Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (30 mẫu) hay nhất
Thầy cô trường THCS Bình Chánh xin giới thiệu đến các em học sinh bài học hôm nay với chủ đề
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (30 mẫu) hay nhất
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân – Ngữ văn 12
Bạn đang xem: Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (30 mẫu) hay nhất
Bài giảng Ngữ văn 12 Vợ chồng A Phủ
Dàn ý Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân
I. Mở bài
Quảng cáo
Khi bị bắt làm dâu nhà Pá Tra, Mị có cuộc sống thống khổ, là nạn nhân của chế độ cho vay nặng lãi, bị tước đoạt tự do, hạnh phúc cá nhân: mở đầu tác phẩm, nhà văn đã giới thiệu nhân vật một cách ấn tượng: “Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Lúc nào cô ấy cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Dáng vẻ ấy của Mị gợi ra hình ảnh một con người có số phận đau khổ.
Dù cuộc sống thống khổ, trong Mị vẫn mãnh liệt một sức sống tiềm tàng và khát vọng tự do, hạnh phúc. Khát vọng ấy đã bùng cháy lên khi mùa xuân đến trên đất Hồng Ngài. Mị đã bước vào cái đêm đáng ghi nhớ ấy thoạt tiên, như một tâm hồn câm lặng cái cô Mị xưa kia trẻ đẹp, khao khát yêu đương và cũng đã được yêu đương, cô Mị ấy tưởng như đã chìm hẳn vào dĩ vãng. Chỉ còn một người đàn bà “không nói. lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, người đàn bà bị cầm tù trong một ngục thất tinh thần (hình ảnh cái buồng có một cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng). Đã bao năm rồi, người đàn bà ấy chẳng biết đến mùa xuân, chẳng đi chơi Tết.
Vậy mà vào đúng cái đêm tình mùa xuân năm ấy, Mị thốt nhiên lại muốn đi chơi, và đã sửa soạn đi chơi thực sự. Vì sao vậy? Khó có thể cho là tại đất trời. Thời tiết mùa xuân năm nào chẳng đại loại là như thế.
Lý giải sự đột biến khác thường của Mị trong đêm ấy, là một thử thách thật sự đối với Tô Hoài. Hãy xem bằng cách nào mà nhà văn vượt qua thử thách.
Với một người như Mị, muốn đi chơi nghĩa là muốn phá phách, nghĩa là nổi loạn. Cũng với một người như Mị để có thế nổi loạn, thì phải có cái gì có khả năng làm quên đi hiện tại để sống trở về những tháng năm xưa.
Cái đó là men rượu mà Tết năm ấy, Mị đã lén “uống ực từng bát”. “Rồi say Mị lịm mặt ngồi đấy, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước”… Rõ nhất là tiếng sáo. Mỗi lần tiếng sáo trở lại chuyện là mỗi lần nó được biến đổi đi từ âm thanh của hiện tại dần dần thành tiếng của những mùa xuân trước. Từ chỗ ở ngoài Mị, ở xa Mị, dần dần như tiếng ai mời gọi, hồn ai chờ đợi ngoài đường, đế cuối cùng rập rờn trong đầu người thiếu phụ. Tiếng sáo dìu hồn Mị hay là bước đi của hồn Mị được ghi dấu bằng tiếng sáo.. Như thế là sức sống, lòng ham sống đã thức dậy trong lòng người thiếu phụ. Nhưng sự vượt khỏi hoàn cảnh hiện tại của nhân vật không hề đơn điệu, dễ dàng.
Một thời gian dài. Mị sống trong sự giao tranh giữa quá khứ và hiện tại. Quá khứ đẩy đưa đi, hiện tại thì níu lại. (Nên lòng phơi phới mà Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và lòng ham sống trào dậy đầu tiên trong ý nghĩa muốn chết ngay chứ không buồn nhớ lại…).
Nhưng sức sống cứ lớn dần, sức ám ảnh của tuổi xuân cứ mạnh dần, cho tới khi nó dường như chiếm trọn tâm hồn Mị. Phải tới lúc đó, Mị mới hành động như một kẻ mộng du. không thấy, không nghe A Sử nói.
Rồi Mị bị A Sử trói trong trạng thái mơ hồ. Mãi về sau, Mị mới cảm thấy cái Hiện tại tàn khốc khi vùng bước đi mà tay chân không cựa được. Nhưng nếu cái mơ không đến một lần ngay tức khắc thì sự tỉnh ra cũng vậy Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa hơi rượu, tiếng sáo với cái đau nhức của dây trói và tiếng chân ngựa đạp vào vách. Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn dần lên, tê dại dần đi để dần dần trở lại với vị trí của con rùa lùi lũi trong xó cửa.
Một làn sóng tình cảm đã tan đi, không làm thay đổi mảy may đời Mị. Những cái gì Tô Hoài đã viết về đêm hôm ấy vẫn đầy ý nghĩa. Nó cho thấy sức sống của con người dù bị giẫm đạp, đè nén đến đâu cũng vẫn không bị mất đi. Ý nghĩa ấy khiến ta thêm tin, thêm yêu mến con người. Thứ hai chế độ phong kiến là chế độ buộc trói, giam hãm chống lại con người và sư sống. Chế độ ấy đáng căm thù, lên án cả từ phía nhân danh quyền sống của con người. Một tình tiết nghệ thuật giàu chất nhân đạo và chất thơ.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 6)
Nếu những nhà văn hiện thực phê phán chỉ thấy con người là nạn hân bất lực của hoàn cảnh thì các nhà văn cách mạng bao giờ cũng phát thiện hiện ra sức manh phúc sinh trong tâm hồn của những con người cùng khổ. Là cây bút xuất sắc trong dòng văn học cách mạng Việt Nam, chẳng những rất thành công khi diễn tả cái chết dần chết mòn của Mị – một cô gái tràn đầy sức sống mà còn rất tinh tế khi khám phá quá trình hối duyên của Mị. Nếu như có một hoàn cảnh làm tê liệt bóp chết sức sống của Mị thì tất cũng có một hoàn cảnh giúp Mị hối sinh. Và hoàn cảnh đó chính là đêm tình mùa xuân quyến rũ.
Ở vùng rẻo cao Hồng Ngài không gì vui bòng Tết đến, xuân về. Năm nay Hồng Ngài đón một cái tết đặc biệt. Đúng lúc gió và rét rất dữ dội thế nhưng, bất chấp cái khắc nghiệt của thời tiết, không khí đón Tết vui xuân của Hồng Ngài vẫn rất náo nức tưng bừng. Tiếng cười nói rộn vang. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng sáo rủ bạn đi chơi. Không khí tưng bừng, náo nức ấy đã vọng vào tâm hồn Mị, khiến tâm hồn Mị thức tỉnh hồi sinh.
Mày có con trai con gái rồiMày đi làm nươngTao không có con trái con gáiTao di tìm người yêu
Lời của tiếng sáo thật giản dị mộc mạc, nhưng nó chứa chan niềm vui niềm tự do, khát vọng yêu đương, hạnh phúc. Khúc ca say mê náo nức của mùa xuân tuổi trẻ đã vọng vào cõi sâu thẳm trong lòng Mị thiết tha đã đánh thức cõi lòng câm lặng bấy lâu của Mị, tiếng sáo ấy khơi dậy sức sống tiềm tàng trong con tim Mị. . Ý thức về quyền làm người trỗi dậy, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Cách uống rượu của Mị thật lạ. Mị uống lấy được, uống như chưa bao giờ được uống, uống cho bõ hờn, bõ tức. Uống để cuốn phăng đi bao cay đắng tủi nhục của quãng đời đã qua. Uống cho thỏa khát khao say mê, phía trước. Men rượu nồng nàn tiếng sao tha thiết đã nhấc bổng Mị thoát khỏi thực tại, dìu Mị trở về miền quá khứ đẹp tươi với bao khát khao nồng cháy. Mị say, cứ lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người hát trong lòng Mị đang sống về ngày trước. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi … có biết bao nhiêu người mê. Ngày trước Mị trẻ trung yêu đời, ngày trước Mị đã từng yêu và được yêu. Sống với ngày trước, lòng Mị bỗng phơi phới trở lại đột nhiên vui sướng, hạnh phúc. Những kí ức hạnh phúc đã thôi thúc Mị nổi loạn. Bắt đầu là sự nổi loạn trong ý nghĩ. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng ngày Tết cũng đi chơi. Huống chi Mị với A Sử không có lòng với nhau, vậy mà vẫn phải ở với nhau. Lần đầu tiên, sau chuỗi ngày dài dằng dặc, sống cam chịu, nhấn nhục với kiếp ngựa trâu như con rùa nuôi trong xó tối, Mị dám chối bỏ ràng buộc duyên phận với A Sử để thành người tự do. Đắm chìm trong miền kí ức say mê, trong những khát khao nồng cháy dường như Mị đã quên cả thực tại. Rượu đã tan lúc nào. Người về đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Cõi mộng, cõi mơ miền thương nẻo nhớ đang gọi Mị.
Mãi sao, Mị mới bừng tỉnh. Mị đứng dậy nhưng không bước ra đường chơi nữa mà từ từ bước vào buồng. Ý nghĩ muốn đi chơi đã lóe lên trong đầu Mị nhưng nó chưa đủ mạnh để dứt Mị ra khỏi thế giới ngục tù. Phản ứng nổi loạn ở Mị cần thêm thời gian và chất xúc tác. Bước vào buồn, ngòi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, mờ mờ trăng trắng. Bao cay đắng tủi nhục của kiếp nô lệ trung thân bỗng dội về, dày vò cõi lòng Mị tan nát, ứ máu đầy bi kịch. Và Mị bỗng nảy ra ý nghĩ thật lạ lùng, đột biến mà mang tinh tất yếu : Mị muốn tự tử : nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt úa ra. Cứ nghĩ Mị sẽ tự tử ngay nhưng đúng lúc ý nghĩ muốn chết trỗi dậy thì tiếng sao gọi bạn yêu lơ lửng bay ngoài đường lại một lần nữa vang vọng vào tâm hồn Mị. Khúc ca yêu nồng nàn ấy đã dập tắt ý nghĩ muốn chết nhưng cũng không thể sống lùi lũi như con rùa nuôi trong xó tối nữa. Mị phải sống trong vùng trời tươi sáng, ngập tràn ánh nắng tự do, hạnh phúc. Và chính ý nghĩ ấy đã thôi thúc Mị có hành động nổi loạn, táo bạo, quyết liệt từng có. Mị đến góc nhà lấy ống mỡ sắn một miếng bỏ vào thêm đĩa đèn cho sáng. Tại sao Mị phải thắp đèn ? Phải chăng, Mị không cam chịu sống trong xó tối nữa ? Mị muốn phá tan màn đêm âm u, mù tối nơi đại ngục trần gian này. Mị muốn thắp sáng cho tương lai của mình. Ngọn lửa trên đĩa đèn hay ngọn lửa trong lòng Mị đang rừng rực cháy. Thắp đèn xong, Mị cuốn lại tóc, với tay lấy cái váy và rút thêm cái áo. Bất chấp mọi luật lệ của nhà thống lí, Mị hành động như một người hoàn toàn tự do
Những khát vọng cháy bỏng của Mị vừa bùng lên thì đã bị vùi dập một cách thô bạo tàn nhẫn. A Sử trói đứng Mị vào cột bằng cả một thúng sợi đay tàn nhẫn. Tóc Mị xõa xuống, A Sử cuốn luôn tóc lên cột làm cho Mị không cúi không nghiêng được nữa. Rồi A Sử tắt đèn đóng cửa lại. Tại sao A Sử phải trói Mị như thê ? Có phải đó là thói quen tàn bạo của A Sử hay chính A Sử cũng giật mình hoảng sợ trước hành động nổi loạn táo bạo của Mị ? Hắn phải dùng mọi vũ lực thô bạo nhất để dập tắt tinh thần phản kháng mạnh mẽ của Mị. Tuy nhiên những cánh cửa buồng khép chặt, những làn dây chói chặt không sao chói được tâm hồn Mị. Bóng ma của buồng gian cũng không sao dập tắt được ngọn lửa cháy sáng trong tim Mị. Mọi vũ lực bạo tàn của A Sử đều trở nên vô nghĩa. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo cuộc chơi, những đám chơi. Mị khe khẽ hát, tiếng hát cất lên từ trái tim sôi nổi, nồng nàn. Rồi Mị vùng bước đi, mạnh mẽ, quyết liệt, sức sống tiềm tàng, khát vọng tự do đã trỗi dậy mãnh liệt. Sức sống ấy cứ trào ra ngoài ra sợi dây trói.
Nhưng rồi Mị chợt bừng tỉnh, những làn dây chói cứa vào ra thịt đau dứt, xót xa, đau đớn đến tê tái. Tiếng sáo tha thiết, dìu dặt tắt lịm, chỉ còn tiếng chân ngựa đạp vách nhức nhối ai oán. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. Cả đêm ấy, Mị lúc mê, lúc tỉnh, lúc đớn đau, quặn thắt trước thực tại thê thảm, khốn cùng, lúc lại cồn cào, tha thiết nhớ. Quá khứ, thực tại, hạnh phúc, khổ đau cứ giằng xé trong trái tim Mị. Ngòi bút Tô Hoài thật tinh tế tài hoa khi lách vào cõi sâu tâm tư của Mị khiến Mị trở thành ‘thật hơn con người thật’.
Mùa xuân rồi cũng qua đi nhưng sức sống tiềm tàng trong Mị đã được khơi dậy và chờ dịp bùng lên. Với nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật tinh tế Tô Hoài đã đem đến cho nhân vật một hướng đi, một cuộc đời mới. Đó cũng chính là giá trị nhân văn cao đẹp của tác phẩm. Đồng thời cũng cho thấy tài năng của Tô Hoài cùng những đóng góp của ông cho văn học Việt Nam.
Mục lục
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 7)
Nhắc đến Tô Hoài là nhắc đến một cây bút với khả năng sáng tác dồi dào, phong phú ở nhiều thể loại, mà ở thể loại nào ông cũng để lại những tác phẩm, những dấu ấn xuất sắc từ truyện thiếu nhi, hồi ký, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim,… Ở mảng văn học hiện thực Tô Hoài đã ghi dấu ấn với tập truyện Tây Bắc bao gồm ba truyện ngắn nói về cuộc sống của người dân tộc miền núi phía Bắc những năm tháng trước cách mạng tháng tám. Trong đó Vợ chồng A Phủ là tác phẩm được biết đến nhiều nhất bởi những giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc được lồng ghép trong bối cảnh hiện thực đất nước lúc bấy giờ. Có thể nói rằng Tô Hoài chính là người tiên phong “mở đất” khi viết về đời sống của các dân tộc miền núi phía Bắc, đặc biệt hơn là đi sâu vào những bất hạnh và vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn của người phụ nữ dân tộc thiểu số dưới ách áp bức của cả cường quyền, lẫn thần quyền. Mị trong Vợ chồng A Phủ chính là một điển hình cho những số phận bất hạnh, đau khổ tột cùng của vùng trời Tây Bắc, cuộc đời Mị tưởng như đã chết từ khi bước chân vào nhà thống lý Pá Tra, thế nhưng với sức sống mạnh mẽ, khao khát tự do tột độ, trong đêm tình mùa xuân ấy, Mị đã thức giấc, bắt đầu phản kháng, tìm lối thoát cho riêng mình.
Mị xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, bố Mị phải đi vay tiền cưới vợ, món nợ ấy mãi đến khi Mị đã lớn khôn, trở thành một cô gái xinh đẹp, giỏi giang mà vẫn chưa trả hết nợ. Chính món nợ truyền kiếp khốn khổ đó đã kéo theo cuộc đời của Mị xuống những bất hạnh tột cùng. Vì để trả nợ cho cha, Mị phải chấp nhận làm con dâu gán nợ cho nhà thống lý Pá Trá, bị bắt ép chung sống với A Sử, người mà Mị không thương, chấp nhận từ bỏ tình yêu của cuộc đời.
Ngày đầu tiên về là dâu, Mị đã bỏ trốn về nhà, trong tay cầm nắm lá ngón chỉ muốn chết quách đi cho xong, Mị đã cố gắng vùng vẫy, phản kháng để chống lại số phận. Thế nhưng Mị chết rồi thì lấy ai trả nợ cho người cha già, cái hiếu, cái tình đã giữ Mị ở lại với cuộc đời này, thế nhưng Mị sống cũng chẳng khác nào cái xác không hồn, chỉ đơn giản là đang tồn tại. Mang tiếng về làm dâu nhà giàu, nhưng Mị sống không khác gì một nô lệ, làm việc quần quật không kể ngày đêm, liên tục từ mùa này qua tháng khác, chưa từng ngơi nghỉ đến một ngày. Cái khổ sở về thể xác cùng với sự hành hạ về tinh thần khi phải chung sống với người đàn ông vũ phu dường như đã giết chết trái tim, giết chết tâm hồn Mị. Mị tựa như một cỗ máy lao động, suốt mấy năm trời người ta chẳng nghe Mị nói chuyện lần nào, cứ lặng im, “lầm lũi như con rùa trong xó cửa”, đi qua từng năm tháng khổ đau. Rõ ràng là một cô gái xinh đẹp có tài thổi sáo, tuổi đời tầm hai mươi thế nhưng lại sống như một nắm tro tàn, lạnh lẽo, đơn độc, thậm chí không còn cảm nhận được niềm vui sướng hay đau khổ bởi “ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Ấy vậy mà trong sự chai lì đến vô cảm, không thiết tha với cuộc đời, Mị vẫn còn nhận thức được cái khổ đau không bằng loài trâu ngựa của người đàn bà sống trong nhà thống lý Pá Tra rằng “Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Chi tiết nhỏ này đã khắc họa mạnh nỗi đớn đau, bất hạnh cùng cực không chỉ của riêng nhân vật Mị mà là của chung nhiều những thân phận đàn bà khác ở Hồng Ngài, là người nhưng sống kiếp không bằng loài vật nuôi, đớn đau đến tột cùng.
Không chỉ là nỗi đau về thể xác khiến Mị trở nên chai sạn, mà thực tế chính những vết thương trong tâm hồn mới khiến Mị trở nên thờ ơ với tất cả. Từ một cô gái xinh đẹp, thổi sáo, thổi lá giỏi, được biết bao chàng trai si mê, lại có một tình yêu đẹp tưởng như gần đâm hoa kết trái, Mị bỗng trở thành con dâu gán nợ, chịu cảnh chung đụng với một kẻ thô lỗ, bị giam cầm trong một căn phòng tối tăm chỉ có một ô cửa sổ bé bằng lòng bàn tay lúc nào cũng mờ mờ không biết là màu sương hay là màu nắng. Mị phải từ bỏ tất cả những mong ước của đời mình, từ bỏ cuộc sống tự do, chôn vùi tuổi trẻ trong cuộc hôn nhân gán nợ, lấy người chồng sang giàu nhưng chẳng khác nào địa ngục trần gian. Mị không có quyền được lựa chọn, không có một con đường nào khác, cô chỉ còn cách bọc mình lại trong cái vỏ chai lì, lầm lũi để tiếp tục những ngày tháng tối tăm, tuyệt vọng.
Những tưởng cuộc đời Mị cứ mãi thinh lặng, bế tắc và vĩnh viễn bị chôn vùi dưới cái ách của thần quyền và thần quyền, thế nhưng chính đêm tình mùa xuân cùng với tiếng sáo gọi bạn réo rắt – âm thanh của sự sống trong Vợ chồng A Phủ, dường như đã đánh thức tâm hồn Mị. Một tâm hồn chưa chết hẳn, nằm sâu trong nắm tro tàn ấy chính là những hòn than nóng bỏng, vẫn nồng nhiệt niềm khao khát được sống, được tự do của Mị, chỉ trực chờ ngày được phất lên ngọn lửa rực rỡ. Khi mùa xuân đến, những cô gái, chàng trai trẻ tuổi nô nức hẹn hò, người ta khoác lên mình những bộ váy áo màu sắc sặc sỡ, thổi sáo, thổi lá tình tứ suốt ngày này qua ngày nọ. Mị nghe thấy tiếng sáo vọng lại “thiết tha bổi hổi”, trong vô thức mị bất chợt lẩm nhẩm theo bài hát của người vừa thổi, những câu hát mà có lẽ đã lâu lắm rồi Mị không còn nhắc tới. Có thể nói rằng, ở một chi tiết nhỏ này, người ta đã thấy được trái tim vốn chai sạn của Mị hình như đang dần sống lại, bởi lẽ làm gì có người nào lại hát khi tâm hồn đã nguội lạnh. Những câu hát ấy, dù không thành tiếng, thành lời thế nhưng nó lại là tiếng vang của tâm hồn, một tâm hồn khởi sắc, dần bước ra khỏi lớp vỏ chai lì bấy lâu nay vẫn mang.
Sự thay đổi trong tâm hồn Mị càng được bộc lộ rõ ràng thông qua chi tiết Mị uống rượu “Ngày Tết Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Trên thực tế Mị ở trong nhà thống lý Pá Tra không hề có một vị trí nào, cô sống cuộc đời còn bần cùng khổ sở hơn cả loài vật nuôi, thế nên việc uống rượu đối với Mị là một sự kiện xa xỉ, thậm chí nếu bị bắt được có lẽ Mị sẽ bị đánh trói, bắt phạt. Dù thế nhưng Mị vẫn lén lấy rượu uống, điều đó giống như là một sự phản kháng, Mị muốn đòi quyền lợi cho mình, cả nhà thống lý đều được uống rượu ăn Tết đủ đầy, Mị cũng muốn được như vậy, Mị muốn một lần được sống như con người ở cái nơi đã mang đến cho Mị biết bao nhiêu là đau khổ. Và cứ thế Mị uống rượu ừng ực, từng bát, uống không phải để thỏa mãn cái niềm khao khát, thèm muốn, mà dường như Mị đang cố uống cho trôi đi hết tất cả những uất ức khổ đau, cũng là cái cách mà cô thể hiện sự phẫn nộ, khó chịu trong lòng bấy lâu nay. Trong men rượu cay, Mị bỗng nhớ về những ngày xa xăm, khi Mị còn chưa bị ép làm dâu nhà thống lý, cô cũng có một cuộc sống tươi đẹp, tương lai đầy hứa hẹn, khi bản thân Mị là người con gái tài sắc vẹn toàn, chăm chỉ lao động, lại có một tình yêu đẹp sắp đơm bông. Thế nhưng chỉ trong một đêm tất cả đã trở thành ác mộng, càng nghĩ Mị lại càng ngẩn ngơ trong hoài niệm. Thế rồi người cũng về hết, còn lại một mình Mị ngồi trơ giữa nhà, trong lòng Mị bỗng nảy ra điều gì đó, Mị đứng dậy đi vào buồng “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Tâm hồn tưởng đã chết của Mị đã thực sự sống lại một cách diệu kỳ, đã biết bao lâu rồi Mị không còn cảm nhận được cái cảm giác vui sướng, cái phơi phới của một tâm hồn son trẻ, có lẽ là từ lúc Mị bước chân vào nhà thống lý Pá Tra. Không chỉ là về cảm xúc mà dấu ấn chứng minh cho sự sống lại của tâm hồn Mị còn nằm ở nhận thức về cuộc đời về tuổi trẻ của mình “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ”, đồng thời bộc lộ thành khao khát, ước muốn rằng “Mị muốn đi chơi”. Có thể nói rằng đến lúc này niềm khao khát tự do, khao khát được sống, được hưởng thụ cuộc đời của Mị đã bộc lộ một cách rõ rệt nhất. Mị không còn là người đàn bà trẻ tuổi sống lầm lũi, thinh lặng, chịu đựng trong nhà thống lý Pá Tra với khuôn mặt lúc nào cũng buồn rười rượi nữa, mà đã gần như khôi phục được sự sống quay về với bản tính con người trước kia, một cô gái trẻ đẹp, yêu đời, giỏi thổi sáo, bắt đầu dám phản kháng lại để giành lại hạnh phúc cho bản thân.
Thế nhưng không may rằng dù tâm hồn Mị đã được cởi trói, nhưng thân xác Mị vẫn nằm trong sự khống chế của cường quyền. Trong lúc Mị định thay vào chiếc váy rực rỡ để đi chơi thì A Sử về, nó không cho Mị cái quyền được chơi Tết mà tàn ác túm tóc Mị, rồi trói cô vào cây cột nhà bằng sợi đay, cắt đứt hết những niềm vui sướng vừa nảy nở trong tâm hồn người phụ nữ tội nghiệp. A Sử đi rồi, để lại một mình Mị với căn buồng tối đen, trong hoàn cảnh ấy cứ nghĩ rằng Mị sẽ sụp đổ và tuyệt vọng thêm một lần nữa, nhưng không, “Mị đứng im lặng, như không biết mình bị trói”, lòng Mị vẫn đang nghĩ về những cuộc chơi, những đám chơi mà Mị khao khát. Dường như dây trói của A Sử có chặt hơn nữa, thì cũng chỉ giữ lại được thân xác này của Mị chứ không thể trói buộc được cái tâm hồn khao khát tự do mãnh liệt của cô. Mị bắt đầu phản kháng “Mị vùng bước đi” nhưng dây trói siết lại, “tay chân đau không cựa được”, nghe tiếng ngựa đạp vào vách, Mị lần nữa ý thức được nỗi đau thân phận rằng bản thân thậm chí còn chẳng bằng con ngựa. Bởi lẽ, con ngựa còn được tự do đôi chân mà đạp vào vách, còn Mị cả chân tay đều bị trói cứng không thể cựa quậy, Mị chảy nước mắt, nghĩ về cuộc đời đau khổ của mình bằng một tâm thế xót xa, cái mà bao lâu nay Mị dường như đã bỏ qua.
Đêm tình mùa xuân đã kết thúc bằng việc Mị bị trói đứng trong buồng ngủ, thế nhưng đó không phải là sự kết thúc, mà thực tế rằng tất cả những sự kiện diễn ra tuần tự đều có ý nghĩa dần dà đánh thức tâm hồn đang nép kỹ trong lớp vỏ chai sần của Mị. Cho đến khi Mị hoàn toàn ý thức được nỗi đau thân phận, ý thức được giá trị của bản thân, cùng với niềm khao khát mãnh liệt được sống, được tự do, thì cũng chính là lúc Mị hoàn toàn sống lại một cách đúng nghĩa cả thể xác lẫn tinh thần. Sự kiện A Sử trói Mị chính là tiền đề, khởi đầu cho những sự phản kháng mạnh mẽ, tự giải thoát cho người khác và cho chính bản thân Mị, để tìm đến một cuộc đời, một tương lai mới tốt đẹp hơn.
Mị trong Vợ chồng A Phủ là một nhân vật điển hình cho nhiều đồng bào miền núi phía Bắc có số phận bất hạnh, phải chịu cảnh áp bức bóc lột của cả cường quyền và thần quyền trong giai đoạn trước cách mạng tháng tám. Với tình cảm gắn bó tha thiết và đôi mắt thấu hiểu của mình Tô Hoài không chỉ phản ánh hiện thực xã hội đầy khắc nghiệt mà còn thông qua đó bộc lộ những vẻ đẹp tiềm ẩn trong từng nhân vật, mà ở Mị là vẻ đẹp tài năng, nhan sắc, nhân cách, sự khao khát tự do mãnh liệt, tình yêu cuộc sống tha thiết, sự phản kháng mạnh mẽ đối với những bất công mà cô phải gánh chịu, để tự giải thoát cho chính bản thân và cả người khác.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 8)
Tô Hoài là một trong những cây bút văn học vô cùng xuất sắc, cho ra đời nhiều tác phẩm nổi tiếng và đưa vào giảng dạy. Trong cuộc đời hoạt động nghệ thuật của mình ông đã nhận được rất nhiều giải thưởng danh giá. Hơn 60 năm lao động nghệ thuật, ông có gần 200 đầu sách thuộc nhiều thể loại khác như như truyện kí, tiểu thuyết… Những tác phẩm văn học của ông thường có lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động, vốn từ giàu có và nhiều khi bình dân, thông tục. Khi đọc truyện người đọc cảm nhận thấy tác phẩm rất thật, rất chân thành, cảm nhận được tấm lòng nhà văn dành cho nhân vật của mình nên tác phẩm rất có sức hút lôi cuốn, lay động người đọc.
Một trong những tác phẩm để đời của Tô Hoài phải kể đến Vợ Chồng A Phủ và đoạn trích nổi bật nhất tác phẩm chính là diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân. Đây là đoạn trích thể hiện cho vẻ đẹp đầy sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người phụ nữ bị áp bức.
Sức sống tiềm tàng vốn là sức sống của con người, khi bị hoàn cảnh bên ngoài tác động vào dù là khó khăn, gian khổ thế nào cũng không thể che khuất đi, thậm chí sức sống ấy luôn thường trực như ngọn lửa, chỉ chờ cơ hội là bùng cháy, trỗi dậy. Sức sống ấy luôn có ở trong người con gái nhỏ bé vùng Tây Bắc – Mị trong tác phẩm Vợ chồng a Phủ của Tô Hoài.
Nếu đọc đoạn đầu tác phẩm ta sẽ thấy hình ảnh một cô gái lầm lũi ngồi quay sợi gai bên tảng đá. Cô gái ấy nhìn thiếu sức sống, sống mà như đã chết, ánh mắt chỉ nhìn về một hướng vô định. Dù cô gái ấy có làm gì đi nữa như thái cỏ ngựa, dệt vải hay chẻ củi, cõng nước thì cô ấy cũng cúi mặt buồn rười rượi. Thoạt đầu khi đọc tác phẩm, người đọc cảm thấy đây là nhân vật nhu nhược, sóng hèn và có lẽ bị tra tấn quá nhiều dẫn đến tinh thần không được ổn định và vô định.
Nhưng ngược dòng quá khứ, trở về thời cô Mị chưa làm dâu nhà thống lý Pá Tra chúng ta sẽ bắt gặp hình ảnh một cô gái tuổi đôi mươi, xinh đẹp, tràn đầy sức sống và hi vọng.
Mị xinh đẹp, Mị nhiều người yêu, người xếp ở ngõ nhiều đến nỗi bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Trai đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị. Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, Mị thổi sáo rất giỏi đến nỗi bao nhiêu chàng trai say mê “Mùa xuân đến, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác.”
Mị cũng có người yêu, Mị cũng muốn đi theo tiếng gọi của tình yêu, vì Mị còn trẻ. Mị ý thức được điều này nên Mị sống hạnh phúc, vui trẻ.
Không chỉ vậy, Mị còn rất hiếu thảo với cha mẹ. Khi biết cha mẹ muốn bán mình gán nợ Mị ý thức được tự do, cầu xin cha mẹ để Mị làm nương ngô trả nợ. Chỉ qua một vài yếu tố về cuộc đời của Mị trước lúc làm dâu nhà thống lý Pá Tra chúng ta cũng thấy được rằng Mị là người khao khát sống tự do, khao khát hạnh phúc và có sức sống mãnh liệt tiềm tàng.
Khi về làm dâu nhà thống lý Pá Tra, người đọc cảm thấy dường như sức sống ấy đã không còn. Vì chúng ta chỉ bắt gặp hình ảnh cô Mị lúc nào cũng buồn rười rượi, ánh mắt cúi xuống vô định. Muội bị bóc lột không khác gì trâu ngựa, trâu ngựa làm còn được nghỉ, được cho ăn, còn đàn bà nhà này thì chỉ biết vùi đầu vào công việc không được nghỉ ngơi. Ở nhà thống lý Pá tra không khác gì địa ngục trần gian với đủ loại cực hình như đánh, phạt, trói…
Trong hoàn cảnh như thế này, một cô gái mới lớn chưa trải sự đời chỉ biết sống qua ngày, lầm lũi như con rùa: “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông ấy mà trông ra. Đến bao giờ chết thì thôi.” Dường như chúng ta thấy cô Mị không còn sức sống nữa, phó mặc cho cuộc đời, cứ sống vậy đến khi nào chết thế là hết một đời.
Căn phòng Mị ở có khác nào buồng giam, chỉ có một ô cửa nhỏ duy nhất nhìn ra ngoài để thấy ánh sáng. Nhưng chính hoàn cảnh này đã làm nền cho sức sống mãnh liệt tiềm tàng trong Mị. Sức sống ấy chưa có đủ điều kiện để bùng cháy, trỗi dậy. Chỉ cho đến khi vào đêm tình mùa xuân, sức sống mãnh liệt trong trái tim người con gái nhỏ bé mới trỗi dậy để thay đổi cuộc đời Mị và A Phủ.
Trước đêm tình mùa xuân, khi mới về làm dâu sức sống mãnh liệt đã trỗi dậy đó là khi Mị về nhà và cầm theo lá ngón. Mị có ý định tử tự bằng lá ngón vì không chấp nhận được cuộc sống mất tự do.
Mị trốn về nhà, hai tròng mắt còn đỏ hoe. Trông thấy bố, Mị quỳ, úp mặt xuống đất, nức nở. Bố Mị cũng khóc, đoán biết lòng con gái:
– Mầy về chào lạy tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt trả nợ. Mày chết rồi không lấy ai làm nương ngô, trả được nợ, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được con ơi!
Mị chỉ bưng mặt khóc. Mị ném nắm lá ngón (một thứ lá độc) xuống đất. Nắm lá ngón Mị đã đi tìm hái trong rừng. Mị vẫn giấu trong áo. Thế là Mị không đành lòng chết. Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ.
Mị đã ý thức được sự tự do và ý nghĩa của cuộc sống. Sức sống ấy đã có cơ hội trỗi dậy nhưng lại bị dập tắt ngay vì lòng hiếu thảo còn cao hơn. Mị đành chấp nhận cuộc sống và có lẽ trong đêm tình mùa xuân lần này, Mị đã sống lại.
Mị nghe thấy những âm thanh bên ngoài cuộc sống, âm thanh của mùa xuân. Đó là tiếng trẻ con chơi quay, tin nghịch, đốt những lều quanh nương, tiếng sáo gọi bạn tình. Tất cả những âm thanh ùa vào trong tâm trí, đánh thức mọi kỉ niệm trong quá khứ của Mị. Mùa xuân những năm Mị chưa đi làm dâu, Mị cũng thổi sáo, cũng váy hoa, cũng nhiều người theo đuổi, Mị cũng yêu cũng có khát vọng được yêu và hạnh phúc. Tất cả như tái hiện lại rõ mồn một trong đêm tình mùa xuân. Mị lẩm nhẩm theo lời bài hát, đây là sự biến đổi đầu tiên trong tâm trí Mị. Một tâm hồn chai sạn, tự cho mình là con trâu con ngựa, sống quen với cái khổ rồi nên cũng không khao khát gì. Vậy mà hôm nay Mị lại nghe thấy âm thanh mùa xuân, nhẩm theo lời bài hát, nhớ tới thanh xuân tươi đẹp và khao khát tình yêu.
Mị đã ý thức được sự tồn tại của bản thân “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.” Khi đã thấy được giá trị và sự tồn tại của bản thân thì đây chính là cột mốc quan trọng đánh dấu sự bứt phá trong tâm trí của Mị. Đó là Mị muốn chấm dứt sự tù đày này, Mị muốn được đi chơi.
Nhưng suy nghĩ muốn đi chơi vừa nảy ra chưa kịp hành động thì Mị đã bị A Sử bắt trói vào cột nhà “Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong, A Sử thắt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi phẩy tay tắt đèn, đi ra khép cửa buồng lại”. Nhưng A Sử chỉ trói được phần xác của Mị mà thôi, còn tâm hồn của Mị đang bay lơ lửng theo tiếng sáo. Trái tim và tâm trí của mị đang sống lại mãnh liệt, Mị nào có quan tâm đến việc A Sử trói mình.
Có thể nói, Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy đã cháy âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và cơ hội đã đến để ngọn lửa khát khao sống bùng lên. Mị vẫn đang mơ về đêm tình mùa xuân, mơ về tự do “Trong bóng tối, Mị đứng im, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn. Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi”.
Mị cứ đứng như thế tới sáng mới bừng tỉnh. Cả một đêm bị trói mà Mị vừa mê vừa tỉnh, hơi rượu phả vào, tâm hồn vẫn thả theo tiếng sáo. Dường như khát vọng sống quá mãnh liệt đến nỗi con người ta quên đi đau thương của thực tại. Đến lúc bừng tỉnh, Mị mới biết mình bị trói, mới thấy đau. Mị lại trở về cái xác không hồn.
Nhưng sức sống ấy vẫn còn vẫn âm ỉ khi Mị sợ mình bị bỏ quên mà chết. Con người ta còn tham sống thì sẽ còn sợ chết và khao khát sống mãnh liệt hơn bao giờ hết. Mị nhớ đến câu chuyện nhà Thống Lý Pá Tra xưa có người vợ bị trói, chồng đi chơi ba ngày về thì người vợ đã chết “Mị sợ quá, Mị cựa quậy. Xem mình còn sống hay chết.”
Vẫn còn thấy mình đau nghĩa là còn muốn sống. Chỉ khi nào không còn muốn cảm nhận gì nữa, dù đau về thể xác hay tinh thần mà mình bàng quang không quan tâm thì có lẽ khi ấy, sức sống tiềm tàng không còn nữa và lụi tàn như đám tro tàn. Nhưng Mị vẫn còn cảm thấy, vẫn sợ chết, vẫn cựa mình và thấy cổ tay, đầu , bắp chân bị dây trói siết lại, đau đứt từng mảnh thịt.
Mở đầu tác phẩm là sự lầm lũi như con rùa của Mị và các tình tiết được đẩy dần lên làm trỗi dậy sức sống tiềm tàng trong con người Mị. Sức sống ấy luôn có và khi cơ hội đã búng cháy và trong đêm tình mùa xuân, người đọc đã cảm nhận rõ sức sống mãnh liệt của Mị. Phải thương và hiểu nhân vật của mình thế nào, Tô Hoài mới có thể tạo nên một tình huống đặc biệt, là nút mở cho câu chuyện, giúp cuộc đời của Mị sang một trang mới.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 9)
Tô Hoài là một nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại Việt Nam, các sáng tác của ông thiên về diễn tả sự thật đời thường với lối viết giản dị, gần gũi, thông tục. Truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Truyện Tây Bắc” là một tác phẩm tiêu biểu, sau hơn nửa thế kỉ, đến nay vẫn giữ nguyên vẹn sức hút với nhiều thế hệ người đọc. Tác phẩm xoay quanh số cuộc sống của nhân vật Mị, đặc biệt là diễn tả diễn biến nội tâm của cô trong từng giai đoạn và đêm tình mùa xuân là một cảnh tác động lớn diễn biến tâm lí và hành động của người con gái vùng núi này.
Vì sao sau bao nhiêu năm sống lầm lũi như con rùa nuôi nơi xó cửa, chấp nhận cuộc sống chẳng bằng con trâu, con ngựa, sức sống của Mị lại chợt hồi sinh trong đêm tình mùa xuân? Phải chăng không khí mùa xuân đến bất ngờ cùng hội xuân, sắc áo váy rực rỡ và những cuộc chơi đã ảnh hưởng đến Mị? Hay chẳng phải sắc màu cũng chẳng phải hương xuân mà chính là tiếng sáo thân quen. Tiếng sáo gọi bạn tình vốn đã quen thuộc, đi vào nếp sống của người dân Hồng Ngài, họ dùng tiếng sáo để thể hiện tình yêu, để nói lòng mình. Nghe tiếng sáo, Mị lại bồi hồi nhớ lại quá khứ của mình, tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, hình ảnh tiếng sáo quan trọng đến mức được lặp lại hơn mười lần trong tác phẩm. Tiếng sáo tuy giản dị, mộc mạc nhưng lại khiến lòng người thiết tha bồi hồi, bởi nó tượng trưng cho tình yêu trai gái. Tiếng sáo khơi dậy trong người con gái vốn tưởng đã chết về mặt tinh thần sống lại quá khứ tươi đẹp, cái ngày mà cô thỏa sức vùng vẫy trong tự do và tình yêu. Chính tiếng sáo đã tác động mạnh mẽ đến sức sống tiềm tàng trong Mị. Bên cạnh tiếng sáo, men rượu cũng là một yếu tố khiến Mị có sự thay đổi. Mị uống ực từng bát, uống như một tên sâu rượu, Mị uống để quên đi hiện tại khốn khổ, nhục nhã và cũng để không nhớ đến tương lai mờ mịt, không có gì để hi vọng. Hành động uống rượu ấy đã nói lên nỗi oan khuất đau buồn trong trái tim người con gái nhưng cũng tiếp thêm sức mạnh để người con gái ấy bừng tỉnh sức sống.
Từ những chất xúc tác từ bên ngoài ấy cùng bản chất mạnh mẽ, tràn đầy sức sống, Mị đã hồi sinh cảm xúc trong đêm tình mùa xuân. Nghe tiếng sáo, Mị bỗng cảm thấy tha thiết, bồi hồi. Những cảm xúc nhẹ nhàng ấy khiến Mị nhớ về quá khứ – một quá khứ tươi đẹp mà chẳng bao giờ Mị dám hi vọng có thể sống lại một lần nữa. Ngày ấy, Mị thổi lá cũng hay như thổi sáo, tài năng cùng với sắc đẹp của nàng khiến bao chàng trai Hồng Ngài mê đắm, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Từ những hồi ức đẹp đẽ ấy, Mị thấy phơi phới trở lại và cô nhận ra mình vẫn còn trẻ. Thật kì lạ khi người ta không biết trạng thái của bản thân ra sao để rồi một ngày chợt nhận ra mình vẫn còn trẻ. Điều ấy chẳng khác nào bao ngày qua, Mị không biết mình đang sống hay chỉ là tồn tại như một cái xác và đêm nay, cô mới chợt tỉnh, nhận thức được mình vẫn còn trẻ, mình vẫn còn sống và mình phải làm điều gì để chứng minh điều đó. Điều đầu tiên cô muốn làm khi sống lại cảm giác chính là muốn đi chơi. Bao năm rồi, kể từ khi bị gả về nhà thống lí Pá Tra, làm vợ A Sử, Mị đều không đi chơi xuân, mặc dù những người đàn bà có chồng khác vẫn đi chơi. Mị muốn ra ngoài, không còn muốn yên phận sống trong căn phòng kín mít, chỉ có một ôi cửa sổ nhỏ, hằng ngày nhìn ra không biết là sáng hay tối nữa. Cô bắt đầu sửa soạn, cô lấy chiếc váy hoa, cho thêm mỡ vào đèn để thắp sáng căn phòng tăm tối và quấn tóc. Đây là những hành động được coi là phản kháng của Mị, cô đã bắt đầu có những phản ứng với cuộc sống, đã hồi sinh cảm xúc. Nhưng ngay khi ngọn lửa sức sống đang bùng cháy mạnh mẽ thì lại bị dập tắt, con người tàn nhẫn ấy không ai khác chính là A Sử – con trai thống lí và cũng là chồng Mị. Hắn đột nhiên về nhà và thấy lạ khi thấy Mị sửa soạn đi chơi. Con người ấy đã trói Mị lại, độc ác hơn, hắn lấy tóc Mị quấn quanh cột, không cho Mị cử động. Nhưng dù bị trói, hơi rượu vẫn nồng nàn trong Mị, chi phối lí trí cô. Cô nghe thấy tiếng sáo, tiếng sáo gọi bạn tình của ai kia mà như gọi lòng cô, bất giác cô bước đi, cô muốn đi theo tiếng sáo tình yêu ấy, đó mới chính là cuộc sống đáng lẽ cô được hưởng. Nhưng dây trói cứa vào da thịt, nỗi đau thể xác làm cô bừng tỉnh. Cô đành lòng phải trở lại với hiện thực đắng cay, rằng thân phận mình không bằng con ngựa nhà thống lí. Đau xót thay.
Sự hồi sinh sức sống của Mị trải qua cả một quá trình diễn biến từ những cảm xúc hồ tưởng về quá khứ đến hành động phản kháng muốn đi chơi và cuối cùng nhận thức ra một điều quan trọng. Lúc trước, Mị đã coi mình là con trâu, con ngựa nhà thống lí mà đã là con trâu, con ngựa thì không có suy nghĩ, chúng chỉ biết ăn và làm việc mà thôi nhưng lúc này Mị đã hiểu ra, trong ngôi nhà này, đến cả con trâu, con ngựa mình cũng không bằng. Sự hồi sinh sức sống này do nguyên nhân khách quan là tiếng sáo và men rượu nồng nó chưa đủ sức mạnh để tạo nên những hành động mạnh mẽ để tự giải thoát mình, chính vì thế sau đó, Mị lại trở lại cuộc sống như cũ.
Qua nghệ thuật miêu tả tâm lí cùng việc sử dụng ngôn ngữ giản dị, thông dụng, Tô Hoài dường như đã vẽ lên trước mắt người đọc hình ảnh một người con gái mạnh mẽ, tuy đã bị vùi dập, tưởng chỉ còn cái xác không hồn nhưng bên trong vẫn tiềm tàng ẩn chứa sức sống mãnh liệt, chỉ tìm cơ hội để hồi sinh, để bùng cháy.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 10)
Vợ Chồng A phủ là tác phẩm hay nhất nói về con người và đất nước vùng cao Tây Bắc. Qua ngòi bút của Tô Hoài ta thấy được nỗi khổ đau và tủi nhục của các cô gái khi bị “ ép duyên” và sự áp bức của chế độ phong kiến thời bấy giờ. Có nhiều tuyến nhân vật chính và phụ trong tác phẩm như A Phủ, A Sử, thống lí Bá Tra… nhưng Mị vẫn là nhân vật trung tâm của tác phẩm và tâm trạng, hành động, suy nghĩ của Mị được bộc lộ rõ nét nhất qua cảnh Mị trong đêm tình mùa xuân.
Mị là cô gái người dân tộc H’Mông tài sắc vẹn toàn, vừa hát hay, thổi sáo giỏi làm say đắm biết bao chàng trai. Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ không có đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lí, bố của thống lí Bá tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng về già rồi mà cũng chưa trả hết nợ. Vì vậy, đến tuổi xuân thì, Mị bị bắt làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Bá Tra nhưng thực chất là làm nô lệ. Suốt ngày, ở nhà thống lí, Mị phải quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi, đi cõng nước dưới khe suối lên, hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bung ngô, tước đay thành sợi… Kiếp sống cơ cực hơn cả ngựa trâu đã biến một cô gái hồn nhiên, yêu đời, năm nào thành một người phụ nữ cam chịu “ lùi lũi như con rùa nuôi sống xó cửa”, có khi vô cảm. Mặt khác, Mị cũng có những phản ứng ngấm ngầm. Một hôm, Mị trốn về nhà. quỳ lạy bố, úp mặt xuống đất khóc nức nở nhưng bên trong áo giấu sẵn một nắm lá ngón để tự tử.
Mị không chỉ là nạn nhân của sự đầu độc, áp chế về tinh thần. Bọn thống lí Bá Tra đã lợi dụng thần quyền – tục mê tín dị đoan để làm cho người nô lệ này yên phận với kiếp sống đau khổ. Mị tin rằng “ Ta là thân đàn bà. nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Cho nên, Mị sống nhẫn nhục, thầm lặng, vô cảm, không có chút hi vọng vào sự đổi thay của tương lai.
Thế rồi mùa xuân lại về. Khung cảnh thiên nhiên mùa xuân ở Hồng Ngài thật thơ mộng, tình tứ và bừng sức sống: “ Gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng”, “ trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ hay, đỏ thẫm, rồi sang màu tím man mát”.
Cùng với vẻ đẹp thiên nhiên là không khí náo nức, nhộn nhịp của ngày hội. “ Trai gái, trẻ con ra sân chơi tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy”; “ chiêng đánh ầm ỉ”; “ văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Chính cái không khí ấy đã khơi dậy, đánh thức nơi bề sâu hun hút của tâm hồn Mị một cuộc sống mãnh liệt, trẻ trung. Mị “ lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ựng từng bát”. Rồi Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị.
Nhưng khi tâm trạng bồi hồi, sung sướng vô ngần ấy vừa xuất hiện thì nổi đắng cay, chua xót, u sầu cũng chạy đến vây lấy Mị. Mị ý thức được cảnh ngộ éo le của cuộc đời mình.” A Sử với Mị không có lòng với nhau nhưng vẫn phải ở với nhau. Mị liền nghĩ đến cái chết: “ Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn hết cho chết ngay”. Nhưng rồi, “ tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường: Anh ném pao, em không bắt; Em không yêu, quả pao rơi rồi…” đã giục giã, thôi thúc Mị, khiến Mị dường như quên hết cảnh ngộ bi thảm hiện tại. Mị hành động như một người tự do,như “ bao nhiêu người có chồng khác”. Mị đến góc nhà lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Mị muốn đi chơi một cách bản năng. Cái ý nghĩ “ muốn đi chơi” vọt ra khi có tiếng sáo rập rờn ở trong đầu. Cái hành động “ quấn lại tóc”, “ với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”, “ rút thêm cái áo” chuẩn bị đi chơi là sự chiến thắng bất ngờ của bản năng. Bản năng đã làm cho Mị không biết sợ sệt là gì.
Trong lúc lòng yêu đời đang trỗi dậy mãnh liệt cũng là lúc Mị bị vùi dập một cách tàn nhẫn, không thương tiếc. Mặc dù đang “ thay áo mới, khoác thêm hai vòng bạc vào cổ rồi bị cái khăn trắng lên đầu” để đi chơi nhưng A Sử biết được ý định của Mị, hắn chỉ hỏi một câu: “ Mày muốn đi chơi à?” rồi “ bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thùng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên dây cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa”. Sau hành động vô nhân đạo, phũ phàng ấy, hắn bỏ đi.
Trong bóng tối, dù bị trói như một thứ đồ vật nhưng Mị vẫn sống với bản năng. Mị không biết mình đang bị trói. Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Mị vẫn nghe lời ca, tiếng hát ngọt ngào, tình tứ vang lên: “ Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”. Mãi đến lúc Mị “vùng bước đi”, cô mới giật mình trở về với thực tại, mới thấm hiểu rõ cái cảnh ngộ bi thảm của mình: “ Tay chân đau không cựa được” và cô mới thổn thức nỗi lòng, biết mình không bằng con ngựa. Nhưng khi nghe tiếng chó sủa xa xa, đêm đã về khuya thì Mị mới khóc, lòng Mị lại bồi hồi. Trong suốt đêm Mị bị trói đứng như thế, Mị rơi vào tâm trạng lúc tỉnh, lúc mê. Lúc mê lòng lại “ nồng nàn tha thiết nhớ”. Lúc tỉnh thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Đến sáng “ khi bàng hoàng tỉnh thì cô “ sợ quá”, “ cựa quậy”, xem mình còn sống hay chết”. Tâm trạng lo sợ ấy đã thể hiện ý thức về sự sống của Mị. Có cảm thấy đau đớn từng mảnh thịt bởi vì cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại. Chính sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị có những hành động táo bạo, mạnh mẽ sau này, cô cắt dây cởi trói để cứu A Phủ thoát khỏi cảnh ngộ bi thảm đồng thời cũng là tự cứu mình.
Tóm lại, trong khung cảnh tăm tối, ngột ngạt, tù túng, tàn bạo, chúng ta thấy có bản năng sống đầy chất thơ của nhân vật Mị bừng sáng lên. Sức sống tiềm tàng, trẻ trung không dập tắt được của Mị là một bài ca hùng hồn về sự sống. Đồng thời cũng là một bản cáo trạng đanh thép về tội ác của bọn phong kiến, thần quyền cùng núi cao Tây Bắc.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 11)
Nếu những nhà văn hiện thực phê phán chỉ thấy con người là nạn hân bất lực của hoàn cảnh thì các nhà văn cách mạng bao giờ cũng phát thiện hiện ra sức manh phúc sinh trong tâm hồn của những con người cùng khổ. Là cây bút xuất sắc trong dòng văn học cách mạng Việt Nam, chẳng những rất thành công khi diễn tả cái chết dần chết mòn của Mị – một cô gái tràn đầy sức sống mà còn rất tinh tế khi khám phá quá trình hối duyên của Mị. Nếu như có một hoàn cảnh làm tê liệt bóp chết sức sống của Mị thì tất cũng có một hoàn cảnh giúp Mị hối sinh. Và hoàn cảnh đó chính là đêm tình mùa xuân quyến rũ.
Ở vùng rẻo cao Hồng Ngài không gì vui bòng Tết đến, xuân về. Năm nay Hồng Ngài đón một cái tết đặc biệt. Đúng lúc gió và rét rất dữ dội thế nhưng, bất chấp cái khắc nghiệt của thời tiết, không khí đón Tết vui xuân của Hồng Ngài vẫn rất náo nức tưng bừng. Tiếng cười nói rộn vang. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng sáo rủ bạn đi chơi. Không khí tưng bừng, náo nức ấy đã vọng vào tâm hồn Mị, khiến tâm hồn Mị thức tỉnh hồi sinh.
Mày có con trai con gái rồiMày đi làm nươngTao không có con trái con gáiTao di tìm người yêu
Lời của tiếng sáo thật giản dị mộc mạc, nhưng nó chứa chan niềm vui niềm tự do, khát vọng yêu đương, hạnh phúc. Khúc ca say mê náo nức của mùa xuân tuổi trẻ đã vọng vào cõi sâu thẳm trong lòng Mị thiết tha đã đánh thức cõi lòng câm lặng bấy lâu của Mị, tiếng sáo ấy khơi dậy sức sống tiềm tàng trong con tim Mị. . Ý thức về quyền làm người trỗi dậy, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Cách uống rượu của Mị thật lạ. Mị uống lấy được, uống như chưa bao giờ được uống, uống cho bõ hờn, bõ tức. Uống để cuốn phăng đi bao cay đắng tủi nhục của quãng đời đã qua. Uống cho thỏa khát khao say mê, phía trước. Men rượu nồng nàn tiếng sao tha thiết đã nhấc bổng Mị thoát khỏi thực tại, dìu Mị trở về miền quá khứ đẹp tươi với bao khát khao nồng cháy. Mị say, cứ lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người hát trong lòng Mị đang sống về ngày trước. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi … có biết bao nhiêu người mê. Ngày trước Mị trẻ trung yêu đời, ngày trước Mị đã từng yêu và được yêu. Sống với ngày trước, lòng Mị bỗng phơi phới trở lại đột nhiên vui sướng, hạnh phúc. Những kí ức hạnh phúc đã thôi thúc Mị nổi loạn. Bắt đầu là sự nổi loạn trong ý nghĩ. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng ngày Tết cũng đi chơi. Huống chi Mị với A Sử không có lòng với nhau, vậy mà vẫn phải ở với nhau. Lần đầu tiên, sau chuỗi ngày dài dằng dặc, sống cam chịu, nhấn nhục với kiếp ngựa trâu như con rùa nuôi trong xó tối, Mị dám chối bỏ ràng buộc duyên phận với A Sử để thành người tự do. Đắm chìm trong miền kí ức say mê, trong những khát khao nồng cháy dường như Mị đã quên cả thực tại. Rượu đã tan lúc nào. Người về đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Cõi mộng, cõi mơ miền thương nẻo nhớ đang gọi Mị.
Mãi sao, Mị mới bừng tỉnh. Mị đứng dậy nhưng không bước ra đường chơi nữa mà từ từ bước vào buồng. Ý nghĩ muốn đi chơi đã lóe lên trong đầu Mị nhưng nó chưa đủ mạnh để dứt Mị ra khỏi thế giới ngục tù. Phản ứng nổi loạn ở Mị cần thêm thời gian và chất xúc tác. Bước vào buồn, ngòi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, mờ mờ trăng trắng. Bao cay đắng tủi nhục của kiếp nô lệ trung thân bỗng dội về, dày vò cõi lòng Mị tan nát, ứ máu đầy bi kịch. Và Mị bỗng nảy ra ý nghĩ thật lạ lùng, đột biến mà mang tinh tất yếu : Mị muốn tự tử : nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt úa ra. Cứ nghĩ Mị sẽ tự tử ngay nhưng đúng lúc ý nghĩ muốn chết trỗi dậy thì tiếng sao gọi bạn yêu lơ lửng bay ngoài đường lại một lần nữa vang vọng vào tâm hồn Mị. Khúc ca yêu nồng nàn ấy đã dập tắt ý nghĩ muốn chết nhưng cũng không thể sống lùi lũi như con rùa nuôi trong xó tối nữa. Mị phải sống trong vùng trời tươi sáng, ngập tràn ánh nắng tự do, hạnh phúc. Và chính ý nghĩ ấy đã thôi thúc Mị có hành động nổi loạn, táo bạo, quyết liệt từng có. Mị đến góc nhà lấy ống mỡ sắn một miếng bỏ vào thêm đĩa đèn cho sáng. Tại sao Mị phải thắp đèn ? Phải chăng, Mị không cam chịu sống trong xó tối nữa ? Mị muốn phá tan màn đêm âm u, mù tối nơi đại ngục trần gian này. Mị muốn thắp sáng cho tương lai của mình. Ngọn lửa trên đĩa đèn hay ngọn lửa trong lòng Mị đang rừng rực cháy. Thắp đèn xong, Mị cuốn lại tóc, với tay lấy cái váy và rút thêm cái áo. Bất chấp mọi luật lệ của nhà thống lí, Mị hành động như một người hoàn toàn tự do
Những khát vọng cháy bỏng của Mị vừa bùng lên thì đã bị vùi dập một cách thô bạo tàn nhẫn. A Sử trói đứng Mị vào cột bằng cả một thúng sợi đay tàn nhẫn. Tóc Mị xõa xuống, A Sử cuốn luôn tóc lên cột làm cho Mị không cúi không nghiêng được nữa. Rồi A Sử tắt đèn đóng cửa lại. Tại sao A Sử phải trói Mị như thê ? Có phải đó là thói quen tàn bạo của A Sử hay chính A Sử cũng giật mình hoảng sợ trước hành động nổi loạn táo bạo của Mị ? Hắn phải dùng mọi vũ lực thô bạo nhất để dập tắt tinh thần phản kháng mạnh mẽ của Mị. Tuy nhiên những cánh cửa buồng khép chặt, những làn dây chói chặt không sao chói được tâm hồn Mị. Bóng ma của buồng gian cũng không sao dập tắt được ngọn lửa cháy sáng trong tim Mị. Mọi vũ lực bạo tàn của A Sử đều trở nên vô nghĩa. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo cuộc chơi, những đám chơi. Mị khe khẽ hát, tiếng hát cất lên từ trái tim sôi nổi, nồng nàn. Rồi Mị vùng bước đi, mạnh mẽ, quyết liệt, sức sống tiềm tàng, khát vọng tự do đã trỗi dậy mãnh liệt. Sức sống ấy cứ trào ra ngoài ra sợi dây trói.
Nhưng rồi Mị chợt bừng tỉnh, những làn dây chói cứa vào ra thịt đau dứt, xót xa, đau đớn đến tê tái. Tiếng sáo tha thiết, dìu dặt tắt lịm, chỉ còn tiếng chân ngựa đạp vách nhức nhối ai oán. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. Cả đêm ấy, Mị lúc mê, lúc tỉnh, lúc đớn đau, quặn thắt trước thực tại thê thảm, khốn cùng, lúc lại cồn cào, tha thiết nhớ. Quá khứ, thực tại, hạnh phúc, khổ đau cứ giằng xé trong trái tim Mị. Ngòi bút Tô Hoài thật tinh tế tài hoa khi lách vào cõi sâu tâm tư của Mị khiến Mị trở thành ‘thật hơn con người thật’.
Mùa xuân rồi cũng qua đi nhưng sức sống tiềm tàng trong Mị đã được khơi dậy và chờ dịp bùng lên. Với nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật tinh tế Tô Hoài đã đem đến cho nhân vật một hướng đi, một cuộc đời mới. Đó cũng chính là giá trị nhân văn cao đẹp của tác phẩm. Đồng thời cũng cho thấy tài năng của Tô Hoài cùng những đóng góp của ông cho văn học Việt Nam.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 12)
Nhắc đến Tô Hoài là nhắc đến một cây bút với khả năng sáng tác dồi dào, phong phú ở nhiều thể loại, mà ở thể loại nào ông cũng để lại những tác phẩm, những dấu ấn xuất sắc từ truyện thiếu nhi, hồi ký, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim,… Ở mảng văn học hiện thực Tô Hoài đã ghi dấu ấn với tập truyện Tây Bắc bao gồm ba truyện ngắn nói về cuộc sống của người dân tộc miền núi phía Bắc những năm tháng trước cách mạng tháng tám. Trong đó Vợ chồng A Phủ là tác phẩm được biết đến nhiều nhất bởi những giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc được lồng ghép trong bối cảnh hiện thực đất nước lúc bấy giờ. Có thể nói rằng Tô Hoài chính là người tiên phong “mở đất” khi viết về đời sống của các dân tộc miền núi phía Bắc, đặc biệt hơn là đi sâu vào những bất hạnh và vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn của người phụ nữ dân tộc thiểu số dưới ách áp bức của cả cường quyền, lẫn thần quyền. Mị trong Vợ chồng A Phủ chính là một điển hình cho những số phận bất hạnh, đau khổ tột cùng của vùng trời Tây Bắc, cuộc đời Mị tưởng như đã chết từ khi bước chân vào nhà thống lý Pá Tra, thế nhưng với sức sống mạnh mẽ, khao khát tự do tột độ, trong đêm tình mùa xuân ấy, Mị đã thức giấc, bắt đầu phản kháng, tìm lối thoát cho riêng mình.
Mị xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, bố Mị phải đi vay tiền cưới vợ, món nợ ấy mãi đến khi Mị đã lớn khôn, trở thành một cô gái xinh đẹp, giỏi giang mà vẫn chưa trả hết nợ. Chính món nợ truyền kiếp khốn khổ đó đã kéo theo cuộc đời của Mị xuống những bất hạnh tột cùng. Vì để trả nợ cho cha, Mị phải chấp nhận làm con dâu gán nợ cho nhà thống lý Pá Trá, bị bắt ép chung sống với A Sử, người mà Mị không thương, chấp nhận từ bỏ tình yêu của cuộc đời.
Ngày đầu tiên về là dâu, Mị đã bỏ trốn về nhà, trong tay cầm nắm lá ngón chỉ muốn chết quách đi cho xong, Mị đã cố gắng vùng vẫy, phản kháng để chống lại số phận. Thế nhưng Mị chết rồi thì lấy ai trả nợ cho người cha già, cái hiếu, cái tình đã giữ Mị ở lại với cuộc đời này, thế nhưng Mị sống cũng chẳng khác nào cái xác không hồn, chỉ đơn giản là đang tồn tại. Mang tiếng về làm dâu nhà giàu, nhưng Mị sống không khác gì một nô lệ, làm việc quần quật không kể ngày đêm, liên tục từ mùa này qua tháng khác, chưa từng ngơi nghỉ đến một ngày. Cái khổ sở về thể xác cùng với sự hành hạ về tinh thần khi phải chung sống với người đàn ông vũ phu dường như đã giết chết trái tim, giết chết tâm hồn Mị. Mị tựa như một cỗ máy lao động, suốt mấy năm trời người ta chẳng nghe Mị nói chuyện lần nào, cứ lặng im, “lầm lũi như con rùa trong xó cửa”, đi qua từng năm tháng khổ đau. Rõ ràng là một cô gái xinh đẹp có tài thổi sáo, tuổi đời tầm hai mươi thế nhưng lại sống như một nắm tro tàn, lạnh lẽo, đơn độc, thậm chí không còn cảm nhận được niềm vui sướng hay đau khổ bởi “ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Ấy vậy mà trong sự chai lì đến vô cảm, không thiết tha với cuộc đời, Mị vẫn còn nhận thức được cái khổ đau không bằng loài trâu ngựa của người đàn bà sống trong nhà thống lý Pá Tra rằng “Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Chi tiết nhỏ này đã khắc họa mạnh nỗi đớn đau, bất hạnh cùng cực không chỉ của riêng nhân vật Mị mà là của chung nhiều những thân phận đàn bà khác ở Hồng Ngài, là người nhưng sống kiếp không bằng loài vật nuôi, đớn đau đến tột cùng.
Không chỉ là nỗi đau về thể xác khiến Mị trở nên chai sạn, mà thực tế chính những vết thương trong tâm hồn mới khiến Mị trở nên thờ ơ với tất cả. Từ một cô gái xinh đẹp, thổi sáo, thổi lá giỏi, được biết bao chàng trai si mê, lại có một tình yêu đẹp tưởng như gần đâm hoa kết trái, Mị bỗng trở thành con dâu gán nợ, chịu cảnh chung đụng với một kẻ thô lỗ, bị giam cầm trong một căn phòng tối tăm chỉ có một ô cửa sổ bé bằng lòng bàn tay lúc nào cũng mờ mờ không biết là màu sương hay là màu nắng. Mị phải từ bỏ tất cả những mong ước của đời mình, từ bỏ cuộc sống tự do, chôn vùi tuổi trẻ trong cuộc hôn nhân gán nợ, lấy người chồng sang giàu nhưng chẳng khác nào địa ngục trần gian. Mị không có quyền được lựa chọn, không có một con đường nào khác, cô chỉ còn cách bọc mình lại trong cái vỏ chai lì, lầm lũi để tiếp tục những ngày tháng tối tăm, tuyệt vọng.
Những tưởng cuộc đời Mị cứ mãi thinh lặng, bế tắc và vĩnh viễn bị chôn vùi dưới cái ách của thần quyền và thần quyền, thế nhưng chính đêm tình mùa xuân cùng với tiếng sáo gọi bạn réo rắt – âm thanh của sự sống trong Vợ chồng A Phủ, dường như đã đánh thức tâm hồn Mị. Một tâm hồn chưa chết hẳn, nằm sâu trong nắm tro tàn ấy chính là những hòn than nóng bỏng, vẫn nồng nhiệt niềm khao khát được sống, được tự do của Mị, chỉ trực chờ ngày được phất lên ngọn lửa rực rỡ. Khi mùa xuân đến, những cô gái, chàng trai trẻ tuổi nô nức hẹn hò, người ta khoác lên mình những bộ váy áo màu sắc sặc sỡ, thổi sáo, thổi lá tình tứ suốt ngày này qua ngày nọ. Mị nghe thấy tiếng sáo vọng lại “thiết tha bổi hổi”, trong vô thức mị bất chợt lẩm nhẩm theo bài hát của người vừa thổi, những câu hát mà có lẽ đã lâu lắm rồi Mị không còn nhắc tới. Có thể nói rằng, ở một chi tiết nhỏ này, người ta đã thấy được trái tim vốn chai sạn của Mị hình như đang dần sống lại, bởi lẽ làm gì có người nào lại hát khi tâm hồn đã nguội lạnh. Những câu hát ấy, dù không thành tiếng, thành lời thế nhưng nó lại là tiếng vang của tâm hồn, một tâm hồn khởi sắc, dần bước ra khỏi lớp vỏ chai lì bấy lâu nay vẫn mang.
Sự thay đổi trong tâm hồn Mị càng được bộc lộ rõ ràng thông qua chi tiết Mị uống rượu “Ngày Tết Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Trên thực tế Mị ở trong nhà thống lý Pá Tra không hề có một vị trí nào, cô sống cuộc đời còn bần cùng khổ sở hơn cả loài vật nuôi, thế nên việc uống rượu đối với Mị là một sự kiện xa xỉ, thậm chí nếu bị bắt được có lẽ Mị sẽ bị đánh trói, bắt phạt. Dù thế nhưng Mị vẫn lén lấy rượu uống, điều đó giống như là một sự phản kháng, Mị muốn đòi quyền lợi cho mình, cả nhà thống lý đều được uống rượu ăn Tết đủ đầy, Mị cũng muốn được như vậy, Mị muốn một lần được sống như con người ở cái nơi đã mang đến cho Mị biết bao nhiêu là đau khổ. Và cứ thế Mị uống rượu ừng ực, từng bát, uống không phải để thỏa mãn cái niềm khao khát, thèm muốn, mà dường như Mị đang cố uống cho trôi đi hết tất cả những uất ức khổ đau, cũng là cái cách mà cô thể hiện sự phẫn nộ, khó chịu trong lòng bấy lâu nay. Trong men rượu cay, Mị bỗng nhớ về những ngày xa xăm, khi Mị còn chưa bị ép làm dâu nhà thống lý, cô cũng có một cuộc sống tươi đẹp, tương lai đầy hứa hẹn, khi bản thân Mị là người con gái tài sắc vẹn toàn, chăm chỉ lao động, lại có một tình yêu đẹp sắp đơm bông. Thế nhưng chỉ trong một đêm tất cả đã trở thành ác mộng, càng nghĩ Mị lại càng ngẩn ngơ trong hoài niệm. Thế rồi người cũng về hết, còn lại một mình Mị ngồi trơ giữa nhà, trong lòng Mị bỗng nảy ra điều gì đó, Mị đứng dậy đi vào buồng “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Tâm hồn tưởng đã chết của Mị đã thực sự sống lại một cách diệu kỳ, đã biết bao lâu rồi Mị không còn cảm nhận được cái cảm giác vui sướng, cái phơi phới của một tâm hồn son trẻ, có lẽ là từ lúc Mị bước chân vào nhà thống lý Pá Tra. Không chỉ là về cảm xúc mà dấu ấn chứng minh cho sự sống lại của tâm hồn Mị còn nằm ở nhận thức về cuộc đời về tuổi trẻ của mình “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ”, đồng thời bộc lộ thành khao khát, ước muốn rằng “Mị muốn đi chơi”. Có thể nói rằng đến lúc này niềm khao khát tự do, khao khát được sống, được hưởng thụ cuộc đời của Mị đã bộc lộ một cách rõ rệt nhất. Mị không còn là người đàn bà trẻ tuổi sống lầm lũi, thinh lặng, chịu đựng trong nhà thống lý Pá Tra với khuôn mặt lúc nào cũng buồn rười rượi nữa, mà đã gần như khôi phục được sự sống quay về với bản tính con người trước kia, một cô gái trẻ đẹp, yêu đời, giỏi thổi sáo, bắt đầu dám phản kháng lại để giành lại hạnh phúc cho bản thân.
Thế nhưng không may rằng dù tâm hồn Mị đã được cởi trói, nhưng thân xác Mị vẫn nằm trong sự khống chế của cường quyền. Trong lúc Mị định thay vào chiếc váy rực rỡ để đi chơi thì A Sử về, nó không cho Mị cái quyền được chơi Tết mà tàn ác túm tóc Mị, rồi trói cô vào cây cột nhà bằng sợi đay, cắt đứt hết những niềm vui sướng vừa nảy nở trong tâm hồn người phụ nữ tội nghiệp. A Sử đi rồi, để lại một mình Mị với căn buồng tối đen, trong hoàn cảnh ấy cứ nghĩ rằng Mị sẽ sụp đổ và tuyệt vọng thêm một lần nữa, nhưng không, “Mị đứng im lặng, như không biết mình bị trói”, lòng Mị vẫn đang nghĩ về những cuộc chơi, những đám chơi mà Mị khao khát. Dường như dây trói của A Sử có chặt hơn nữa, thì cũng chỉ giữ lại được thân xác này của Mị chứ không thể trói buộc được cái tâm hồn khao khát tự do mãnh liệt của cô. Mị bắt đầu phản kháng “Mị vùng bước đi” nhưng dây trói siết lại, “tay chân đau không cựa được”, nghe tiếng ngựa đạp vào vách, Mị lần nữa ý thức được nỗi đau thân phận rằng bản thân thậm chí còn chẳng bằng con ngựa. Bởi lẽ, con ngựa còn được tự do đôi chân mà đạp vào vách, còn Mị cả chân tay đều bị trói cứng không thể cựa quậy, Mị chảy nước mắt, nghĩ về cuộc đời đau khổ của mình bằng một tâm thế xót xa, cái mà bao lâu nay Mị dường như đã bỏ qua.
Đêm tình mùa xuân đã kết thúc bằng việc Mị bị trói đứng trong buồng ngủ, thế nhưng đó không phải là sự kết thúc, mà thực tế rằng tất cả những sự kiện diễn ra tuần tự đều có ý nghĩa dần dà đánh thức tâm hồn đang nép kỹ trong lớp vỏ chai sần của Mị. Cho đến khi Mị hoàn toàn ý thức được nỗi đau thân phận, ý thức được giá trị của bản thân, cùng với niềm khao khát mãnh liệt được sống, được tự do, thì cũng chính là lúc Mị hoàn toàn sống lại một cách đúng nghĩa cả thể xác lẫn tinh thần. Sự kiện A Sử trói Mị chính là tiền đề, khởi đầu cho những sự phản kháng mạnh mẽ, tự giải thoát cho người khác và cho chính bản thân Mị, để tìm đến một cuộc đời, một tương lai mới tốt đẹp hơn.
Mị trong Vợ chồng A Phủ là một nhân vật điển hình cho nhiều đồng bào miền núi phía Bắc có số phận bất hạnh, phải chịu cảnh áp bức bóc lột của cả cường quyền và thần quyền trong giai đoạn trước cách mạng tháng tám. Với tình cảm gắn bó tha thiết và đôi mắt thấu hiểu của mình Tô Hoài không chỉ phản ánh hiện thực xã hội đầy khắc nghiệt mà còn thông qua đó bộc lộ những vẻ đẹp tiềm ẩn trong từng nhân vật, mà ở Mị là vẻ đẹp tài năng, nhan sắc, nhân cách, sự khao khát tự do mãnh liệt, tình yêu cuộc sống tha thiết, sự phản kháng mạnh mẽ đối với những bất công mà cô phải gánh chịu, để tự giải thoát cho chính bản thân và cả người khác.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 13)
Tô Hoài là một trong những cây bút văn học vô cùng xuất sắc, cho ra đời nhiều tác phẩm nổi tiếng và đưa vào giảng dạy. Trong cuộc đời hoạt động nghệ thuật của mình ông đã nhận được rất nhiều giải thưởng danh giá. Hơn 60 năm lao động nghệ thuật, ông có gần 200 đầu sách thuộc nhiều thể loại khác như như truyện kí, tiểu thuyết… Những tác phẩm văn học của ông thường có lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động, vốn từ giàu có và nhiều khi bình dân, thông tục. Khi đọc truyện người đọc cảm nhận thấy tác phẩm rất thật, rất chân thành, cảm nhận được tấm lòng nhà văn dành cho nhân vật của mình nên tác phẩm rất có sức hút lôi cuốn, lay động người đọc.
Một trong những tác phẩm để đời của Tô Hoài phải kể đến Vợ Chồng A Phủ và đoạn trích nổi bật nhất tác phẩm chính là diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân. Đây là đoạn trích thể hiện cho vẻ đẹp đầy sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người phụ nữ bị áp bức.
Sức sống tiềm tàng vốn là sức sống của con người, khi bị hoàn cảnh bên ngoài tác động vào dù là khó khăn, gian khổ thế nào cũng không thể che khuất đi, thậm chí sức sống ấy luôn thường trực như ngọn lửa, chỉ chờ cơ hội là bùng cháy, trỗi dậy. Sức sống ấy luôn có ở trong người con gái nhỏ bé vùng Tây Bắc – Mị trong tác phẩm Vợ chồng a Phủ của Tô Hoài.
Nếu đọc đoạn đầu tác phẩm ta sẽ thấy hình ảnh một cô gái lầm lũi ngồi quay sợi gai bên tảng đá. Cô gái ấy nhìn thiếu sức sống, sống mà như đã chết, ánh mắt chỉ nhìn về một hướng vô định. Dù cô gái ấy có làm gì đi nữa như thái cỏ ngựa, dệt vải hay chẻ củi, cõng nước thì cô ấy cũng cúi mặt buồn rười rượi. Thoạt đầu khi đọc tác phẩm, người đọc cảm thấy đây là nhân vật nhu nhược, sóng hèn và có lẽ bị tra tấn quá nhiều dẫn đến tinh thần không được ổn định và vô định.
Nhưng ngược dòng quá khứ, trở về thời cô Mị chưa làm dâu nhà thống lý Pá Tra chúng ta sẽ bắt gặp hình ảnh một cô gái tuổi đôi mươi, xinh đẹp, tràn đầy sức sống và hi vọng.
Mị xinh đẹp, Mị nhiều người yêu, người xếp ở ngõ nhiều đến nỗi bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Trai đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị. Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, Mị thổi sáo rất giỏi đến nỗi bao nhiêu chàng trai say mê “Mùa xuân đến, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác.”
Mị cũng có người yêu, Mị cũng muốn đi theo tiếng gọi của tình yêu, vì Mị còn trẻ. Mị ý thức được điều này nên Mị sống hạnh phúc, vui trẻ.
Không chỉ vậy, Mị còn rất hiếu thảo với cha mẹ. Khi biết cha mẹ muốn bán mình gán nợ Mị ý thức được tự do, cầu xin cha mẹ để Mị làm nương ngô trả nợ. Chỉ qua một vài yếu tố về cuộc đời của Mị trước lúc làm dâu nhà thống lý Pá Tra chúng ta cũng thấy được rằng Mị là người khao khát sống tự do, khao khát hạnh phúc và có sức sống mãnh liệt tiềm tàng.
Khi về làm dâu nhà thống lý Pá Tra, người đọc cảm thấy dường như sức sống ấy đã không còn. Vì chúng ta chỉ bắt gặp hình ảnh cô Mị lúc nào cũng buồn rười rượi, ánh mắt cúi xuống vô định. Muội bị bóc lột không khác gì trâu ngựa, trâu ngựa làm còn được nghỉ, được cho ăn, còn đàn bà nhà này thì chỉ biết vùi đầu vào công việc không được nghỉ ngơi. Ở nhà thống lý Pá tra không khác gì địa ngục trần gian với đủ loại cực hình như đánh, phạt, trói…
Trong hoàn cảnh như thế này, một cô gái mới lớn chưa trải sự đời chỉ biết sống qua ngày, lầm lũi như con rùa: “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông ấy mà trông ra. Đến bao giờ chết thì thôi.” Dường như chúng ta thấy cô Mị không còn sức sống nữa, phó mặc cho cuộc đời, cứ sống vậy đến khi nào chết thế là hết một đời.
Căn phòng Mị ở có khác nào buồng giam, chỉ có một ô cửa nhỏ duy nhất nhìn ra ngoài để thấy ánh sáng. Nhưng chính hoàn cảnh này đã làm nền cho sức sống mãnh liệt tiềm tàng trong Mị. Sức sống ấy chưa có đủ điều kiện để bùng cháy, trỗi dậy. Chỉ cho đến khi vào đêm tình mùa xuân, sức sống mãnh liệt trong trái tim người con gái nhỏ bé mới trỗi dậy để thay đổi cuộc đời Mị và A Phủ.
Trước đêm tình mùa xuân, khi mới về làm dâu sức sống mãnh liệt đã trỗi dậy đó là khi Mị về nhà và cầm theo lá ngón. Mị có ý định tử tự bằng lá ngón vì không chấp nhận được cuộc sống mất tự do.
Mị trốn về nhà, hai tròng mắt còn đỏ hoe. Trông thấy bố, Mị quỳ, úp mặt xuống đất, nức nở. Bố Mị cũng khóc, đoán biết lòng con gái:
– Mầy về chào lạy tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt trả nợ. Mày chết rồi không lấy ai làm nương ngô, trả được nợ, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được con ơi!
Mị chỉ bưng mặt khóc. Mị ném nắm lá ngón (một thứ lá độc) xuống đất. Nắm lá ngón Mị đã đi tìm hái trong rừng. Mị vẫn giấu trong áo. Thế là Mị không đành lòng chết. Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ.
Mị đã ý thức được sự tự do và ý nghĩa của cuộc sống. Sức sống ấy đã có cơ hội trỗi dậy nhưng lại bị dập tắt ngay vì lòng hiếu thảo còn cao hơn. Mị đành chấp nhận cuộc sống và có lẽ trong đêm tình mùa xuân lần này, Mị đã sống lại.
Mị nghe thấy những âm thanh bên ngoài cuộc sống, âm thanh của mùa xuân. Đó là tiếng trẻ con chơi quay, tin nghịch, đốt những lều quanh nương, tiếng sáo gọi bạn tình. Tất cả những âm thanh ùa vào trong tâm trí, đánh thức mọi kỉ niệm trong quá khứ của Mị. Mùa xuân những năm Mị chưa đi làm dâu, Mị cũng thổi sáo, cũng váy hoa, cũng nhiều người theo đuổi, Mị cũng yêu cũng có khát vọng được yêu và hạnh phúc. Tất cả như tái hiện lại rõ mồn một trong đêm tình mùa xuân. Mị lẩm nhẩm theo lời bài hát, đây là sự biến đổi đầu tiên trong tâm trí Mị. Một tâm hồn chai sạn, tự cho mình là con trâu con ngựa, sống quen với cái khổ rồi nên cũng không khao khát gì. Vậy mà hôm nay Mị lại nghe thấy âm thanh mùa xuân, nhẩm theo lời bài hát, nhớ tới thanh xuân tươi đẹp và khao khát tình yêu.
Mị đã ý thức được sự tồn tại của bản thân “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.” Khi đã thấy được giá trị và sự tồn tại của bản thân thì đây chính là cột mốc quan trọng đánh dấu sự bứt phá trong tâm trí của Mị. Đó là Mị muốn chấm dứt sự tù đày này, Mị muốn được đi chơi.
Nhưng suy nghĩ muốn đi chơi vừa nảy ra chưa kịp hành động thì Mị đã bị A Sử bắt trói vào cột nhà “Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong, A Sử thắt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi phẩy tay tắt đèn, đi ra khép cửa buồng lại”. Nhưng A Sử chỉ trói được phần xác của Mị mà thôi, còn tâm hồn của Mị đang bay lơ lửng theo tiếng sáo. Trái tim và tâm trí của mị đang sống lại mãnh liệt, Mị nào có quan tâm đến việc A Sử trói mình.
Có thể nói, Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy đã cháy âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và cơ hội đã đến để ngọn lửa khát khao sống bùng lên. Mị vẫn đang mơ về đêm tình mùa xuân, mơ về tự do “Trong bóng tối, Mị đứng im, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn. Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi”.
Mị cứ đứng như thế tới sáng mới bừng tỉnh. Cả một đêm bị trói mà Mị vừa mê vừa tỉnh, hơi rượu phả vào, tâm hồn vẫn thả theo tiếng sáo. Dường như khát vọng sống quá mãnh liệt đến nỗi con người ta quên đi đau thương của thực tại. Đến lúc bừng tỉnh, Mị mới biết mình bị trói, mới thấy đau. Mị lại trở về cái xác không hồn.
Nhưng sức sống ấy vẫn còn vẫn âm ỉ khi Mị sợ mình bị bỏ quên mà chết. Con người ta còn tham sống thì sẽ còn sợ chết và khao khát sống mãnh liệt hơn bao giờ hết. Mị nhớ đến câu chuyện nhà Thống Lý Pá Tra xưa có người vợ bị trói, chồng đi chơi ba ngày về thì người vợ đã chết “Mị sợ quá, Mị cựa quậy. Xem mình còn sống hay chết.”
Vẫn còn thấy mình đau nghĩa là còn muốn sống. Chỉ khi nào không còn muốn cảm nhận gì nữa, dù đau về thể xác hay tinh thần mà mình bàng quang không quan tâm thì có lẽ khi ấy, sức sống tiềm tàng không còn nữa và lụi tàn như đám tro tàn. Nhưng Mị vẫn còn cảm thấy, vẫn sợ chết, vẫn cựa mình và thấy cổ tay, đầu , bắp chân bị dây trói siết lại, đau đứt từng mảnh thịt.
Mở đầu tác phẩm là sự lầm lũi như con rùa của Mị và các tình tiết được đẩy dần lên làm trỗi dậy sức sống tiềm tàng trong con người Mị. Sức sống ấy luôn có và khi cơ hội đã búng cháy và trong đêm tình mùa xuân, người đọc đã cảm nhận rõ sức sống mãnh liệt của Mị. Phải thương và hiểu nhân vật của mình thế nào, Tô Hoài mới có thể tạo nên một tình huống đặc biệt, là nút mở cho câu chuyện, giúp cuộc đời của Mị sang một trang mới.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 14)
Tô Hoài là một nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại Việt Nam, các sáng tác của ông thiên về diễn tả sự thật đời thường với lối viết giản dị, gần gũi, thông tục. Truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Truyện Tây Bắc” là một tác phẩm tiêu biểu, sau hơn nửa thế kỉ, đến nay vẫn giữ nguyên vẹn sức hút với nhiều thế hệ người đọc. Tác phẩm xoay quanh số cuộc sống của nhân vật Mị, đặc biệt là diễn tả diễn biến nội tâm của cô trong từng giai đoạn và đêm tình mùa xuân là một cảnh tác động lớn diễn biến tâm lí và hành động của người con gái vùng núi này.
Vì sao sau bao nhiêu năm sống lầm lũi như con rùa nuôi nơi xó cửa, chấp nhận cuộc sống chẳng bằng con trâu, con ngựa, sức sống của Mị lại chợt hồi sinh trong đêm tình mùa xuân? Phải chăng không khí mùa xuân đến bất ngờ cùng hội xuân, sắc áo váy rực rỡ và những cuộc chơi đã ảnh hưởng đến Mị? Hay chẳng phải sắc màu cũng chẳng phải hương xuân mà chính là tiếng sáo thân quen. Tiếng sáo gọi bạn tình vốn đã quen thuộc, đi vào nếp sống của người dân Hồng Ngài, họ dùng tiếng sáo để thể hiện tình yêu, để nói lòng mình. Nghe tiếng sáo, Mị lại bồi hồi nhớ lại quá khứ của mình, tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, hình ảnh tiếng sáo quan trọng đến mức được lặp lại hơn mười lần trong tác phẩm. Tiếng sáo tuy giản dị, mộc mạc nhưng lại khiến lòng người thiết tha bồi hồi, bởi nó tượng trưng cho tình yêu trai gái. Tiếng sáo khơi dậy trong người con gái vốn tưởng đã chết về mặt tinh thần sống lại quá khứ tươi đẹp, cái ngày mà cô thỏa sức vùng vẫy trong tự do và tình yêu. Chính tiếng sáo đã tác động mạnh mẽ đến sức sống tiềm tàng trong Mị. Bên cạnh tiếng sáo, men rượu cũng là một yếu tố khiến Mị có sự thay đổi. Mị uống ực từng bát, uống như một tên sâu rượu, Mị uống để quên đi hiện tại khốn khổ, nhục nhã và cũng để không nhớ đến tương lai mờ mịt, không có gì để hi vọng. Hành động uống rượu ấy đã nói lên nỗi oan khuất đau buồn trong trái tim người con gái nhưng cũng tiếp thêm sức mạnh để người con gái ấy bừng tỉnh sức sống.
Từ những chất xúc tác từ bên ngoài ấy cùng bản chất mạnh mẽ, tràn đầy sức sống, Mị đã hồi sinh cảm xúc trong đêm tình mùa xuân. Nghe tiếng sáo, Mị bỗng cảm thấy tha thiết, bồi hồi. Những cảm xúc nhẹ nhàng ấy khiến Mị nhớ về quá khứ – một quá khứ tươi đẹp mà chẳng bao giờ Mị dám hi vọng có thể sống lại một lần nữa. Ngày ấy, Mị thổi lá cũng hay như thổi sáo, tài năng cùng với sắc đẹp của nàng khiến bao chàng trai Hồng Ngài mê đắm, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Từ những hồi ức đẹp đẽ ấy, Mị thấy phơi phới trở lại và cô nhận ra mình vẫn còn trẻ. Thật kì lạ khi người ta không biết trạng thái của bản thân ra sao để rồi một ngày chợt nhận ra mình vẫn còn trẻ. Điều ấy chẳng khác nào bao ngày qua, Mị không biết mình đang sống hay chỉ là tồn tại như một cái xác và đêm nay, cô mới chợt tỉnh, nhận thức được mình vẫn còn trẻ, mình vẫn còn sống và mình phải làm điều gì để chứng minh điều đó. Điều đầu tiên cô muốn làm khi sống lại cảm giác chính là muốn đi chơi. Bao năm rồi, kể từ khi bị gả về nhà thống lí Pá Tra, làm vợ A Sử, Mị đều không đi chơi xuân, mặc dù những người đàn bà có chồng khác vẫn đi chơi. Mị muốn ra ngoài, không còn muốn yên phận sống trong căn phòng kín mít, chỉ có một ôi cửa sổ nhỏ, hằng ngày nhìn ra không biết là sáng hay tối nữa. Cô bắt đầu sửa soạn, cô lấy chiếc váy hoa, cho thêm mỡ vào đèn để thắp sáng căn phòng tăm tối và quấn tóc. Đây là những hành động được coi là phản kháng của Mị, cô đã bắt đầu có những phản ứng với cuộc sống, đã hồi sinh cảm xúc. Nhưng ngay khi ngọn lửa sức sống đang bùng cháy mạnh mẽ thì lại bị dập tắt, con người tàn nhẫn ấy không ai khác chính là A Sử – con trai thống lí và cũng là chồng Mị. Hắn đột nhiên về nhà và thấy lạ khi thấy Mị sửa soạn đi chơi. Con người ấy đã trói Mị lại, độc ác hơn, hắn lấy tóc Mị quấn quanh cột, không cho Mị cử động. Nhưng dù bị trói, hơi rượu vẫn nồng nàn trong Mị, chi phối lí trí cô. Cô nghe thấy tiếng sáo, tiếng sáo gọi bạn tình của ai kia mà như gọi lòng cô, bất giác cô bước đi, cô muốn đi theo tiếng sáo tình yêu ấy, đó mới chính là cuộc sống đáng lẽ cô được hưởng. Nhưng dây trói cứa vào da thịt, nỗi đau thể xác làm cô bừng tỉnh. Cô đành lòng phải trở lại với hiện thực đắng cay, rằng thân phận mình không bằng con ngựa nhà thống lí. Đau xót thay.
Sự hồi sinh sức sống của Mị trải qua cả một quá trình diễn biến từ những cảm xúc hồ tưởng về quá khứ đến hành động phản kháng muốn đi chơi và cuối cùng nhận thức ra một điều quan trọng. Lúc trước, Mị đã coi mình là con trâu, con ngựa nhà thống lí mà đã là con trâu, con ngựa thì không có suy nghĩ, chúng chỉ biết ăn và làm việc mà thôi nhưng lúc này Mị đã hiểu ra, trong ngôi nhà này, đến cả con trâu, con ngựa mình cũng không bằng. Sự hồi sinh sức sống này do nguyên nhân khách quan là tiếng sáo và men rượu nồng nó chưa đủ sức mạnh để tạo nên những hành động mạnh mẽ để tự giải thoát mình, chính vì thế sau đó, Mị lại trở lại cuộc sống như cũ.
Qua nghệ thuật miêu tả tâm lí cùng việc sử dụng ngôn ngữ giản dị, thông dụng, Tô Hoài dường như đã vẽ lên trước mắt người đọc hình ảnh một người con gái mạnh mẽ, tuy đã bị vùi dập, tưởng chỉ còn cái xác không hồn nhưng bên trong vẫn tiềm tàng ẩn chứa sức sống mãnh liệt, chỉ tìm cơ hội để hồi sinh, để bùng cháy.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 15)
Vợ Chồng A phủ là tác phẩm hay nhất nói về con người và đất nước vùng cao Tây Bắc. Qua ngòi bút của Tô Hoài ta thấy được nỗi khổ đau và tủi nhục của các cô gái khi bị “ ép duyên” và sự áp bức của chế độ phong kiến thời bấy giờ. Có nhiều tuyến nhân vật chính và phụ trong tác phẩm như A Phủ, A Sử, thống lí Bá Tra… nhưng Mị vẫn là nhân vật trung tâm của tác phẩm và tâm trạng, hành động, suy nghĩ của Mị được bộc lộ rõ nét nhất qua cảnh Mị trong đêm tình mùa xuân.
Mị là cô gái người dân tộc H’Mông tài sắc vẹn toàn, vừa hát hay, thổi sáo giỏi làm say đắm biết bao chàng trai. Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ không có đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lí, bố của thống lí Bá tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng về già rồi mà cũng chưa trả hết nợ. Vì vậy, đến tuổi xuân thì, Mị bị bắt làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Bá Tra nhưng thực chất là làm nô lệ. Suốt ngày, ở nhà thống lí, Mị phải quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi, đi cõng nước dưới khe suối lên, hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bung ngô, tước đay thành sợi… Kiếp sống cơ cực hơn cả ngựa trâu đã biến một cô gái hồn nhiên, yêu đời, năm nào thành một người phụ nữ cam chịu “ lùi lũi như con rùa nuôi sống xó cửa”, có khi vô cảm. Mặt khác, Mị cũng có những phản ứng ngấm ngầm. Một hôm, Mị trốn về nhà. quỳ lạy bố, úp mặt xuống đất khóc nức nở nhưng bên trong áo giấu sẵn một nắm lá ngón để tự tử.
Mị không chỉ là nạn nhân của sự đầu độc, áp chế về tinh thần. Bọn thống lí Bá Tra đã lợi dụng thần quyền – tục mê tín dị đoan để làm cho người nô lệ này yên phận với kiếp sống đau khổ. Mị tin rằng “ Ta là thân đàn bà. nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Cho nên, Mị sống nhẫn nhục, thầm lặng, vô cảm, không có chút hi vọng vào sự đổi thay của tương lai.
Thế rồi mùa xuân lại về. Khung cảnh thiên nhiên mùa xuân ở Hồng Ngài thật thơ mộng, tình tứ và bừng sức sống: “ Gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng”, “ trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ hay, đỏ thẫm, rồi sang màu tím man mát”.
Cùng với vẻ đẹp thiên nhiên là không khí náo nức, nhộn nhịp của ngày hội. “ Trai gái, trẻ con ra sân chơi tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy”; “ chiêng đánh ầm ỉ”; “ văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Chính cái không khí ấy đã khơi dậy, đánh thức nơi bề sâu hun hút của tâm hồn Mị một cuộc sống mãnh liệt, trẻ trung. Mị “ lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ựng từng bát”. Rồi Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị.
Nhưng khi tâm trạng bồi hồi, sung sướng vô ngần ấy vừa xuất hiện thì nổi đắng cay, chua xót, u sầu cũng chạy đến vây lấy Mị. Mị ý thức được cảnh ngộ éo le của cuộc đời mình.” A Sử với Mị không có lòng với nhau nhưng vẫn phải ở với nhau. Mị liền nghĩ đến cái chết: “ Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn hết cho chết ngay”. Nhưng rồi, “ tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường: Anh ném pao, em không bắt; Em không yêu, quả pao rơi rồi…” đã giục giã, thôi thúc Mị, khiến Mị dường như quên hết cảnh ngộ bi thảm hiện tại. Mị hành động như một người tự do,như “ bao nhiêu người có chồng khác”. Mị đến góc nhà lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Mị muốn đi chơi một cách bản năng. Cái ý nghĩ “ muốn đi chơi” vọt ra khi có tiếng sáo rập rờn ở trong đầu. Cái hành động “ quấn lại tóc”, “ với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”, “ rút thêm cái áo” chuẩn bị đi chơi là sự chiến thắng bất ngờ của bản năng. Bản năng đã làm cho Mị không biết sợ sệt là gì.
Trong lúc lòng yêu đời đang trỗi dậy mãnh liệt cũng là lúc Mị bị vùi dập một cách tàn nhẫn, không thương tiếc. Mặc dù đang “ thay áo mới, khoác thêm hai vòng bạc vào cổ rồi bị cái khăn trắng lên đầu” để đi chơi nhưng A Sử biết được ý định của Mị, hắn chỉ hỏi một câu: “ Mày muốn đi chơi à?” rồi “ bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thùng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên dây cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa”. Sau hành động vô nhân đạo, phũ phàng ấy, hắn bỏ đi.
Trong bóng tối, dù bị trói như một thứ đồ vật nhưng Mị vẫn sống với bản năng. Mị không biết mình đang bị trói. Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Mị vẫn nghe lời ca, tiếng hát ngọt ngào, tình tứ vang lên: “ Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”. Mãi đến lúc Mị “vùng bước đi”, cô mới giật mình trở về với thực tại, mới thấm hiểu rõ cái cảnh ngộ bi thảm của mình: “ Tay chân đau không cựa được” và cô mới thổn thức nỗi lòng, biết mình không bằng con ngựa. Nhưng khi nghe tiếng chó sủa xa xa, đêm đã về khuya thì Mị mới khóc, lòng Mị lại bồi hồi. Trong suốt đêm Mị bị trói đứng như thế, Mị rơi vào tâm trạng lúc tỉnh, lúc mê. Lúc mê lòng lại “ nồng nàn tha thiết nhớ”. Lúc tỉnh thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Đến sáng “ khi bàng hoàng tỉnh thì cô “ sợ quá”, “ cựa quậy”, xem mình còn sống hay chết”. Tâm trạng lo sợ ấy đã thể hiện ý thức về sự sống của Mị. Có cảm thấy đau đớn từng mảnh thịt bởi vì cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại. Chính sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị có những hành động táo bạo, mạnh mẽ sau này, cô cắt dây cởi trói để cứu A Phủ thoát khỏi cảnh ngộ bi thảm đồng thời cũng là tự cứu mình.
Tóm lại, trong khung cảnh tăm tối, ngột ngạt, tù túng, tàn bạo, chúng ta thấy có bản năng sống đầy chất thơ của nhân vật Mị bừng sáng lên. Sức sống tiềm tàng, trẻ trung không dập tắt được của Mị là một bài ca hùng hồn về sự sống. Đồng thời cũng là một bản cáo trạng đanh thép về tội ác của bọn phong kiến, thần quyền cùng núi cao Tây Bắc.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 16)
Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn được nhà văn Tô Hoài viết vào năm 1952 được in trong tập “Truyện Tây Bắc” (1953) được lấy cảm hứng từ một sự kiện có thật khi chính nhà văn Tô Hoài đã được sống và chứng kiến chính cuộc sống của những người dân nghèo nơi vùng cao xa xôi này. Nhà văn Tô Hoài đã thấy được cảnh những số phận con người biến thành nô lệ bị chế độ địa chủ cường hào thống lí áp bức bóc lột khiến sống không bằng chết. Hệ thống nhân vật mà Tô Hoài xây dựng nên cũng là những số phận tiêu biểu cho những tầng lớp tiêu biểu trong xã hội xưa chính là thống lí Pá Tra – địa chủ giàu có nhưng tàn ác, Mị và A Phủ – những người nông dân lao động hiền lành nhưng phải chịu đày đọa cả về thể xác lẫn tinh thần.
Nhân vật Mị được nhà văn giới thiệu từ giữa cuộc đời đi ra. Mở đầu truyện nhà văn đưa người đọc đến với thế giới của truyện cổ tích, với miền đất xa xôi Tây Bắc, dừng lại nhà thống lí Pá Tra giàu có nhất vùng, gặp một thiếu phụ đặc biệt lúc nào cũng ngồi cạnh tảng đá cạnh tàu ngựa vô tri vô giác, mặt lúc nào cũng cúi buồn rười rượi. Những câu văn tự sự chậm rãi nhỏ nhẹ hé mở cho người đọc thấy cuộc đời người thiếu phụ thật bất hạnh, chắc không phải con gái thống lí, quả đúng như vậy đó là con dâu gạt nợ tội nghiệp, khốn khổ. Từ đây, ngòi bút tài hoa của Tô Hoài ngược dòng thời gian trở về quá khứ để kể về cuộc đời của Mị trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra. Thời gian trước đó Mị là con gái trong một gia đình nông dân nghèo khổ hoàn cảnh vô cùng éo le, nghèo đến mức mà bố mẹ Mị không đủ tiền cưới phải vay lãi nhà thống lí Pá Tra “mỗi năm trả lãi một nương ngô”, đến khi mẹ Mị qua đời mà gia đình vẫn chưa hết nợ, món nợ truyền từ đời này sang đời khác. Số phận đưa đẩy Mị phải sống trong căn nhà u tối nhà thống lí, ngày cũng như đêm Mị ở trong căn phòng không có ánh sáng, không được coi như một con người phải chịu cảnh sống khổ cực như trâu ngựa.
Mị là người con gái nết na thùy mị, có những phẩm chất, tính cách tốt đẹp, tài hoa “Mị thổi sáo giỏi” đi đường “nhặt chiếc lá đưa lên môi, thổi sáo lá hay như thổi sáo” thể hiện được thế giới tâm hồn của Mị rất phong phú. Hơn thế nữa Mị là người con hiếu thảo biết lo cho gia đình đã hy sinh bản thân để giúp cha trả nợ. Ấy thế rồi cuộc đời Mị bị lay chuyển từ khi bước chân vào làm con dâu nhà thống lí. Mị lùi lũi như con rùa nuôi ở xó cửa, hình ảnh so sánh có thể cho người đọc thấy được cảnh nơi Mị sống chẳng khác gì địa ngục, nơi tăm tối, không có sự sống.
Nhưng trái tim nhân đạo sâu sắc của Tô Hoài không để cho nhân vật mà mình đồng cảm chết tàn chết lụi tội nghiệp ở nhà thống lí mà ông vẫn để cho sức sống tiềm tàng của Mị như hòn than hồng âm ỉ cháy trong đống tro tàn của tâm hồn, nếu gặp luồng gió mát cuộc đời thổi tới nó sẽ bùng cháy. Nhà văn đã thăng hoa tài năng của mình sáng tạo ra luồng gió mát ấy chính là đêm tình mùa xuân làm hồi sinh tâm hồn Mị. Thiên nhiên năm ấy khác thường gió bấc lạnh thêm dữ dội hòa với sắc màu cuộc sống là trên những mỏm đá những chiếc váy hoa phơi “xòe” như đàn bướm sặc sỡ, âm thanh của cuộc sống khác lạ khi ở Hồng Ngài ăn tết sớm tiếng trẻ con đùa nhau ầm ĩ, tiếng “trai gái ném pao, thổi khèn, thổi sáo và nhảy”. Sự khác thường ấy đã tác động vào tâm hồn Mị đặc biệt là chi tiết “tiếng sáo” như một sợi chỉ đỏ nối liền tâm hồn Mị thời trẻ trung son sắt với đêm tình mùa xuân năm nay, tiếng sáo vọng vào sâu thẳm tâm hồn gọi về bài hát Mị thường thổi năm xưa “Mày có con trai con gái rồi, mày đi làm nương, ta không có con trai con gái ta đi tìm người yêu”. Đây là tiếng sáo lần thứ nhất lấp ló đầu núi, từ xa vọng lại khiến trái tim Mị đang lạnh giá, khô cứng, bỗng mềm dịu, ấm áp, đập những nhịp đập hồi sinh trở lại “thiết tha bồi hồi” và Mị tỉnh lại thấy hiện tại “đêm tình mùa xuân đã tới”. Khi tỉnh dậy có lẽ Mị lại nhận ra cuộc sống hiện thực không đáng sống vì tuổi xuân của Mị đang bị giam hãm ở nhà thống lí Pá Tra, và tất yếu bao nỗi buồn tủi đau dâng trào mãnh liệt đòi hỏi Mị tìm đến men rượu để trốn tránh: “Mị lén lấy hũ rượu cứ uống ực từng bát”, uống như muốn trôi đi bao đau khổ, uất hận. Cách uống rượu như thể tất yếu khiến Mị say, lịm mặt ngồi đấy, bắt đầu rơi vào trạng thái phân thân, tiếng sáo vẫy gọi giục giã, còn men rượu nâng tâm hồn Mị bay lên theo tiếng sáo đến với những cuộc chơi trong hoài niệm của quá khứ. Còn thể xác vẫn ở lại nhà thống lí “nhìn mọi người nhảy đồng, người hát” khi mọi người về hết “Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà”. Tiếng sáo lần hai “tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng” tiếng sáo lần này đã đến gần Mị hơn. Tiếng sáo như vẫy gọi khiến Mị như bị thôi thúc trở về quá khứ ngày trước sống với những ngày tươi đẹp xuân sắc, rực rỡ, vui tươi nhất, thuở ấy “Mị thổi sáo giỏi” “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”, có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị.
Đến đây Tô Hoài đã nhìn thấy trong tâm hồn Mị một cuộc giao tranh gay gắt giữa quá khứ và hiện tại, quá khứ tươi đẹp rực rỡ nhưng mới chỉ bùng lên, còn hiện tại Mị bị cường quyền, phụ quyền áp chế lại dai dẳng triền miên quá lâu nên quá khứ không dễ thắng nổi, không thể kéo bước chân Mị đi chơi. Từ khi Mị vào nhà thống lí “chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi tết” những hồi ức về quá khứ mỗi lúc một mạnh mẽ bừng cháy làm Mị lại quên đi hiện tại đau khổ chỉ còn nhìn thấy hiện tại đang vui, may mắn là: “Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ” và “Mị muốn đi chơi”. Đấu tranh trong tâm hồn Mị càng một mạnh mẽ thêm qua những lần tiếng sáo dồn dập tiếp theo khiến tâm hồn Mị thoát ra như con ong thoát khỏi tổ kén. Tuy chân tay bị trói chặt nhưng tâm hồn đã hòa nhịp với đêm tình ngoài kia. Sự hồi sinh mạnh mẽ ấy bùng cháy do nhiều cung bậc của tiếng sáo đã thôi thúc Mị bước đi dù là lúc tỉnh, lúc mơ. Mị lúc mê đi theo tiếng sáo, lúc tỉnh thổn thức với tiếng chó sủa xa xa tiếng chân ngựa dần dần sự áp chế ngày một đè nặng khiến Mị bừng tỉnh và vô cùng sợ hãi rơi vào trạng thái tê liệt “ như con rùa nuôi trong xó nhà”.
Tô Hoài đã rất tài tình bằng tài năng và trái tim nóng của mình đã khắc họa chân thực những nét riêng biệt về phong tục, tập quán, tính cách và tâm hồn người dân nơi vùng cao xa xôi bằng một giọng văn nhẹ nhàng mang phong vị dân tộc, giàu giá trị nhân văn sâu sắc.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 17)
Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài trong giai đoạn sáng tác sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nội dung kể về cuộc đời đầy biến cố của đôi vợ chồng trẻ người Mông là Mị và A Phủ trong chế độ thực dân, phong kiến.
Nhân vật Mị là một hình tượng nghệ thuật đặc sắc có ý nghĩa khái quát cao, tiêu biểu cho cuộc sống đau khổ, tủi nhục và quá trình vùng lên tự giải phóng của đồng bào miền núi Tây Bắc. Đoạn văn miêu tả diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm xuân với những tình tiết chân thực và cảm động đã thể hiện sức sống mãnh liệt cùng khao khát tình yêu cháy bỏng của Mị – người con gái xinh đẹp mà bất hạnh.
Mị mồ côi mẹ, ở với cha già. Vì đẹp người đẹp nết nên Mị được nhiều chàng trai trong vùng để mắt tới. Tương lai của cô lẽ ra sẽ tốt lành, yên ấm, nhưng chỉ vì món nợ truyền đời của cha mẹ mà Mị bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Tuổi xuân của Mị đã bị A Sử, gã con trai xấc xược và hung bạo tước đoạt, giày xéo.
Quãng đời Mị sống trong nhà thống lí là chuỗi dài những đọa đày, tủi nhục. Tuy danh nghĩa là con dâu nhà quan lớn nhưng thực chất Mị chỉ là đầy tớ, nô lệ, bị coi rẻ hơn cả con trâu, con ngựa. Đau khổ, cực nhục đã cướp mất tuổi xuân của Mị, biến cô thành kẻ nhẫn nhịn và cam chịu. Lúc mới bị bắt về, Mị phản ứng quyết liệt, định ăn lá ngón tự tử, nhưng rồi thương xót cha già, Mị không đành lòng chết. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi. Cuộc sống không còn ý nghĩa. Cô sống mà như đã chết. Đau khổ triền miên đã làm cho Mị hóa thờ ơ, lạnh lùng. Mọi cảm xúc trong cô dường như đã chai lì. Tuy nhiên, khát vọng sống trong Mị chưa hoàn toàn lụi tắt. Trong Mị luôn tồn tại hai con người tưởng chừng đối lập: Con người bên ngoài lạnh lùng vô cảm và con người bên trong có sức sống âm thầm nhưng mãnh liệt.
Tác giả lấy khung cảnh mùa xuân, đêm xuân làm nền cho diễn biến tâm trạng của Mị. Mùa xuân, đất trời tưng bừng màu sắc, rộn rã âm thanh, rất gần gũi với quãng đời hồn nhiên, vui vẻ ngày trước của Mị: Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió vã rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ… Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi.
Đoạn văn tả cảnh mùa xuân trên vùng núi cao Tây Bắc với những hình ảnh đặc sắc sinh động và đầy sức sống. Màu sắc sặc sỡ của những chiếc váy hoa của các cô gái phơi trên các mỏm đá báo hiệu Tết đã đến gần. Tiếng cười ầm của đám trẻ con chơi quay trên sân chơi trước nhà. Tiếng sáo thổi réo rắt rủ bạn tình đi chơi. Tiếng chó sủa xa xa… Những đêm tình mùa xuân đã tới.
Sức sống tưng bừng của vạn vật mùa xuân đã làm cho tâm hồn Mị hồi sinh. Tâm trạng Mị lúc này pha trộn giữa nhiều cung bậc cảm xúc: vui sướng và đau khổ, tủi nhục đến mức muốn chết và khao khát sống. Những cảm xúc ấy đang trỗi dậy, cuộn xoáy, trào dâng trong lòng Mị.
Trong lúc trai gái và lũ trẻ con tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn trên sân chơi đầu bản thì Mị thiết tha bồi hồi khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình từ đầu núi vọng lại. Mị nhẩm thầm bài hát quen thuộc mà thời con gái cô hay hát:
Mày có con trai con gái rồiMày đi làm nươngTa không có con trai con gáiTa đi tìm người yêu.
Sau bao năm câm lặng trong đau khổ, có lẽ đây là lần đầu tiên người con dâu gạt nợ khe khẽ cất tiếng hát thầm.
Cảnh vui xuân nhộn nhịp ở đầu bản và cảnh ăn Tết ồn ào trong nhà thống lí Pá Tra đã tác động mạnh tới tâm hồn Mị, khiến cô nhớ lại thời con gái chưa xa. Lúc đầu, Mị hành động theo thói quen một cách vô thức: Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Mị uống rượu mà như uống nỗi tủi hận, cay đắng vào lòng, hay là Mị cố tình uống thế cho thật say để quên đi nỗi khổ? Tuy nhiên, hành động ấy thể hiện một sự chuyển biến khác thường đang diễn ra trong tâm trạng người con gái đáng thương.
Bi kịch bắt đầu khi ý thức về bản thân của Mị đang trỗi dậy. Mị say rượu lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát men rượu đánh thức nỗi nhớ về phần đời đã qua: Mị đang sống về ngày trước. Tiếng sáo gọi bạn tình văng vẳng bên tai Mị. Đấy là tiếng sáo của tình yêu rạo rực, của tuổi thanh xuân căng đầy sức sống. Dường như lúc này, Mị không còn là con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra nữa mà là cô gái xinh đẹp đang uống rượu bên bếp lửa và thổi sáo: Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Bao kỉ niệm đẹp thời con gái sống dậy trong lòng Mị: Mị thổi sáo giỏi… có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Hồi tưởng về mùa xuân tươi đẹp thời con gái, điều đó cho thấy con người thật của Mị đang hồi sinh. Khát vọng sống như ngọn lửa đang bừng cháy trong tâm hồn Mị.
Diễn biến tâm trạng Mị rất phức tạp: Cô đang bị giằng xé bởi mâu thuẫn giữa thân phận tù túng của người con dâu gạt nợ và mong muốn được tự do đi chơi Tết của cô gái đang khao khát tự do và tình yêu. Liệu Mị có dám cắt đứt sợi dây oan nghiệt đang thít chặt lấy số phận mình để đến với những cuộc chơi vui vẻ, với tiếng sáo gọi bạn tình réo rắt du dương?
Mải mê chìm đắm trong quá khứ nên Mị tạm quên hiện tại: rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau, Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường chơi Mị từ từ bước vào buồng. Tâm trạng Mị phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị nhận ra rằng mình vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi.
Khát vọng sống như ngọn lửa bừng cháy trong lòng khiến Mị càng thêm một phẫn uất trước tình cảnh tủi nhục của mình. Bao nhiêu người có chồng mà vẫn đi chơi ngày Tết đấy thôi. A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Uất ức, nước mắt Mị ứa ra. Tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường:
Anh ném pao, em không bắt,Em không yêu, quả pao rơi rồi…
Mị muốn quên thời con gái ngày trước mà không sao quên được. Tiếng sáo cứ lửng lơ trong đầu khiến cho Mị thiết tha bồi hồi.
Khi A Sử bất ngờ vào buồng để thay áo mới, tiếp tục đi rình bắt thêm con gái nhà người ta đem về làm vợ; Mị lặng lẽ, thản nhiên xắn thêm miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng, quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa, rút thêm cái áo. A Sử nhìn Mị, Mị không thèm nói một lời. Những hành động “nổi loạn” diễn ra trong khi tiếng sáo đang rập rờn trong đầu Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình như đem đến cho Mị một sức mạnh mới, khơi gợi khao khát yêu đương và hạnh phúc. Khi với tay lấy váy hoa… là Mị đã thực sự sống lại thời con gái với bao ước mơ tươi đẹp.
Mị đã bừng tỉnh; quá khứ, hiện tại đan xen trong tâm hồn Mị. Hiện tại thì tăm tối, ngột ngạt, mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lơ lửng bay ngoài đường, đánh thức quá khứ đẹp đẽ chưa xa.
Những hành động khác thường của Mị đã bị A Sử trấn áp phũ phàng. Sau câu hỏi ngạc nhiên và giận dữ: “Mày muốn đi chơi à?”, A Sử trói Mị bằng cả một thúng sợi đay, quấn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Không có một dòng nào miêu tả thái độ phản kháng của Mị. Suốt từ đầu đến cuối, Mị chỉ im lặng, âm thầm cam chịu. Tuy vậy, ẩn chứa bên trong lại là một cô Mị hoàn toàn khác, một cô Mị đang say mê sống với những kỉ niệm tình yêu. A Sử chỉ trói buộc được thể xác chứ không thể trói buộc được tâm hồn Mị.
Miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân, Tô Hoài dường như đã nhập thân vào nhân vật. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu nồng nàn nâng đỡ tâm hồn Mị. Tai Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Tuy Mị chưa giải thoát được thể xác nhưng Mị đã giải thoát được tâm hồn. Lòng Mị bồi hồi theo tiếng sáo: Em không yêu, quả pao rơi rồi, Em yêu người nào, em bắt pao nào… Những vết dây trói đau nhức đưa Mị trở về với thực tại đau đớn, khổ nhục. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách… Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
Mị đang sống với con người bên trong của mình: Chừng đã khuya… Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi nhớ đến thời điểm trai bản đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Lúc này, thực tại và quá khứ cứ đan xen vào nhau, giằng xé tâm hồn Mị. Càng nhớ tới kỷ niệm cũ, Mị càng xót xa, đau khổ, phẫn uất trước thực tại phũ phàng : Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa. Mị lúc mê, lúc tỉnh. Cho tới khi trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ.
Mị bàng hoàng tỉnh… Không một tiếng động. Mị thương những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan… Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng. Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: Đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi. Nhớ thế, Mị sợ quá, Mị cựa quậy, xem mình còn sống hay chết, cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau dứt từng mảnh thịt.
Như thế là cuộc trỗi dậy lần thứ nhất của Mị không thành. Mị không thể thoát khỏi địa ngục trần gian là nhà bố con tên thống lí, nhưng Mị không còn là con ngựa, con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa nữa. Mị đã sống lại những thời khắc của tuổi thanh xuân tươi trẻ và tự do. Cuộc trỗi dậy ấy như một đợt sóng dâng lên rồi nhanh chóng tan ra, dù chưa làm thay đổi cuộc đời Mị nhưng những đợt sóng ngầm của cảm xúc đến lúc nào đó sẽ tuôn trào mãnh liệt mà bằng chứng là hành động Mị liều lĩnh cởi trói cứu A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài.
Ở đoạn văn này, tác giả miêu tả hành động của Mị rất ít, nhưng người đọc vẫn bị cuốn hút bởi một con người đang từ cõi âm u mơ hồ trỗi dậy, có một sức sống tiềm tàng mà không một thế lực tàn ác nào vùi dập được. Không gian, thời gian, giọng kể chuyện của tác giả đều phù hợp với diễn biến phức tạp của tâm trạng Mị. Tô Hoài đã dẫn dắt người đọc dõi theo tâm trạng ấy, khi thiết tha bồi hồi, khi nghẹn ngào xót xa! Đoạn văn miêu tả tâm trạng Mị trong đêm xuân thấm đẫm tính nhân văn, góp phần tô đậm tính cách nhân vật Mị; thể hiện một cách chân thật và cảm động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 18)
Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hoá khác nhau trên đất nước ta. Thành công nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người vùng Tây Bắc. Tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm vừa là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức phong kiến và thực dân, vừa là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người. Vẻ đẹp ấy đã ngời lên thật trọn vẹn qua diễn biến tâm trạng Mị và sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật này qua đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài.
Trước khi vào nhà thống lý Pá Tra, Mị là một cô gái trẻ đẹp. Trong tác phẩm này, nhà văn không hề dùng mỹ từ nào để tả cái đẹp của Mị, nhưng vẻ đẹp ấy vẫn hiện lên qua chi tiết: “trai đến đứng nhẵn vách đầu buồng Mị”. Mị chính là bông hoa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Cô có một cuộc sống tự do, hạnh phúc, vô tư giữa tháng ngày tuổi trẻ. Cô gái vùng cao ấy, mỗi khi tết đến xuân về thường làm bao kẻ si tình chết mê, chết mệt bởi tiếng sáo. Mị thổi sáo giỏi “thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao người mê ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”.
Không chỉ đẹp người, cô gái ấy còn đẹp nết. Mị giàu lòng hiếu thảo, có tình yêu lao động, yêu tự do, giàu lòng tự trọng. Tô Hoài đã đặt vào miệng Mị tất cả những phẩm chất cao quý ấy qua lời nói đầy tha thiết với cha già: “con nay đã biết cuốc nương làm ngô” (tình yêu lao động); “con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố” (lòng hiếu thảo); “bố đừng bán con cho nhà giàu” (giàu lòng tự trọng).
Khi bị bắt làm dâu nhà Pá Tra, Mị có cuộc sống thống khổ, là nạn nhân của chế độ cho vay nặng lãi, bị tước đoạt tự do, hạnh phúc cá nhân: mở đầu tác phẩm, nhà văn đã giới thiệu nhân vật một cách ấn tượng: “Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Lúc nào cô ấy cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Dáng vẻ ấy của Mị gợi ra hình ảnh một con người có số phận đau khổ.
Dù cuộc sống thống khổ, trong Mị vẫn mãnh liệt một sức sống tiềm tàng và khát vọng tự do, hạnh phúc. Khát vọng ấy đã bùng cháy lên khi mùa xuân đến trên đất Hồng Ngài. Mị đã bước vào cái đêm đáng ghi nhớ ấy thoạt tiên, như một tâm hồn câm lặng cái cô Mị xưa kia trẻ đẹp, khao khát yêu đương và cũng đã được yêu đương, cô Mị ấy tưởng như đã chìm hẳn vào dĩ vãng. Chỉ còn một người đàn bà “không nói. lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, người đàn bà bị cầm tù trong một ngục thất tinh thần (hình ảnh cái buồng có một cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng). Đã bao năm rồi, người đàn bà ấy chẳng biết đến mùa xuân, chẳng đi chơi Tết.
Vậy mà vào đúng cái đêm tình mùa xuân năm ấy, Mị thốt nhiên lại muốn đi chơi, và đã sửa soạn đi chơi thực sự. Vì sao vậy? Khó có thể cho là tại đất trời. Thời tiết mùa xuân năm nào chẳng đại loại là như thế.
Lý giải sự đột biến khác thường của Mị trong đêm ấy, là một thử thách thật sự đối với Tô Hoài. Hãy xem bằng cách nào mà nhà văn vượt qua thử thách.
Với một người như Mị, muốn đi chơi nghĩa là muốn phá phách, nghĩa là nổi loạn. Cũng với một người như Mị để có thế nổi loạn, thì phải có cái gì có khả năng làm quên đi hiện tại để sống trở về những tháng năm xưa.
Cái đó là men rượu mà Tết năm ấy, Mị đã lén “uống ực từng bát”. “Rồi say Mị lịm mặt ngồi đấy, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước”… Rõ nhất là tiếng sáo. Mỗi lần tiếng sáo trở lại chuyện là mỗi lần nó được biến đổi đi từ âm thanh của hiện tại dần dần thành tiếng của những mùa xuân trước. Từ chỗ ở ngoài Mị, ở xa Mị, dần dần như tiếng ai mời gọi, hồn ai chờ đợi ngoài đường, đế cuối cùng rập rờn trong đầu người thiếu phụ. Tiếng sáo dìu hồn Mị hay là bước đi của hồn Mị được ghi dấu bằng tiếng sáo.. Như thế là sức sống, lòng ham sống đã thức dậy trong lòng người thiếu phụ. Nhưng sự vượt khỏi hoàn cảnh hiện tại của nhân vật không hề đơn điệu, dễ dàng.
Một thời gian dài. Mị sống trong sự giao tranh giữa quá khứ và hiện tại. Quá khứ đẩy đưa đi, hiện tại thì níu lại. (Nên lòng phơi phới mà Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và lòng ham sống trào dậy đầu tiên trong ý nghĩa muốn chết ngay chứ không buồn nhớ lại…).
Nhưng sức sống cứ lớn dần, sức ám ảnh của tuổi xuân cứ mạnh dần, cho tới khi nó dường như chiếm trọn tâm hồn Mị. Phải tới lúc đó, Mị mới hành động như một kẻ mộng du. không thấy, không nghe A Sử nói.
Rồi Mị bị A Sử trói trong trạng thái mơ hồ. Mãi về sau, Mị mới cảm thấy cái Hiện tại tàn khốc khi vùng bước đi mà tay chân không cựa được. Nhưng nếu cái mơ không đến một lần ngay tức khắc thì sự tỉnh ra cũng vậy Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa hơi rượu, tiếng sáo với cái đau nhức của dây trói và tiếng chân ngựa đạp vào vách. Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn dần lên, tê dại dần đi để dần dần trở lại với vị trí của con rùa lùi lũi trong xó cửa.
Một làn sóng tình cảm đã tan đi, không làm thay đổi mảy may đời Mị. Những cái gì Tô Hoài đã viết về đêm hôm ấy vẫn đầy ý nghĩa. Nó cho thấy sức sống của con người dù bị giẫm đạp, đè nén đến đâu cũng vẫn không bị mất đi. Ý nghĩa ấy khiến ta thêm tin, thêm yêu mến con người. Thứ hai chế độ phong kiến là chế độ buộc trói, giam hãm chống lại con người và sư sống. Chế độ ấy đáng căm thù, lên án cả từ phía nhân danh quyền sống của con người. Một tình tiết nghệ thuật giàu chất nhân đạo và chất thơ.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 19)
Đề tài Tây Bắc in đậm trong sự nghiệp văn chương của Tô Hoài: “Truyện Tây Bắc”, “Miền Tây”,”Họ Giàng ở Phìn Sa”… Truyện “Vợ chồng A mang ý nghĩa như một “chiến công” của nhà văn Hà Nội này khi theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc (1952). Truyện kể về cuộc đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài trong nhà thống lí Pá Tra và khi làm chiến sĩ du kích ở căn cứ Phiềng Sa. Qua đó, tác giả nói lên nỗi thống khổ sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng quyết tâm tham gia kháng chiến để giành lấy tự do, tình yêu và hạnh phúc.
Nhân vật Mị là một sáng tạo đặc sắc của Tô Hoài. Đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài là tình tiết cảm động nhất, hay nhất của truyện đã thể hiện khát vọng sống, khao khát tình yêu của người con dâu gạt nợ.
Mị mồ côi mẹ, ở với cha già. Mị xinh đẹp, tuổi xuân phơi phới. Vì món nợ truyền kiếp. Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Tuổi xuân của Mị bị thằng A Sử, con trai thống lí tước đoạt, giày xéo. Mị khổ như con trâu con ngựa. Mị toan ăn lá ngón tự tử, nhưng thương cha già, Mị chết không đành lòng. Sống trong đau khổ, Mị gần như vô cảm vô hồn “càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
Xuân qua rồi xuân lại trở lại. Đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài lại đến. Cả một không gian tưng bừng. Lúa ngô ở các nương đã thu hoạch xong. Gió và rét dữ dội. Cảnh sắc làng Mèo càng đẹp. Màu “vàng ửng” của cỏ gianh. Màu trắng, màu đỏ au, đỏ thẫm, màu tím man mát của hoa thuốc phiện vừa nở. Màu “sặc sỡ” của những chiếc váy hoa phơi trên mỏm đá xòe như con bướm. Tiếng “cười ầm” của đám trẻ con chơi quay. Tiếng sáo thổi rủ bạn đi chơi. Tiếng chó sủa xa xa… Trước cảnh tưng bừng ấy, cứ tưởng Mị “Riêng mình nào biết có xuân là gì?”. Nhưng thật bất ngờ. Những đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đã hồi sinh và hồi xuân tâm hồn Mị. Tâm trạng và hành động Mị được Tô Hoài thể hiện một cách tinh tế, xúc động.
Trong lúc trai gái và lũ trẻ con tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy trên sân chơi thì Mị “tha thiết bồi hồi” khi nghe tiếng sáo từ đầu núi “vọng lại”. Mị “nhẩm thầm” bài hát của người đang thổi sáo:
“… Ta không có con trai con gái
– Ta đi tìm người yêu…”.
Sau bao mùa xuân câm lặng, có lẽ đây là lần đầu tiên người con dâu gạt nợ khẽ thầm hát?
Tiếng sáo đã gợi thương gợi nhớ và thức tỉnh. Mị lén lấy hũ rượu, “uống ừng ực từng bát”. Uống rượu như nuốt hận. Hay uống cho vơi đi nỗi đau khổ? Say rượu “lịm mặt”, tâm trạng Mị diễn biến. Mị hồi tưởng “sống về ngày trước”. Tiếng sáo gọi bạn tình “văng vẳng” trong tai Mị. Bao kỉ niệm đẹp thời con gái sống dậy trong lòng Mị. Mị thổi sáo giỏi… Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Hồi tưởng lại mùa xuân đẹp thời con gái, điều đó cho thấy Mị đã được thức tỉnh. Khát vọng sống như ngọn lửa đã bừng sáng tâm hồn Mị.
Mị “từ từ bước vào buồng”với tâm trạng “thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Mị được thức tỉnh, tự ý thức là mình “trẻ lắm”, “vẫn còn trẻ”. Mị khao khát “Mị muốn đi chơi”.
Khát vọng sống như ngọn lửa bừng cháy bao nhiêu Mị lại phẫn uất bấy nhiêu! Phẫn uất và đau khổ cho thân phận và số phận trớ trêu đầy bi kịch. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. A Sử với Mị “không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau!”. Không thể cam chịu mãi kiếp con dâu gạt nợ. Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay! Uất ức, nước mắt Mị ứa ra, khi tiếng sáo gọi bạn yêu “vẫn lững lờ bay ngoài đường”. Tâm hồn Mị diễn biến phức tạp trong quá trình thức tỉnh, nổi loạn. Mị đang sống trong nghịch lý giữa thân phận con dâu gạt nợ và niềm phơi phới muốn đi chơi Tết. Liệu Mị có dám phá tung và cắt đứt sợi dây oan nghiệt đang thít chặt lấy số phận, thân phận mình để đến với những cuộc chơi cùng với tiếng sáo gọi bạn yêu?
Mị vào buồng lần này không phải để nhìn qua “cái lỗ vuông” để nghĩ đến cái chết, mà Mị đã hành động một cách mạnh mẽ, ngang nhiên trước mặt A Sử khi hắn xuất hiện bất ngờ trong buồng. A Sử thay áo mới, khoác thêm hai vòng bạc… để đi chơi rình bắt gái đem về làm vợ. Mị cũng chuẩn bị đi chơi Tết. Như thách thức. Mị đã hành động. Xắn thêm miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng. Quấn lại tóc. Với tay lấy cái váy hoa. Rút thêm cái áo. A Sử nhìn Mị, Mị “cũng không nói” hay không thèm nói? Hàng loạt hành động “nổi loạn” của Mị diễn ra liên tiếp khi tiếng sáo đang “rập rờn” trong đầu Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình như đem đến cho Mị một sức mạnh mới, khơi gợi lòng khao khát yêu đương và hạnh phúc. Khi Mị với tay lấy váy hoa… là Mị thực sự được thức tỉnh, được sống lại thời con gái với bao ước mơ đẹp.
Sự phản kháng Sự phản kháng của Mị phải trả giá nặng nề. Chỉ sau một câu hỏi: “Mày muốn đi chơi à? Thằng A Sử độc ác đã trói Mị vào cột nhà bằng một thúng sợi đay. Hai tay Mị bị trói bằng dây thắt lưng, tóc Mị quấn lên cột, Mị “không cúi, không nghiêng được đầu nữa”. Thể hiện diễn biến tâm trạng và hành động Mị trong cảnh Mị bị trói trong đêm tình mùa xuân, ngòi bút nghệ thuật của Tô Hoài như đã “nhập hồn” vào nhân vật. Trong bóng tối, Mị “đứng im lặng”. Hơi rượu còn như nâng đỡ tâm hồn Mị. Quên đau khổ, đau đớn thực tại, Mị “vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo cuộc chơi,những đám chơi”. Mị vùng bước đi, lòng “bồi hồi” theo tiếng sáo: “Em không yêu, quả pao rơi rồi – Em yêu người em bắt pao nào…”. Mị lại trở lại thực tại đau đớn, khổ nhục “tay chân đầu không cựa được”. Mị thức “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa” khi nghe tiếng ngựa “gai chan”, nhai cỏ, tiếng chó sủa xa xa. Mị nghĩ đến những cảnh tình tự của bao cặp tình nhân giờ này đã “dỡ vách ra rừng chơi”. Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi trong trạng thái lúc mê lúc tỉnh. Dây trói thít lại, đau nhức. Hơi rượu tỏa, Mị “nồng nàn tha thiết nhớ”.
Bị trói đứng suốt đêm, Mị “bàng hoàng tỉnh” lúc trời sáng. Chỉ nghe tiếng lửa réo – Không một tiếng động – Mị nghĩ đến các vợ chú, thương những người đàn bà “khốn khổ sa vào nhà quan”; thương người đàn bà nọ bị chồng trói chết trong nhà thống lí. Mị vừa thương mình, vừa thương người, thương cho thân phận những người đàn bà ở Hồng Ngài “một đời con người chỉ biết đi theo con ngựa của chồng”. Mị sợ hãi “cựa quậy” xem mình còn sống hay chết. Dây trói siết lại “đau dứt từng mảnh thịt”.
Nhờ một sự tình cờ mà Mị thoát chết trong đêm hãi hùng đó. Đoạn văn đêm tình mùa xuân có 3 cảnh. Cảnh Mị ngồi nhẩm thầm tiếng sáo và lén uống rượu ừng ực từng bát. Cảnh Mị chuẩn bị váy áo đi chơi. Cảnh Mị bị A Sử trói đứng suốt đêm trong buồng. Cảnh nào, chi tiết nào cũng sinh động, điển hình cho bi kịch của Mị, của người con dâu gạt nợ. Đoạn văn đêm tình mùa xuân thể hiện ngòi bút kể chuyện cảm động, phân tích diễn biến tâm trạng và hành động nhân vật một cách tinh tế, sâu sắc. Tiếng sáo gọi bạn tình được Tô Hoài nhắc đi nhắc lại 13 lần đầy ám ảnh, như thức tỉnh, như lay gọi, như vỗ về niềm khao khát đi chơi Tết, khao khát được sống trong tình yêu và mùa xuân của người con dâu gạt nợ.
Sự “nổi loạn” của Mị cho thấy sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị mà máu và sự dã man không thể nào vùi dập được! Đêm tình mùa xuân thấm đẫm tính nhân vãn, Nó đã góp phần tô đậm tính cách nhân vật Mị. Nó đã thể hiện một cách xúc động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện “Vợ chồng A Phủ”.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 20)
Một trong những thành công tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là nghệ thuật miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật. Ngòi bút nhà văn thật tinh tế, sâu sắc trong việc miêu tả diễn biến tâm lí, sức sống tiềm tàng và sự biến đổi số phận của nhân vật. Đó là Mị – người phụ nữ tưởng chừng như đã cam chịu số phận, không còn sức sống và lối thoát nhưng trong hoàn cảnh có thể, Mị vẫn vươn lên làm chủ cuộc đời mình. Và cái gì đã khiến bên trong “con rùa” câm lặng ấy bùng lên khát vọng sống, khát vọng yêu, khát vọng được quyền làm người cho ra một kiếp người, chính là đêm tình mùa xuân trở về trên rẻo cao.
Trong tác phẩm, nhân vật Mị biểu hiện rất rõ khi cô có những biến đổi trong tâm lí trước hoàn cảnh sống và tìm cho mình một con đường hy vọng. Đặc biệt là diễn biến tâm lí của cô trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài. Những ngày đầu làm dâu, Mị thấm thía nỗi đau của một cuộc đời bị cướp đoạt, “đêm nào Mị cũng khóc”, Mị muốn tự tử. Bởi vì, Mị không muốn chấp nhận một cuộc sống chết mòn héo úa, điều này chứng tỏ trong con người Mị tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt, muốn thoát khỏi cuộc sống nô lệ. Nhưng thương cha sẽ phải gánh chịu hậu quả về cái chết của mình, Mị đành vứt nắm lá ngón, trở lại nhà thống lí.
Ngày lại ngày qua, nỗi khổ cùng cực đã dồn nén dần cái sức sống tiềm tàng ấy vào tận đáy buồng tìm Mị. Mị không nghĩ đến cái chết nữa. Mị bị biến thành một công cụ lao động cho nhà thống lí Pá Tra. Cuộc đời của Mị “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Mị bị đọa đày đến mức bị tê liệt về tinh thần, buông xuôi, phó mặc cho hoàn cảnh “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, “biết đi làm mà thôi”. Mị còn phải chịu nỗi đau về tinh thần triền miên. Căn buồng của Mị ở là một thứ ngục thất giam cầm tù nhân “ Ở cái buồng Mị nằm, kín nút, có một… không biết là sương hay nắng”.
Nhưng giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm là ở chỗ nhà văn đã nhìn thấy sức sống vẫn còn tiềm tàng trong Mị. Sức sống ấy sẽ vẫn bùng cháy khi có cơ hội. Và nó đã đến trong đêm tình mùa xuân. Mùa xuân thường mang lại cho con người hi vọng, ước mơ, là mùa lễ hội, vui chơi, mùa của tình yêu.
Năm ấy ở Hồng Ngài gió và rét dữ dội. Mùa xuân đến mang theo âm thanh đặc trưng của nó. Âm thanh rộn rã của trẻ con chơi đùa, đặc biệt là tiếng sáo gọi bạn tình hòa cùng màu sắc sặc sỡ của váy áo phơi trên những mỏm đá. Đặc biệt là tiếng sáo gọi bạn trong đêm tình xuân tha thiết, bồi hồi vọng đến tai Mị. Tiếng sáo thấm vào trái tim Mị, thức tỉnh sự câm lặng bấy lâu nay. Từ trong tâm trạng lặng lẽ, u uẩn, một cuộc sống vô vị không có quá khứ, không có hiện tại và không có cả tương lai. Mị nghe tiếng sáo tha thiết gọi bạn mà hồi tưởng những ngày hồn nhiên, tươi trẻ thuở xưa. Ngày ấy Mị thổi sáo giỏi. Tiếng sáo giúp Mị nhận ra một điều tưởng như đã chìm vào quên lãng.
Mị uống rượu “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Cô đang uống đắng cay của cái phần đời đã qua và muốn thoát khỏi thực tại. Rượu làm thân xác cô say, nhưng tâm hồn cô lại tỉnh, Mị với cõi lòng phơi phới trở lại với thời con gái trẻ trung, hạnh phúc. Mị như sống lại, Mị thấy yêu đời. Không khí mùa xuân chỉ là một chất xúc tác, bởi vì nếu như sâu xa trong Mị không có một sức sống tiềm tàng thì nó đã không thức dậy với bao điều tốt đẹp. “Mị thấy lòng mình vui sướng lại. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ”.
Cứ thế cho đến khi men rượu hay men cuộc đời đã nâng bỗng tâm hồn Mị trở về với ý thức sâu sắc của nhân phẩm. Mị ý thức sự tồn tại của bản thân “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chớ không buồn nhớ lại nữa”. Nghịch lí trên cho thấy khi niềm khát khao sống hồi sinh, con người không chấp nhận cái trạng thái vô nghĩa lí của thực tại.
Nếu như lúc trước Mị hoàn toàn mơ hồ về thời gian. Mị không nhớ mình về đây được mấy năm vì trước nay Mị đâu có mùa xuân. Nhưng giờ đây Mị muốn có cái quyền đơn giản như bao người khác: “Mị muốn đi chơi”. Có thể đối với Mị là một sự thay đổi lớn lao và vẫn còn kịp lúc, tuy bắt nguồn từ cảm xúc nhất thời nhưng nó cũng chứng tỏ Mị vẫn còn đó bao khát khao. “Mị quấn lại tóc”. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở trong vách.
Chính sự thay đổi đó làm cho A Sử ngạc nhiên vì dưới mắt hắn Mị chẳng khác nào một nô lệ. Hành động trói Mị tàn nhẫn của hắn tuy giam giữ được thể xác Mị, nhưng không thể giam giữ tâm hồn Mị: “ Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi.” Tâm hồn Mị giờ như chơi vơi trong mộng. Mị trở về thời xưa với bao ước vọng. Sức sống trỗi dậy làm Mị phơi phới, mơ mộng trong thoáng chốc nhưng rồi Mị cũng trở về thực tại. Chính sức sống của Mị buộc cô phải nghĩ đến liệu cô có duy trì được nó hay không. Mị nhớ đến người chị dâu đã bị trói chết. Mị sợ. Một khi ta biết sợ chết thì người ta càng thêm yêu cuộc sống. Mị cũng vậy.
Với ngôn ngữ lựa chọn một cách tinh tế, nghệ thuật trần thuật đặc biệt là thể hiện sâu sắc diễn biến tâm lí nhân vật, tác giả làm cho người đọc cũng phải thổn thức, vui mừng đến xót xa cho số phận nhân vật.
Mùa xuân rồi cũng qua đi nhưng sức sống tiềm tàng trong Mị đã được khơi dậy và chờ dịp bùng lên. Với nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật tinh tế Tô Hoài đã đem đến cho nhân vật một hướng đi, một cuộc đời mới. Đó cũng chính là giá trị nhân văn cao đẹp của tác phẩm. Đồng thời cũng cho thấy tài năng của Tô Hoài cùng những đóng góp của ông cho văn học Việt Nam.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 21)
Vợ chồng A Phủ là tác phẩm nổi bậc nhất trong tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Tác phẩm kể về số phận đáng thương và cuộc sống vô cùng khắc nghiệt của Mị và A Phủ ở nhà thống lí Pá Tra chốn Hồng Ngài. Dù bị đày đọa đến kiệt quệ cả tinh thần lẫn thể xác nhưng nỗi khổ đau ở nhà thống lí không thể nào giết chết được sức sống tiềm tàng ẩn sâu trong nhân vật Mị. Trong đêm tình mùa xuân năm ấy, sức sống ấy có dịp trỗi dậy mạnh mẽ.
Đoạn kể chuyện Mị ở Hồng Ngài là đoạn kể về quãng đời tối tăm, tủi nhục của cô. Mị vốn là một cô gái mèo xinh đẹp, tài hoa. Vừa Bước vào tuổi thiếu nữ, Mị đã phải gánh nặng trên vai một món nợ từ đời cha mẹ Mị. Cha con thống lí Pá Tra bắt về Mị làm dâu gạt nợ. Món nợ truyền kiếp của gia đình để cướp trắng tuổi thanh xuân dạt dào khát vọng của Mị. Những năm tháng bị đọa đày dai dẳng trong cái địa ngục trần gian trong nhà thống lí, Mị gần như biến thành tảng đá vô tri. Mỗi ngày Mị không nói, lùi lũi như con rùa núp sau xó cửa. Lúc nào Mị cũng lầm lũi, mặt buồn rười rượi.
Mị bây giờ chỉ là cái xác vô hồn, một cỗ máy biết nói. Mị sống như thực chất chỉ là để kéo dài những ngày chưa được chết mà thôi. “Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy một cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi còn nước dưới khe suối, cô cũng cúi, mặt buồn rười rượi”.
Cuộc sống với Mị chỉ là một màn sương mờ đục không dĩ vãng, hiện tại, tương lai. Phải chăng ngọn lửa sống trong lòng Mị đã lặng tắt, trái tim Mị đã chai sạn và tê liệt, tâm hồn Mị đã hoàn toàn nguội lạnh và an phận?
Mùa xuân đến, tất cả những gì tưởng chừng đã chết trong lòng Mị đều đã được hồi sinh. Mùa Xuân là mùa của cây cối đâm chồi nảy lộc, mùa hội hè đình đám, mùa gặp gỡ hẹn hò của lứa đôi. Mùa xuân đến với núi rừng Tây Bắc, đến với mảnh đất Hồng Ngài được tô hoài miêu tả bằng những câu văn rất lãng mạn.
Có thể nói những trang viết về mùa xuân của tác giả là những trang văn tuyệt hay. Ta gặp ở đó bức tranh mùa xuân với màu rực rỡ: cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy rực rỡ phơi trên mỏm đá thì xòe ra như những cánh bướm. Thanh âm cũng rộn ràng: trẻ con nô đùa, tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết. Mùa xuân bừng bừng một sức sống mãnh liệt bất chấp cái giá lạnh của đất trời. Dường như sự sống, cảnh vật, con người đang được mùa xuân khơi dậy làm cho bừng tỉnh.
Với Mị, mùa xuân còn là mùa gắn với bao kỉ niệm đẹp đẽ của thời trẻ tự do. Trong không khí núi rừng rạo rực vào xuân ấy, Mị nghe tiếng sáo từ xa vọng lại tha thiết, bồi hồi. Tiếng sáo là thứ âm thanh quen thuộc của núi khi hoa ban nở trắng núi rừng Tây Bắc. Đêm đêm trên núi cao tiếng sáo chính là tiếng lòng đắm say của trai gái mèo trao gửi bạn tình. Trong khoảnh khắc ấy, tiếng sáo đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn Mị. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát:
“Mày có con trai con gái rồimày đi làm nươngtao không có con trai con gáitao đi tìm người yêu”
Tiếng hát cất lên từ trái tim tưởng như cô càng, chai sạn của Mị. Mị trước đây sống không ý thức về thời gian, không gian, sự vật. Trước mặt Mị luôn là một màn sương trắng mờ đục. Giờ đây tiếng sáo đã đánh thức tâm hồn ngủ yên và an phận của Mị. Tiếng sáo rung lên trong trái tim Mị. Những giai đoạn mở đầu của khát vọng được yêu, cái khát vọng bấy lâu nay được chôn chặt trong trái tim Mị.
Mị đã bừng tỉnh mọi cảm nhận về cuộc sống. Ý thức về cuộc sống đã trở lại trong Mị. Mị nhìn thấy, nghe thấy: trai gái, trẻ con ra sân chơi đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy. Nhà thống lí Pá Tra chiêng đánh ầm ĩ. Mị lén uống rượu, cứ uống ừng ực từng bát. Đó có lẽ nào là cách uống của người thưởng xuân. Chắc chắn không vậy. Uống rượu thưởng xuân phải uống từ từ, từng bát một, nhấm nha, nhấm nháp để tận hưởng và đón nhận hương vị xuân. Đó là cách uống của người khát rượu, thèm rượu? Không đúng. Đã từ lâu Mị chẳng thèm khát gì.
Tô Hoài viết: “Ngày tết Mị cũng uống rượu”. Mọi người uống, Mị cũng uống. Mị uống theo thói ngày xuân của người Mèo. Cách uống ừng ực từng bát ấy giống như Mị uống cho bõ tức, cho nuốt hận tủi hờn. Rồi Mị say, Mị lịm mặt nhìn mọi người nhảy đồng, ngồi hát nhưng trong lòng Mị đang sống về ngày trước.
Tô Hoài đã thật khéo léo dùng từ “sống lại” chứ không phải là “nhớ lại”. Nếu “nhớ lại” chỉ là hồi niệm thì “sống lại” là cả phần hồn lẫn phần xác trở về với quá khứ tươi vui của những đêm tình mùa xuân lúc mà Mị chưa về làm dâu nhà thống lí. Chao ôi, đó là những tháng ngày thơ mộng thần tiên, Mị được sống tự do reo vui tiếng hát trên đồi cao, dưới khe sâu, thâu đêm suốt sáng.
Mị đang bứt mình ra khỏi cái ngục tù tăm tối để lần theo sợi dây quá khứ tìm về những ngày xưa hạnh phúc. Đúng trong khoảnh khắc ấy tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Tiếng sáo đã gọi dậy những kỉ niệm ngọt ngào của thời thiếu nữ. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mị uốn chiếc lá trên môi và thổi. Thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị.
Mị như lãng quên hiện tại, lãng quên cái thể xác đang vô cùng đau đớn. Người ta hát mà Mị không nghe, người ta nhảy mà Mị không thấy, rượu tan lúc nào Mị cũng chẳng hay. Chính quá khứ ngọt ngào đã thổi vào lòng những cảm xúc khiến Mị thấy phơi phới trở lại trong lòng một niềm vui sướng. Mị nhận ra mình còn trẻ lắm và muốn đi chơi. Lúc này ý thức về bản thân và quyền sống đã trỗi dậy. Nhưng cũng là lúc Mị nghĩ đến cái chết “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay”.
Đây cũng là lúc Mị thấy thía nhất cảnh ngộ cay đắng của hiện tại “A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Hơn thế từ lâu lắm rồi, Mị tồn tại trong trạng thái gần như tê liệt “sống lâu trong cái khổ Mị cũng quen rồi. Mị cũng chẳng còn nghĩ đến chuyện ăn lá ngón tự tử nữa”. Vì thế trong phút giây thức tỉnh, Mị muốn chết. Bởi hơn lúc nào hết, Mị cũng đang yêu tha thiết cuộc sống. Tiếng sáo trở lại song nó không còn lấp ló ngoài đầu núi, văng vẳng ngoài đầu làng mà lửng lơ bay ngoài đường. Tiếng sáo đã thôi thúc Mị đi đến hành động: xắn mỡ bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Hình ảnh ngọn đèn chính là ngọn lửa sống đang trỗi dậy mạnh mẽ trong lòng Mị. Mị ý thức được hoàn cảnh tối tăm và muốn thay đổ. Mị sửa soạn đi chơi: quấn tóc, lấy váy hoa.
Tất cả khẳng định đó chính là hành động của một tâm hồn ham sống đang bừng dậy mãnh liệt, bất chấp bạo quyền. Hình như trong tâm hồn Mị lúc này tiếng sáo mùa xuân tuổi trẻ đã thực sự ngân lên khát vọng tình yêu, hạnh phúc, tự do đang trào dâng không kìm nén được.
Đây cũng là lúc nó bị vùi dập phũ phàng. A Sử xuất hiện đã quấn tóc, trói đứng Mị trong buồng tối. Con thú ấy thản nhiên tắt đèn, khép cửa đi ra không nói tiếng nào. Bị trói, Mị vẫn thả hồn theo tiếng sáo. Tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, dìu Mị về với khát khao yêu đương hạnh phúc: “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”.
Suốt từ đầu tới cuối đêm hôm ấy chỉ thấy cô im lặng, âm thầm cam chịu. Dường như cô đang không sống bằng phần thể xác nữa. Ẩn chứa bên trong lại là cô Mị khác. Một cô Mị đang náo nức say sưa với những kỉ niệm của tình yêu. Say sưa đến nỗi “như không biết mình đang bị trói, khiến Mị vùng dậy bước đi”.
Nhưng dây trói, tiếng chân ngựa đẩy Mị về hiện thực: “Mị không nghe thấy tiếng sáo nữa… Mị thổn thức nghĩ rằng mình không bằng con trâu, con ngựa”. Mị nhận ra đêm đã khuya, thời gian chạm vào kỉ niệm đẹp nhất của lòng Mị. Mị nín khóc, lòng lại bồi hồi. Trong suốt đêm bị trói, Mị đã sống trong một tâm trạng giằng xé giữa quá khứ đẹp đẽ và hiện thực đau khổ, giữa ước mơ hạnh phúc và nỗi tủi hờn vì thân kiếp trâu ngựa. Đó là biểu hiện của một tâm hồn yêu sống, thèm sống, bất chấp cường quyền chà đạp và vùi dập.
Diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài là một tâm trạng hỗn hợp: vui sướng và đau khổ, ham sống và tủi nhục muốn chết. Trong bóng tối nặng nề ấy, hành động của Mị rất ít. Phần lớn là những dòng nội tâm đang trỗi dậy tuôn trào trong lòng Mị. Tác giả đã bộc lộ rõ nét tài năng miêu tả diễn biến nội tâm của nhân vật một cách chân thật, sinh động. Sự trỗi dậy của Mị trong đêm tình mùa xuân tuy không thay đổi số phận nhưng nó là tiền đề quan trọng cho những đột biến lớn lao trong cuộc đời Mị.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 22)
Văn học Việt Nam đánh dấu sự thành công của nhiều tác giả viết truyện ngắn như Kim Lân, Năm Cao, Vũ Trọng Phụng,.. Đặc biệt ,Tô Hoài là tác giả tiêu biểu với phòng cách viết độc đáo, mỗi tác phẩm của ông đều cho thấy tài năng bậc thầy trong việc khai thác tâm lý nhân vật. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là thành công rực rỡ của ông trong sự nghiệp sáng tác của đời mình, bằng ngòi bút điêu luyện ông đã đi sâu vào từng ngóc ngách của tâm hồn nhân vật. Đặc biệt, trong đêm tình mùa xuân, những diễn biến tâm lý và hành động của nhân vật Mị được thể hiện rất chi tiết, cụ thể giàu sức gợi.
Mị vốn là cô gái xinh đẹp, giàu lòng yêu thương và tràn trề sức sống nhưng xã hội phong kiến đầy bất công và tàn nhân đã đẩy cuộc đời Mị vào khốn khổ bần cùng, kiếp làm dâu cũng là kiếp nô lệ nơi nhà tên thống lý độc ác. Có những lúc tưởng chừng như Mị muốn kết liễu cuộc đời mình bởi sự khốn cùng ấy. Cuộc sống trong tâm tối, kiếp làm trâu làm ngựa có thể khiến Mị khổ đau, buồn tủi, bòn rút hết sức lực nhưng không thể làm cho sức sống tiềm tàng trong Mị mất đi, nó dường như đang âm ỷ trong lòng chỉ chờ cơ hội để bung tỏa, cháy sáng giữa chốn bần cùng, tăm tối ấy. Mùa xuân đến, khi mà nơi nơi đang rạo rực sức xuân “trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa xếp trên đầu các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa… Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi và cỏ ranh vàng ửng… Trong các làng Mèo, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm, sặc sỡ… Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi…” Những khung cảnh ngày xuân đang tới khiến tâm hồn Mị như đang được sưởi ấm, trái tim người con gái vốn đang hoen rỉ giờ đây vc dịp hồi sinh, tỉnh thức. Bảo nỗi đau đớn, buồn tủi hòa trong hạnh phúc, vui sướng, những cảm xúc thiết tha ấy đang trào dâng như những đợt dâng trào trong lòng Mị. Đặc biệt, khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình nơi đầu vách núi vọng lại, tâm hồn Mị dường như được tưới lên một sức sống, tiếp lên một thứ tình cảm thôi thúc Mị, Mị lúc này trở nên biết yêu và biết cảm nhận mọi vật xung quanh hơn, tiếng hát câm nín bấy lâu đang cật lên nhịp nhàng trong từng hơi thở của cô gái, tiếng hát thầm ấy chứa chan bảo nỗi lòng, bao nỗi tâm sự:
“Mày có con trai con gái rồiMày đi làm nươngTa không có con trai con gáiTa đi tìm người yêu.”
Rồi Mị tìm đến hơi rượu “Mị uống ừng ực từng bát”, men rượu đã làm Mị quên đi thực tại khổ đau của mình, men rượu đưa Mị về với những ngày thành xuân khi quá khứ còn tươi đẹp, những ngày Mị được tự do vui sống trong hạnh phúc, được cất tiếng hát trong trẻo yêu thương, được biết bao người con trai đem lòng yêu mến. Đó là những ngày rực rỡ Mị được sống với chính mình. Càng say, bao nỗi đớn đau trong Mị dần quên đi, Mị uống hết tất thảy những tủi hờn đắng cay mà bấy lâu đang chịu đựng, quá khứ đẹp đẽ thôi thúc Mị hành động, trong Mị ngập tràn một sức sống mới, nổi loạn hơn, rạo rực hơn. Trong Mị lúc này, nội tâm đang ngập tràn mâu thuẫn, những sự giằng xé giữa quá khứ và hiện tại, quay quắt giữa thực tại tù túng, khốn cùng và khát khao sống tự do, khát khao hạnh phúc chân chính của đời mình. Mị sung sướng vô cùng, sống lòng đang trào dâng từng đợt thôi thúc nàng hành động, tâm tư Mị đang sục sôi khôn tả :” rồi Mị lấy ống mỡ sẵn bỏ thêm vào đĩa dầu” , nàng đang thắp lên ngọn lửa lòng, ngọn lửa của màn đêm tăm tối ,ngọn lửa cuộc đời giữa số phận đắng cay là ngọn lửa của niềm tin, nhen nhóm hy vọng của tương lai tốt đẹp. Rồi bỏ mặc hết tất thảy những cấm đoán, ràng buộc ,”Mị quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách” , một hành động dũng cảm và đầy bản lĩnh. Lúc này đây, Mị khao khát được là mình, được làm đẹp, được đi chơi Tết như bao nhiêu người con gái khác, bấy lâu Mị đã khổ quá rồi. Đây là một hành động chứng tỏ sức sống mãnh liệt , Mị đang vùng vẫy hết mình để đấu tranh cho quyền sống và quyền tự do của đời mình.
Nhưng rồi, thực tại phũ phàng Mị vẫn không thể tránh khỏi khi bóng dáng tên chồng vô lương tâm A sử cùng lời quát mắng tàn độc dần xuất hiện: “Mày muốn đi chơi à”, rồi hắn trói Mị vào cột nhà một cách đầy dã man như một con ác thú tàn độc. Hắn đã trói buộc cuộc đời Mị bấy lâu, giờ đây ngày cả cái ước muốn nhỏ nhoi được đi chơi xuân cũng bị hắn cấm đoán. Nhưng dù thể xác có bị cầm tù thì tâm hồn nàng vẫn đang vươn cao cất cánh, bay bỏng tới những khung trời của mùa xuân, của tình yêu, của tiếng sáo đêm xuân tình. Quá khứ đã đưa Mị về với những cảm xúc vẹn nguyên, tròn đầy nhất, quá khứ đã níu giữ khát khao được sống, lòng yêu cuộc sống của nàng. Khi Mị chợt tỉnh, cũng là lúc cái đau thể xác với những dây trói đang xiết vào từng thớ thịt Mị khiến nàng đau đớn, nỗi tủi nhục khi nghĩ cuộc đời mình lại chẳng bằng một con ngựa trong chuồng. Nàng vùng bước đi nhưng những sợi đay đã trói chặt nàng. Hình ảnh cô gái miền núi Tây Bắc với bao nét đẹp trong tâm hồn, một cô gái luôn giữ trong mình một ngọn lửa của sức sống, ngọn lửa ấy thật thiêng liêng và quý giá. Trong bần cùng, đau khổ, bao áp bức, bất công, tàn nhẫn, trong hoàn cảnh đau thương nhất vẫn không vùi tất được ngọn lửa lòng trong Mị, một sức sống bất diệt, không một thế lực nào có thể giết chết đi sức sống tiềm tàng của những con người dũng cảm, tin yêu cuộc sống.
Bằng cách miêu tả tâm lí độc đáo, Tô Hoài đã đưa người độc được sống với từng cảm xúc của nhân vật, một cô gái Mị mà mãi mãi có lẽ ai đã đọc tác phẩm một lần cũng không thể nào quên. Tác phẩm như một thông điệp mạnh mẽ về tinh thần lạc quan, về nghị lực sống, nghị lực vươn lên, đấu tranh với những độc ác, bất công để tìm lấy hạnh phúc, tự do cho cuộc sống chính mình.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 23)
Tô Hoài là nhà văn rất thành công trong những nhà văn thuộc nền văn xuôi hiện đại. Tác phẩm của ông thường viết về những vấn đề gần gũi thân quen trong cuộc sống thường ngày. Tác phẩm Vợ chồng A phủ là tác phẩm viết về đề tài Tây Bắc mang lại những giá trị sâu sắc. Nhân vật tiêu biểu trong tác phẩm là Mị, một phụ nữ phải chịu nhiều bất hạnh, nhưng có vẻ đẹp tâm hồn và có sức sống mãnh liệt, giám đứng lên đấu tranh tìm lại hạnh phúc cho mình.
Nhân vật Mị hiện lên trong cách giới thiệu của tác giả ở ngay đầu câu chuyện gợi lên cho người đọc một sự lôi cuốn lạ kì. Chỉ bằng vài câu chữ, tác giả đã cho người đọc hình dung ra được cuộc sống đầy đau khổ mà Mị đang phải hứng chịu trong nhà Pá Tra. “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
Hình ảnh người con gái với vẻ mặt và ánh mắt vô hồn bên cạnh cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ, bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng.
Mị trước đó là một người con gái đẹp của núi rừng Tây Bắc, cô có tài có sắc, có một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đương, có rất nhiều người yêu và cô cũng đã trao gửi tình yêu cho một người trai làng yêu cô tha thiết.
Nhưng số phận may mắn không đến với cô, người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh. Để cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí. Danh nghĩa là con dâu nhưng cô đã phải chịu mọi khổ cực đến tận cùng của một kẻ tôi tớ. Thân phận Mị không chỉ là thân trâu ngựa, “Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm”.
Không những bị đày đọa về thể xác, Mị còn bị dày vò về một nỗi đau tinh thần không lối thoát. Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng. Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô. Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh quyền sống. Cái chế độ ấy đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống.
Quá khổ cực và muốn giải thoát cho mình bằng cái chết, nhưng lại lo cho cha nên Mị đã cố sống. Khi cha Mị không còn nữa, thì Mị lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ, như một đồ vật không cảm xúc. Muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống. Còn khi đã không thiết chết, nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước… cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi.
Cuộc sống của Mị cứ thể lầm lũi trôi qua ngày này sang tháng khác, những tưởng con người thật sự của Mị đã chết đi. Nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia đang còn một con người, có khao khát sống đến mãnh liệt. Khát vọng hạnh phúc có thể bị vùi lấp, bị lãng quên trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhưng không thể bị tiêu tan. Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên. Và khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu.
Chính không khí mùa xuân của Hồng Ngài năm ấy đã làm trỗi dậy sức sống ở con người Mị. Gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của các loài hoa đẹp đã góp phần làm nên cuộc nổi loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau khổ. Tác nhân quan trọng là hơi rượu. Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát, “uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi. Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng quên vừa đem về nỗi nhớ. Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi người nhảy đồng, người hát mà không nghe, không thấy và cuộc rượu tan lúc nào cũng không hay) nhưng lại nhớ về ngày trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi …), và quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có cái quyền sống của một con người: “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”.
Tiếng sáo thật có ý nghĩa bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của tình yêu và tuổi trẻ. Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng lòng của người thiếu phụ. Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho nên trong thời khắc ấy, ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi.
Hòa mình vào không khí náo nhiệt của mùa xuân, tâm hồn tưởng như đã chết của Mị dần được sưởi ấm, nó lớn dần và lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác: “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi”. Phải tới thời điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du: quấn lại tóc, với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm như trong một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử hỏi “.
Dù bị A Sử trói vào cột nhưng Mị vẫn chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du. Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được. Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy. Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ, gãi chân. Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn trước.
Sức sống le lói của mi đã bùng phát lên thành hành động, đó là hành động Mị cởi trói cho A Phủ. Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi. Những va chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa xuân đã đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí. Và bản năng của một người con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ phàng: bị trói đứng. Và chính hoàn cảnh bi thương đó đã đánh thức lòng thương cảm trong con người Mị. Nhưng tình thương đó không phải tự nhiên bùng phát trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội tâm của cô. Mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt: “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Câu văn như một minh chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị. Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt:“Đêm ấy A Phủ khóc. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã sạm đen”. Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị cũng đã khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, xót thương cho mình.
Con người Mị lúc này đã tỉnh táo, Mị đã nhận thức được những đau khổ mà Mị đã phải chịu đựng và thương cho người có cùng cảnh ngộ như mình là A Phủ. Nhưng nó còn vượt lên giới hạn thương mình: “Mình là đàn bà … chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết ”. Nhưng khi cởi trói cho A Phủ xong, Mị càng tỉnh táo hơn và bất ngờ chạy theo A Phủ. Lòng ham sống của một con người như được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị như tìm lại được con người thật, một con người còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận.
Phải nói rằng, nhà văn đã có sự am hiểu sâu sắc về cuộc sống của con người Tây Bắc, có sự cảm thông sâu sắc đối với những người phụ nữ nơi đây, nhà văn mới có thể phát hiện ra cái vẻ đẹp nằm sâu trong tâm hồn người phụ nữ bất hạnh ấy
Thông qua nhân vật Mị nhà văn đã thay toàn dân tố cáo cái thế lực phong kiến đã áp bức, bóc lột và chà đạp nên quyền sống cơ bản của con người. Cũng qua nhân vật ấy Tô Hoài đã ca ngợi khát vọng sống mãnh liệt, khát vọng tự do hạnh phúc của những con người nghèo khổ ấy, đồng thời thể hiện sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, tình giai cấp của dân tộc Việt trong những khó khăn gian khổ.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 24)
Tô Hoài được biết đến không chỉ là cây bút của những câu chuyện loài vật mà ông còn được biết đến là nhà văn của những người nông dân nghèo khổ, đặc biệt là sau cách mạng ngòi bút của ông tập trung nhiều hơn vào số phận của những người nông dân Tây Bắc. Với tài năng, sự cần mẫn của mình ông đã tạo nên những tác phẩm để đời và một trong những số đó là truyện Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm sáng lên là nhân vật Mị với sức sống tiềm tàng, mãnh liệt, luôn khát khao hạnh phúc, được thể hiện rõ nhất trong đêm tình mùa xuân.
Mị vốn là cô gái xinh đẹp, giàu sức sống và yêu lao động. Gia đình nợ món tiền lớn của nhà thống lí Pá Tra, nhưng cô vẫn một mực xin cha cho làm nương, làm rẫy để trả nợ dần. Nhưng số phận bất hạnh, Mị bị A Sử bắt đi và chính thức trở thành con dâu gạt nợ với chuỗi ngày kinh hoàng bị bóp nghẹt, mài mòn cả về thể xác và tinh thần. Người ta không còn thấy một người con gái nhanh nhẹn, yêu lao động, yêu cuộc sống mà thay vào đó là một người phụ nữ tàn tạ, héo úa, “như con rùa lùi lũi trong xó cửa”. Cuộc sống của Mị bị cầm tù chẳng khác nào cái buồng cô sống chỉ có một cái cửa ô vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ, trăng trắng không biết là sương hay là nằng. Tưởng rằng cuộc đời cô sẽ cứ lầm lũi như vậy cho đến lúc chết, nhưng không, tất cả đã thay đổi trong đêm tình mùa xuân ấy.
Xuất phát điểm, Mị là cô gái giàu sức sống, nhưng do sự tàn độc của gia đình thống Lí đã bào mòn, bẻ gãy gần như tất cả khát vọng sống của cô. Bằng tài năng bậc thầy trong miêu tả tâm lí nhân vật, Tô Hoài đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, chu đáo cho sự trỗi dậy mạnh mẽ của Mị trong đêm tình mùa xuân.
Tác giả đặt quá trình trỗi dậy của Mị trong không khí mùa xuân. Mùa xuân Tây Bắc với âm thanh náo nhiệt, rộn rã với màu sắc tươi vui đã làm bừng lên sức sống trong vạn vật và con người. Dù những chi tiết Tô Hoài đưa vào để miêu tả không khí mùa xuân Tây Bắc có phần khác lạ và mới mẻ, nhưng chính nó đã tạo nên nét riêng biệt cho tác phẩm. Đông thời không khí mùa xuân bao giờ cũng gắn liền với tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc, bởi vậy không khí ấy cũng có tác động ít nhiều đến tâm lí Mị. Thứ hai đó là sự tác động của men rượu. Mị uống rượu vào ngày tết cũng như biết bao người khác, nhưng cái cách mà cô uống lại rất khác. Cô uống ừng ực từng bát, uống như trút giận, cho vơi đi những đau đớn, tủi hờn. Và cuối cùng là sự xuất hiện của tiếng sáo. Tiếng sáo vừa gợi lên không khí mùa xuân vui tươi, náo nức, vừa gợi nhắc về quá khứ đẹp đẽ, đồng thời đây cũng là tác nhân quan trọng làm bừng lên khát vọng hạnh phúc của Mị trong đêm tình mùa xuân.
Tiếng sáo dù mới chỉ lấp ló ở đầu núi nhưng đã hiến Mị tha thiết, bồi hồi, nó không chỉ là tiếng sáo gọi bạn tình mà còn là tiếng của sự sống đang cựa quậy hồi sinh trong tâm hồn Mị. Bởi vậy, nếu như trước đây Mị chối từ phương tiện giao tiếp của con người là ngôn ngữ để tồn tại một cách câm lặng thì giờ đây ngôn ngữ đã trở lại dù đó mới chỉ là tiếng nói thầm: “Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi: Mày có con trai con gái rồi/…/Ta đi tìm người yêu”. Nội dung bốn câu hát chính là viết về tình yêu nên nó thôi thúc Mị càng mạnh mẽ hơn, thúc Mị hãy thoát khỏi địa ngục trần gian.
Sự tác động của mùa xuân và hơi men đã khiến Mị chối bỏ thực tại, tìm về với quá khứ. Mị lịm đi và nhớ về những ngày trước, lúc này chỉ có thể xác của Mị thuộc về hiện tại khổ đau còn tầm hồn, tư tưởng đã quay trở về quá khứ đẹp đẽ. Những kí ức tươi đẹp sống lại trong lòng Mị, thổi bùng trong Mị khát vọng hạnh phúc và mong muốn đoạn tuyệt với hiện tại. Nhưng dù Mị đã chối bỏ thực tài, khát vọng hạnh phúc đã được thắp lên nhưng “Mị không bước ra đường chơi, mà từ từ bước vào buồng”. Hành động này như một quán tính, một thói quen của cô. Bởi vậy, chỉ có một tiếng sáo, một chút men rượu vẫn chưa đủ để cô cắt đứt hoàn toàn với thực tại. Trong vô thức Mị vẫn bị cuộc sống đó cầm tù, giam hãm. Mị nhìn ô cửa sổ và nó đã đánh động Mị về chuỗi ngày sống mỏi mòn trong nhà thống lí Pá Tra, chính điều ấy đã đưa cô đi đến quyết định đoạn tuyệt, nếu có nắm lá ngón lúc này, cô sẽ quyết ăn mà chết ngay mới thôi. Sự sống và cái chết trong Mị không còn nhạt nhòa mà đã được phân định rõ ràng, Mị dám chết để chối từ thực tại đau khổ, bất hạnh.
Ngay khi khát vọng sống bùng lên mạnh mẽ, Mị dám chấp nhận cái chết để từ bỏ cuộc sống đau khổ, thì tiếng sáo lại xuất hiện đầy hữu ý, tiếng sáo đã khiến cuộc nổi loạn trong Mị không dừng lại ở tư tưởng mà biến thành hành động. Mị đến góc nhà lấy ống mỡ, bỏ vào đĩa đèn cho sáng. Nó không chỉ thắp lên ánh sáng vật lí xua tan cái tối tăm của căn phòng, mà con mang ý nghĩa biểu tượng, thắp lên niềm mơ ước, hi vọng về hạnh phúc. Không chỉ vậy, Mị còn búi lại tóc, lấy váy để chuẩn bị đi chơi. Những hành động này cho thấy sự bùng nổ mạnh mẽ, dữ dội trong tâm lí Mị, gắn với sự trỗi dậy của khát vọng hạnh phúc. Nhưng chính lúc đấy, A Sử xuất hiện, chặn đứng cuộc vượt thoát của Mị. Nhưng cường quyền lúc này chỉ trói buộc được thể xác của Mị còn khát vọng hạnh phúc, sống đã mạnh liệt đến mức Mị vượt ngục tinh thần. Bởi vậy, dù chân tay không cựa quậy được, nhưng Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo, tiếng sáo đưa Mị lên những cuộc chơi, đám chơi và đêm đó Mị sống giữa hai cõi mơ và thực: thực cô ý thức được mình không bằng con ngựa nhưng mơ lại giúp Mị vượt thoát khỏi thực tại khổ đau để sống trọn vẹn với quá khứ đẹp đẽ của mình.
Với diễn biến tâm trạng vừa phức tạp, vừa hợp lí, Mị đã thực hiện cuộc nổi loạn đầu tiên, thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ. Mặc dù chưa thành công, ty khát vọng hạnh phúc chưa thành hiện thực, nhưng cuộc vượt thoát trong đêm tình mùa xuân vẫn có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó cho thấy ẩn đằng sau người phụ nữ bị nô lệ hóa, tưởng như chai sạn vẫn tiềm tàng sức sống mãnh liệt. Đồng thời khát vọng hạnh phúc bị chặn đứng cũng mang giá trị tố cáo, phê phán sâu sắc.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 25)
Phân tích, miêu tả tâm lí nhân vật luôn là một thử thách đối với bất cứ tác giả nào. Không phải ai cũng có cái biệt tài đi miêu tả tâm lí nhân vật một cách tường tận và chân thực. Và Tô Hoài chính là một trong số ít những tác giả có biệt tài phân tích, miêu tả tâm lí nhân vật với sự phát triển tâm lý hết sức logic, tự nhiên. Sự phát triển tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân chính là một ví dụ điển hình.
Mị là cô gái trẻ, sinh ra trong một gia đình nghèo khó, cha mẹ vì không có tiền cưới nhau nên phải vay tiền thống lí Pá Tra. Tiền chưa trả hết, món nợ đó đổ dồn lên Mị. Nhưng Mị không lấy đó làm gánh nặng, mà vẫn xin cha cho mình lao động để trả nợ dần. Rõ ràng trong cô gái này có một tình yêu lao động, yêu cuộc sống hết sức mãnh liệt. Khi bị biến thành con dâu gạt nợ, Mị phản kháng vô cùng quyết liệt, cô còn có quyết định ăn lá ngón để chấm dứt cuộc sống mất tự do này. Nhưng vì thương cha mà cô đã gắng gượng sống. Nhưng càng gắng gượng bao nhiêu thì tâm hồn cô lại càng bị bào mòn, chai sạn bấy nhiêu cho đến mức “ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi”, Mị “như con rùa lùi lũi nơi xó cửa”, Mị dường như quên đi cả khát vọng tự do, khát vọng hạnh phúc của mình, chỉ chờ đến ngày mình chết đi mà thôi.
Đẩy nhân vật vào sự cùng khổ đến tận cùng chính là một dụng ý nghệ thuật của Tô Hoài, bởi chỉ khi con người ta bị đẩy vào bước đường cùng thì khát khao mới được bùng lên quyết liệt và mạnh mẽ ấy. Và cái khao khát ấy đã được thể hiện rõ nét trong đêm tình mùa xuân ấy.
Để tạo tiền đề cho sự đột phá của Mị, Tô Hoài đã dụng công chuẩn bị những yếu tố khác đặc biệt là những yếu tố về thiên nhiên, về cảnh sắc cuộc sống của những người miền núi. Mùa xuân về trên vùng cao quả thực vô cùng rực rỡ, đẹp đẽ. Những đồi cỏ ranh vàng ửng nhưng những vệt lửa thổi dưới thung khô, càng rét càng trở nên dữ dội hơn. Trên những mỏm đá mèo là những chiếc váy sắc màu rực rỡ, rồi cùng với đó tiếng cười của trẻ con. Không khí mùa xuân thật náo nhiệt, tràn đầy sức sống. Chính những tác nhân bên ngoài này đã phần nào gợi lên lòng yêu cuộc sống, giúp Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ.
Trong những yếu tố được Tô Hoài chuẩn bị thì đắt giá nhất là chi tiết tiếng sáo. Tiếng sáo xuất hiện từ xa đến gần, từ đỉnh núi, đến đầu làng rồi quanh quẩn trong tâm trí Mị. Tiếng sáo ấy đã tác động mạnh mẽ đến tâm lí Mị. Cùng với đó là sự kết hợp của hơi men, “ngày tết, Mị cũng uống rượu như ai” , nhưng Mị uống như để quên đi đau đớn, Mị uống ừng ực từng bát, rồi say lịm đi. Trong mơ màng Mị thấy tiếng sáo gọi bạn tình văng vẳng. Tiếng sáo ấy đã làm Mị động tâm, là cô bổi hổi nhớ lại những kỉ niệm đẹp trước đây. Lòng cô phơi phới trở nên, niềm vui sướng trào dâng. Và cô nhận thấy “Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…”. Sau bao năm làm con rùa lùi lũi trong xó cửa, dường như ý thức về bản thân mình đã dần dần quay trở lại. Dường như đoạn văn này ta thấy như chính lời Mị nói ra, Tô Hoài đã xuất sắc hóa thân để thấu hiểu những suy nghĩ, tâm trạng của nhân vật. Đồng thời điều đó cũng giúp Tô Hoài thấy được những giằng xé, mâu thuẫn trong tâm lí Mị giữa quá khứ và hiện tại. Và khi tiếng sáo vang lên, khi Mị như bừng tỉnh, và khát khao: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không muốn nhớ lại nữa”. Đây là sự phản kháng hết sức quyết liệt, đối với Mị phải sống mất tự do, còn đau đớn, tủi cực hơn cả cái chết. Điều đó đã cho thấy khát khao mãnh liệt của Mị.
Thì ra đằng sau con những tưởng như đã chết hoàn toàn ấy lại vẫn tiềm tàng sức sống mãnh liệt đến như vậy. Mị không cam chịu ở nhà, Mị muốn đi chơi như mọi người, muốn được hòa nhập, muốn được sống thực sự. Cô đã hiện thực hóa bằng hàng loạt các hành động: cô vào khêu đèn, quấn tóc và lấy váy để chuẩn bị đi chơi… Nếu như với những người con gái khác đó là điều rất bình thường, nhưng đối với Mị là cả một quá trình thức tỉnh và đấu tranh không ngừng.
Nhưng chính lúc ấy, ý định của cô lại bị kẻ độc ác – A Sử chặn đựng bằng hành động bạo ngược, trói đứng ở cột. Dù A Phủ có giam giữ được thân thể nhưng cũng không thể giữ nổi tâm hồn của cô bởi tâm hồn cô theo tiếng sáo, nhớ về những ngày trước.
Chỉ với duy nhất phần miêu tả tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân, đã có thể khẳng định tài năng nghệ thuật của Tô Hoài trong cách xử lý, sắp xếp sự kiện để miêu tả tâm lí nhân vật. Qua đó càng khẳng định hơn nữa tài năng của ông. Đồng thời cũng thấy được vẻ đẹp trong sức sống của Mị.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 26)
Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất trong làng văn chương Việt Nam. Trước Cách mạng, nhà văn nổi tiếng với những câu chuyện về loài vật như “O chuột”, “Dế mèn phưu lưu ký”. Sau cách mạng nhà văn đã để lại rất nhiều dấu ấn về những tác phẩm viết về đề tài miền núi như “Truyện Tây Bắc”, “Miền Tây”…
Trong tập Truyện Tây Bắc, nổi tiếng nhất là truyện Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm để lại dư âm trong lòng người đọc không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Tây Bắc với đêm tình mùa xuân của tuổi trẻ dập dìu tiếng sáo mà còn làm xúc động tâm hồn người đọc bởi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị – người con gái Mèo đã đứng lên đấu tranh với giai cấp thống trị miền núi, thoát khỏi kiếp đời nô lệ tủi nhục để trở thành con người tự do.
Mị xuất hiện ngay từ phần mở đầu tác phẩm, gây ám ảnh cho người đọc về một kiếp người héo hắt, tàn tạ “ chỉ biết cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mỵ không hiện lên bằng chân dung mà hiện lên bởi số phận – một số phận đau buồn về kiếp người làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra.
Mị là cô gái trẻ đẹp là bông hoa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Mị tài hoa với điệu sáo làm say mê biết bao nhiêu chàng trai “ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mị yêu lao động “biết cuốc nương làm ngô”. Mị giàu lòng tự trọng và hiếu thảo với cha già. Khi biết tin bố sẽ gạt nợ mình cho nhà thống lý, Mị tha thiết van xin “bố đừng bán con cho nhà giàu”.
Đó chính là vẻ đẹp về nhân cách và phẩm giá của người con gái với vẻ đẹp trong ngần thánh thiện như loài hoa ban thơm ngát giữa rừng. Nhưng có ngờ đâu sự hiểm độc của chính sách cho vay nặng lãi của bọn thổ ty phong kiến miền núi như một sợi dây oan nghiệt siết chặt lấy cuộc đời Mị. Đắng cay thay, đêm tình mùa xuân đẹp nhất của đời người con gái đã biến thành một đêm bi kịch, tủi nhục khi A Sử bắt cóc Mị về nhà thống lý. Và một buổi lễ cúng trình ma sáng hôm sau đó đã trói chặt cuộc đời Mị từ đấy.
Lúc đầu mới về “làm dâu” để phản kháng lại cái sự vô lí ấy, Mị đã “hằng mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc”. Khóc là biểu hiện của trạng thái tâm lí bị ức chế, không cam chịu, không chấp nhận cái sự thật nghiệt ngã ấy. Mị cũng đã từng nghĩ đến cái chết khi cầm nắm lá ngón về tự tử trước mặt cha nhưng vì thương cha già Mị không đành chết. Mị ném nắm lá ngón xuống đất như ném đi tuổi trẻ hạnh phúc của mình để quay về nhà thống lý chấp nhận kiếp sống trâu ngựa. Cái địa ngục trần gian ấy đã giam cầm cuộc đời Mị.
Tuổi xuân của Mị bị vùi dập đến héo úa, lụi tàn trong căn buồng chỉ độc một cái cửa sổ nhỏ như lòng bàn tay “trông ra ngoài không biết sương hay là nắng”. Mị bị nô lệ hóa trở thành công cụ lao động. Nói đúng hơn là bị bóc lột sức lao động một cách tàn tệ trở thành một súc nô trong nhà thống lý. Cuộc sống của Mị bị vùi vào công việc cả đêm lẫn ngày “tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay xe đay, cuối mùa thì đi nương bẻ bắp…”.
Không chỉ vậy, Mị còn bị bóng ma thần quyền áp chế làm cho tê liệt về tinh thần, mất hết cả ý thức phản kháng. Nhà văn Tô Hoài đã nhiều lần so sánh Mị với con vật (con ngựa, con trâu, con rùa). Từ đó Mị sống trong vô cảm, tâm hồn bị phong kín bởi sự lặng câm, băng giá “càng ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Thử hỏi còn xót xa nào hơn thế nữa không?
Nhưng bằng cảm quan nhân đạo và tấm lòng yêu thương đồng cảm với số phận con người, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc những thước phim quay chậm về sự bừng lên của một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt đang âm ỉ cháy trong con người Mị. Bên ngoài là một cô Mị lầm lũi như cái bóng, như đã chết nhưng bên trong lại ẩn chứa lòng ham sống. Sức sống ấy như hòn than nhỏ đang bị vùi lấp trong cái vẻ ngoài lặng câm vô cảm.
Vô tình cơn gió của đêm tình mùa xuân đã làm hồi sinh con người Mị, thức dậy cả một kí ức tươi đẹp và trỗi dậy một sức sống, lòng ham sống đến cuồng nhiệt nhưng cũng đầy bi kịch.Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Đó là tiếng cười của trẻ con, màu vàng ửng của cỏ gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc sỡ và chắc chắn không thể thiếu được “tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường”.
Chính những hình ảnh và âm thanh ấy như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc đời Mị. Đặc biệt qua nghệ thuật trần thuật và miêu tả đặc sắc, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc một linh hồn đang cựa quậy hồi sinh đằng sau lớp xác giá băng. Chính tiếng sáo đã tác động đến Mị, góp phần thức tỉnh một tâm hồn nguội lạnh.
Tiếng sáo như sợi dây vô hình nối mị với quá khứ và hiện tại làm sống dậy trong Mị một kí ức tươi đẹp. Nói đúng hơn nó đánh thức cái tài hoa trong Mị. Mị thổi sáo hay, thổi lá giỏi có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Quá khứ đẹp nhưng đối lập với một hiện tại buồn mênh mang. Mị ngồi nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo:
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta chưa có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu
Tiếng sáo làm Mị mạnh mẽ hơn, Mị thoát khỏi cái lớp xác vô hồn ấy bằng một hành động “nổi loạn nhân tính”. Mị tìm đến rượu, nhưng không phải để tìm vui mà là để giải sầu“ Mị uống ực từng bát rồi say”. Mị uống như nuốt căm hận vào lòng. Sự bất bình thường ấy đã nói lên tất cả. Sức chịu đựng có hạn, đã đến lúc cần bùng cháy. Rượu và tiếng sáo chính là chất men say đánh thức phần đời đã mất của Mị, giờ đây Mị không còn lặng câm nữa mà đã hồi sinh.
Mị đang sống về ngày trước và không gì có thể ngăn được niềm vui sướng của Mị “lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Còn gì hạnh phúc bằng khi mình tìm lại được chính mình ? Tô Hoài đã thâm nhập vào mê cung tâm trạng của người phụ nữ này và bằng lòng cảm thông yêu thương sâu sắc, nhà văn đã làm người đọc thực sự xúc động trước những biến đổi về tâm lý của Mị.
Con rùa nuôi trong xó cửa ấy đã không còn lùi lũi nữa rồi. Nó đã phá vỡ cái bức tường vô cảm kia để khát khao tìm ra thiên đường mùa xuân của tuổi trẻ, của hạnh phúc. Mị nhận thức được chính mình, đó chính là ý thức về tuổi trẻ. Mị thấy mình còn trẻ “Mị trẻ lắm. Mị hãy còn trẻ. Mị muốn đi chơi”.
Còn trẻ nghĩa là còn sức sống, còn khao khát sống, còn muốn yêu thương. Đúng là một cảm xúc bi kịch: nhận ra mình còn trẻ khi mà tuổi xuân bị tước đoạt rồi và sống trong hoàn cảnh đáng thương này thì đúng là bi kịch. Nhưng dù đó là bi kịch thì Mị vẫn vui sướng vì dù sao Mị vẫn còn là chính mình với trái tim đầy khát vọng.
Nhưng đớn đau thay, cùng với cảm xúc tìm lại được chính mình là một nỗi tủi thân. Tủi thân khi nghĩ về thực tại. Mị đã có chồng nhưng người chồng ấy không tình yêu, không hạnh phúc. A Sử – kẻ khốn nạn ấy đã giam hãm cuộc đời Mị và dẫu “không có lòng với nhau mà cũng phải ở với nhau”.
Cảm xúc ấy như một gáo nước lạnh dội vào mặt, làm tan biến đi tất cả niềm vui sướng mà nãy giờ Mị chắt chiu dành dụm. Còn gì đau khổ bằng lấy một người mà mình không có tình yêu. Còn gì đau khổ bằng phải sống với một kẻ vũ phu chỉ xem mình là món đồ chơi và bị khinh rẻ như súc nô. Mị lại tưởng đến nắm lá ngón, Mị ước ao có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa, nhớ lại nước mắt chỉ ứa ra.
Muốn chết để giải thoát nỗi đọa đày, muốn chết để thoát khỏi bi kịch, điều này dễ thông cảm nhưng hơn hết Tô Hoài đã mang đến cho người đọc sự lột xác của Mị. Muốn chết chính là biểu hiện của sức sống. Khi Mị đã hồi sinh, khó có thể nào chấp nhận được thực tại cay đắng này.
Nhưng không có nắm lá ngón, tâm trạng Mị chợt xoay sang hướng khác. Khi mà tiếng sáo gọi bạn yêu ngoài kia đang réo gọi, khi mà cả thiên đường hạnh phúc của mùa xuân phía sau ô cửa nhỏ kia đang nồng nàn, thôi thúc trái tim Mị. Mị không thể ngồi yên được nữa. Mị phải đứng dậy thôi! Mị hành động trong lặng lẽ. Lặng lẽ nhưng mãnh liệt. Mị đã thắp lên ngọn đèn trong căn phòng u ám, đặc cóng muộn phiền.
Ngọn đèn như xua tan đi tất cả cái bóng tối u ám đang bao quanh cuộc đời Mị. Ngọn đèn thắp sáng tâm hồn Mị, đốt cháy cả nỗi khát khao vượt ra khỏi bức tường địa ngục để đến với thế giới ngoài kia đang dập dìu tiếng sáo. Tô Hoài đã diễn tả thật sâu sắc cái khát vọng cháy bỏng ấy của Mị bằng một đoạn văn ngắn nhưng giàu nỗi cảm thông chia sẻ. Câu văn ngắn, nhịp gấp thể hiện sự trỗi dậy mãnh liệt của nhân vật “Mị quấn lại tóc.
Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Mị hành động thản nhiên, dù Mị biết A Sử đang hiện diện trong căn buồng của Mị. Nhưng Mị không sợ, bóng ma thần quyền đã không thể nào làm gì được Mị nữa rồi. Nhưng đớn đau thay, sự độc ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị miền núi đã dập tắt đi cái khát vọng và sự trỗi dậy đó của Mị. A Sử đã nhẫn tâm trói Mị bằng một thúng sợi đay, tóc Mị xõa xuống hắn cuốn luôn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi không nghiêng đầu được nữa.
Nhưng lúc này đây, Mị đâu còn sống bằng thể xác nữa mà Mị đang thực sự đang sống bằng tâm hồn. A Sử trói được thể xác của Mị nhưng không thể nào trói được tâm hồn của Mị. Bởi tâm hồn Mị đã vượt ra khỏi cái lỗ vuông bằng bàn tay kia để sống cùng đêm tình của tuổi trẻ. Thể xác Mị nằm đây, giữa bốn bức tường câm lặng nhưng hồn Mị đang “đi theo những cuộc chơi những đám chơi”.
Tâm hồn Mị ngập đầy tiếng sáo, ăm ắp những kỷ niệm đẹp tươi. Có lúc tiếng sáo nhập cả vào hồn Mị làm Mị bừng lên như ngọn lửa gặp cơn gió lớn “Mị vùng bước đi”. Hành động này cho thấy Mị không hề biết mình đang bị trói (hoặc có thể biết bị trói nhưng đã quên vì sức sống của tâm hồn lớn hơn nỗi đau thể xác). Nhưng rồi “tay chân đau không cựa được” lại đưa Mị về với hiện thực cay đắng “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.
Nhưng sức sống ấy vẫn âm ỉ cháy dù đau đớn, tủi nhục. Suốt đêm, Mị lúc mê lúc tỉnh. Lúc mê thì sống trong “hơi rượu tỏa” cùng tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình. Lúc tỉnh thì “nồng nàn tha thiết nhớ”. Có một chi tiết rất đắt khi nhà văn kết thúc diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đó là chi tiết: Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu chuyện người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này.
Và Mị đã sợ, sợ chết “Mị cựa quậy xem thử mình còn sống hay đã chết”. Sợ chết là biểu hiện của lòng ham sống. Sức sống trong con người khốn khổ ấy đã không lụi tàn mà ngược lại vẫn mãnh liệt như những đợt sóng ngầm gầm gào trong lòng đại dương tưởng như không gì có thể dập tắt nổi. Nói như nhà văn Lỗ Tấn “Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai”. Chắc chắn đợt sóng ngầm ấy sẽ hứa hẹn trở thành đợt sóng thần của ngày mai. Đó là đêm cởi trói cho A Phủ một năm sau đó.
Cũng là nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi, A Phủ trở thành trâu ngựa trong nhà Pá Tra. Hai số phận nhưng một cảnh ngộ. Họ là nô lệ, ăn đời ở kiếp cho lũ nhà giàu. Vì để hổ bắt mất một con bò, mạng sống của A Phủ bị treo lên giá chết. Án tử đang đợi A Phủ từng phút từng giây. Đó là những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Mị thức dậy và sống cùng ngọn lửa. Mị vẫn câm lặng trong nỗi cô đơn.
Lửa cũng cô đơn. Hai kẻ cô đơn ấy sưởi ấm cho nhau. Nhìn thấy A Phủ bị trói đứng như thế, Mị cũng bình thản, bình thản một cách lạ lùng đến nhẫn tâm. Phải chăng “Sống lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi” nên Mị không còn nhận ra nỗi khổ của người khác. Và nếu đúng như vậy thì đớn đau thay Mị đã đánh mất đi lòng nhân ái mà trong bản thân người phụ nữ nào cũng có.
Khi và chỉ khi dòng nước mắt của A Phủ “bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó là dấu hiệu của sự chết đã xuất hiện trên khuôn mặt của người nô lệ ấy thì trái tim Mị mới bừng tỉnh, lòng thương người trong Mị mới trỗi dậy. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lúc này đây, Mị mới thấm thía được nỗi cùng cực của kiếp người.
Thương người, Mị lại thương mình. Mị hình dung lại chuỗi ngày ê chề dài dằng dặc của cuộc đời mình. A Phủ sao mà giống Mị thế, Mị cũng từng bị A Sử trói đứng thế kia, có «nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được». Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị căm phẫn khi nhớ lại người đàn bà bị trói chết trong căn nhà này.
Mị càng căm phẫn càng uất hận “chúng nó thật độc ác”. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Nhưng Mị không có quyền bỏ mặc người khác. Lý trí mách bảo Mị rằng phải cứu A Phủ. Trái tim nhân ái của Mị đã thôi thúc Mị phải hành động. Nhưng Mị chợt chùn lại. Mị giằng xé dữ dội giữa mạng sống của mình và người đồng cảnh ngộ
Có thể Mị cứu được A Phủ nhưng chính Mị sẽ lại phải chết trên cái cọc ấy. Nhưng Mị nào đâu thấy sợ, bởi giờ đây, lòng thương người đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi. Mị táo bạo, Mị quyết liệt, Mị nổi loạn. Chính hành động cắt dứt sợi dây trói đã phần nào cho thấy vẻ đẹp sức sống của Mị. Đó chính là sức sống của cô gái Mèo dám dứng lên đương đầu với lũ ác thú.
Dù còn là mang tính tự phát nhưng đó là dấu hiệu dự báo cho thấy được sự bừng tỉnh của những nô lệ đang đi theo tiếng gọi của cách mạng. Có ai ngờ được rằng Mị cắt đứt dây trói cho A Phủ cũng là vô tình cắt đi sợi dây oan nghiệt trói buộc cuộc đời mình. Mị đã làm một việc động trời nhưng đó là tất yếu. Cái giây phút Mị đứng lặng trong bóng tối là Mị sống trong sự ngổn ngang trăm mối. Lòng Mị rối bời với câu hỏi: chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết?
Cuối cùng tiếng gọi của tự do và sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Những bước chân của hai con người khốn khổ ấy băng qua đêm tối như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn họ biết bao nhiêu năm qua. Ta hãy nghe Mị nói sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi!… Ở đây thì chết mất”.
Đó là câu nói thể hiện niềm khao khát sống và khát khao tự do đến mãnh liệt. Và tiếng gọi tự do đang vẫy gọi họ phía trước, nơi họ đến là Phiềng Sa vùng đất hứa còn Hồng Ngài hôm nay còn chăng là những ngày buồn đau, tủi nhục.Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu.
Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền. Thành công của nhà văn khi miêu tả sự hồi sinh của nhân vật đó chính là nhờ vào nghệ thuật trần thuật hấp dẫn.
Cách dựng cảnh sinh động. Cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị. Tất cả đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm, góp phần mang đến cho người đọc sự xúc động mãnh liệt trước số phận của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chủ nô và lũ Tây đồn.
Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng người đọc vẻ đẹp của lòng nhân đạo, tình yêu thương đồng cảm sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Qua nhân vật Mị nhà văn đã làm hiện lên vẻ đẹp của một sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người phụ nữ miền núi nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung.
Sức sống tiềm tàng ấy giúp nhà văn khẳng định được sức mạnh của tâm hồn con người Việt Nam và chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Đây chính là cuộc đấu tranh đi lên từ tự phát đến tự giác theo ánh sáng của cách mạng. Đó là giá trị nhân văn ngời sáng của tác phẩm.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 27)
Tô Hoài là nhà văn rất thành công trong những nhà văn thuộc nền văn xuôi hiện đại. Tác phẩm của ông thường viết về những vấn đề gần gũi thân quen trong cuộc sống thường ngày. Tác phẩm Vợ chồng A phủ là tác phẩm viết về đề tài Tây Bắc mang lại những giá trị sâu sắc. Nhân vật tiêu biểu trong tác phẩm là Mị, một phụ nữ phải chịu nhiều bất hạnh, nhưng có vẻ đẹp tâm hồn và có sức sống mãnh liệt, giám đứng lên đấu tranh tìm lại hạnh phúc cho mình.
Nhân vật Mị hiện lên trong cách giới thiệu của tác giả ở ngay đầu câu chuyện gợi lên cho người đọc một sự lôi cuốn lạ kì. Chỉ bằng vài câu chữ, tác giả đã cho người đọc hình dung ra được cuộc sống đầy đau khổ mà Mị đang phải hứng chịu trong nhà Pá Tra. “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa . Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
Hình ảnh người con gái với vẻ mặt và ánh mắt vô hồn bên cạnh cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ, bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng.
Mị trước đó là một người con gái đẹp của núi rừng Tây Bắc, cô có tài có sắc, có một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đương, có rất nhiều người yêu và cô cũng đã trao gửi tình yêu cho một người trai làng yêu cô tha thiết.
Nhưng số phận may mắn không đến với cô, người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh. Để cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí. Danh nghĩa là con dâu nhưng cô đã phải chịu mọi khổ cực đến tận cùng của một kẻ tôi tớ. Thân phận Mị không chỉ là thân trâu ngựa, “Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm” .
Không những bị đày đọa về thể xác, Mị còn bị dày vò về một nỗi đau tinh thần không lối thoát. Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng. Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô. Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh quyền sống. Cái chế độ ấy đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống.Quá khổ cực và muốn giải thoát cho mình bằng cái chết, nhưng lại lo cho cha nên Mị đã cố sống. Khi cha Mị không còn nữa, thì Mị lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ, như một đồ vật không cảm xúc. Muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống. Còn khi đã không thiết chết, nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước… cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi.
Cuộc sống của Mị cứ thể lầm lũi trôi qua ngày này sang tháng khác, những tưởng con người thật sự của Mị đã chết đi. Nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia đang còn một con người, có khao khát sống đến mãnh liệt. Khát vọng hạnh phúc có thể bị vùi lấp, bị lãng quyên trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhưng không thể bị tiêu tan. Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên. Và khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu.
Chính không khí mùa xuân của Hồng Ngài năm ấy đã làm trỗi dậy sức sống ở con người Mị. Gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của các lòai hoa đẹp đã góp phần làm nên cuộc nổi loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau khổ. Tác nhân quan trọng là hơi rượu. Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát, “uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi. Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng quên vừa đem về nỗi nhớ. Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi người nhảy đồng, người hát mà không nghe, không thấy và cuộc rượu tan lúc nào cũng không hay) nhưng lại nhớ về ngày trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi …), và quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có cái quyền sống của một con người: “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”.
Tiếng sáo thật có ý nghĩa bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của tình yêu và tuổi trẻ. Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng lòng của người thiếu phụ. Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho nên trong thời khắc ấy, ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi.
Hòa mình vào không khí náo nhiệt của mùa xuân, tâm hồn tưởng như đã chết của Mị dần được sưởi ấm, nó lướn dần và lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác: “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi”.Phải tới thời điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du: quấn lại tóc, với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm như trog một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử hỏi.
Dù bị A Sử trói vào cột nhưng Mị vẫn chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du. Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được. Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy. Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ, gãi chân. Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn trước.
Sức sống le lói của mi đã bùng phát lên thành hành động, đó là hành động Mị cởi trói cho A Phủ. Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi. Những va chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa xuân đã đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí. Và bản năng của một người con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ phàng: bị trói đứng. Và chính hoàn cảnh bi thương đó đã đánh thức lòng thương cảm trong con người Mị. Nhưng tình thương đó không phải tự nhiên bùng phát trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội tâm của cô. Mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt: “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Câu văn như một mình chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị. Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt: “Đêm ấy A Phủ khóc. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai lõm má đã xạm đen”. Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị cũng đã khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, xót thương cho mình.
Con người Mị lúc này đã tỉnh táo, Mị đã nhận thức được những đau khổ mà Mị đã phải chịu đựng và thương cho người có cùng cảnh ngộ như mình là A Phủ. Nhưng nó còn vượt lên giới hạn thương mình: “Mình là đàn bà … chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết”. Nhưng khi cởi trói cho A Phủ xong, Mị càng tỉnh táo hơn và bất ngờ chạy theo A Phủ. Lòng ham sống của một con người như được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị như tìm lại được con người thật, một con người còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận.
Phải nói rằng, nhà văn đã có sự am hiểu sâu sắc về cuộc song của con người Tây Bắc, có sự cảm thông sâu sắc đối với những người phụ nữ nơi đây, nhà văn mới có thể phát hiện ra cái vẻ đẹp nằm sâu trong tâm hồn người phụ nữ bất hạnh ấy.
Thông qua nhân vật Mị nhà văn đã thay toàn dân tố cáo cái thế lực phong kiến đã áp bức, bóc lột và chà đạp nên quyền sống cơ bản của con người. Cũng qua nhân vật ấy Tô Hoài đã ca ngợi khát vọng sống mãnh liệt, khát vọng tự do hạnh phúc của những con người nghèo khổ ấy, đồng thời thể hiện sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, tình giai cấp của dân tộc Việt trong những khó khăn gian khổ.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 28)
Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài trong giai đọan sáng tác sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nội dung kể về cuộc đời đầy biến cố của đôi vợ chồng trẻ người Mông là Mị và A Phủ trong chế độ thực dân, phong kiến.
Nhân vật Mị là một hình tượng nghệ thuật đặc sắc có ý nghĩa khái quát cao, tiêu biểu cho cuộc sống đau khổ, tủi nhục và quá trình vùng lên tự giải phóng của đồng bào miền núi Tây Bắc. Đoạn văn miêu tả diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm xuân với những tình tiết chân thực và cảm động đã thể hiện sức sống mãnh liệt cùng khao khát tình yêu cháy bỏng của Mị – người con gái xinh đẹp mà bất hạnh.
Mị mồ côi mẹ, ở với cha già. Vì đẹp người đẹp nết nên Mị được nhiều chàng trai trong vùng để mắt tới. Tương lai của cô lẽ ra sẽ tốt lành, yên ấm, nhưng chì vì món nợ truyền đời của cha mẹ mà Mị bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Tuổi xuân của Mị đã bị A Sử, gã con trai xấc xược và hung bạo tước đoạt, giày xéo.
Quãng đời Mị sống trong nhà thống lí là chuỗi dài những đọa đày, tủi nhục. Tuy danh nghĩa là con dâu nhà quan lớn nhưng thực chất Mị chỉ là đầy tớ, nô lệ, bị coi rẻ hơn cả con trâu, con ngựa. Đau khổ, cực nhục đã cướp mất tuổi xuân của Mị, biến cô thành kẻ nhẫn nhịn và cam chịu. Lúc mới bị bắt về, Mị phản ứng quyết liệt, định ăn lá ngón tự tử, nhưng rồi thương xót cha già, Mị không đành lòng chết. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi. Cuộc sống không còn ý nghĩa. Cô sống mà như đã chết. Đau khổ triền miên đã làm cho Mị hóa thờ ơ, lạnh lùng. Mọi cảm xúc trong cô dường như đã chai lì. Tuy nhiên, khát vọng sống trong Mị chưa hoàn toàn lụi tắt. Trong Mị luôn tồn tại hai con người tưởng chừng đối lập: Con người bên ngoài lạnh lùng vô cảm và con người bên trong có sức sống âm thầm nhưng mãnh liệt.
Tác giả lấy khung cảnh mùa xuân, đêm xuân làm nền cho diễn biến tâm trạng của Mị. Mùa xuân, đất trời tưng bừng màu sắc, rộn rã âm thanh, rất gần gũi với quãng đời hồn nhiên, vui vẻ ngày trước của Mị: Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió vã rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ… Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi.
Đoạn văn tả cảnh mùa xuân trên vùng núi cao Tây Bắc với những hình ảnh đặc sắc sinh động và đầy sức sống. Màu sắc sặc sỡ của những chiếc váy hoa của các cô gái phơi trên các mỏm đá báo hiệu Tết đã đến gần. Tiếng cười ầm của đám trẻ con chơi quay trên sân chơi trước nhà. Tiếng sáo thổi réo rắt rủ bạn tình đi chơi. Tiếng chó sủa xa xa… Những đêm tình mùa xuân đã tới.
Sức sống tưng bừng của vạn vật mùa xuân đã làm cho tâm hồn Mị hồi sinh. Tâm trạng Mị lúc này pha trộn giữa nhiều cung bậc cảm xúc: vui sướng và đau khổ, tủi nhục đến mức muốn chết và khao khát sống. Những cảm xúc ấy đang trỗi dậy, cuộn xoáy, trào dâng trong lòng Mị.
Trong lúc trai gái và lũ trẻ con tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn trên sân chơi đầu bản thì Mị thiết tha bồi hồi khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình từ đầu núi vọng lại. Mị nhẩm thầm bài hát quen thuộc mà thời con gái cô hay hát:
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu.
Sau bao năm câm lặng trong đau khổ, có lẽ đây là lần đầu tiên người con dâu gạt nợ khe khẽ cất tiếng hát thầm.
Cảnh vui xuân nhộn nhịp ở đầu bản và cảnh ăn Tết ồn ào trong nhà thống lí Pá Tra đã tác động mạnh tới tâm hồn Mị, khiến cô nhớ lại thời con gái chưa xa. Lúc đầu, Mị hành động theo thói quen một cách vô thức: Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Mị uống rượu mà như uống nỗi tủi hận, cay đắng vào lòng, hay là Mị cố tình uống thế cho thật say để quên đi nỗi khổ? Tuy nhiên, hành động ấy thể hiện một sự chuyển biến khác thường đang diễn ra trong tâm trạng người con gái đáng thương.
Bi kịch bắt đầu khi ý thức về bản thân của Mị đang trỗi dậy. Mị say rượu lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát men rượu đánh thức nỗi nhớ về phần đời đã qua: Mị đang sống về ngày trước. Tiếng sáo gọi bạn tình văng vẳng bên tai Mị. Đấy là tiếng sáo của tình yêu rạo rực, của tuổi thanh xuân căng đầy sức sống. Dường như lúc này, Mị không còn là con dâu gạt nợ nhà thống lí Pa Tra nữa mà là cô gái xinh đẹp đang uống rượu bên bếp lửa và thổi sáo: Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Bao kỉ niệm đẹp thời con gái sống dậy trong lòng Mị: Mị thổi sáo giỏi… có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Hồi tưởng về mùa xuân tươi đẹp thời con gái, điều đó cho thấy con người thật của Mị đang hồi sinh. Khát vọng sống như ngọn lửa đang bừng cháy trong tâm hồn Mị.
Diễn biến tâm trạng Mị rất phức tạp: Cô đang bị giằng xé bởi mâu thuẫn giữa thân phận tù túng của người con dâu gạt nợ và mong muốn được tự do đi chơi Tết của cô gái đang khao khát tự do và tình yêu. Liệu Mị có dám cắt đứt sợi dây oan nghiệt đang thít chặt lấy số phận mình để đến với những cuộc chơi vui vẻ, với tiếng sáo gọi bạn tình réo rắt du dương?
Mải mê chìm đắm trong quá khứ nên Mị tạm quên hiện tại: rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau, Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường chơi Mị từ từ bước vào buồng. Tâm trạng Mị phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị nhận ra rằng mình vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi.
Khát vọng sống như ngọn lửa bừng cháy trong lòng khiến Mị càng thêm một phẫn uất trước tình cảnh tủi nhục của mình. Bao nhiêu người có chồng mà vẫn đi chơi ngày Tết đấy thôi. A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Uất ức, nước mắt Mị ứa ra. Tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường:
Anh ném pao, em không bắt,
Em không yêu, quả pao rơi rồi…
Mị muốn quên thời con gái ngày trước mà không sao quên được. Tiếng sáo cứ lửng lơ trong đầu khiến cho Mị thiết tha bồi hồi.
Khi A Sử bất ngờ vào buồng để thay áo mới, tiếp tục đi rình bắt thêm con gái nhà người ta đem về làm vợ; Mị lặng lẽ, thản nhiên xắn thêm miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng, quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa, rút thêm cái áo. A Sử nhìn Mị, Mị không thèm nói một lời. Những hành động “nổi loạn” diễn ra trong khi tiếng sáo đang rập rờn trong đầu Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình như đem đến cho Mị một sức mạnh mới, khơi gợi khao khát yêu đương và hạnh phúc. Khi với tay lấy váy hoa… là Mị đã thực sự sống lại thời con gái với bao ước mơ tươi đẹp.
Mị đã bừng tỉnh; quá khứ, hiện tại đan xen trong tâm hồn Mị. Hiện tại thì tăm tối, ngột ngạt, mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lơ lửng bay ngoài đường, đánh thức quá khứ đẹp đẽ chưa xa.
Những hành động khác thường của Mị đã bị A Sử trấn áp phũ phàng. Sau câu hỏi ngạc nhiên và giận dữ: “Mày muốn đi chơi à?”, A Sử trói Mị bằng cả một thúng sợi đay, quấn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Không có một dòng nào miêu tả thái độ phản kháng của Mị. Suốt từ đầu đến cuối, Mị chỉ im lặng, âm thầm cam chịu. Tuy vậy, ẩn chứa bên trong lại là một cô Mị hoàn toàn khác, một cô Mị đang say mê sống với những kỉ niệm tình yêu. A Sử chỉ trói buộc được thể xác chứ không thể trói buộc được tâm hồn Mị.
Miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân, Tô Hoài dường như đã nhập thân vào nhân vật. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu nồng nàn nâng đỡ tâm hồn Mị. Tai Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Tuy Mị chưa giải thoát được thể xác nhưng Mị đã giải thoát được tâm hồn. Lòng Mị bồi hồi theo tiếng sáo: Em không yêu, quả pao rơi rồi, Em yêu người nào, em bắt pao nào… Những vết dây trói đau nhức đưa Mị trở về với thực tại đau đớn, khổ nhục. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách… Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
Mị đang sống với con người bên trong của mình: Chừng đã khuya… Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi nhớ đến thời điểm trai bản đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Lúc này, thực tại và quá khứ cứ đan xen vào nhau, giằng xé tâm hồn Mị. Càng nhớ tới kỉ niệm cũ, Mị càng xót xa, đau khổ, phẫn uất trước thực tại phũ phàng : Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa. Mị lúc mê, lúc tỉnh. Cho tới khi trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ.
Mị bàng hoàng tỉnh… Không một tiếng động. Mị thương những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan… Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng. Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: Đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi. Nhớ thế, Mị sợ quá, Mị cựa quậy, xem mình còn sống hay chết, cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau dứt từng mảnh thịt.
Như thế là cuộc trỗi dậy lần thứ nhất của Mị không thành. Mị không thể thoát khỏi địa ngục trần gian là nhà bố con tên thống lí, nhưng Mị không còn là con ngựa, con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa nữa. Mị đã sống lại những thời khắc của tuổi thanh xuân tươi trẻ và tự do. Cuộc trỗi dậy ấy như một đợt sóng dâng lên rồi nhanh chóng tan ra, dù chưa làm thay đổi cuộc đời Mị nhưng những đợt sóng ngầm của cảm xúc đến lúc nào đó sẽ tuôn trào mãnh liệt mà bằng chứng là hành động Mị liều lĩnh cởi trói cứu A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài.
Ở đoạn văn này, tác giả miêu tả hành động của Mị rất ít, nhưng người đọc vẫn bị cuốn hút bởi một con người đang từ cõi âm u mơ hồ trỗi dậy, có một sức sống tiềm tàng mà không một thế lực tàn ác nào vùi dập được. Không gian, thời gian, giọng kể chuyện của tác giả đều phù hợp với diễn biến phức tạp của tâm trạng Mị. Tô Hoài đã dẫn dắt người đọc dõi theo tâm trạng ấy, khi thiết tha bồi hồi, khi nghẹn ngào xót xa! Đoạn văn miêu tả tâm trạng Mị trong đêm xuân thấm đẫm tính nhân văn, góp phần tô đậm tính cách nhân vật Mị; thể hiện một cách chân thật và cảm động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 29)
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, nhà văn Tô Hoài được độc giả biết đến là một trong những cây bút rất tiêu biểu. Đến với đoạn trích Vợ chồng A Phủ, độc giả lại càng thêm ấn tượng bởi cách xây dựng hình tượng nhân vật mang cá tính độc đáo, tiêu biểu. Đặc biệt, tác giả đã để lại dấu ấn mạnh trong lòng người đọc bởi cá tính, sức sống bền bỉ, mạnh mẽ của nhân vật Mị. Tô Hoài đã khắc họa thành công và chân thực diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài.
Nhân vật Mị được tác giả khắc họa nổi bật và chân thực xuyên suốt tác phẩm. Đó là một cô gái xinh đẹp, mang vẻ đẹp rất riêng của những cô gái vùng cao Tây Bắc. Vẻ đẹp ấy đã làm cho bao chàng trai trong vùng đắm say mà nguyện thổi sáo đi theo Mị. Cô gái trẻ ấy, mang trong mình những sức sống tươi trẻ nhất, với bao tình yêu và hy vọng để bước vào quãng thời gian tươi đẹp mang tên thanh xuân. Nhưng, những hủ tục bởi một xã hội vẫn còn ngang trái nhiều bất công đã xô đẩy cuộc đời Mị vào những ngã rẽ cay đắng nhất. Món nợ truyền kiếp của gia đình đã biến số phận một cô gái đáng lẽ ra phải có được cuộc sống hạnh phúc, lại rơi vào sự bế tắc. Lối thoát nào cho Mị khi bị bắt trở thành con dâu nhà Thống lí Pá Tra. Mang danh con dâu, nhưng cuộc sống hàng ngày của Mị chẳng khác gì thân trâu ngựa. Mị phải làm việc lùi lũi, không chuyện trò, không giao tiếp, làm việc như một cỗ máy, như một cái xác không hồn. Những tưởng, những tháng ngày Mị sống trong sự vô cảm đó sẽ kéo dài mãi. Nhưng không, thực ra sức sống tiềm tàng trong Mị vẫn luôn tồn tại, như một đốm lửa vẫn nhen nhóm tận sâu ở dưới, chỉ chực có cơ hội là cháy bùng lên mạnh mẽ.
Người ta luôn nói rằng, yếu tố ngoại cảnh có ảnh hưởng rất nhiều đến tâm trạng cũng như hành động của con người. Quả thực như vậy. Khung cảnh mùa xuân ở Hồng Ngài đã đem những sức sống tiềm tàng trong Mị bấy lâu nay bị đè nén sống dậy một cách mạnh mẽ. Mùa xuân vùng cao đến, những màu sắc sặc sỡ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá như những cánh bướm, tiếng sáo gọi bạn tình của những chàng trai cô gái chớm yêu… Tất cả mang đến một không khí mùa xuân rạo rực, làm lòng Mị cũng dâng trào bao cảm xúc.
Đêm tình mùa xuân, Mị bắt đầu uống rượu. Tâm hồn Mị bắt đầu trở về với những kỉ niệm ngày trước. Hơi rượu nồng nàn và tiếng sáo xung quanh đã làm Mị nhớ lại những ngày tháng còn được tự do, được sống với đúng ý nghĩa một con người. Mị nhớ lại ngày trước, mình thổi lá hay hơn thổi sáo. Những kí ức về những tháng ngày tươi đẹp tưởng chừng như bị quên lãng giờ đây đang sống dậy, như một thước phim quay chậm đưa Mị trở về với quá khứ. Sự thức tỉnh ấy đang làm trỗi dậy sức sống của một tâm hồn đã bị số phận làm cho chai sạn. Kỉ niệm ùa về, cảm xúc ùa về. Trong những ngày làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị sống với cảm xúc trơ lì như một tảng đá. Nhưng giờ đây, trong khung cảnh đêm tình mùa xuân đang rạo rực, Mị đã có những luồng cảm xúc mạnh. Mị ước nếu như có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn luôn mà không cần suy nghĩ. Ý nghĩ đầy táo bạo này chính là một sự nhen nhóm của tinh thần phản kháng lại số phận. Thực tại đau khổ đã làm người con gái căng tràn sức sống ngày nào chai lì cảm xúc. Nhưng khung cảnh đêm tình mùa xuân đã làm cho người con gái ấy nhen nhóm lên ý thức đấu tranh để có thể thoát khỏi cuộc sống vô nghĩa đang bủa vây, ngay cả khi cách phải chọn là tìm đến cái chết.
Tuy nhiên, những cảm xúc mạnh ấy của lòng Mị lại không biểu hiện ngay trong những hành động. Tác giả Tô Hoài đã cho nhân vật của mình có sự đấu tranh quyết liệt trong tư tưởng: một bên là khát khao tự do cháy bỏng, một bên là sự chai lì cảm xúc, mặc cảm về số phận. Mị đã có những hành động liên tiếp nhau. Hành động đầu tiên, Mị sắn thêm mỡ bỏ vào đèn. Đó là hành động tuy nhỏ nhưng mang nhiều ý nghĩa. Đó có thể là mong muốn của nhân vật muốn căn phòng sáng lên, hay cuộc đời mình có thể tươi sáng và nhiều hy vọng hơn. Tiếp theo, Mị bắt đầu quấn lại tóc và chuẩn bị váy áo đi chơi. “Mị còn trẻ, Mị muốn đi chơi”. Vậy là, khát khao được sống với những cảm xúc chân thực nhất của đời mình đã chiến thắng trong ý nghĩ, hành động của Mị. Mị đang sống, nhưng là sống với những ki niệm của quá khứ, cảm xúc của quá khứ. Mị đang quên đi thực tại đau khổ, mà sống đúng với bản chất con người yêu tự do trong mình. Trớ trêu thay A Sử về, và trói đứng Mị lên cột nhà. Nhưng, thân xác Mị bị trói buộc tại đấy, còn tâm hồn Mị vẫn đang lơ lửng và đi theo những tiếng sáo gọi bạn tình. Khát vọng sống vừa mới bùng lên trong Mị, đã bị trói buộc bởi thực tại đau khổ, đó mới là điều cay đắng nhất. Khi Mị dần tỉnh chính là lúc các cơn đau thể xác bắt đầu ập đến, những cảm xúc mạnh mẽ trỗi dậy trong đêm tình mùa xuân cũng dần mất theo cơn say đang dần biến mất. Nhưng, đó lại chính là ngọn nguồn của ánh lửa yêu tự do, vẫn hàng ngày hàng giờ cháy âm ỉ trong lòng cô gái H’mông xinh đẹp ngày nào.
Nhà văn Tô Hoài đã rất thành công khi có những trang văn miêu tả chân thực, cảm động diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân. Cảm xúc và hành động của nhân vật đã dần bộc lộ cá tính và nét tính cách, sức sống tiềm tàng vẫn ẩn sâu trong người con gái ấy. Đó chính là minh chứng cho khát vọng sống, sức sống mạnh mẽ tiềm tàng biểu trưng cho những con người ý chí vùng cao Tây Bắc.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 30)
Tô Hoài một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Trước cách mạng, các sáng tác của ông nghiêng về mảng truyện loài vật và cuộc sống của những người dân nghèo. Sau cách mạng, các sáng tác của ông vẫn tiếp tục đi khai thác cuộc sống của người dân, song ông đi sâu vào quá trình đổi đời của họ, đi từ bóng tối ra ánh sáng. Nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ chính là nhân vật tiêu biểu cho quá trình vận động ấy. Quá trình vận động từ khổ đau đến hạnh phúc đó đã cho thấy sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật này.
Vợ chồng A Phủ ra đời khi Tô Hoài cùng đơn vị bộ đội tiến quân giải phóng Tây Bắc, có điều kiện tiếp xúc và tìm hiểu về số phận của người dân nơi đây trong một thời gian dài chính là chất xúc tác giúp ông viết nên tác phẩm này. Truyện này cũng được lấy nguyên mẫu từ cuộc đời của một đôi vợ chồng người Mông, bởi vậy câu chuyện đậm tính chân thực.
Mị là nhân vật trung tâm của tác phẩm, mở đầu là hình ảnh của một cô gái lầm lũi làm việc, công việc với cô như một thói quen, làm không cảm xúc, không ngừng nghỉ từ sáng đến đêm. Để rồi tiếp đó Tô Hoài mới ngược dòng thời gian, tái hiện lại chân dung của Mị trước đây. Mị vốn là một cô gái trẻ trung yêu đời và có tài năng. Vì xinh đẹp và có tài thổi sáo hay nên rất nhiều người con trai thổi sáo và đi theo Mị. Không chỉ vậy, Mị còn là cô gái yêu tự do và yêu lao động. Mối nợ truyền kiếp từ đời cha để lại, dẫn đến nguy cơ có phải trở thành con dâu gạt nợ, ngay lập tức Mị đã yêu cầu với cha không bán mình đi mà cô sẽ chăm chỉ làm việc để trả nợ dần. Mị hội tụ đầy đủ trong mình những yếu tố được hưởng một cuộc sống yên ấm, hạnh phúc. Nhưng thực tế trái ngang, nhiều bất công cô đã bị A Sử bắt đi và trở thành con dâu gạt nợ. Chính từ giây phút đó cuộc đời cô bước vào chuỗi ngày tăm tối, bi kịch. Mị phải làm việc bất kể ngày đêm, bị bóc lột đến tận xương tủy, công việc chất chồng khiến cô không có giờ phút nghỉ ngơi. Những tưởng rằng cô đã mất hết niềm tin vào cuộc sống khi bị bóc lột về thể xác, tra tấn về mặt tinh thần. Nhưng không, bản chất là một người con gái giàu sức sống, chỉ cần có chất xúc tác, niềm hi vọng ấy sẽ bùng lên mãnh liệt, và nó được Tô Hoài tái hiện đầy đủ qua hai lần: Đêm tình mùa xuân và Đêm đông cứu A Phủ.
Đêm tình mùa xuân là cuộc nổi dậy, là sự nổi loạn đầu tiên của Mị. Có rất nhiều nhân tố khác nhau tác động tới tâm lí cô, khiến cô thực hiện cuộc nổi loạn đầu tiên này. Trước hết là không khí mùa xuân tươi vui, rực rỡ, những chiếc váy mèo đầy màu sắc trải dài trên các triền nương, tiếng trẻ con vui đùa tíu tít ngoài sân. Mùa xuân gắn với sự sống, với tình yêu, với không khí mùa xuân đã phần nào tác động đến tâm lí của Mị. Nhưng không khí mùa xuân thôi chưa đủ, chất xúc tác tiếp theo chính là hơi men của rượu. Mị cũng uống rượu như bao người khác, nhưng không phải để mừng một năm mới đến mà uống ừng ực từng bát một, uống như để quên đi những cay đắng, nhọc nhằn, quên đi những khổ đau cả về thể xác và tinh thần mà mình phải chịu đựng. Rượu là chất xúc tác mạnh mẽ để Mị tiến hành cuộc nổi loạn, chối bỏ thực tại, tìm về với quá khứ. Nhưng quan trọng nhất là sự tác động của tiếng sáo. Tiếng sáo xuất hiện dần dần, tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi, tiếng sáo gọi bạn đến đầu làng khiến Mị nhớ về tiếng sáo của mình ngày trước – tiếng sáo gắn với quá khứ đẹp đẽ. Việc thu hẹp khoảng cách của tiếng sáo thực chất là quá trình chuyển hóa từ tiếng của của thiên nhiên, bên ngoài đến tiếng gọi trong tâm hồn Mị. Tiếng sáo là tác nhân quan trọng nhất làm bừng lên sức sống và khát vọng hạnh phúc của Mị trong đêm tình mùa xuân.
Sau khi nghe thấy tiếng sáo Mị chối bỏ thực tại, nhớ về quá khứ đẹp đẽ. Nhưng hiện thực cuộc sống phũ phàng, như một sợi dây vô hình trì níu, khiến cho Mị bất ngờ quay vào buồng, dường như trong cô vẫn chưa sẵn sàng cho cuộc vượt thoát này. Chỉ đến khi nhìn thấy ô cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng Mị mới thực sự thoát khỏi sự trì níu của thực tại. Cô thấy lòng mình phơi phới trở lại, cô muốn đi chơi, muốn được giao tiếp với mọi người. Đồng thời cô cũng mong giá mà có nắm lá ngón lúc này, cô sẽ ăn để chết chứ không thể tiếp tục cuộc sống này nữa. Và đúng lúc ấy, tiếng sáo lại một lần nữa xuất hiện đầy hữu ý, tiếng sáo khiến sự nổi loạn của Mị bật thành hành động: cô muốn đi chơi, lấy mỡ thắp đèn cho sáng và cô lấy váy để chuẩn bị đi chơi. Tất cả những hành động đó đã cho thấy một trái tim khát khao sống mãnh liệt. Tuy nhiên tất cả đã bị chặn đứng bởi hành động độc ác của A Sử, hắn trói đứng Mị vào cột. Nhưng A Sử chỉ trói được thể xác chứ không thể trói được tâm hồn Mị, tâm hồn cô đã vượt thoát thực tại thành công.
Sau cuộc nổi loạn không thành ở đêm tình mùa xuân, Mị tiếp tục rơi vào trạng thái tê liệt, tiếp tục cuộc sống “lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Nhưng với sự xuất hiện của A Phủ, cùng sự việc A Phủ bị trói đứng chờ chết đã thức tỉnh trong Mị tình yêu thương và khát khao sống. Hằng đêm Mị vẫn ra bếp lửa hong tay, cô chẳng mảy may để ý đến A Phủ, nhưng đêm ấy lại là một đêm rất khác, cô nhìn thấy giọt nước mắt lăn dài trên hốc mắt sâu hoắm. Giọt nước mắt đó đã tác động mạnh mẽ đến cô, để Mị nhớ rằng trước đây mình cũng từng bị trói đứng, cũng từng khóc như vậy nhưng không một ai để ý. Giọt nước mắt ấy cũng dấy lên trong cô lòng thương cảm, xót xa “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết” “người kia việc gì mà phải chết thế”. Cùng với lòng thương cảm là sự căm phẫn, khi Mị đã nhận ra sự độc ác của gia đình thống lí. Mị đã thoát khỏi tình trạng mơ hồ trong việc nhận thức kẻ thù, đây chính là bước đầu tiên nhóm lên trong Mị ý thức phản kháng, vùng lên đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác.
Bằng sự bao dung, vị tha, Mị tự thấy “Ta là phận đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi” chính vì vậy đã đưa Mị đến một quyết định cao cả, Mị lấy dao cởi trói cho A Phủ. Hành động diễn ra nhanh chóng, nhưng lại hết sức logic, hợp lí, bởi đó là hành động của tình yêu thương, sẵn sàng hi sinh cho người khác. Cứu A Phủ xong, Tô Hoài rất tinh tế khi miêu tả Mị đứng lặng trong bóng tối vì những hành động mình vừa thực hiện. Sau cuộc nổi loại này, cô tiếp tục thực hiện cuộc nổi loại thứ hai để tự cứu chính mình: “A Phủ cho tôi đi” “Ở đây thì chết mình” đầy bản lĩnh và chủ động, Mị đã tự cứu lấy chính mình. Tiếng gọi của Mị với A Phủ không đơn thuần chỉ là sự giao tiếp mà còn là tiếng gọi của tự do, tiếng gọi của hạnh phúc. Hai con người khốn khổ ấy đã cùng nhau bỏ trốn để xây dựng một cuộc sống mới, cuộc sống tự do, hạnh phúc.
Những hành động bất ngờ, quyết liệt cho thấy Mị đã cắt đứt sợi dây trói hữu hình đang giam cầm A Phủ để giải cứu cho đồng loại, đồng thời cũng cắt đứt sợi dây vô hình của thần quyền để giải phóng cho chính mình. Nếu như đêm tình mùa xuân gắn với khát vọng hạnh phúc, thì đêm đông cứu A Phủ lại gắn liền với khát vọng tự do trong Mị – một con người tưởng như đã bị nô lệ hóa hoàn toàn.
Bằng ngòi bút tinh vi, miêu tả những biến chuyển tâm lí nhân vật đã cho nghệ thuật thuật miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy của Tô Hoài. Đồng thời hai lần trỗi dậy đó cũng cho thấy sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. Qua đó còn cho thấy nét mới trong chủ nghĩa nhân đạo của Tô Hoài, ông phát hiện, trân trọng vẻ đẹp sức mạnh tiềm tàng, mãnh liệt trong những con người khốn khổ. Đồng thời thể hiện niềm tin, sự lạc quan vào tương lai tươi sáng cho những con người có số phận bất hạnh.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (mẫu 31)
Nếu những nhà văn hiện thực phê phán chỉ thấy con người là nạn hân bất lực của hoàn cảnh thì các nhà văn cách mạng bao giờ cũng phát thiện hiện ra sức manh phúc sinh trong tâm hồn của những con người cùng khổ. Là cây bút xuất sắc trong dòng văn học cách mạng Việt Nam, chẳng những rất thành công khi diễn tả cái chết dần chết mòn của Mị – một cô gái tràn đầy sức sống mà còn rất tinh tế khi khám phá quá trình hối din của Mị. Nếu như có một hoàn cảnh làm tê liệt bóp chết sức sống của Mị thì tất cũng có một hoàn cảnh giúp Mị hối sinh. Và hoàn cảnh đó chính là đêm tình mùa xuân quyến rũ.
Ở vùng rẻo cao Hồng Ngài không gì vui bòng Tết đến, xuân về. Năm nay Hồng Ngài đón một cái tết đặc biệt. Đúng lúc gió và rét rất dữ dội thế nhưng, bất chấp cái khắc nghiệt của thời tiết, không khí đón Tết vui xuân của Hồng Ngài vẫn rất náo nức tưng bừng. Tiếng cười nói rộn vang. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng sáo rủ bạn đi chơi. Không khí tưng bừng, náo nức ấy đã vọng vào tâm hồn Mị, khiến tâm hồn Mị thức tỉnh hồi sinh.
Mày có con trai con gái rồiMày đi làm nươngTao không có con trái con gáiTao di tìm người yêu
Lời của tiếng sáo thật giản dị mộc mạc, nhưng nó chứa chan niềm vui niềm tự do, khát vọng yêu đương, hạnh phúc. Khúc ca say mê náo nức của mùa xuân tuổi trẻ đã vọng vào cõi sâu thẳm trong lòng Mị thiết tha đã đánh thức cõi lòng câm lặng bấy lâu của Mị, tiếng sáo ấy khơi dậy sức sống tiềm tàng trong con tim Mị. . Ý thức về quyền làm người trỗi dậy, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Cách uống rượu của Mị thật lạ. Mị uống lấy được, uống như chưa bao giờ được uống, uống cho bõ hờn, bõ tức. Uống để cuốn phăng đi bao cay đắng tủi nhục của quãng đời đã qua. Uống cho thỏa khát khao say mê, phía trước. Men rượu nồng nàn tiếng sao tha thiết đã nhấc bổng Mị thoát khỏi thực tại, dìu Mị trở về miền quá khứ đẹp tươi với bao khát khao nồng cháy. Mị say, cứ lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người hát trong lòng Mị đang sống về ngày trước. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi … có biết bao nhiêu người mê. Ngày trước Mị trẻ trung yêu đời, ngày trước Mị đã từng yêu và được yêu. Sống với ngày trước, lòng Mị bỗng phơi phới trở lại đột nhiên vui sướng, hạnh phúc. Những kí ức hạnh phúc đã thôi thúc Mị nổi loạn. Bắt đầu là sự nổi loạn trong ý nghĩ. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng ngày Tết cũng đi chơi. Huống chi Mị với A Sử không có lòng với nhau, vậy mà vẫn phải ở với nhau. Lần đầu tiên, sau chuỗi ngày dài dằng dặc, sống cam chịu, nhấn nhục với kiếp ngựa trâu như con rùa nuôi trong xó tối, Mị dám chối bỏ ràng buộc duyên pohận với A Sử để thành người tự do. Đắm chìm trong miền kí ức say mê, trong những khát khao nồng cháy dường như Mị đã quên cả thực tại. Rượu đã tan lúc nào. Người về đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Cõi mộng, cõi mơ miền thương nẻo nhớ đang gọi Mị.
Mãi sao, Mị mới bừng tỉnh. Mị đứng dậy nhưng không bước ra đường chơi nữa mà từ từ bước vào buồng. Ý nghĩ muốn đi chơi đã lóe lên trong đầu Mị nhưng nó chưa đủ mạnh để dứt Mị ra khỏi thế giới ngục tù. Phản ứng nổi loạn ở Mị cần thêm thời gian và chất xúc tác. Bước vào buồn, ngòi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, mờ mờ trăng trắng. Bao cay đắng tủi nhục của kiếp nô lệ trung thân bỗng dội về, dày vò cõi lòng Mị tan nát, ứ máu đầy bi kịch. Và Mị bỗng nảy ra ý nghĩ thật lạ lùng, đột biến mà mang tinh tất yếu : Mị muốn tự tử : nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt úa ra. Cứ nghĩ Mị sẽ tự tử ngay nhưng đúng lúc ý nghĩ muốn chết trỗi dậy thì tiếng sao gọi bạn yêu lơ lửng bay ngoài đường lại một lần nữa vang vọng vào tâm hồn Mị. Khúc ca yêu nồng nàn ấy đã dập tắt ý nghĩ muốn chết nhưng cũng không thể sống lùi lũi như con rùa nuôi trong xó tối nữa. Mị phải sống trong vùng trời tươi sáng, ngập tràn ánh nắng tự do, hạnh phúc. Và chính ý nghĩ ấy đã thôi thúc Mị có hành động nổi loạn, táo bạo, quyết liệt từng có. Mị đến góc nhà lấy ống mỡ sắn một miếng bỏ vào thêm đĩa đèn cho sáng. Tại sao Mị phải thắp đèn ? Phải chăng, Mị không cam chịu sống trong xó tối nữa ? Mị muốn phá tan màn đêm âm u, mù tối nơi đại ngục trần gian này. Mị muốn thắp ssáng cho tương lai của mình. Ngọn lửa trên đĩa đèn hay ngọn lửa trong lòng Mị đang rừng rực cháy. Thắp đèn xong, Mị cuốn lại tóc, với tay lấy cái váy và rút thêm cái áo. Bất chấp mọi luật lệ của nhà thống lí, Mị hành động như một người hoàn toàn tự do
Những khát vọng cháy bỏng của Mị vừa bùng lên thì đã bị vùi dập một cách thô bạo tàn nhẫn. A Sử trói đứng Mị vào cột bằng cả một thúng sợi đay tàn nhẫn. Tóc Mị xõa xuống, A Sử cuốn luôn tóc lên cột làm cho Mị không cúi không nghiêng được nữa. Rồi A Sử tắt đèn đóng cửa lại. Tại sao A Sử phải trói Mị như thê ? Có phải đó là thói quen tàn bạo của A Sử hay chính A Sử cũng giật mình hoảng sợ trước hành động nổi loạn táo bạo của Mị ? Hắn phải dùng mọi vũ lực thô bạo nhất để dập tắt tinh thần phản kháng mạnh mẽ của Mị. Tuy nhiên những cánh cửa buồng khép chặt, những làn dây chói chặt không sao chói được tâm hồn Mị. Bóng ma của buồng gian cũng không sao dập tắt được ngọn lửa cháy sáng trong tim Mị. Mọi vũ lực bạo tàn của A Sử đều trở nên vô nghĩa. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo cuộc chơi, những đám chơi. Mị khe khẽ hát, tiếng hát cất lên từ trái tim sôi nổi, nồng nàn. Rồi Mị vùng bước đi, mạnh mẽ, quyết liệt, sức sống tiềm tàng, khát vọng tự do đã trỗi dậy mãnh liệt. Sức sống ấy cứ trào ra ngoài ra sợi dây trói.
Nhưng rồi Mị chợt bừng tỉnh, những làn dây chói cứa vào ra thịt đau dứt, xót xa, đau đớn đến tê tái. Tiếng sáo tha thiết, dìu dặt tắt lịm, chỉ còn tiếng chân ngựa đạp vách nhức nhối ai oán. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con nghựa. Cả đêm ấy, Mị lúc mê, lúc tỉnh, lúc đớn đau, quặn thắt trước thực tại thê thảm, khốn cùng, lúc lại cồn cào, tha thiết nhớ. Quá khứ, thực tại, hạnh phúc, khổ đau cứ giằng xé trong trái tim Mị. Ngòi bút Tô Hoài thật tinh tế tài hoa khi lách vào cõi sâu tâm tư của Mị khiến Mị trở thành ‘thật hơn con người thật’.
Mùa xuân rồi cũng qua đi nhưng sức sống tiềm tàng trong Mị đã được khơi dậy và chờ dịp bùng lên. Với nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật tinh tế Tô Hoài đã đem đến cho nhân vật một hướng đi, một cuộc đời mới. Đó cũng chính là giá trị nhân văn cao đẹp của tác phẩm. Đồng thời cũng cho thấy tài năng của Tô Hoài cùng những đóng góp của ông cho văn học Việt Nam.
Cảm nhận về nhân vật A Phủ
Phân tích truyện ngắn Vợ nhặt
Phân tích nhân vật Tràng
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ
Phân tích nhân vật Tràng sáng hôm sau
Hy vọng nội dung bài học
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (30 mẫu) hay nhất
sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em hoàn thành tốt bài tập của mình.
Đăng bởi: Trường THCS Bình Chánh
Chuyên mục: Tài Liệu Học Tập