Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em yêu thích bao gồm hướng dẫn viết cùng 15 bài mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn sẽ là tài liệu hữu ích cho các em học sinh lớp 4 trau dồi vốn từ, củng cố kỹ năng viết đoạn văn ngày một hoàn thiện hơn.
Đề bài: Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em yêu thích.
Hướng dẫn Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em yêu thích lớp 4
I/ Mở bài:
Bạn đang xem: Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em yêu thích lớp 4 (15 Mẫu)
– Ở trước nhà em có trồng rất nhiều cây tre. Mỗi khi rảnh rỗi, em thường ngồi đếm các đốt của cây tre.
– Ông là người kể cho em nghe câu chuyện cổ tích Cây tre trăm đốt.
II/ Thân bài:
– Chuyện kể về một anh chàng thanh niên tuy nghèo khó nhưng rất khỏe mạnh, chịu khó làm lụng. Anh làm đầy tớ cho một ông lão, và được ông ta hứa là nếu chịu khó làm lụng cho nhà lão mà không lấy tiền thì lão sẽ gả cô con gái xinh đẹp của mình cho.
– Tuy nhiên, khi đến lúc cô con gái xinh đẹp trưởng thành thì ông ta đổi ý. Muốn gả cô cho tên phú hộ trong làng.
– Vì vậy, hắn nói với chàng trai rằng, hãy tìm cho được một cây tre trăm đốt về làm đũa cưới thì mới gả con gái cho.
– Thế là chàng trai hì hục thi tìm cây tre trăm đốt. thế nhưng chàng tìm mãi, tìm mãi vẫn không tìm được cây tre trăm đốt nào cả.
– Quá mệt mỏi và tuyệt vọng, chàng ngồi xuống bật khóc tức tưởi.
– Đúng lúc đó bụt hiện lên, bảo anh hãy chặt một trăm đốt tre và dạy cho anh hai câu thần chú. Câu thần chú “Khắc nhập, khắc nhập” để một trăm đốt tre tự gắn lại với nhau tạo thành cây tre trăm đốt. Câu thần chú “Khắc xuất, khắc xuất” để các đốt tre tự rời nhau ra để tiện di chuyển.
– Thế là chàng trai mừng rỡ mang tre về nhà. Về đến nơi, chàng thấy trên sân là đám cỗ linh đình thì nhận ra là mình bị lừa.
– Thế là, chàng vội chạy lại, gọi ông lão lại xem cây tre trăm đốt. Khi lão ta vừa lại gần, chàng đọc ngay “Khắc nhập, khắc nhập” khiến lão bị dính luôn vào cây tre, trở thành đốt tre một trăm linh một. Cả nhà hỗn loạn, đầy tờ tìm mọi cách vẫn không gỡ lão ra được. mãi sau, lão đồng ý gả con gái cho chàng đúng như đã hứa. Chàng không tin ngay, mà bắt lão thề thốt nhiều lần mới thả cho lão xuống.
III/ Kết bài:
Từ đó, mọi người ai cũng nể phục chàng lắm. Còn chàng thì cưới được cô vợ xinh đẹp, chung sống bên nhau hạnh phúc.
Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em yêu thích – Mẫu 1
Trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, có rất nhiều câu chuyện hay và ý nghĩa. Câu chuyện cổ tích đầu tiên mà em được đọc, cũng là câu chuyện mà em yêu thích nhất. Đó là câu chuyện cổ tích Cây khế.
Cây khế kể về hai anh em ruột cùng chung sống trong một ngôi nhà nhưng lại có tính cách trái ngược nhau. Người anh trai tham lam, lười biếng bao nhiêu, thì người em lại chăm chỉ, lương thiện bấy nhiêu. Một ngày nọ, người cha đột ngột qua đời mà không để lại lời dặn dò nào. Người anh trai liền nhân cơ hội đó, dành lấy hết mọi tài sản và chia cho em mình duy nhất một cây khế già, rồi đuổi em ra sống ở túp lều nhỏ cạnh cây khế. Tuy bị anh trai đối xử như vậy, người em vẫn không hề oán hận. Cuộc sống tuy khó khăn, vất vả nhưng người em vẫn lạc quan, chăm chỉ tiến tới. Cậu còn thường xuyên giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn ở trong làng, nên rất được mọi người yêu quý.
Mùa hè năm đó, cây khế già nhà người em trai bất ngờ sai trái. Quả nào cũng to và ngọt nước, nên thu hút nhiều chim chóc đến ăn. Một hôm, từ phương xa bay đến một con chim lớn. Nó ăn rất nhiều quả, mà ngày nào cũng đến ăn nên tán khế thưa thớt quả dần. Thấy vậy, người em bèn ra đứng dưới gốc cây than thở với chim về hoàn cảnh khó khăn của gia đình mình, mong chim đừng đến ăn trái nữa. Ngờ đâu, con chim ấy lại biết nói tiếng người, đã vậy còn hứa hẹn sẽ dùng vàng trả tiền cho số khế nó đã ăn. Nó hẹn người em trai may túi ba gang, rồi chờ nó đến chở ra đảo lấy vàng. Hôm sau, chim thần thật sự xuất hiện và đưa người em ra một hòn đảo lớn chứa đầy vàng bạc châu báu. Nhờ chuyến đi đó, mà gia đình người em trở nên giàu có, sung túc.
Hay tin, người anh trai tham lam lập tức lân la sang nhà để hỏi thăm. Biết chuyện chim thần, hắn đem hết gia sản của mình để đổi lấy cây khế của em trai. Rồi lại bắt chước em ra gốc cây than thở với chim thần. Nhờ vậy, hắn cũng được chim thần hứa hẹn đưa ra đảo vàng như đã hứa với người em. Tuy nhiên, sự tham lam và xảo trá, đã khiến hắn ta may một chiếc túi những mười hai gang. Đã vậy, hắn còn cố nhồi nhét thêm vàng vào túi áo, túi quần. Điều đó làm chim thần chật vật mãi mới bay lên cao được. Nhưng xui xẻo thay, trên đường về bất ngờ có cơn bão lớn ập đến, khiến chim rớt xuống biển. Tuy nhiên, chim thần nhanh chóng vỗ cánh vùng bay lên được. Còn tên anh trai tham lam thì vì buộc lên người số vàng quá lớn, nên đã nhanh chóng chìm sâu xuống biển
Kết cục ấy của câu chuyện đã dạy cho người đọc bài học ý nghĩa. Rằng ở đời, người sống hiền lành sẽ được hưởng may mắn, còn kẻ tham lam, xảo trá thì sẽ bị trừng phạt.
Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em yêu thích – Mẫu 2
Câu chuyện cổ tích mà em yêu thích nhất, có thể đọc đi đọc lại nhiều lần mà không thấy chán, chính là câu chuyện Cô bé Lọ Lem.
Câu chuyện kể về Lọ Lem – một cô gái mồ côi cả cha và mẹ, phải sống cùng bà dì ghẻ độc ác, cùng hai cô con gái xấu tính, lười biếng của bà ta. Tuy nhiên, dù hoàn cảnh khó khăn, Lọ Lem vẫn giữ vững cho mình một trái tim ấm áp và lương thiện. Càng lớn lên, cô càng xinh đẹp và chăm chỉ, dịu dàng hơn trước.
Năm ấy, hoàng tử đến tuổi kết hôn, nên quyết định tổ chức dạ hội để tìm kiếm cho mình một người vợ. Lọ Lem cũng rất muốn tham gia, nhưng cô không có trang phục để mặc. Điều đó khiến cô vô cùng buồn rầu. Khi nhìn mẹ con dì ghẻ xúng xính váy áo đi dự hội, Lọ Lem ngồi trước sân nhà bật khóc nức nở. Bỗng một bà tiên hiện ra, hỏi thăm tình hình của cô gái tội nghiệp. Khi biết chuyện gì đã xảy ra, bà liền dùng gậy phép biến ra cho Lọ Lem một chiếc váy dạ hội lộng lẫy và đôi giày thủy tinh lấp lánh. Bà còn biến ra cỗ xe ngựa hoành tráng đưa cô đến lâu đài của nhà vua. Tối hôm đó, Lọ Lem trở thành trung tâm của bữa tiệc, cô và hoàng tử khiêu vũ cùng nhau rất lâu. Tuy nhiên, khi sắp đến 12h đêm – khi phép thuật của bà tiên sẽ biến mất, Lọ Lem buộc phải vội vàng trở về nhà mà không kịp tạm biệt hoàng tử. Cô đánh rơi chiếc giày thủy tinh của mình ở lại mà không kịp nhặt lên. Nhưng chính nhờ chiếc giày đánh rơi ấy, mà hoàng tử đã tìm thấy Lọ Lem. Bởi cả vương quốc, chỉ mình cô mới có thể đi vừa chiếc giày ấy. Và trong tay cô cũng còn giữ một chiếc giày còn lại. Thế là từ ngày ấy, Lọ Lem trở thành vợ của hoàng tử, sống cuộc sống hạnh phúc.
Kết thúc của câu chuyện, người hiền lành, tốt bụng được đền đáp bằng một cuộc sống viên mãn. Điều đó khiến em rất vụi và hạnh phúc cho nàng Lọ Lem. Thật mong rằng, trong cuộc sống này, mọi nguồi đều sẽ tìm được hạnh phúc cho chính mình.
Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em yêu thích – Mẫu 3
Ngày xưa có hai anh em nhà nọ cha mẹ mất sớm để lại cho một ngôi nhà ngói và một số ruộng vườn.
Mấy năm sau, hai anh em đều lấy vợ, không thể ở chung với nhau được nữa. Người anh bèn chia gia tài. Vốn tham lam, người anh giành hết ruộng vườn nhà cửa, chỉ chia cho người em một mái nhà gianh và một cây khế.
Vợ chồng người em hiền lành và cần cù, cày thuê cuốc mướn kiếm sống. Cây khế được vun gốc, bón phân, tưới nước, bắt sâu, ngày một tươi tốt, cành lá sum suê tỏa bóng mát một góc sân.
Mùa hè năm ấy, cây khế ra hoa rồi kết quả. Ngày qua tháng lại, trái khế trĩu cành. Những quả khế to năm cánh bóng mượt, vàng óng dần lên. Vợ chồng người em khấp khởi mừng thầm: tiền bán khế sẽ mua được ít nhiều lúa gạo.
Nhưng một buổi sáng tinh mơ, có con chim Đại Bàng ở đâu bay đến cây khế. Chim ăn hết quả chín này đến quả chín khác. Vợ chồng người em lo lắm, không biết làm thế nào. Cả hai vợ chồng cùng thốt lên lời than:
– Cơ nghiệp vợ chồng tôi chỉ có ngần ấy! Chim ăn hết thì biết trông cậy vào đâu khi ngày ba, tháng tám!
Kì lạ thay, con chim lạ cất tiếng nói:
– Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng.
Biết là con chim thần, người vợ may cho chồng một cái túi ba gang. Họ thấp thỏm đợi chờ.
Mấy ngày sau, đại bàng lại bay đến, xòe rộng đôi cánh, rồi đỗ xuống sân. Chim cất tiếng gọi rối rít. Người em mang theo cái túi ba gang, nhẹ nhàng leo lên mình chim, ôm lấy cổ chim. Đại bàng vỗ cánh bay lên cao.
Chim chở người em bay qua những cánh đồng xanh bát ngát, vượt qua những ngọn đồi, dãy núi điệp trùng, bay dọc theo những dòng sông như dải thát lưng xanh xa dài tít tắp. Lúc bay thấp, lúc bay cao lẩn vào những cồn mây trắng như bông. Rồi chim sải cánh vút qua biển rộng, nước xanh biếc một màu mênh mông. Đại Bàng bay mải miết. Người em say sưa và xúc động trước cảnh đất trời mây nước bao la. Đến non trưa, chim lượn ba vòng rồi đậu xuống một hòn đảo lấp lánh giữa biển.
Một cảnh tượng vô cùng kì lạ hiện ra. Cả một kho báu rực rỡ lấp lánh sắc màu. Bạch ngọc, hồng ngọc, ngọc tị trân chân, ngọc lam,… đủ hình dáng to nhỏ. Còn vàng khối thì có không biết bao nhiêu mà kể. Như lạc vào cõi thần tiên, người em chỉ biết say sưa ngắm nhìn gần xa. Và khi nghe chim giục, người em chọn mỗi thứ một ít vàng ngọc bỏ vào cái túi ba gang.
Lại trèo lên mình chim, người em một tay giữ lấy túi vàng, một tay ôm lấy cổ chim. Đại bàng vút bay qua biển rộng sông dài, băng qua những dãy núi đồi, vượt qua những cánh đồng lúa xanh rì… Trước mắt anh, làng cũ thân thuộc đã hiện ra. Đại bàng lượn ba vòng xung quanh cây khế, nhẹ đáp xuống sân. Khi người vợ trẻ chạy ra đón chồng, xách hộ cái túi ba gang đựng đầy châu báu đưa vào nhà, thì đại bàng cũng vút bay lên chín tầng mây xanh.
Vợ chồng người em trở nên giàu có từ đó.
Người anh biết chuyện, đòi đổi nhà cửa ruộng vườn của mình lấy cây khế và mái lều gianh. Mùa khế năm sau, đại bàng lại bay đến ăn quả. Vợ chồng người anh đã chực sẵn bao tháng ngày, vội vàng chạy ra kêu to lên.
Đại bàng cất tiếng:
– Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng.
Vợ chồng người anh bàn bạc mãi. Cuối cùng may một cái túi rõ to, rõ dài, một cái túi chín gang. Rồi đại bàng đúng hẹn bay đến chở người anh bay thẳng một mạch đến đảo vàng. Người anh lóa mắt lên trước núi vàng, núi ngọc. Anh ta nhặt và nhét đầy cái túi to. Anh ta còn nhặt nhiều thỏi vàng dắt vào xung quanh cạp quần. Chim giục mãi, anh ta mới chịu trèo lên lưng chim. Chim đập cánh ba, bốn lần mới bay lên được. Khi ra đến giữa biển, gió mạnh thổi lên, chim mỏi quá nghiêng cánh. Cả cái túi vàng nặng trĩu rơi xuống kéo theo kẻ tham lam xuống đáy biển.
Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em yêu thích – Mẫu 4
Truyện cổ tích là nơi ông cha ta gửi gắm những bài học ý nghĩa. Câu chuyện Ba lưỡi rìu là câu chuyện cổ tích mà bà em đã kể cho em nghe, để dạy cho em bài học về lòng trung thực.
Câu chuyện kể về một chàng tiều phu có hoàn cảnh khó khăn, với tài sản duy nhất là chiếc rìu sắt cũ kĩ mà cha để lại. Một ngày nọ, khi đang chặt củi bên bờ sông, lưỡi rìu vô tình rơi xuống nước. Khi anh đang lo lắng, thì bất ngờ một vị thần sông xuất hiện. Ông lão có bộ râu trắng như cước, gương mặt hiền từ, trông thật dễ mến. Khi chàng tiều phu đang phân vân, ông đã bảo rằng sẽ giúp anh tìm lại lưỡi rìu. Lần đầu tiên ông tìm được một lưỡi rìu bằng vàng sáng chói, nhưng anh lắc đầu bảo không phải. Lần thứ hai, ông lại đưa ra một chiếc lưỡi rìu bằng bạc, nhưng lần nữa anh vẫn từ chối. Rõ ràng, hai lưỡi rìu ấy đều rất có giá trị, có thể giúp cuộc sống của anh trở nên đầy đủ hơn. Nhưng anh vẫn quyết không bị vàng bạc làm mờ mắt. Nhất định giữ vững lòng trung thực của bản thân. Điều đó làm thần sông rất hài lòng. Để khen thưởng cho anh, ông không chỉ giúp anh tìm lại lưỡi rìu sắt cũ, mà còn tặng cho anh cả hai lưỡi rìu bằng vàng và bạc.
Từ câu chuyện đó, em rút ra bài học rằng lòng trung thực sẽ giúp chúng ta có một nhân cách tốt, được mọi người yêu quý và giúp đỡ. Câu chuyện cổ tích Ba lưỡi rìu vừa hay lại ý nghĩa vô cùng.
Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em yêu thích – Mẫu 5
Câu chuyện cổ tích Hàn Quốc đầu tiên mà em được đọc là truyện Non-bu và Heng-bu.
Câu chuyện kể về hai anh em có tính cách đối lập. Người anh Non-bu độc ác, tham lam còn người em Heng-bu thì hiền lành, lương thiện. Một ngày nọ, Heng-bu tốt bụng cứu giúp chú én nhỏ bị gãy cánh. Nên được chú én đền ơn bằng một hạt giống thần. Hạt giống mọc lên, cho ra những quả bầu lớn chứa đầy vàng bạc. Nhờ thế mà người em trở nên giàu sang. Người anh thấy vậy liền nảy long tham. Tìm bắt chim én để bẻ gãy cánh, đòi hạt giống thần. Nhưng khi cây cho ra quả, thì lại toàn là rắn rết, kẻ cướp… khiến hắn ta bị trừng phạt mất hết tất cả.
Kết cục của câu chuyện là bài học vô cùng ý nghĩa mà người xưa gửi gắm cho con cháu. Đó là bài học “ở hiền gặp lành”, “gieo gió gặt bão”.
Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em yêu thích – Mẫu 6
Ngày xưa, có hai vợ chồng một lão nông nghèo đi ở cho nhà một phú ông. Họ hiền lành, chăm chỉ nhưng đã ngoài năm mươi tuổi mà chưa có lấy một mụn con. Một hôm, người vợ vào rừng lấy củi. Trời nắng to, khát nước quá, thấy cái sọ dừa bên gốc cây to đựng đầy nước mưa, bà bèn bưng lên uống. Thế rồi, về nhà, bà có mang. Ít lâu sau, người chồng mất. Bà sinh ra một đứa con không có chân tay, mình mẩy, cứ tròn lông lốc như một quả dừa. Bà buồn, toan vứt nó đi thì đứa bé lên tiếng bảo.
– Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp.
Bà lão thương tình để lại nuôi rồi đặt tên cho cậu là Sọ Dừa. Lớn lên, Sọ Dừa vẫn thế, cứ lăn lông lốc chẳng làm được việc gì. Bà mẹ lấy làm phiền lòng lắm. Sọ Dừa biết vậy bèn xin mẹ đến chăn bò cho nhà phú ông.
Nghe nói đến Sọ Dừa, phú ông ngần ngại. Nhưng nghĩ: nuôi nó thì ít tốn cơm, công sá lại chẳng đáng là bao, phú ông đồng ý. Chẳng ngờ cậu chăn bò rất giỏi. Ngày ngày, cậu lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về nhà. Cả đàn bò, con nào con nấy cứ no căng. Phú ông lấy làm mừng lắm!
Vào ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Trong những lần như thế, hai cô chị kiêu kỳ, ác nghiệt thường hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có cô em vốn tính thương người là đối đãi với Sọ Dừa tử tế.
Một hôm đến phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Mới đến chân núi, cô bỗng nghe thấy tiếng sáo véo von. Rón rén bước lên cô nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi trên chiếc võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Thế nhưng vừa mới đứng lên, tất cả đã biến mất tăm, chỉ thấy Sọ Dừa nằm lăn lóc ở đấy. Nhiều lần như vậy, cô út biết Sọ Dừa không phải người thường, bèn đem lòng yêu quý.
Đến cuối mùa ở thuê, Sọ Dừa về nhà giục mẹ đến hỏi con gái phú ông về làm vợ. Bà lão thấy vậy tỏ ra vô cùng sửng sốt, nhưng thấy con năn nỉ mãi, bà cũng chiều lòng.
Thấy mẹ Sọ Dừa mang cau đến dạm, phú ông cười mỉa mai:
– Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.
Bà lão đành ra về, nghĩ là phải thôi hẳn việc lấy vợ cho con. Chẳng ngờ, đúng ngày hẹn, bỗng dưng trong nhà có đầy đủ mọi sính lễ, lại có cả gia nhân ở dưới nhà chạy lên khiêng lễ vật sang nhà của phú ông. Phú ông hoa cả mắt lúng túng gọi ba cô con gái ra hỏi ý. Hai cô chị bĩu môi chê bai Sọ Dừa xấu xí rồi ngúng nguẩy đi vào, chỉ có cô út là cúi đầu e lệ tỏ ý bằng lòng.
Trong ngày cưới, Sọ Dừa cho bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập. Lúc rước dâu, chẳng ai thấy Sọ Dừa trọc lốc, xấu xí đâu chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Mọi người thấy vậy đều cảm thấy sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc lại vừa ghen tức.
Từ ngày ấy, hai vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau rất hạnh phúc. Không những thế, Sọ Dừa còn tỏ ra rất thông minh. Chàng ngày đêm miệt mài đèn sách và quả nhiên năm ấy, Sọ Dừa đỗ trạng nguyên. Thế nhưng cũng lại chẳng bao lâu sau, Sọ Dừa được vua sai đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà nói là để hộ thân.
Ganh tị với cô em, hai cô chị sinh lòng ghen ghét rắp tâm hại em để thay làm bà trạng. Nhân quan trạng đi vắng, hai chị sang rủ cô út chèo thuyền ra biển rồi cứ thế lừa đẩy cô em xuống nước. Cô út bị cá kình nuốt chửng, nhưng may có con dao mà thoát chết. Cô dạt vào một hòn đảo, lấy dao khoét bụng cá chui ra, đánh đá lấy lửa nướng thịt cá ăn. Sống được ít ngày trên đảo, hai quả trứng gà cũng kịp nở thành một đôi gà đẹp để làm bạn cùng cô út.
Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy bèn gáy to: “Ò… ó… o…. Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về”.
Quan cho thuyền vào xem, chẳng ngờ đó chính là vợ mình. Hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Đưa vợ về nhà, quan trạng mở tiệc mừng mời bà con đến chia vui, nhưng lại giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai cô chị thấy thế khấp khởi mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em rủi ro ra chiều thương tiếc lắm. Quan trạng không nói gì, tiệc xong mới cho gọi vợ ra. Hai cô chị nhìn thấy cô em thì xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ đi biệt xứ.
Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em yêu thích – Mẫu 7
Non-bu và Heng-bu là một câu chuyện cổ tích nước ngoài thú vị mà em vừa đọc gần đây.
Câu chuyện kể về hai anh em có tính cách trái ngược nhau. Người anh Non-bu tham lam, độc ác, còn em trai Heng-bu thì hiền lành, chăm chỉ. Ngày nọ, Heng-bu tình cờ cứu giúp cho một chú chim nhỏ bị gãy cánh. Thế là được chim đền ơn bằng hạt bầu thần kì. Hạt mọc lên cây bầu cao lớn, cho những trái chín bên trong chứa đầy vàng bạc châu báu.
Non-bu thấy vậy liền cố bắt chước theo em. Nhưng sự độc ác khiến hắn tự bẻ gãy chân chim để chăm sóc và đòi hạt bầu thần. Tuy nhiên, cây bầu của hắn lại cho ra toàn những trái có kẻ cướp, ăn trộm, lưu manh… Khiến Non-bu vừa bị đánh bầm dập, lại mất hết của cải, trở thành ăn mày.
Câu chuyện đã cho em hiểu được bài học về đạo lí ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ mà ông bà ta vẫn thường hay răn dạy.
Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em yêu thích – Mẫu 8
Trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, em thích nhất là câu chuyện Cây khế.
Câu chuyện kể về hai anh em trai cùng chung sống trong một gia đình, nhưng có tính cách trái ngược nhau hoàn toàn. Người anh tham lam, xảo trá, người em hiền lành, lương thiện lại chăm chỉ. Sau khi người cha qua đời, người anh xấu xa đã cướp hết toàn bộ gia sản, đuổi vợ chồng người em ra ngoài, chỉ để cho họ một cây khế già và một túp lều nhỏ. Thế là hai vợ chồng người em đành bắt đầu cuộc sống mưu sinh vất vả.
Năm nọ, cây khế ra nhiều trái ngon, hai vợ chồng định bụng đem bán kiếm thêm thu nhập. Ngờ đâu, có một con chim lớn từ nơi khác bay đến, ăn rất nhiều trái. Người em than thở với chim, mong chim đừng ăn nữa. Ngờ đâu, chim hiểu tiếng người, đã chở người em ra một hòn đảo để lấy vàng đổi cho số khế mình đã ăn. Nhờ vậy, gia đình người em trở nên giàu có, sung túc. Biết được, người anh tham lam nằng nặc xin đổi gia sản để lấy cây khế của người em. Hắn bắt chước em mình than thở để được chim chở ra đảo vàng, nhưng vì tham lam, lấy quá nhiều nên chim không chở nổi, rớt xuống biển và mất tích.
Kết thúc câu chuyện, người em hiền lành được hưởng cuộc sống hạnh phúc, còn người anh xấu xa thì nhận cái kết thích đáng. Bài học ở hiền gặp lành trong câu chuyện ấy đến nay vẫn còn vẹn nguyên giá trị.
Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em yêu thích – Mẫu 9
Ngày xửa ngày xưa, có hai anh em nhà kia cha mẹ mất sớm. Người anh tham lam, khi chia gia tài liền chiếm hết nhà cửa, ruộng vườn cha mẹ để lại, chỉ cho người em một túp lều nhỏ và mảnh vườn, trong đó có cây khế ngọt. Người em không chút phàn nàn, ngày ngày chăm bón cho mảnh vườn và cây khế.
Năm ấy, cây khế trong vườn nhà người em ra quả rất sai. Từng chùm quả chín vàng như nặng lúc lỉu trên cành. Người em nhìn cây khế mà vui mừng, tính đem bán để lấy tiền mua gạo.
Một hôm, có con chim lạ từ đâu bay đến ăn khế. Thấy cây khế bị chim ăn xơ xác người em ôm mặt khóc. Chim bỗng cất lời: “Ăn một quả trả một cục vàng. May túi ba gang, mang đi mà đựng”
Người em nghe chim nói tiếng người lấy làm kinh ngạc, bèn về kể cho vợ nghe. Hai vợ chồng may một chiếc túi vừa đúng ba gang, chờ chim đến. Hôm sau, chim bay đến, bảo người em ngồi lên lòng mình. Chim bay rất xa, đến một hòn đảo đầy vàng bạc giữa biển khơi bao la. Người em lấy vàng bỏ đầy túi ba gang rồi lại theo chim trở về nhà. Từ đó, người em trở nên giàu có.
Người anh nghe thấy em giàu liền sang chơi và lân la hỏi chuyện. Em không giấu giếm kể lại cho anh tường tận mọi điều. Người anh nằng nặc đòi đổi nhà cửa ruộng vườn của mình lấy mảnh vườn và cây khế, người em dù không muốn nhưng thấy anh cương quyết quá cũng đành đổi cho anh.
Mùa năm sau, cây khế lại sai trĩu những quả vàng chín mọng, người anh khấp khởi mừng thầm, ngày ngày ngóng chờ con chim lạ tới. Thế rồi một hôm, chim tới ăn khế, người anh giả vờ khóc lóc, chim cũng nói: “Ăn một quả trả một cục vàng. May túi ba gang, mang đi mà đựng”
Người anh nghe vậy, mừng như mở cờ trong bụng, vội vã cùng vợ may một chiếc túi to thật là to. Hôm sau chim tới đưa người anh đi lấy vàng ở hòn đảo xa lạ nọ. Nhìn thấy vàng bạc châu báu trên đảo, người anh vội vàng nhét đầy túi to, lại còn giắt khắp người. Khi người anh leo lên lưng chim, chim phải vỗ cánh mấy lần mới bay lên được. Vì quá nặng nên chim bay chậm, mãi vẫn ở trên biển. Chim bảo người anh vứt bớt vàng bạc đi nhưng anh ta không chịu. Chim nặng quá, nghiêng cánh, thế là người anh tham lam cùng túi vàng rơi xuống biển sâu, không bao giờ trở về được nữa.
Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em yêu thích – Mẫu 10
Cây tre trăm đốt là câu chuyện cổ tích mà em yêu thích nhất.
Câu chuyện kể về một anh chàng nông dân hiền lành, tốt bụng, thật thà lại chăm chỉ, chịu khó. Để mưu sinh, anh đến làm việc cho nhà phú ông. Phú ông thấy anh khỏe mạnh, chịu khó làm việc nên nghĩ mưu lừa tiền anh. Hắn nói rằng nếu anh làm việc chăm chỉ cho hắn, không lấy tiền công, thì sau ba năm sẽ gả con gái cho anh. Thế là, suốt ba năm, anh nông dân ra sức cày cuốc, làm việc cả ngày lẫn đêm, giúp cho lão phú ông có thêm rất nhiều của cải.
Đến hẹn, lão phú ông tìm cách lừa gạt anh nông dân. Đòi sính lễ là cây tre có một trăm đốt. Trong lúc anh nông dân vất vả tìm kiếm trong bất lực, ở nhà, lão phú ông đã làm đám cưới gả con mình cho con trai của một phú hộ khác. Ngờ đâu, anh nông dân được ông bụt hiện lên giúp đỡ. Dạy cho câu thần chú “khắc nhập, khắc nhập” để ghép một trăm đốt tre thành cây tre trăm đốt. Trở về nhà, nhìn thấy đám cưới linh đình, biết mình bị lừa, anh nông dân tức giận lắm. Anh đọc câu thần chú, dính cả phú ông vào cây tre, bắt ông ta phải thực hiện lời hứa mới thả ra.
Cuối truyện, anh nông dân khổ tận cam lai, cưới được vợ như mong ước. Qua đó, câu chuyện dạy cho em bài học “ở hiền gặp lành” mà ông cha ta luôn tin tưởng.
Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em yêu thích – Mẫu 11
Ngày xưa, có một cậu bé được mẹ cưng chiều nên rất nghịch và ham chơi. Một lần, bị mẹ mắng, cậu vùng vằng bỏ đi. Cậu la cà khắp nơi, mẹ cậu ở nhà không biết cậu ở đâu nên buồn lắm. Ngày ngày mẹ ngồi trên bậc cửa ngóng cậu về. Một thời gian trôi qua mà cậu vẫn không về. Vì quá đau buồn và kiệt sức, mẹ cậu gục xuống. Không biết cậu đã đi bao lâu. Một hôm, vừa đói vừa rét, lại bị trẻ lớn hơn đánh, cậu mới nhớ đến mẹ.
– Phải rồi, khi mình đói, mẹ vẫn cho mình ăn, khi mình bị đứa khác bắt nạt, mẹ vẫn bên mình, về với mẹ thôi.
Cậu liền tìm đường về nhà. Ở nhà, cảnh vật vẫn như xưa, nhưng không thấy mẹ đâu. Cậu khản tiếng gọi mẹ:
– Mẹ ơi, mẹ đi đâu rồi, con đói quá ! – Cậu bé gục xuống, rồi ôm một cây xanh trong vườn mà khóc.
Kỳ lạ thay, cây xanh bỗng run rẩy. Từ các cành lá, những đài hoa bé tí trổ ra, nở trắng như mây. Hoa tàn, quả xuất hiện, lớn nhanh, da căng mịn, xanh óng ánh. Cây nghiêng cành, một quả to rơi vào tay cậu bé.
Cậu bé cắn một miếng thật to. Chát quá! Quả thứ hai rơi xuống. Cậu lột vỏ, cắn vào hạt quả. Cứng quá. Quả thứ ba rơi xuống. Cậu khẽ bóp quanh quanh quả, lớp vỏ mềm dần rồi khẽ nứt ra một kẽ nhỏ. Một dòng sữa trắng sóng sánh trào ra, ngọt thơm như sữa mẹ.
Cậu bé ghé môi hứng lấy dòng sữa ngọt ngào, thơm ngon như sữa mẹ.
Cây rung rinh cành lá, thì thào :
– Ăn trái ba lần mới biết trái ngon. Con có lớn khôn mới hay lòng mẹ.
Cậu oà lên khóc. Mẹ đã không còn nữa. Cậu nhìn lên tán lá, lá một mặt xanh bóng, mặt kia đỏ hoe như mắt mẹ khóc chờ con. Cậu ôm lấy thân cây mà khóc, thân cây xù xì, thô ráp như đôi bàn tay làm lụng của mẹ. Nước mắt cậu rơi xuống gốc cây, Cây xòa cành ôm cậu, rung rinh cành lá như tay mẹ âu yếm vỗ về.
Cậu kể cho mọi người nghe chuyện về người mẹ và nỗi ân hận của mình. Trái cây thơm ngon ở vườn nhà cậu, ai cũng thích. Họ đem về gieo trồng khắp nơi và đặt tên là Cây Vú Sữa.
Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em yêu thích – Mẫu 12
Sáng nay, lúc ở thư viện em đã được đọc câu chuyện cổ tích Em bé thông minh rất hay và thú vị.
Câu chuyện lấy bối cảnh nước ta vào thời xa xưa, khi nhà vua rất trọng hiền tài. Ngài đã ra lệnh cho sứ giả đi khắp cả nước tìm người tài về giúp mình việc nước. Khi đi đến một làng nọ, sứ giả đã gặp được một cậu bé – nhân vật chính trong câu chuyện. Tất cả, cậu đã vượt qua bốn lần thử thách để chứng minh trí thông minh của mình.
Lần thứ nhất, cậu bé đã đố ngược lại sứ giả rằng “Con ngựa của ông một ngày đi được mấy đường?”, để đối lại câu hỏi khó nhằn “Con trâu kia một ngày cày được mấy đường?” của ông. Lần thứ hai, câu vượt qua thử thách của nhà vua. Khi ngài ban cho ba con trâu đực và ba thúng xôi nếp, yêu cầu phải đẻ thành chín con. Cậu đã mời cả làng thịt trâu, đồ xôi ăn uống no say. Rồi lên kinh thành, giả vờ yêu cầu vua bắt cha mình phải sinh em cho. Khi nhà vua khó xử vì không thể yêu cầu đàn ông sinh con được, thì cậu hỏi ngược lại rằng vậy sao ngài yêu cầu nuôi trâu đực để sinh ra nghé con. Sự thông minh ấy của cậu khiến vua phải kinh ngạc. Nhưng chưa chắc lắm, vua lại thử cậu lần thứ ba. Yêu cầu làm thịt con chim sẻ để làm ba mâm cỗ. Cậu liền nhanh trí đưa một cây kim nhờ nhà vua cho rèn thành con dao để xẻ thịt chim. Lần này, vua thực sự tin rằng cậu bé là người tài. Ngay sau đó, sứ giả nước láng giềng mang sang một câu hỏi khó, rằng phải xỏ sợi dây qua đường ruột ốc. Cả triều đình đều bó tay, mà cậu bé vừa nghe đã giải được, còn hát thành một bài nhạc. Vậy là, cả triều đình đều khâm phục tài năng của cậu. Nên nhà vua đã phong cậu làm trạng nguyên.
Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em yêu thích – Mẫu 13
Thuở xưa, ở vùng đất Lạc Việt có vị thần tên là Lạc Long Quân, con trai của thần Long Nữ sống ở dưới biển Đông. Thần mình rồng, sức khỏe phi thường và có nhiều phép lạ. Thỉnh thoảng thần lên sống trên cạn, giúp dân diệt trừ các loài yêu quái như Ngư Tinh, Hồ tinh, Mộc Tinh. thần còn dạy dân cách trồng trọt và sinh sống. Âu Cơ là một tiên nữ dòng dõi Thần Nông ở vùng núi cao phương Bắc. Nàng thích ngao du đây đó, những nơi có phong cảnh đẹp. Bên trai tài, bên gái sắc, họ yêu nhau rồi kết thành vợ chồng.
Ít lâu sau, Âu Cơ sinh ra cái bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con khôi ngô tuấn tú lạ thường. Chẳng còn bú mớm mà đàn con lớn nhanh như thổi, khỏe mạnh như thần.
Một hôm, nhớ biển cả và cảm thấy mình không thể sống lâu trên cạn được, Lạc Long Quân đành từ biệt Âu Cơ để trở về chốn thủy cung. Âu Cơ một mình nuôi con. Ngày lại ngày qua, nàng sốt ruột trông ngóng chồng với tâm trạng buồn tủi. Cuối cùng, nàng gọi chồng lên mà than thở:
– Sao chàng nỡ bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi các con?!
Lạc Long Quân ân cần giải thích:
– Ta vốn nòi rồng ở miền nước thẳm, nàng là dòng tiên ở chốn non cao. Kẻ trên cạn người dưới nước, tính tình tập quán khác nhau, khó lòng mà ăn ở cùng nhau một nơi lâu dài được. Nay ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản các phương. Kẻ miền núi, người miền biển, khi có việc gì khó khăn thì giúp đỡ nhau, đừng quên lời hẹn.
Âu Cơ nghe theo đưa năm mươi người con lên đất Phong Châu. Người con trưởng được tôn làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, lập ra nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (vùng Bạch Hạc, Lâm Thao, Phú Thọ ngày nay). Triều đình có quan văn, quan võ (Lạc tướng, Lạc hầu). Con trai của vua gọi là lang, con gái vua gọi là mị nương. Vua cha chết, con trai trưởng nối ngôi. Mười tám đời vua kế tiếp nhau đều lấy hiệu Hùng Vương.
Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em yêu thích – Mẫu 14
Ngày xưa, ở quận Cao Bình có vợ chồng làm nghề đốn củi hiền lành, giàu lòng thương người. Ngọc Hoàng thương tình hai vợ chồng hiếm hoi bèn cho Thái tử xuống trần đầu thai. Người vợ mang thai, nhưng đã nhiều năm vẫn chưa sinh nở. Rồi người chồng qua đời. Mãi mấy năm sau, người mẹ già mới sinh được đứa con trai rất khôi ngô, đặt tên là Thạch Sanh. Chẳng bao lâu sau, mẹ hiền cũng qua đời. Thạch Sanh bơ vơ, lấy gốc đa làm nhà, kiếm củi độ thân. Ngọc Hoàng rất thương, bèn sai thiên thần xuống trần dạy Thạch Sanh võ nghệ, các phép thần thông biến hóa, và cho búa thần làm vũ khí.
Gần vùng có tên Lý Thông làm nghề bán rượu. Hắn đã đón Thạch Sanh về nhà kết nghĩa làm anh em. Năm ấy, đến lượt Lý Thông phải nộp mình cho Chằn tinh. Lý Thông đánh lừa Thạch Sanh “đi canh miếu thần” để thế mạng. Nửa đêm, Chằn tinh xông đến vồ mồi, hai bên đánh nhau dữ dội. Chằn tinh tàng hình dùng phép lạ. Thạch Sanh vung búa thần chém chết Chằn tinh, cắt đầu và xả xác quái vật, Thạch Sanh được bộ cung tên thần bằng vàng. Xách đầu Chằn tinh về, Thạch Sanh đập cửa gọi. Hai mẹ con họ Lý hoảng hồn… Nhưng khi mở cửa, Lý Thông nhìn thấy cái đầu khổng lồ của Chằn tinh, hắn bèn dọa Thạch Sanh là đã giết chết vật báu của vua nuôi, phải mau mau trốn đi. Thạch Sanh lại trở về gốc đa chốn cũ. Lý Thông đem đầu Chằn tinh dâng nộp triều đình và hắn được vua phong tước Quận công.
Trong lễ hội kén chọn phò mã, công chúa đã bị đại bàng khổng lồ quắp đi. Thạch Sanh đang nằm nghỉ dưới gốc đa chợt thấy con chim lạ bay qua liền giương cung bắn. Đại bàng bị trúng tên, vẫn cố bay về hang ổ. Nhà vua hứa gả công chúa cho người tài nào cứu được công chúa. Lý Thông tìm gặp “đứa em kết nghĩa”. Thạch Sanh theo dấu máu tìm đến hang ổ đại bàng. Ác điểu chống trả quyết liệt chàng dũng sĩ, nhưng nó đã bị chàng dùng cung tên vàng bắn mù cả hai mắt, dùng búa thần chém đứt vuốt sắc, bổ vỡ làm đôi đầu quái vật. Dòng dây đưa nàng công chúa thoát khỏi hang sâu, Lý Thông sai quân lính vần đá lấp cửa hang để hãm hại Thạch Sanh. Chàng đã đi khắp hang lạnh, khám phá. Thạch Sanh lại dùng cung tên thần bắn tan cũi sắt, cứu thoát Thái tử con vua Thủy tề đang bị đại bàng giam hãm. Thạch Sanh được Thái tử mời xuống chơi thủy phủ. Nhà vua hậu đãi chàng dũng sĩ cõi trần. Để đền ơn ân nhân, vua Thủy tề tặng Thạch Sanh nhiều vàng ngọc, nhưng chàng khước từ, chỉ xin nhận một cây đàn thần làm kỉ vật. Thạch Sanh lại trở về gốc đa, chốn cũ yêu thương.
Hồn Chằn tinh và đại bàng gặp nhau, lập mưu báo thù Thạch Sanh. Chúng ăn trộm kho báu của nhà vua đem về giấu ở gốc đa. Thạch Sanh bị hạ gục!
Công chúa sau khi được cứu thoát thì bị câm. Các quan ngự y đều bó tay. Lý Thông vô cùng nóng ruột. Nằm trong ngục, Thạch Sanh lấy đàn thần ra gảy. Tiếng đàn lúc thì ai oán não nùng, lúc thì hờn căm uất hận. Nghe tiếng đàn thần, công chúa tự nhiên nói được, nàng xin vua cha được gặp người đánh đàn. Gặp ân nhân, công chúa vui mừng khôn xiết kể. Lý Thông bị hạ gục. Nhà vua giao cho Thạch Sanh xét xử. Chàng đã tha tội, cho cả hai mẹ con về quê. Nhưng đến giữa đường, cả hai mẹ con Lý Thông đều bị sét đánh chết, hóa kiếp thành bọ hung.
Vua cho Thạch Sanh làm phò mã. Mười tám nước chư hầu bất bình kéo quân vây đánh kinh đô. Thạch Sanh lại dùng đàn thần đẩy lui giặc. Hàng vạn tướng sĩ chư hầu được Thạch Sanh đãi một niêu cơm thần bé xíu mà họ ăn mãi chẳng hết. Mấy năm sau, nhà vua già yếu, liền nhường ngôi báu cho Thạch Sanh.
Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em yêu thích – Mẫu 15
Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, Tấm phải ở cùng dì ghẻ. Hằng ngày, Tấm phải làm việc vất vả từ sáng đến tối nhưng không lúc nào được nghỉ ngơi.
Một hôm, dì ghẻ sai hai chị em đi bắt tép và hứa rằng: “Hễ đứa nào bắt được đầy giỏ thì thưởng cho một cái yếm đỏ!”. Tấm chăm chỉ làm việc nên chẳng mấy chốc giỏ đã đầy tôm tép. Còn Cám chỉ mải chơi nên đến cuối buổi chẳng bắt được gì. Cám bèn lừa nói với Tấm rằng: “Chị Tấm ơi chị Tấm, đầu chị lấm, chị hụp cho sâu kẻo về mẹ mắng”. Tấm nghe lời Cám, đến khi lên bờ, nhìn vào rổ thì không còn thấy tép đâu. Tấm chỉ biết ngồi khóc. Bỗng nhiên, Bụt hiện lên hỏi:
– Làm sao con khóc?
Tấm kể lại sự tình cho bụt nghe. Bụt bảo Tấm rằng hãy nhìn vào trong gió xem có thấy gì không. Thì ra, trong giỏ vẫn còn một con cá bống. Tấm đem cá bống về nuôi, hàng ngày cho ăn. Khi cho cá bống ăn thì gọi:
Bống bống, bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta,
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người
Mẹ con Cám biết được liền lừa Tấm đi chăn trâu đồng xa để bắt lên giết thịt. Tấm trở về không thấy cá bống đâu, liền bật khóc. Bụt hiện lên bảo Tấm lấy xương cá bống bỏ vào bốn chiếc lọ, chôn vào bốn chân giường. Tấm trở về theo lời dặn của Bụt đi tìm xương bống, nhưng tìm mãi các xó vườn góc sân mà không thấy đâu cả. Một con gà thấy thế, bảo Tấm:
– Cục ta cục tác! Cho ta nắm thóc, ta bới xương cho!
Tấm bốc cho gà nắm thóc. Gà chạy vào bếp tìm một lúc thì thấy xương ngay. Tấm liền làm theo lời bụt.
Ít lâu sau, vua mở hội, mẹ con Cám sắm sắm sửa quần áo đẹp để đi chơi hội. Dì ghẻ không cho Tấm đi, nghĩ ra cách lấy thóc và gạo trộn lẫn với nhau, bắt Tấm nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo rồi mới được đi. Tấm không biết làm thế nào chỉ ngồi khóc. Bụt lại hiện lên sai chim sẻ nhặt thóc giúp. Chim sẻ nhặt một thoáng đã xong. Sau đó, Bụt liền bảo Tấm đào bốn chiếc lọ ở bốn chân giường lên. Bốn chiếc lọ biến thành quần áo đẹp giúp Tấm đi dự hội. Trên đường đi, Tấm đánh rơi chiếc hài xuống nước. Khi ngựa của vua đi ngang qua, cứ đứng lại không chịu đi tiếp. Vua sai người xuống nước tìm xem thì thấy chiếc hài. Vua truyền lệnh cho toàn dân ai đi vừa hài sẽ được làm hoàng hậu. Người dân nô nức đến thử. Tới lượt Tấm thử thì chiếc hài vừa như in. Tấm được vua đưa vào cung làm hoàng hậu.
Đến ngày giỗ cha, nàng xin về nhà. Dì ghẻ lập mưu bảo Tấm trèo lên cây hái chùm cau xuống để cúng cha. Còn mẹ con mụ thì ở dưới chặt cây, Tấm ngã xuống ao ngã chết. Dì ghẻ vào cung khóc lóc và xin cho Cám ở lại thay Tấm hầu hạ vua. Lại nói Tấm sau khi chết hóa thành chim vàng anh bay đến cung vua. Vua thấy vàng anh liền bảo: “Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo”. Chim vàng anh chui vào tay áo vua. Từ đó, vua ngày ngày say mê vàng anh khiến Cám ghen tức. Nhân cơ hội, Cám giết chết vàng anh và vứt lông ra sau vườn. Từ chỗ lông ấy mọc lên một cây xoan đào. Vua đi qua thấy cây xoan đào toả bóng mát liền sai lính mắc võng ở đây. Cám thấy vậy liền chặt cây xoan đào làm khung cửi để dệt áo cho vua. Lúc Cám dệt vải, nghe thấy tiếng kêu:
Cót ca cót két
Lấy tranh chồng chị,
Chị khoét mắt ra
Cám hoảng sợ liền đốt khung cửi và đem tro đổ ra ngoài cung. Từ chỗ đó mọc lên một cây thị, lớn lên, cả cây chỉ có một quả duy nhất. Có bà lão đi qua thấy quả thị liền bảo:
– Thị ơi thị rụng bị bà, bà để bà ngửi chứ bà không ăn.
Kỳ lạ thay, quả thị rụng ngay xuống bị bà. Từ ngày có quả thị trong nhà, bà lão thấy nhà cửa sạch sẽ, tươm tất lạ thường. Bà quyết tâm tìm ra nguyên nhân. Một hôm bà lão giả vờ đi chợ nhưng đến nửa đường thì quay về. Về đến nhà bà nhìn thấy một cô gái xinh đẹp từ vỏ thị bước ra giúp bà quét dọn nhà cửa. Bà lén xé nát vỏ thị và ôm lấy Tấm. Từ đó, Tấm ở với bà lão, hai mẹ con nương tựa vào nhau mà sống.
Một hôm nhà vua đi qua hàng nước của bà cụ, thấy miếng trầu têm cánh phượng giống của nàng Tấm liền hỏi bà lão:
– Trầu này ai têm?
– Trầu này con gái già têm! – Bà lão đáp.
– Con gái của bà đâu gọi ra đây cho ta xem mặt.
Bà lão gọi Tấm ra. Tấm vừa xuất hiện, nhà vua đã nhận ra đó là vợ của mình, liền đón nàng về cung. Cám thấy Tấm trở về xinh đẹp lại được vua yêu chiều hơn xưa, bèn hỏi Tấm:
– Chị Tấm ơi, chị làm thế nào mà đẹp thế?
– Có muốn đẹp không để chị giúp!
Cám bèn làm theo lời Tấm, tắm bằng nước sôi mà bỏng chết. Tấm sai người đem xác Cám bỏ vào lọ làm mắm đem đến cho dì ghẻ. Dì ghẻ ăn xong, nức nở khen ngon. Bỗng một con quạ ở đâu bay đến đậu trên nóc nhà kêu rằng:
– Ngon ngỏn ngòn ngon! Mẹ ăn thịt con, có còn xin miếng?
Dì ghẻ tức giận đuổi quạ đi. Khi gần hết, dì ghẻ nhìn xuống đáy lọ thì thấy có đầu lâu của con thì lăn đùng ra mà chết.
*****
Trên đây là 15 bài mẫu Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em yêu thích lớp 4 do thầy cô trường Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập của mình. Chúc các em hoàn thành tốt bài tập của mình với điểm số cao nhất nhé.
Đăng bởi: THCS Bình Chánh
- Tìm đọc câu chuyện viết về ước mơ lớp 4
- Tưởng tượng: Em có một đôi cánh có thể bay như chim, em muốn bay đi đâu, gặp gỡ những ai,…? lớp 4
- Tìm đọc các bài văn miêu tả con vật hoặc trao đổi với người thân về đặc điểm của con vật trong bài văn em viết lớp 4
- Miêu tả một con vật em đã được quan sát trên ti vi hoặc phim ảnh mà em yêu thích lớp 4 (8 Mẫu)
- Miêu tả một con vật mà em đã chăm sóc và gắn bó lớp 4 (24 Mẫu)
- Trao đổi với bạn: Em mong con người sẽ làm ra những sản phẩm gì để cuộc sống tốt đẹp hơn trong tương lai? lớp 4