuật hóm hỉnh, sâu sắc, chân thực của người từng trải và sự giàu có trong vốn từ vựng, những sáng tác của Tô Hoài luôn để lại dấu ấn đậm sâu và sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc. Và có thể nói truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” sáng tác năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc là một trong số những sáng tác tiêu biểu của Tô Hoài.

Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” đã dựng lại một cách chân thực, sâu sắc bức tranh số phận, cuộc đời của hai nhân vật Mị và A Phủ.

Ngay từ những dòng đầu của tác phẩm, Tô Hoài đã khéo léo để nhân vật Mị xuất hiện một cách thật tự nhiên nhưng đã để lại ấn tượng đậm sâu trong lòng bạn đọc. “Ai đi xa về, có việc ghé qua nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Thêm vào đó tác giả đã tạo ra một hoàn cảnh đối lập giữa nét mặt “lúc nào cũng buồn rười rượi của Mị” với sự giàu có, sung túc của nhà thống lí. Với tình huống đối nghịch ấy tác giả đã phần nào hé mở cho người đọc về cuộc đời của Mị trong những tháng ngày làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra.

Trước khi trở thành con dâu gạt nợ của nhà thống lí Pá Tra, Mị là cô gái Mèo xinh đẹp, trẻ trung, hiếu thảo và có tài thổi sáo. Chắc hẳn, những ai đã từng một lần đọc Vợ chồng A Phủ sẽ chẳng thể nào quên được những câu văn tác giả miêu tả vẻ đẹp ngoại hình và tài năng của Mị. Mị đẹp đến nỗi “trai làng đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị” rồi “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Không chỉ xinh đẹp mà Mị còn có tài “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo vậy”. Đặc biệt, ở Mị chúng ta còn nhận thấy vẻ đẹp trong tận sâu tâm hồn, tấm lòng của Mị. Mị là một cô gái hồn nhiên, yêu đời và có lòng hiếu thảo với cha. Lời nói của Mị với bố“con phải làm nương giả nợ thay cho bố” đã thể hiện rõ tấm lòng hiếu thảo của Mị. Như vậy, Mị là một cô gái vừa đẹp người vừa đẹp nết vừa tài năng, những tưởng một cô gái như thế sẽ có được hạnh phúc. Song với Mị thì hoàn toàn ngược lại khi Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra.

Mị là nạn nhân của chế độ cho vay nặng lãi, trở thành “con dâu gạt nợ” nhà thống lí Pá Tra vì món nợ truyền kiếp của gia đình từ hàng mấy năm nay. Mị trả món nợ của gia đình bằng chính tuổi trẻ, sức khỏe và hạnh phúc của bản thân mình. Trở thành con dâu gạt nợ cũng chính là lúc Mị trở thành công cụ lao động của nhà thống lí Pá Tra. Mị như một cỗ máy, làm việc quần quật suốt ngày suốt đêm, từ ngày này đến ngày khác, năm này qua năm khác “Mị như một cỗ máy làm việc suốt ngày, suốt tháng, suốt năm”, “Mị tưởng mình là con trâu con ngựa. Mị nghĩ mình cũng không bằng con trâu, con ngựa…”. Thêm vào đó, Mị còn bị còn bị A Sử đánh đập tàn nhẫn, thô bạo. Có lẽ, đọc toàn bộ tác phẩm người đọc sẽ không thể nào có thể quên được những trận đòn roi đến rợn người mà Mị đã phải gánh chịu. Không chỉ bị bóc lột về mặt thể xác, Mị còn bị hành hạ về mặt tinh thần. Sống trong nhà Pá Tra, Mị “sống lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, Mị tị tê liệt về mặt tinh thần, sống vô cảm và lặng lẽ. Dường như giờ đây Mị đã bị tê liệt hoàn toàn về mặt tinh thần, sống không chút hi vọng, không mảy may sức sống.

Nhưng rồi, trong những ngày Tết đến ở Hồng Ngài, trong đêm tình mùa xuân ấy, sức sống trong Mị đã lần nữa trỗi dậy mạnh mẽ trong cô. Hồng Ngài những ngày Tết đến, xuân về thật đẹp và đặc biệt là âm thanh tiếng sáo gọi bạn đi chơi trong đêm tình mùa xuân mới thật tuyệt biết bao. Tiếng sáo ấy là âm thanh đặc trưng nơi núi rừng Tây Bắc vào mùa xuân, nó là tiếng gọi của tình yêu, tiếng gọi của hạnh phúc và để rồi, tiếng sáo dìu dặt, thiết tha ấy đã thấu rọi, xuyên qua tâm hồn vốn đã bị đóng băng bấy lâu nay ở Mị để đồng vọng với khát vọng tình yêu, khát vọng sống đang trỗi dậy trong cô. Mị đã có những hành động đầu tiên, báo hiệu cho sự trỗi dậy của sức sống trong Mị. Nếu như trước đây, Mị “sống lùi lũi như con rùa trong xó cửa” thì hôm nay, Mị đã nhẩm thầm lời bài hát, “những lời thì thầm ấy như những lời thì thầm của mùa xuân”, nó chính là động lực, là nguồn cội để rồi cuộc đời Mị từ đây bước sang một trang mới. Rồi Mị uống rượu – “uống ừng ực từng bát” – dường như Mị muốn uống để quên đi hết bao sầu muộn, bao giận dữ, khổ đau trong những tháng ngày đã qua. Những ý niệm về thời gian dần dần sống lại trong Mị, cô nhớ về những kỉ niệm thời trẻ và sống với hiện tại của chính mình. “Mị thấy mình phơi phới trở lại, Mị vẫn còn trẻ lắm”, Mị muốn được đi chơi mùa xuân. Như vậy, đến đây, sức sống, khát khao sống trong Mị đã trỗi dậy nhưng rồi sự xuất hiện của A Sử đã buộc Mị không thể thực hiện khát khao đi chơi trong đêm tình mùa xuân của mình. A Sử trói đứng Mị, đánh đập Mị song A Sử chỉ trói được thể xác của Mị chứ không thể nào trói buộc được tâm hồn, khao khát của cô. Dường như, Mị đã quên mất việc mình bị trói đứng, quên đi nỗi đau về mặt thể xác để tâm hồn Mị vẫn hòa cùng với tiếng sáo của những cuộc chơi. Như vậy, sức sống mãnh liệt trong Mị đã trỗi dậy, vượt qua cả nỗi đau về mặt thể xác.

Đặc biệt, sự hồi sinh của Mị thể hiện rõ nét qua việc Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ. Thoạt đầu, khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng, Mị vẫn thản nhiên ngồi sưởi tay bên bếp lửa. Mị thản nhiên, dửng dưng cũng đúng thôi bởi với Mị nói riêng và với những người trong nhà thống lí Pá Tra nói chung, việc một con người bị trói đứng đâu có gì là lạ, là khác thường đâu. Nhưng rồi, Mị đã hoàn toàn thay đổi khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ, giọt nước mắt ấy đã một lần nữa đánh thức sức sống trong Mị, đánh thức tình thương người và thương mình ở cô. Để rồi, Mị nảy ra ý định cứu A Phủ, nhưng rồi Mị lại thấy sợ. Tuy nhiên, lòng thương người, thương mình và khát khao sống trong Mị đã lớn hơn tất cả, chiến thắng mọi nỗi sợ hãi để Mị đi đến quyết định cắt dây cởi trói cho A Phủ rồi Mị cùng A Phủ chạy trốn khỏi Hồng Ngài. Hành động ấy của Mị đã chứng minh quá trình hồi sinh của Mị, Mị đã trở lại là chính mình với một khát vọng sống mãnh liệt.

Cùng với Mị, trong tác phẩm, Tô Hoài đã xây dựng thành công số phận nhân vật A Phủ. Từ nhỏ, A Phủ đã mồ côi cha mẹ, sống và lớn lên trong tình yêu thương, sự che chở, đùm bọc của dân làng. Lớn lên, A Phủ trở thành chàng trai khỏe mạnh “A Phủ khỏe, chạy nhanh như con ngựa, con gái trong làng nhiều người mê”. Không chỉ khỏe mạnh mà A Phủ còn là người nhanh nhẹn, việc gì cũng biết làm, lúc còn bé, đi làm cho nhà người, chẳng mấy chốc mà A Phủ “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”, rồi đến lúc phải đi ở cho nhà Pá Tra, A Phủ càng chứng tỏ được sức lực của mình “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò nương gò rừng”. Đồng thời, A Phủ là người có tính cách gan bướng, mạnh mẽ, bị bắt xuống đồng thấp lại trốn lên đồng cao.

Số phận của A Phủ cũng giống như Mị, đều phải trở thành người ở gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. A Phủ trở thành người ở để gạt nợ chỉ vì A Phủ đánh con quan và thua trong một vụ kiện đầy bất công, vô lí. Thêm vào đó, khi trở thành người ở gạt nợ, A Phủ còn không có giá trị bằng một con bò, chỉ vì làm mất một con bò của nhà thống lí mà A Phủ bị trói đứng, bị hành hạ về mặt thể xác. Và rồi, trong chính lần bị trói đứng ấy, A Phủ đã gặp Mị và được Mị cắt dây cởi trói rồi cả hai cùng nhau chạy trốn khỏi Hồng Ngài.

Tóm lại, với ngòi bút trần thuật hấp dẫn, độc đáo, vốn từ vựng phong phú và sắc sảo, Vợ chồng A Phủ đã dựng lại một cách chân thực và sâu sắc số phận của hai nhân vật Mị và A Phủ. Đồng thời, qua số phận hai nhân vật cũng cho chúng ta thấy rõ giá trị hiện thực của tác phẩm về cuộc sống và số phận bi đát của những người lao động miền núi và về bộ mặt tàn ác của giai cấp thống trị. Thêm vào đó nó cũng cho ta thấy chiều sâu nhân đạo của tác phẩm, đó chính là lời ngợi ca, trận trọng những giá trị, khát vọng sống tốt đẹp của con người và lời lên án, tố cáo sự tàn ác, vô nhân tính của giai cấp thống trị.

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Mẫu 23

Tô Hoài là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn học hiện đại Việt Nam đồng thời là một tấm gương cho con người về sức sáng tạo. Cách kể chuyện của Tô Hoài có sức hấp dẫn riêng ở lối kể hóm hỉnh với lời văn giản dị tinh tế mà giàu chất thơ. Trong đó, “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm ghi lại tên tuổi cũng như dấu ấn văn xuôi của nhà văn Tô Hoài.

“Vợ chồng A Phủ’’ được rút ra trong tập “Tây Bắc” kể về cuộc sống của Mị và A Phủ trong nhà thống lý Pá Tra làm nô lệ. Mị trở thành dâu nhà thống lý, phải sống một cuộc sống không giống con người. Ở đó, Mị không chỉ bị giam cầm về thể xác mà còn bị giam cầm cả về tâm hồn của mình. Mị xuất hiện trong lời kể của nhà văn Tô Hoài trong khung cảnh của cuộc sống giàu sang nhưng lại đối lập với tâm thế bên trong con người Mị là mặt buồn rười rượi.

Dưới ngòi bút của Tô Hoài gieo vào lòng người đọc những cảm xúc mãnh liệt về số phận con người mà cụ thể là nhân vật Mị. Sự xuất hiện của Mị giúp người đọc hình dung ra số phận của những kiếp người lao động dưới ách thống trị của bọn phong kiến chúa đất.

Bằng kết cấu hồi tưởng, trần thuật ở hiện tại sau đó ngược về quá khứ Tô Hoài tạo được những dấu ấn cá nhân riêng qua cách kể chuyện đầy linh hoạt của mình. Trước khi về làm dâu nhà thống lý Pá Tra Mị là một cô gái xinh đẹp, nết na, có tài thổi sáo. Đặc biệt, Mị còn là cô gái rất giàu lòng tự trọng yêu đời và tràn đầy sự sống, luôn muốn làm chủ và muốn tự định đoạt cuộc đời của mình. Mị trở thành nỗi niềm ao ước của nhiều trai bản trong làng.

Thế nhưng cuộc đời lại xô đẩy Mị, trái lại với tất cả những gì mà cô mong muốn. Chỉ vì muốn giúp cha mẹ trả món nợ truyền kiếp mà Mị bỗng dưng trở thành dâu nhà họ Lý kia. Bị ràng buộc về món nợ Mị còn bị ràng buộc cả về những tập tục hôn nhân cổ hủ. Chồng chất những đau khổ cho cô gái trước đây từng ao ước có một cuộc sống do mình định đoạt. Chỉ đến đây thôi người ta đã nhìn thấy cái xã hội mà bọn lang đạo, phong kiến chúa đất miền núi đã bóc lột sức lực, tước đi quyền tự do của biết bao nhiêu số phận người lao động nghèo. Ba tiếng “dâu gạt nợ” như hé mở cho người đọc một cuộc sống chồng chất những đau thương, những bi kịch mà Mị đang phải gánh chịu.

Khi sống cuộc sống làm dâu trong nhà thống Lý, Mị phải chịu những đau khổ về thể xác. Mị bị bóc lột sức lao động tàn nhẫn, Mị phải làm việc suốt ngày đêm, hết ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác. Mị bị cột chặt trong vòng vây của công việc. Dưới ngòi bút kể của nhà văn Tô Hoài, Mị hiện lên như một công cụ biết nói, một cỗ máy làm việc trong nhà thống Lý. Để rồi đã hơn một lần Mị thổn thức mình không bằng con trâu con ngựa.

Cuộc sống của Mị không giống như cuộc sống của con người, Mị đang dần bị vật hóa. Không chỉ vậy Mị còn bị A Sử – chồng của mình đánh đập, hành hạ một cách vô lý. Đỉnh điểm trong đêm tình mùa xuân khi Mị muốn đi chơi nhưng lại bị A Sử trói đứng vào cột. Tô Hoài đứng dưới vị trí là một người ngoài cuộc như quay lại những thước phim mà ông tỉ mỉ thu được.

Tô Hoài miêu tả tỉ mỉ những hành động tàn nhẫn của A Sử lại càng lột tả hết được bản chất tàn bạo, phi nhân tính của giai cấp thống trị mà A Sử là một đại diện tiêu biểu hơn bao giờ hết. Do vậy, qua đây mà ngòi bút của Tô Hoài có sức tố cáo gay gắt. Thêm nữa, cuộc sống của Mị còn bị trói buộc và đày đọa cả về mặt tinh thần. Mị bị ngăn cách với thế giới bên ngoài, mất đi ý niệm về thời gian, bị tước đi tất cả quyền làm người, quyền được sống, được giao tiếp với bên ngoài.

Mị đã hoàn toàn bị vật hóa, bị khống chế bởi thế lực và sức mạnh của thần quyền. Đến đây thôi, hình ảnh Mị hiện lên chồng chất những đau thương và bi kịch mà qua đó Mị là một hiện thân cho người phụ nữ miền núi, người dân lao động dưới ách thống trị của bọn lãnh chúa.

Tiếp đến trong đêm tình mùa xuân cũng là thời khắc sức sống tiềm tàng trong Mị trỗi dậy. Âm thanh tiếng sáo gọi dậy khát khao yêu đương trong Mị bấy lâu. Nó gọi dậy tiếng lòng, tiếng hát từ trong sâu thẳm Mị. Để rồi cũng gọi dậy khát khao yêu đương, hạnh phúc, tuổi trẻ và đánh thức quyền sống con người bên trong Mị. Tô Hoài đã sử dụng nghệ thuật độc thoại nội tâm, lách sâu ngòi bút của mình vào đời sống tâm hồn miêu tả Mị. Nhà văn miêu tả chi tiết từng hành động “uống từng ngụm rượu” cho đến sự thay đổi trong tâm trạng của Mị để thấy rằng con người kia đang muốn làm chủ số phận của mình, muốn vượt lên số phận của chính mình.

Sau đêm tình mùa xuân nổi loạn không thành, Mị tiếp tục trở về câm lặng như xưa, tiếp tục công việc khổ sai làm tê liệt ý thức của con người, đánh đập, hành hạ làm tê liệt ý thức phẩm giá, cầm tù làm tê liệt những nhu cầu sống cơ bản của con người và bóng ma thần quyền đã tiêu diệt đi ý thức phản kháng của con người. Và chính điều đó lại là nghị lực cho Mị trong đêm đông cứu A Phủ, thoát khỏi cuộc sống mà Mị và A Phủ không được sống làm con người. Những thay đổi trong tính cách và tâm lý của Mị đều được nhà văn Tô Hoài làm rõ tạo nên những bất ngờ cho người đọc.

Sức sống tiềm tàng của Mị được miêu tả trong đoạn văn Mị cứu A Phủ cho thấy hiện thân của sức sống tiềm tàng của nhân dân lao động miền núi phía Bắc. Nhà văn không chỉ miêu tả đồng cảm số phận nhân vật mà còn như hé mở cho họ một lối giải thoát từ đau khổ, đáng thương đến tự do và làm chủ cuộc sống của mình. Qua đó, nhà văn ca ngợi sức mạnh của Đảng, cách mạng giúp con người được làm chủ cuộc sống của mình.

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Mẫu 24

Tô Hoài trước 1945 nổi tiếng với tiểu thuyết “Dế mèn phiêu lưu ký”. Đi theo Cách mạng rồi đi kháng chiến chống Pháp, Tô Hoài hoạt động ở vùng rừng núi Tây Bắc. Kết quả rực rỡ của chuyến đi thực tế dài ngày đó là tập “Truyện Tây Bắc” ra đời, được giải nhất giải thưởng Hội Văn Nghệ Việt Nam 1954-1955. “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm hay nhất trong trong truyện “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài.

Truyện đã diễn tả quá trình giác ngộ và vùng dậy chống phong kiến và đế quốc của các dân tộc Tây Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng. “Vợ chồng A phủ” cũng là kết quả của một quá trình chuyển biến đến độ chín muồi của tư tưởng và tình cảm nhà văn. Tình cảm của tác giả đã quyện lẫn với tình cảm của dân tộc anh em một cách chan hòa tự nhiên, đó là tấm lòng biết ơn, thủy chung, tình nghĩa đối với các vùng du kích đã tiếp tế che chở cho cán bộ, bộ đội hoạt động ở vùng địch hậu Tây Bắc”. “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.

“Vợ chồng A phủ” tố cáo sâu sắc tội ác của bọn phong kiến miền núi Tây Bắc đối với các dân tộc vùng cao. Tác phẩm đã nói lên một cách đau xót nỗi thống khổ bao đời của các dân tộc anh em ở Tây Bắc dưới ách đô hộ của thực dân Pháp và bè lũ tay sai là quan lang, quan châu, phìa (Thái), tạo (Mường), thống lí (H’Mông).

Dưới chế độ thống trị tàn bạo man rợ của bọn thống lí, quan bang, những người đi ở trừ nợ như A Phủ, làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí như Mị là những “kiếp trâu ngựa”, khốn khổ, nhục nhã ê chề. Thật ra những kiếp người như Mị, như A Phủ là những kẻ nô lệ ở vùng cao. Bọn thống lí là một thứ “vua” ở vùng cao, chúng có quyền sinh quyền sát đối với người dân Tây Bắc.

Chúng có quyền bắt bớ, đánh đập, bắt làm nô lệ, gả bán, thậm chí có thể giết người một cách dã man (trong truyện có nhắc đến một người vợ trong nhà thống lí bị trói đứng rồi chết và A Phủ thì suýt chết). Chỉ trong một truyện ngắn mà tác giả đã mô tả được bức tranh toàn cảnh về giai cấp thống trị Tây Bắc, giá trị hiện thực của tác phẩm thật là sâu sắc.

Mị là một cô gái đẹp (tả gián tiếp ví như những đêm tình mùa xuân, con trai đến đứng nhẵn đầu buồng Mị…), tài hoa (biết thổi sáo, thổi lá cũng hay như thổi sáo) và giàu tình cảm. Sinh ra trong một gia đình nghèo, Mị bị A Sử, con trai thống lí cướp về làm vợ để trừ nợ. Mị là vợ của A Sử nhưng thực ra chỉ là một người đầy tớ, một nô lệ của gia đình thống lí.

Mị lặng lẽ như một con rùa trong xó cửa, quanh năm chỉ biết vùi đầu vào những công việc lao động nặng nhọc “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp… Bao giờ cũng thế, suốt đời suốt năm như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào làm việc cả đêm, cả ngày.”.

Ngày tết, A Sử trói Mị trong buồng tối rồi rủ bạn đi chơi. Tô Hoài, qua nhân vật Mị còn phản ánh những tập tục man rợ của các dân tộc vùng cao. Người đàn bà khi bị cướp về trình ma thì vô hình người đàn bà (mà Mị là điển hình) đã trói cả đời mình vào nhà ấy. Nếu chẳng may chồng chết thì người ấy phải làm vợ người khác trong nhà, có khi là một người anh chồng già lụ khụ, có khi là một người em chồng còn ở tuổi trẻ con, và nếu chồng lại chết, lại vẫn phải ở với một người đàn ông khác vẫn trong nhà ấy…

Phải suốt đời ở trong nhà ấy. Mị chết dần chết mòn ở trong nhà của thống lí. Ngoài những lúc còng lưng làm việc như con trâu, con ngựa thì Mị lại bị nhốt trong cái buồng kín mít chỉ được nhìn ra ngoài qua một cái “lỗ vuông bàng bàn tay, lúc nào trông ra cũng thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. A Phủ là chàng trai H’Mông nghèo khỏe mạnh, chạy nhanh như ngựa, săn bò tót rất giỏi. Con gái trong bản rất thích A Phủ, “đứa nào lấy được A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà”. A Phủ cũng là một thanh niên yêu tự do.

Ngày Tết, A Phủ rủ bạn đi chơi đánh pao, A Sử đến phá đám bị A Phủ đánh. Thống lí Pá tra bắt A Phủ đánh đập, hành hạ, phạt vạ một trăm đồng bạc trắng. A Phủ phải ở cho thống lí trừ nợ. Thế là trong nhà thống lí có thêm một con người bất hạnh nữa làm nô lệ. Mị thì làm tôi tớ trong nhà, còn A Phủ thì làm tôi tớ ngoài rừng. “Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”.

A Phủ một mình ngoài rừng, trên núi cao đốt nương chăn bò, săn bò tót… Chẳng may một lần động rừng, hổ xuống ăn mất một con bò. Thống lí đã bắt A Phủ trói đứng suốt ngày đêm ngoài trời. Đó thể nói cha con thống lí Pá Tra và bọn tay chân như lí dịch, quan lang, xéo phải… là những điển hình cho giai cấp thống trị tàn bạo, man rợ của vùng cao Tây Bắc.

Mị và A Phủ – Hai số phận bi thảm là hiện thân của thứ nô lệ của chế độ phong kiến man rợ ở Tây Bác. Nhưng Tô Hoài không dừng lại ở việc phản ánh bản chất tàn bạo, dã man của giai cấp thống trị Tây Bắc, nhà văn còn đi sâu vào bản chất của cuộc sống của dân tộc vùng cao, phản ánh sức sống mãnh liệt của các dân tộc Tây Bắc và sự vùng dậy chiến thắng của các dân tộc Tây Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Giá trị của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” không chỉ nằm ở sự miêu tả cuộc sống chân thực và sinh động. Giá trị chủ yếu làm nên sức sống bền lâu của tác phẩm chính là ở tinh thần nhân đạo sâu sắc, thấm thía chất chứa sau mỗi trang viết giàu chất hiện thực của Tô Hoài. Giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản của tác phẩm văn học chân chính. Nó được tạo nên bởi niềm cảm thông, chia sẻ đối với nỗi đau của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng vươn dậy của họ.

Chủ nghĩa nhân đạo mới không chỉ yêu thương, đồng cảm với những nỗi khổ của con người mà còn hướng tới nhằm giải phóng cho con người khỏi mọi xiềng xích, áp bức, khổ đau và tạo điều kiện cho họ trở thành những con người tự do, con người làm chủ, chiến đấu chống lại mọi thế lực bạo tàn để xây dựng cuộc sống hạnh phúc của mình.

Hiểu như vậy, chúng ta thấy tư tưởng nhân đạo của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” trước hết được toát lên từ niềm cảm thông sâu sắc đối với số phận bất hạnh, bị mất quyền sống của người lao động miền núi, mà tiêu biểu là Mị và A Phủ. Mị vốn là một cô gái xinh đẹp mang trong mình biết bao phẩm chất đẹp. Thế mà…kể từ khi bước chân về làm con dâu trừ nợ, thực chất là nô lệ không công cho nhà thống lí, dưới mấy tầng áp bức của cường quyền, thần quyền và hủ tục phong kiến miền núi, Mị phải sống một chuỗi ngày đau thương, tủi nhục, tăm tối.

Mị không chỉ bị hành hạ về thể xác mà còn bị đày đoạ về tinh thần. Mị bị đối xử như con vật, thậm chí không bằng con vật: “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, tưởng mình là con ngựa, là con ngựa phải tới ở các tàu ngựa nhà này đến tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết làm mà thôi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi gì nữa… Con trâu, con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày” (VHTG – tr.91). Sự đau khổ tủi cực đã cướp đi mất tuổi xuân của Mị, biến cô trở thành một kẻ cam chịu.

Cô gái Mèo trẻ đẹp, tài hoa, giàu lòng yêu đời thuở nào giờ gần như đã chết, chỉ còn người đàn bà thân xác héo khô, tâm hồn lạnh lẽo, trống vắng. Mị ngày càng không nói. Mị mất hết cảm giác thời gian: không dĩ vãng, không hiện tại, không tương lai. Cuộc đời Mị chỉ còn thu nhỏ lại qua cái “lỗ vuông” của chiếc cửa sổ “bằng bàn tay – trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Mị gần như tê liệt sức sống, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Bằng những chi tiết chân thực gợi cảm như thế, Tô Hoài đã làm cho bức tranh hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm càng thêm sinh động, vừa có chiều rộng, vừa có chiều sâu.

Sự xuất hiện của nhân vật chính – A Phủ – cũng bị bắt làm con ở trừ nợ đã làm hoàn chỉnh thêm bức tranh hiện thực, giá trị tố cáo và nội dung nhân đạo của tác phẩm. A Phủ là một chàng trai khoẻ mạnh, gan góc, yêu chính nghĩa, vốn không nợ nần gì nhà thống lí Pá Tra, lại lao động giỏi, sống phóng khoáng tự do như con chim trời giữa núi rừng Tây Bắc, vậy mà cuối cùng cũng không thoát khỏi ách áp bức của bọn chúa đất phong kiến, phải rơi vào thân phận kẻ nô lệ suốt đời trong nhà thống lí Pá Tra.

Chỉ vì dám đánh lại con quan là A Sử trong việc phá đám chơi ngày tết mà A Phủ bị bắt về làm đứa ở gạt nợ, làm con trâu, con ngựa cho nhà thống lí. Cũng như Mị, những ngày sống ở nhà Pá Tra, A Phủ phải chịu biết bao sự đoạ đày nhục hình cả thể xác lẫn tinh thần. A Phủ gần như tê liệt hết sức phản kháng. Anh đã từng phải ngồi im như tượng đá để chịu đòn và phải bất lực để cho những dòng nước mắt chảy dài trong những đêm bị trói đứng trong góc nhà, thần chết dường như đã vẽ những nét đen ngòm trên “hai hõm má xám đen lại” vì tuyệt vọng và đau khổ của A Phủ.

Nếu không có một sự đồng cảm lạ lùng giữa Tô Hoài và cuộc đời của những Mị, những A Phủ, những con người Tây Bắc yêu thương, nhà văn đã không thể nào xây dựng thành công số phận khổ đau của nhân vật đến như vậy. Đọc những trang sách của Tô Hoài viết về số phận bi thương của Mị và A Phủ, ta có cảm giác đó không còn là những dòng chữ lạnh lùng nữa mà là những dòng nước mắt chảy thẳng từ trái tim tràn đầy tình thương yêu nhân đạo của tác giả khóc thương cho thân phận xấu số của nhân vật.

Giá trị nhân đạo thấm thía trong “Vợ chồng A Phủ” còn toát lên từ sự tố cáo gay gắt thế lực thực dân phong kiến. Điển hình cho thế lực đói lập, chà đạp lên cuộc sống con người là cha con thống lí Pá Tra. chúng đã lợi dụng sức mạnh cường quyền, thần quyền, hủ tục để biến người lao động thành nô lệ không công và đối xử với họ lạnh lùng, tàn nhẫn như đối xử với con vật.

Có biết bao nhiêu người phụ nữ, thanh niên như Mị và A Phủ đã bị biến thành công cụ lao động, sống đời sống con trâu, con ngựa trong nhà thống lí? Có biết bao nhiêu người đã bị trói đứng, thậm chí trói cho đến chết ở nhà Pá Tra? Chúng ta không thể biết con số cụ thể, nhưng qua số phận Mị và A Phủ, người đọc vẫn cảm nhận, căm ghét sự tàn bạo, vô lương tri cua bọn cường hào miền núi.

Bên cạnh thái độ cảm thông, chia sẻ và lên án, tố cáo, “Vợ chồng A Phủ” còn là một bài ca ca ngợi những nét phẩm chất tốt đẹp của người lao động, đặt niềm tin, sự trân trọng, nâng niu đối với khát vọng tốt đẹp của những con người bị đày đoạ, đau khổ. Đó là sự kế tục chủ nghĩa nhân đạo truyền thống, đồng thời phát triển lên một mức cao hơn, Người đọc không chỉ thương một cô Mị khốn khổ, bị đọa đày, mà còn yêu một cô Mị tài hoa, ham sống, giàu lòng hiếu thảo, đức hi sinh và tinh thần vật lộn, đấu tranh để vượt lên hoàn cảnh.

“Điều kỳ lạ là dẫu trong cùng cực đến thế, mọi thế lực tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt” (Tô Hoài). Ách thống trị của cường quyền, thần quyền, hủ tục đã không giết hẳn hình ảnh người con gái tài hoa, yêu đời trong Mị. Dưới đống tro tàn của hiện tại, mầm sống, niềm khát khao hạnh phúc vẫn âm ỉ cháy trong Mị, chỉ chờ một sự tác động ngoại cảnh để bùng dậy, cháy sáng.

Đêm tình mùa xuân và cảnh Mị cởi trói cho A Phủ là những trang văn hay nhất trong tác phẩm, đánh dấu sự bừng tỉnh của con người đấu tranh trong Mị. Bên cạnh Mị, hình ảnh A Phủ, chàng trai Mèo dũng cảm, gan góc, phóng khoáng của thiên nhiên Tây Bắc cũng là một nhân vật để lại nhiều ấn tượng với người đọc. Mị và A Phủ tiêu biểu cho tâm hồn, vẻ đẹp con người miền núi và thái độ trân trọng, ngợi ca của tác giả.

Giá trị nhân đạo trong “Vợ chồng A Phủ” còn mang nét mới, tiến bộ hơn chủ nghĩa nhân đạo truyền thống. Đó là nhà văn đã chỉ ra con đường giải phóng thực sự của người lao động là đi từ tự phát đến tự giác, từ tăm tối đau thương vươn lên ánh sáng của tự do và nhân phẩm nhờ sự dìu dắt của Đảng như một tất yếu lịch sử. Con đường đó được nhà văn miêu tả cụ thể qua quá trình đấu tranh của Mị và A Phủ từ lúc trốn khỏi Hồng Ngài đến lúc trở thành những người du kích Phiềng Sa.

Từ những con người nô lệ u mê, câm lặng, họ đã tự phá bỏ sợi dây trói hữu hình thắt chặt cuộc đời họ trong nhà thống lí Pá Tra để đi theo tiếng gọi của tự do, để giác ngộ một chân lý: chỉ có cách cầm súng đánh lại bọn thống trị, họ mới có thể có được cuộc sống bình yên, hạnh phúc.

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Mẫu 25

Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm tiêu biểu khi tác giả Tô Hoài viết về đề tài Tây Bắc. Tác phẩm đặc sắc này sau đó đã được dựng thành phim và được đông đảo khán giả đón nhận. Cùng với đó, những nhân vật ở trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, đã trở thành những nhân vật điển hình. Trong đó nổi bật lên là hình tượng A Phủ, mang những vẻ đẹp của người Tây Bắc và bản lĩnh dám vượt lên số phận.

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài mở đầu khi giới thiệu nhân nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa.

Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Và từ một hình ảnh đó, để rồi khi liên kết xâu chuỗi với nhau, tác giả làm nổi bật được hình tượng nhân vật trong tác phẩm, mà chính hình ảnh này cũng khiến cho Nhân vật A Phủ và Mị có duyên gặp nhau.

A Phủ xuất hiện trong hoàn cảnh mà thật oái oăm, A Phủ đã xô xát đánh nhau với A Sử, con trai của thống lí Pá Tra, và chính vì điều này, A Phủ bị bắt về bị đánh đập tàn nhẫn. Sau tình huống này tác giả mới bắt đầu giới thiệu về hoàn cảnh của A Phủ, chàng là người nghèo khổ, mất hết cả cha lẫn mẹ, sống kiếp mồ côi không ai chăm sóc. Và trớ trêu hơn khi người làng đói đã bắt A Phủ xuống bán đổi lấy thóc của người Thái ở dưới cánh đồng.

Nhưng không cam chịu với số Phận, A Phủ 10 tuổi đã một mình kiếm sống, học hỏi nhiều nghề để phụ trợ cho bản thân. Từ khi còn bé, với số phận chua xót, A Phủ đã biết vượt lên và chống chọi với số phận chứ không để số phận khiến anh có một số phận trớ trêu. Sức sống tiềm tàng của một người đã sớm được bộc lộ, không chỉ khi nhỏ mà khi lớn lên, A Phủ là một chàng thanh niên nổi bật, hiền lành và chăm chỉ lao động. Không những thế, A Phủ dưới lời miêu tả của Tô Hoài là một người có sức khỏe hơn người.

A Phủ còn là một con người có đời sống phóng khoáng, yêu đời và chính nghĩa, bởi vì thế nên khi có chuyện bất bình, dù biết phần thiệt sẽ thuộc về mình và không biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ vẫn quyết làm điều đó. Ta thấy ở đây A Phủ là một con người liều lĩnh và chí khí.

Hơn vậy, chính vì lối sống phóng khoáng, sức khỏe hơn người nên anh có nhiều người để ý. Nhiều cô gái lấy làm yêu quý A Phủ nhưng vì tập tục cưới khắc nghiệt ở xã hội phong kiến miền núi đương thời, A Phủ bị người ta khinh thường và một lí do nữa, A Phủ làm sao có đủ tiền mà hỏi và cưới vợ.

Khi bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, A Phủ trở thành nô lệ cho nhà thống lí, và với bản năng của mình, A Phủ không than, không van xin lấy một lời, A Phủ không bao giờ chịu khuất phục dù trước mình là ai. A Phủ bị đánh rất tàn nhẫn, mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. “Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”.

Những câu văn rất chân thực để miêu tả lại cảnh xử kiện độc đáo ấy, có đến vài lần nhà văn nhắc đến hình ảnh khói thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ, ông còn sử dụng những câu văn mang tính chất liệt kê và phép lặp cú pháp để nhấn mạnh tính chất dã man của cường quyền trong nhà Pá Tra đối với người dân ở miền núi Tây Bắc thời kì phong kiến thực dân thống trị. Bị phạt vạ, A Phủ thành người ở không công quần quật với hàng núi công việc.

A Phủ có thể đốt rừng, cày nương, vỡ nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò ngoài rừng, có những khi đói rừng, hổ gấu thường tìm đến các đàn trâu bò dê ngựa, A Phủ phải ở lều luôn hàng tháng trong rừng. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa, áp bức nhân dân quá trơ trẽn.

A Phủ chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình, có nhà, hơn nữa, anh đã gây nên tội thì cũng phải chịu phạt. Nhưng khi có một vụ việc xảy ra đó là khi hổ vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời Thống Lý, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng anh đành phải tự tay đóng cọc và lấy một cuộn dây mây để người ta trói mình.

Ở trong nhà thống lí Pá Tra, sinh mạng anh đúng là đã bị coi thường, anh phải thế mạng cho một con bò đã bị hổ ăn thịt. Và giọt nước mắt trên hõm má đã xám đen lại của anh là giọt nước mắt của sự đắng cay, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng. Tuy vậy chúng ta thấy được ở A Phủ có một sức phản kháng rất mạnh mẽ, nó được nuôi dưỡng từ khi còn bé cơ cực.

Anh chịu đánh trong lúc xử kiện vì anh gây ra tội nhưng khi anh đánh mất bò thì anh sẵn sàng muốn lấy công chuộc tội và anh tin rằng mình sẽ bắt được con hổ. Bị trói từ chân đến vai nhưng đêm đến anh đã cúi xuống nhay đứt hai vòng dây mây, anh tìm cách để tự giải thoát mình. Cùng lúc đó khi được Mị cứu, lúc ấy anh đã kiệt sức, vì mấy ngày bị trói, bị đói khát, đau đớn.

Nhưng vì cái chết sẽ có thể đến ngay, anh đã quật sức vùng dậy chạy để thoát khỏi xiềng xích nhà thống lí, thoát khỏi cuộc đời nô lệ. Khi mà Mị chạy theo muốn đi cùng A Phủ thì A Phủ để cho Mị đi theo, anh không những cứu được mình mà còn cứu được cả Mị.

Sau khi vượt khỏi nhà thống lí, A Phủ đã tìm tới vùng đất mới để sinh sống. Ở đây, anh cũng như nhiều người dân khác phải chịu cuộc sống vô cùng khổ cực do sự áp bức của bọn thực dân phong kiến nhưng khi gặp được cán bộ cách mạng, anh nhanh chóng trở thành một người cách mạng, một đội trưởng du kích dũng cảm, là người tiêu biểu cho khả năng cách mạng lớn lao của người dân miền núi Tây Bắc. Hình ảnh khi A Phủ giác ngộ được chân lí cách mạng là một hình ảnh đẹp, không chỉ A Phủ mà là hiện thân cho những con người ở Tây Bắc.

Bằng ngòi bút tài năng và miêu tả tinh tế của mình, Tô Hoài đã làm nổi bật được hình tượng và khí phách của A Phủ – nhân vật điển hình trong truyện. Cùng với A Phủ là Mị, dù bị áp bức nhưng họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc, họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình.

*****

Trên đây là 25 bài mẫu Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài lớp 12 ngắn gọn hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình với điểm số cao nhất.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học tập

5/5 - (1 bình chọn)


Cô Nguyễn Thanh Phương

Trường THCS Bình Chánh với mục tiêu chung là tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh có thể phát triển khả năng và đạt được thành công trong quá trình học tập. Chúng tôi cam kết xây dựng một không gian học tập đầy thách thức, sáng tạo và linh hoạt, nơi mà học sinh được khuyến khích khám phá, rèn luyện kỹ năng và trở thành những người học suốt đời.

Bài viết liên quan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button