Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh lớp 9 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 20 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.
Đề bài: Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh
Dàn ý Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh chi tiết
1. Mở bài
Bạn đang xem: Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh hay nhất (20 bài mẫu)
- Giới thiệu về tác phẩm “Vũ Trung tùy bút”
- Giới thiệu đoạn trích “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh”.
2. Thân bài
– Thói ăn chơi hưởng lạc xa hoa, vô độ của chúa Trịnh Sâm
Chúa cho xây dựng nhiều đình đài, cung điện ở nhiều nơi “phủ Tây Hồ, núi Dũng Thúy, núi Trầm” chỉ để thỏa thú vui chơi, đèn đuốc.
→ Sư xây dựng vì mục đích cá nhân này gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của nhân dân.
- Thường xuyên tổ chức những cuộc vui chơi ở bờ Tây Hồ “mỗi tháng ba bốn lần” -> huy động nhiều người, binh lính, nhạc công dàn quanh, bày trò “mua bán như ở trong chợ”–> Lố lăng, giả dối, tốn kém.
- Thu vén hết những loài “trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch” trong dân gian để làm đẹp cho phủ chúa.
- Vì công việc thu vén ấy mà điều động nhiều người, “cả một cơ bình” → Tốn kém, kì công→ Phạm Đình Hổ đã ghi chép tỉ mỉ, chân thực về thú ăn chơi của chúa Trịnh Sâm mà không một lời bình
- Sự ăn chơi ấy báo hiệu cho sự sụp đổ của vương triều.
– Sự nhũng nhiễu của đám quan lại dưới quyền
- Sự ăn chơi, hưởng lạc, thú vui của vua chúa đưa đến một đám những kẻ nịnh bợ, nhũng nhiễu dân chúng.
- Mượn cớ “phụng thủ”, bày trò cướp trắng trợn những “chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay” trong dân gian.
Bày trò dọa nạy, “nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm” - Sai tay chân cướp cây cảnh, hoặc phá tường nhà người ta mang đi, hoặc sai người “cắt phăng” để dàn cảnh đòi tiền.
→ Tìm các loại báu vật dâng chúa nhưng thực chất là vơ vét của dân làm của riêng.
Tác giả kể câu chuyện của nhà mình (cây lê cao vài mươi trượng, nở hoa trắng xóa thơm lừng, hai cây lựu trắng đỏ) phải chặt đi vì sự bọn quan lại nhũng nhiễu.
→ Bộc lộ kín đáo sự phê bình, phê phán của tác giả với thói ăn chơi của vua chúa. Đồng thời cảm thông với những người dân trong xã hội.
3. Kết bài
- Nghệ thuật: Lối ghi chép chân thực, cụ thể, sống động.
- Miêu tả chân thực cuộc sống xa hoa của vua chúa và thói nhũng loạn của quan lại
- Bộc lộ kín đáo cảm xúc của mình.
- Đoạn trích mang giá trị nghệ thuật, hiện thực sâu sắc.
20 bài mẫu Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh hay nhất
Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh- Mẫu 1
Cùng với “Hoàng Lê nhất thống chí” của nhóm tác giả Ngô gia văn phái và “Thượng kinh kí sự” của Lê Hữu Trác, “Vũ Trung tùy bút” của Phạm Đình Hổ là thiên kí tiêu biểu xuất sắc trong mảng văn xuôi giàu giá trị hiện thực của nền văn học trung đại Việt Nam, ở thế kỉ XVIII. Dưới con mắt tinh anh của người viết sử, Phạm Đình Hổ đã ghi chép thật chi tiết, khách quan, chân thực về đời sống xã hội thời kì bấy giờ trên rất nhiều phương diện: nghi lễ, phong tục, tập quán… Trong đó, tiêu biểu có đoạn trích “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh”, tác giả đã ghi chép lại những điều mắt thấy tai nghe về đời sống xa hoa của vua chúa và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại thời Lê – Trịnh. Qua đó, phản ánh một xã hội thối nát, gián tiếp thể hiện thái độ lên án vua chúa quan lại Lê – Trịnh và bộc lộ niềm thương cảm với cuộc sống của nhân dân thời kì bấy giờ.
Tiếp đến, nhà văn chỉ ra nỗi thống khổ của nhân dân trước sự tham lam nhũng nhiễu của vua chúa quan lại Lê – Trịnh. Tác giả đã dẫn ra những chi tiết sự việc vô cùng chân thực, kèm theo những bình phẩm, đánh giá để làm nổi bật lên sự yếu hèn, nhu nhược, tham lam, ích kỉ của vua chúa quan lại, khi chúng dựa vào quyền thế để tìm và cướp lấy những vật quí báu trong thiên hạ. Đối với chúa: trong mỗi lần dạo chơi li cung, bao nhiêu trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian, chúa đều ra sức thu lấy, không thiếu thứ gì. Có khi lấy cả cây đa cổ thụ, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về, “phải một cơ bình mới khiêng nổi”. Trong phủ chúa bày vẽ, trang trí đủ loại “hình núi non bộ trông như bến bể đầu non”. Đặc biệt là cảnh đêm nơi vườn chúa ngự: “Mỗi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu, vượn hót ran khắp bốn bể, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất thường”. Câu văn không chỉ đơn thuần là cảnh thực, tả khung cảnh tự nhiên trong phủ chúa mà ẩn sau đó chính là “triệu bất thường”. Nhà văn đã dự báo về cái điềm chẳng lành của triều đại Lê – Trịnh tất sẽ bại vong, suy tàn. Và như một lẽ tất yếu của lịch sử, mọi sự việc đi ngược lại với lợi ích của nhân dân thì tất yếu sẽ bị đào thải. Đó là vào năm 1782, chúa Trịnh Sâm qua đời, nội bộ lục đục, binh biến nổ ra, kinh thành Thăng Long bị đốt phá hoang tàn. Vua Quang Trung – Nguyễn Huệ đã dẫn quân ra Bắc chinh phạt, cơ nghiệp của triều đại Lê-Trịnh sụp đổ hoàn toàn.
Còn đối với quan lại trong phủ chúa, bọn chúng thường “mượn gió bẻ măng”, dựa vào quyền thế của chúa mà cướp đoạt, nhũng nhiễu, vơ vét của dân bằng những thủ đoạn tráo trở, vừa ăn cắp lại vừa la làng. Chúng dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khiếu hay thì biên ngay vào hai chữ “phụng thủ”. Đêm đến thì trèo tường vào nhà dân lấy phăng đi, rồi vu vạ buộc cho tội giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền. Thậm chí, có hòn đá hay cây cối gì to quá, bọn chúng còn phá nhà hủy tường của người dân để mà khiêng ra cho bằng được. Nhà giàu thì bị họ vu vạ cho là giấu vật cung phụng, thường phải bỏ tiền bỏ của ra mà kêu van chí chết, có khi phải tự tay đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để khỏi bị tai bay vạ gió.
Đoạn văn cuối, tác giả kể lại sự việc xảy ra chính trong gia đình của mình: Mẹ của tác giả vì sợ hãi, muốn tránh sự phiền hà của quan lại mà đành phải tự chặt đi cây lê và hai cây lựu quí trong vườn nhà mình. Chi tiết này có tác dụng làm tăng tính xác thực, sinh động, thuyết phục. Đồng thời gián tiếp thể hiện thái độ phê phán, bất bình trước cuộc sống xa hoa, hưởng lạc và bản chất yếu hèn, nhu nhược và tham lam, độc ác của vua chúa quan lại Lê Trịnh nửa cuối thế kỉ XVIII.
Tóm lại, “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” là một tác phẩm độc đáo, có giá trị đặc biệt quan trọng. Các sự việc được tác giả đưa ra cụ thể, chân thực (có thời gian, địa điểm rõ ràng), miêu tả tỉ mỉ, chi tiết và có kèm theo những lời bình, cảm xúc, thái độ phê phán. Tất cả đều có giá trị phản ánh khách quan bản chất hiện thực xã hội đương thời. Vì thế, chuyện không chỉ có giá trị văn học mà còn là tư liệu lịch sử quí giá. Đồng thời, qua tác phẩm, người đọc cũng thấy được công lao đóng góp của Phạm Đình Hổ đối với thể loại tùy bút, bước đầu chỉ ra những đặc điểm của thể loại này: ghi chép sự việc cụ thể, chân thực, sinh động.
Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh- Mẫu 2
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh được trích từ Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ. Tác phẩm đã ghi lại một cách chân thực bức tranh trong phủ chúa Trịnh Sâm với thói ăn chơi xa xỉ, vô độ; sự hống hách ngang ngược của bọn quan lại, đồng thời cho thấy cuộc sống khốn khổ của nhân dân.
Trước hết tác giả phác họa bức tranh ăn chơi xa xỉ trong phủ chúa Trịnh và các quan lại hầu cận. Để chứng minh thói ăn chơi vô độ của chúa Trịnh Sâm, Phạm Đình Hổ đã liệt kê trên nhiều phương diện. Trước hết, chúa cho xây dựng nhiều đền đài, cung điện để thỏa mãn thú “đi chơi ngắm cảnh đẹp”, việc xây dựng triền miên hết năm này qua năm khác, không chỉ hao tiền tốn của mà còn bòn rút hết sức lực của người dân, khiến cuộc sống của họ cùng cực, đói khổ. Không chỉ vậy, chúa Trịnh còn thường rong chơi, trong một tháng dạo chơi trên hồ đến ba bốn lần. Những cuộc dạo chơi đó còn phải huy động rất nhiều người hầu, kẻ hạ “binh lính dân hầu vòng quanh bốn mặt hồ” sẵn sàng thực hiện mệnh lệnh của chúa. Chúa Trịnh còn bày ra nhiều trò giải trí lố lăng, tốn kém tiền bạc như cho các nội thần ăn mặc giả đàn bà bày hàng bán quanh hồ, thuyền ngự dạo trên hồ, thỉnh thoảng lại ghé vào mua bán. Thực là một cảnh lố lăng, kệch cỡm chưa từng có trong lịch sử nước nhà. Đến sự việc thứ ba thì càng đáng trách hơn nữa, không chỉ bày ra những trò chơi kệch cỡm, phủ chúa còn ngang nhiên cướp đoạt trắng trợn những “loài trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh” trong dân gian mang về phủ chúa. Để làm rõ hơn điều đó, tác giả lấy dẫn chứng hết sức chân thực về việc di chuyển một cây cổ thụ: “cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ bình mới khiêng nổi” ấy vậy mà phủ chúa nhất quyết phải đem cho được cây cổ thụ ấy về. Những việc làm, hành động đó càng cho thấy rõ hơn sự ngang ngược, lộng hành của chúa Trịnh Sâm. Cuối đoạn văn, tác giả đã khẳng định: “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu, vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất thường”. Đây là những suy nghĩ, cảm nhận được nhà văn trực tiếp bộc lộ. Suốt cả đoạn văn phía trước ông chỉ kể lại, trần thuật lại bằng giọng đều đều bình bình, không nhấn nhá, không cảm xúc, nhưng đến đây ông cũng phải cất lên tiếng thở dài não nùng. Những kẻ thức giả, có hiểu biết sẽ nhận ra rằng đây là những dấu hiệu bất thường, báo hiệu sự suy yếu tất dẫn đến bại vong của một triều đại. Triều đại chỉ lo ăn chơi, hưởng lạc, chà đạp lên đời sống người dân ắt sẽ sụp đổ.
Người xưa vẫn thường nói rằng: “Thượng bất chính , hạ tắc loạn” tức để nói nếu bề trên làm việc không nghiêm túc, làm những điều sai trái thì tất yếu kẻ bề dưới cũng vì thế mà làm theo. Trong phủ chúa Trịnh, mọi việc đã diễn ra đúng như vậy. Chúa Trịnh tham lam, chỉ lo hưởng lạc nên tất yếu sinh ra những kẻ hầu cận, quan cấp dưới ỷ thế mà ức hiếp dân lành, chúng dùng nhiều thủ đoạn để nhũng nhiễu, vơ vét của nhân dân. Bọn hoạn quan bày trò cướp đoạt, vu cáo, phá hoại tài sản của người dân trắng trợn. Chúng “dò xem” nhà nào có vật quý thì biên ngay vào hai chữ “phụng thủ”. Ở đoạn văn này tác giả sử dụng hàng loạt động từ, kết hợp với miêu tả cho thấy sự ngang ngược, bất nhân của chúng: “trèo qua tường thành lẻn ra” “lấy phăng đi” “buộc tội”,… đó là hành động của kẻ cướp, chúng vừa ăn cắp, vừa la làng. Những người bị vu vạ phải chạy vạy tiền của hoặc tự tay phá đi “núi non bộ” “cây cảnh” để không rước tai vạ vào thân. Người dân phải chịu biết bao bất công, phi lí. Để làm cho đoạn văn tăng tính xác thực, Phạm Đình Hổ kể một chuyện xảy ra với chính gia đình mình. Gia đình nhà ông có cây lê cao lớn, đẹp đẽ, lúc hoa nở trắng xóa, thơm lừng; ngoài ra còn có trồng hai cây lựu trắng và lựa đỏ lúc ra quả rất đẹp nhưng bà cung nhân cũng phải sai chặt đi. Đoạn văn cuối tác phẩm đã góp phần tố cáo, tăng ý nghĩa phê phán với bọn quan lại lúc bấy giờ.
Tác phẩm không chỉ hấp dẫn ở nội dung đặc sắc mà còn gây hứng thú cho bạn đọc ở ngòi bút tài hoa. Phạm Đình Hổ đã ghi chép một cách chân thực những gì mình đã chứng kiến. Ngôn ngữ, giọng điệu tự nhiên, trôi chảy, không bị gò bó bởi cốt truyện. Kết hợp hài hòa giữa kể và tả vạch trần bộ mặt xấu xa, độc ác, bất nhân của chúa Trịnh và bè lũ tay sai.
Với thể tùy bút linh hoạt, phóng khoáng Phạm Đình Hổ đã ghi lại một cách chân thực, sinh động khung cảnh sinh hoạt sa đọa, lối sống xa hoa, vô độ trong phủ chúa và sự lộng hành, nhũng nhiễu của bọn quan lại dưới quyền. Đằng sau bức tranh đó còn cho thấy đời sống khổ cực, bị đè nén, áp bức của nhân dân.
Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh- Mẫu 3
“Vũ Trung tùy bút” là tác phẩm gồm tám mươi tám mẩu chuyện nhỏ, được ghi chép tùy hứng, tản mạn bàn về lễ nghi phong tục, … hay về những việc xảy ra ở xã hội những năm đầu thời Nguyễn của tác giả Phạm Đình Hổ. Trong đó, “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” là đoạn trích được trích ra từ tập sách chữ Hán này. Đoạn trích tuy ngắn gọn nhưng đã ghi chép thật chân thực, cụ thể, sinh động những thú vui xa hoa, hưởng thụ của vua chúa, cùng với đó là sự nhũng nhiễu của bọn quan lại dưới thời Lê – Trịnh. Đồng thời, thông qua đó, ông muốn lên án, tố cáo một xã hội thối nát từ tận cùng, khiến cho dân chúng không thể yên ổn.
Mở đầu đoạn trích, bằng ngòi bút chân thực, không câu nệ của Phạm Đình Hổ, người đọc chúng ta được chứng kiến một cuộc sống ăn chơi với những thú vui chơi xa xỉ của chúa Trịnh Sâm cùng với bọn quan hầu cận. Vốn là một vị chúa, Trịnh Sâm phải quan tâm đến triều đình, giải quyết các quyết sách cùng nhà vua. Nhưng không, Trịnh Sâm không hề quan tâm đến việc triều chính, hắn chỉ lo hưởng thụ cuộc sống xa hoa, lãng phí. Chúa Trịnh cho xây dựng đền đài, cung điện bên bờ Tây Hồ để phục vụ mỗi lần vua ra chơi. Cái việc “xây dựng đình đài”, cung điện liên miên ấy chỉ để thỏa mãn cái thú chơi đèn đuốc, “đi chơi ngắm cảnh đẹp” của chúa. Không chỉ ở Tây Hồ, chúa còn cho xây dựng ở nhiều nơi chúa thường lui tới như núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy. Đi tới đâu cũng kéo theo việc xây dựng đình đàm gây hao tốn công sức và tiền của của người dân nghèo.
Ở đây, Phạm Đình Hổ đặc biệt miêu tả lại một cuộc dạo chơi của chúa ở phủ Tây Hồ. Khi chúa đến phủ Tây Hồ để thăm thú, chúa Trịnh Sâm thường “ngự ở li cung”, binh lính thì “dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ”, các quan lại, nội thần thì “đều bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hóa quanh hồ bán”. Lúc thuyền chúa ngự tới đâu, lại có những kẻ đại thần ghé vào hàng quán ấy mua đồ “như ở cửa hàng trong chợ. Ở “gác chuông chùa Trấn Quốc hay dưới bóng cây bến đá nào đó”, bọn nhạc công phải ngồi tấu nhạc mua vui. Phải nói, cuộc vui chơi ấy thật giả dối và lố lăng hết sức. Vậy mà mỗi tháng, nó diễn ra tới tận “ba bốn lần”. Thật tốn kém tiền của đến vô cùng!
Ngòi bút khách quan, chân thực của Phạm Đình Hổ đã cho chúng ta thấy một bức tranh về cuộc sống ăn chơi, hưởng lạc đầy giả dối, nực cười, lố lăng của vua chúa và quan lại thời Lê – Trịnh. Những thú chơi tiêu khiển ấy không chỉ khiến người khác cảm thấy lố lăng mà còn làm hao tốn tiền của, công sức của những người dân lao động trong xã hội lúc bấy giờ nữa. Thông qua những ghi chép cụ thể này, Phạm Đình Hổ âm thầm tố cáo xã hội, vua chúa cùng tầng lớp quan lại chỉ biết hưởng thụ cuộc sống xa hoa mà không quan tâm gì đến dân chúng cũng như các vấn đề của xã hội thời bấy giờ.
Không chỉ có thú hưởng lạc giả dối, lố lăng, khác người, chúa Trịnh Sâm và bọn quan lại còn có thú chơi cây cảnh cũng thật dị thường. Khắp cung vua, “bao nhiêu loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu cây hoa cảnh chốn nhân gian” đều có, nhưng đều là những đồ vật bị vua “thu lấy”, đoạt lấy một cách hết sức trắng trợn. Bằng những từ ngữ sống động, Phạm Đình Hổ cũng khắc họa lại công cuộc đem một cây đa to nhiều cành lá về tô điểm cho cung vua. Nào là phải có “một cơ binh mới khiêng nổi”, nào là “bốn người đi kém, đều cầm gươm, đánh thanh la, đốc thúc quân lính khiêng cho đều tay”. Chỉ một thú chơi thôi mà phải huy động tới một cơ binh hàng trăm người để mang về cho phủ chúa. Thú chơi ấy thật mất nhiều công sức, thời gian và tiền bạc.
Chưa kể, trong phủ, bốn bề đều “điểm xuyết bày vẽ hình non bộ, trông như bến bể đầu non”, rồi những loài chim, loài vượn, đều được phủ chúa hết sức thu về, bày vẽ trong đó, khiến cho phủ lúc nào cũng ồn ào như “trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn”. Đây cũng là một sự bộc lộ cảm xúc rất kín đáo, tế nhị của Phạm Đình Hổ về thú chơi trong phủ chúa. Ông cảm thấy dù trong phủ chúa có thật nhiều chim muông, thú lạ, cây cảnh đẹp, nhưng lại vang lên những tiếng kêu thật như tiếng “tan đàn”, “mưa sa bão táp”, đều là những điều không may. Bởi tiếng kêu của chim, tiếng hú của vượn, phải chăng là tiếng than của muôn loài đang bị nhốt trong lồng cũi, là tiếng của thiên nhiên, vạn vật đang giận dữ kêu than? Đó như là lời dự đoán về sự sụp đổ của một triều đại đã thối nát từ tận xương tủy, chỉ biết ăn chơi, biết hưởng lạc, sa đọa trên mồ hôi, công sức, máu thịt của nhân dân!
Phạm Đình Hổ không chỉ để ý ghi chép về thói ăn chơi vô độ, nhố nhăng của vua tôi Trịnh Sâm mà còn để ý ghi chép cả thói nhũng nhiễu của những kẻ làm quan dưới trướng Trịnh Sâm nữa. Đó là những kẻ nổi lên, được trọng dụng bởi thói nịnh nọt, là tay sai đắc lực trong công cuộc hưởng lạc của vua. Chính thói ăn chơi, hưởng lạc ấy của chúa Trịnh đã tạo ra đám tham quan với thói nịnh bợ, nhũng nhiều. Điển hình, để lấy được những vật quý báu của dân chúng trong dân gian “chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay”, chúng bày trò, “nhờ gió bẻ măng”, biên hai chữ “phụng thủ” để mà cướp đi một cách trắng trợn. Không chỉ thế, chúng còn lẻn vào nhà người ta, “cắt phăng” những cây cảnh, chậu hoa ấy rồi giá họa, bắt dân chúng bỏ của ra mà kêu để không bị buộc tội. Với những cây cối to lớn, bọn quan lại còn sai người phá hủy tường để khiêng ra, gây tổn thất với tiền của của người dân. Thế nhưng, chúng ỷ thế giúp vua bày những trò sa hoa, được vua chúa hậu thuẫn nên càng tác quái, hoành hành hơn nữa. Chúng mượn cớ đi tìm vật báu dâng lên vua, nhưng thực chất đang vơ vét tiền của của dân chúng để làm của riêng, vậy nên mới bày trò để những nhà giàu phải “bỏ của ra kêu oan” hay phải tự tay đập bỏ núi non bộ, phá hủy cây cảnh.
Để chính minh cho tính chân thực của câu chuyện, tác giả còn kể lại câu chuyện của chính gia đình mình. Vốn nhà Phạm Đình Hổ ở Hà Khẩu, Thọ Xương có cây lê “cao vài mươi trượng, lúc nở hoa, trắng xóa thơm lưng”, rồi có trồng hai cây lựu trắng và đỏ rất đẹp, nhưng vì sợ thói nhũng nhiều của bọn quan lại dưới trướng chúa Trịnh mà “bà cung nhân” nhà ông phải sai người chặt đi để tránh bị bọn chúng quấy nhiều.
Bằng những câu chứ chân thực, cụ thể mà sống động, Phạm Đình Hổ qua đó, kín đáo bộc lộ thái độ phê phán, phê bình thói ăn chơi hưởng lạc của vua chúa, dẫn đến sự nhũng loạn của đám quan lại dưới quyền. Ông cũng bày tỏ sự cảm thông sâu sắc với những số phận con người bị áp bức dưới triều đại phong kiến này.
Với lối ghi chép rất chân thực của mình, “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” của Phạm Đình Hổ đã phơi bày cuộc sống xa hoa với những thú chơi rất giả dối, lố lăng cùng thói nhũng nhiễu dân chúng của vua chúa và quan lại dưới thời vua Lê chúa Trịnh. Không chỉ vậy, ông còn ngầm gửi vào đó sự phê phán về xã hội đương thời thối nát và đứng về phía những người dân bị áp bức. Đoạn trích vừa giàu tính hiện thực, sinh động với những sự việc người thật việc thật, vừa giàu giá trị nghệ thuật.
Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh- Mẫu 4
Phạm Đình Hổ (1768 – 1839), quê ở tỉnh Hải Dương. Ông sinh ra trong một gia đình làm quan cuối thời Lê – Trịnh. Phạm Đình Hổ là người rất tài giỏi. Điều này được minh chứng rất rõ khi ông còn rất nhỏ, khi còn đi học. Ông sáng tác rất nhiều văn thơ chữ Hán có giá trị về nhiều mặt. Nổi bật nhất phải kể đến tác phẩm “Vũ trung tùy bút”, đây là tác phẩm gắn liền với tên tuổi của Phạm Đình Hổ. Trong đó, Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là một trang tùy bút nổi bật trong tác phẩm.
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh được viết dựa vào câu chuyện khoảng năm Giáp Ngọ – Ất Mùi. Đó là những ngày tháng nhung lụa của chúa Trịnh Sâm. Trịnh Sâm sống trong xa hoa, quyền quý với những thú vui sa đọa. Điều này được thể hiện rõ qua những chi tiết như Chúa thích đi chơi ngắm cảnh đẹp, tháng ba bốn lần. Việc đón tiếp Chúa cũng phải linh đình long trọng không thua kém bất kì lễ hội nào. Thuyền Chúa dừng lại đâu thì các quan lại ghé vào bờ mua bán tấp nập. Chùa Trấn Quốc đã trở thành nơi hòa tấu nhạc, mua vui của lũ nhạc công ở cung đình. Đình, điện được xây dựng, trùng tu để thỏa mãn cuộc sống ăn chơi trác táng của vua chúa cũng như bọn quan lại Lê – Trịnh. Tất cả kinh tế, tiền của của nhân dân đều phục vụ cho mục đích đó của chúng.
Sống trong xa hoa, hưởng lạc nên từ chúa đến lũ quan lại đều trở thành những “lũ cướp” trắng trợn nhân dân. Phạm Đình Hổ đã khắc họa rất cụ thể, chi tiết về thú vui chơi đến táo bạo, khác lạ bóc lột nhân dân của chúa Trịnh Sâm “thu lấy trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian không thiếu một thứ gì”. Có những cây to, khó chở phải điều động nhân lực và vận chuyển vô cùng vất vả về đến phủ Chúa. Trong phủ chúa, vườn tược đều được điểm xuyết những loại cây quý được đưa từ khắp nơi về. Cuộc sống xa hoa, trác táng không bao giờ bền vững, kéo dài. Đó chính là lí do của sự sụp đổ ngai vàng của Chúa. Năm 1782, chúa Trịnh Sâm qua đời, cảnh loạn binh xảy ra, Nguyễn Huệ khởi nghĩa khiến sự nghiệp của họ Trịnh tan biến trong chớp mắt.
Cảnh loạn lạc xảy ra khắp mọi nơi. Lũ hoạn quan với những thủ đoạn thâm độc đã ngang ngược phá hủy đồ đạc, công trình của triều đình. Lũ nhà giàu thì mưu mô, xảo quyệt. Nhiều gia đình phải li tán, gặp khó khăn về mọi mặt.
Trước tình hình đó, tác giả cũng đề cập phần ít đến việc gia đình mình. Mẹ Phạm Đình Hổ là bà cung nhân phải sai người chặt cây lê “cao vài mươi trượng, lúc nở hoa trắng xóa thơm lừng”, hai cây lựu trắng, lựu đỏ lúc ra quả trông rất đẹp.
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là một câu chuyện có thật do chính tác giả quan sát và ghi chép lại. Đây là một câu chuyện có giá trị to lớn về mọi mặt, đặc biệt là giá trị lịch sử với những chi tiết, sự kiện lịch sử nổi bật. Chính ngòi bút sắc lạnh nhưng có phần sâu cay, chua xót đã góp phần tạo nên nội dung ý nghĩa của câu chuyện. Trải qua nhiều năm tháng nhưng giá trị của câu chuyện vẫn còn mãi đối với người đọc và là một trong những câu chuyện nổi bật thuộc thể loại tùy bút.
Vào phủ chúa Trịnh là tác phẩm nổi tiếng của Lê Hữu Trác, bên cạnh bài làm văn Phát biểu cảm nghĩ của em khi đọc Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh, học sinh và giáo viên tham khảo thêm các bài làm văn mẫu khác như Phân tích đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh, Cảm nghĩ về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh, Giá trị hiện thực của Vào phủ chúa Trịnh, Tìm hiểu đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh, hay cả phần Soạn bài Vào phủ Chúa Trịnh.
Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh- Mẫu 5
Trong các áng văn xuôi thời kì trung đại ở nước ta, bên cạnh Truyền kì mạn lục – một “Thiên cổ kì bút” – người đời thường nhắc tới Vũ trung tùy bút (Theo ngọn bút viết trong khi mưa) của Phạm Đình Hổ. Tác phẩm ra đời vào đầu thế kỉ XIX. Khác với Truyền kì mạn lục, tập sách “viết trong mưa” ấy thuộc thể loại tùy bút. Dùng văn tuỳ bút, danh nho Phạm Đình Hổ đã tùy theo hứng thú và suy nghĩ của riêng mình, ghi chép lại những sự việc, những câu chuyện cụ thể chân thực, những điều tai nghe, mắt thấy trong cuộc sống.
Khi đọc Truyền kì mạn lục, chúng ta bắt gặp đây đó những yếu tố lãng mạn, huyền ảo, còn trong Vũ trung tùy bút thì đậm đặc chất hiện thực. Một trong những bức tranh hiện thực ấy là những chuyện trong phủ chúa Trịnh Sâm. Viết lại những câu chuyện cũ ấy, tác giả dự báo “đó là triệu bất tường”, là những dấu hiệu không lành, những điềm gở.
Trước hết là những câu chuyện về thói ăn chơi xa xỉ, vô độ của chúa Trịnh Sâm và các quan lại hầu cận trong phủ chúa. Tác giả Phạm Đình Hổ kể ba sự việc tiêu biểu. Việc thứ nhất: Chúa cho xây dựng nhiều cung điện, đình đài ở các nơi để thoả mãn ý thích “đi chơi ngắm cảnh đẹp”, ý thích đó cứ triền miên, nối tiếp tưởng đến không cùng. Vì vậy, nhà văn viết “Việc xây dựng đình đài cứ liên miên”.
Nghĩa là việc huy động sức dân, thu tiền bạc, chiếm đất đai, bắt nhân công liên tục diễn ra hàng tháng, hàng năm, nơi này, nơi khác. Việc thứ hai: Những cuộc rong chơi của chúa Thịnh Vương (Trịnh Sâm). Chúa thường thích đi chơi, thường ngự – tới ăn ngủ, ngắm cảnh đẹp, hưởng của ngon, vật lạ, thoả mãn thú vui cả thể xác lẫn tinh thần – ở các li cung (cung điện, lâu đài xa kinh thành) trên Hồ Tây, núi Tử Trầm, núi Dũng Thuý.
Trong những chuyến du lịch ấy của chúa đặc biệt nhất là cuộc dạo chơi trên Hồ Tây. Vòng quanh bốn mặt hồ, binh lính phải “dàn hầu”, vừa để bảo vệ vừa sẵn sàng làm theo lời chúa sai bảo. Cũng vòng quanh bốn mặt hồ, các quan trong triều phải “đầu bịt khăn, mặc áo đàn bà” cải trang là những thị dân buôn bán, bày hàng hoá như một khu chợ sầm uất, đông vui, vui cho thiên hạ thì ít mà vui cho chúa thì nhiều.
Thuyền ngự đến đâu thì chúa và các hỗ tụng đại thần tuỳ ý ghé vào bờ mua bán. Chúa và cận thần tới, thì nhạc công phải tấu lên những khúc nhạc dặt dìu gần xa vẳng từ dưới bóng cây, bến đá nào đó. Đúng là bức tranh cuộc sống phồn hoa mà giả dối. Tác giả chỉ ghi chép khách quan, không một lời nhận xét, mà sự việc nó cứ tự phơi bày những nét rởm hợm, nực cười, đáng chê trách.
Việc thứ ba – đáng chê trách hơn – là câu chuyện chúa “sức thu lấy” – ra lệnh bằng văn bản – cướp đoạt một cách trắng trợn tất cả “những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh” trong nhân dân. Chọn một cảnh điển hình của những cuộc cướp đoạt ấy – cảnh lính tráng chở một cây đa cổ thụ về phủ chúa – tác giả miêu tả bằng những từ ngữ sống động, một giọng văn thật nặng nề. Cây đa to, cành lá rườm rà, được rước qua sông”… như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ binh mới khiêng nổi, lại bốn người đi kèm, đều cầm gươm đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng đi cho đều tay”.
Đó là một đám rước công phu, tốn kém. Cây đa ấy vốn ở đầu non hốc đá tự do – phóng khoáng giữa rừng núi nay bị rước về vườn nhà chúa bề ngoài có vẻ oai phong, song nhìn kĩ thấy tội nghiệp quá. Bởi vì từ nay, đa đâu còn là biểu tượng trường tồn, bất diệt, biểu tượng cho sức sống của con người, của quê hương, đất nước. Đa đã bị ép buộc để “điểm xuyết, bày vẽ” thành thứ đồ chơi riêng của nhà chúa. Cây đa cũng giống như thân phận của muôn loài trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch, chậu hoa cây cảnh trong dân gian đã bị cầm tù, bị tha hoá.
Bao nhiêu cái đẹp của tự nhiên, những thú vui tao nhã, chính đáng của nhân dân đã bị nhà chúa chiếm đoạt. Số phận của cây trời, đá núi, hoa lá,… vô tri thì như thế, hỏi số phận con người ra sao? Người viết tuỳ bút, danh nho Phạm Đình Hổ đã đưa ra những sự việc cụ thể chân thực và khách quan, không bình luận mà các hình ảnh, chi tiết cứ hiện lên đầy ấn tượng. Ấn tượng nhất là cảnh đêm nơi vườn nhà chúa: “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”…
Tiếng chim kêu, vượn hót khắp bốn bề giữa đêm khuya thanh vắng, hay là tiếng muôn loài than thở? Trận mưa sa gió táp ồn ào hay sự giận dữ của trời đất? Những âm thanh ấy gợi cảm giác ghê rợn như một điều gì đó đang tan tác đổ vỡ, suy sụp đau đớn, chứ không phải là một cảnh đẹp bình yên, phồn thực, no ấm. Nghe những âm thanh ấy “kẻ thức giả” – nhà nho Phạm Đình Hổ biết “đó là triệu bất tường”.
Đến dòng văn cuối của những câu chuyện nhà chúa, cảm nghĩ của tác giả bộc lộ trực tiếp, nhưng lời văn vẫn nhẹ nhàng, tế nhị, gián tiếp bằng một danh từ chung là “kẻ thức giả”. Kẻ thức giả là những người có học vấn, có hiểu biết sâu rộng. Viết câu văn ấy, Phạm Đình Hổ là một người có tầm phán đoán, dự cảm chính xác.
Ông đã thấy rõ những cuộc ăn chơi xa hoa, vô độ của chúa Trịnh Sâm là “triệu bất tường”, những dấu hiệu không lành, những điềm gở. Nó báo trước sự suy vong tất yếu của một triều đại chỉ chăm lo việc ăn chơi hưởng lạc trên mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của dân lành. Quả thực, điều đó đã xảy ra không lâu sau khi Trịnh Sâm mất.
Sách xưa có câu “Thượng bất chính, hạ tắc loạn” – cấp trên không chân chính, nghiêm túc thì cấp dưới tất sẽ làm loạn. Chúa ở ngôi cao mải mê ăn chơi, sa đoạ, tất yếu các quan cấp dưới ỷ thế làm càn. Do đó, từ những câu chuyện của chúa, Phạm Đình Hổ chuyển ý, kể đến chuyện các quan “bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài doạ dẫm…”. Ở đoạn văn thứ hai này, tác giả tập trung kể một sự việc.
Đó là việc bọn hoạn quan bày trò cướp đoạt, vu cáo, phá hoại tài sản của nhân dân một cách trắng trợn, tàn ác. Chúng thực hiện công việc rất “bài bản”. Động tác một: “Dò xem” nhà nào có vật quý, thì biên vào hai chữ “phụng thủ” nghĩa là lấy để dâng chúa. Động tác thứ hai: “Trèo qua tường thành lẻn ra”… “lấy phăng đi”… Động tác thứ ba: Nếu nhà nào phản ứng, thì “buộc cho tội giấu vật báu” của vua chúa…
Ở đoạn văn tuỳ bút này nhà văn sử dụng liên tục các động từ miêu tả thái độ và hành động bọn hoạn quan trong ba câu văn đặc tả với những từ ngữ nhấn mạnh: “Dò xem”, “trèo”, “lẻn”, “lấy phăng”, “buộc tội”, “doạ dẫm”, … Đúng là những thái độ, hành động của một lũ đầu trâu mặt ngựa, vừa ăn cướp, vừa la làng, “Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham” (Truyện Kiều). Hậu quả của những vụ cướp bóc trắng trợn ấy là: Người dân bị buộc tội phải nộp tiền, phải “phá nhà huỷ tường… bỏ của ra kêu van chí chết” và tự mình phải “đập bỏ núi non bộ hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ”.
Người dân phải chịu biết bao nhiêu cảnh đau đớn, bao nhiêu bất công, phi lí. Chính tại gia đình Phạm Đình Hổ – một gia đình quý tộc cận kề phủ chúa – cũng bị cái họa ăn cướp kia gieo xuống. Trước nhà tiền đường trồng một cây lê hoa trắng xoá thơm lừng, trước nhà trung đường trồng hai cây lựu ra quả trông rất đẹp … “Bà cung nhân ta đều sai chặt đi cũng là vì cớ ấy”.
So với giọng văn kể chuyện các gia đình khác quanh kinh thành bị quấy nhiễu, giọng kể ở đoạn văn cuối này có vẻ như nhẹ nhàng hơn, song nó tô đậm thêm tính hiện thực, tăng thêm ý nghĩa phê phán, tố cáo. Bởi vì, nạn cướp bóc, sách nhiễu ở thời Trịnh Sâm đã trở thành cơn sốc trong xã hội, không chỉ gây đau khổ cho dân thường mà còn đe do cả những gia đình quyền quý, quan lại, không chỉ cướp bóc của cải vật chất mà còn hủy diệt cả những thú vui tao nhã mang tính văn hóa truyền thống của biết bao gia đình Việt Nam chúng ta.
Những từ ngữ cuối đoạn văn dừng lại, nhưng lời kể của tác giả vẫn còn vương vấn ngân nga trong lòng chúng ta những cảm giác xót xa, nuối tiếc, thương cho cây đẹp, hoa thơm, cảm thông với những con người phải sống trong một xã hội phong kiến hỗn loạn mục nát đến như vậy.
Đoạn tuỳ bút Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh ấy không chỉ có giá trị hiện thực, phơi bày bộ mặt xấu xa của chúa, của bọn quan lại, lính tráng mà còn hấp dẫn bạn đọc bởi một ngòi bút tài hoa. Phạm Đình Hổ đã ghi chép người thực, việc thực rất cụ thể, chính xác, theo trí nhớ, cảm xúc, suy nghĩ của riêng mình.
Từ ngữ câu văn tự nhiên, trôi chảy, không bị gò bó bởi cốt truyện, nhân vật…như trong truyện ngắn. Khi kể chuyện, lúc chuyển sang miêu tả, ngẫu hứng thì điểm vào một dự cảm, dự báo, nhịp văn lúc khoan thai, khi dồn dập nhấn mạnh,… ngỡ như buông thả tự do nhưng tác phẩm vẫn tập trung vào một chủ đề, toát lên cảm xúc trữ tình rõ nét của tác giả.
Nói tóm lại, bằng thể văn tuỳ bút ghi chép tuỳ hứng những sự việc một cách cụ thể, chân thực, sinh động, Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh giúp chúng ta hiểu về đời sống xa hoa vô độ của bọn vua chúa, quan lại phong kiến thời vua Lê, chúa Trịnh suy tàn nửa cuối thế kỉ XVIII. Đó là một xã hội đầy rẫy những dấu hiệu không lành, những điềm gở đáng chê trách và đáng xoá bỏ. Lịch sử đã xoá bỏ cái xã hội ấy.
Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh- Mẫu 6
Phạm Đình Hổ (1768 – 1839), tên thường gọi là Chiêu Hổ, sinh trưởng trong một gia đình dòng dõi khoa bảng ở làng Đan Loan, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương. Cha đậu cử nhân và ra làm quan dưới triều Lê. Từ thuở nhỏ, Chiêu Hổ đã ôm mộng văn chương. Sau này, ông vào học trường Quốc Tử Giám và thi đậu sinh đồ, nhưng vì thời thế không yên nên đành lánh về quê dạy học.
Năm 1821, vua Minh Mạng nhà Nguyễn tuần du ra Bắc. Phạm Đình Hổ dâng một số trước tác lên nhà vua và được bổ nhiệm một chức quan ở Viện hàn lâm. Được một thời gian, ông xin nghỉ việc. Đến năm 1826, Minh Mạng lại triệu Phạm Đình Hổ vào kinh đô Huế nhậm chức Tế tửu Quốc Tử Giám, rồi Thị giảng học sĩ.
Phạm Đình Hổ bắt đầu sáng tác từ thời Tây Sơn, nhưng chủ yếu là vào những năm đầu của triều Nguyễn. Ông để lại nhiều tác phẩm, trong đó giá trị nhất là hai thiên kí sự Vũ trung tuỳ bút và Tang thương ngẫu lục. Vũ trung tuỳ bút gồm 88 mẩu chuyện nhỏ, viết theo thể tuỳ bút, cung cấp cho người đọc những kiến thức về văn hoá truyền thống, về phong tục tập quán và đặc điểm địa lí cùng những danh lam thắng cảnh của quê hương, đất nước.
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh ghi chép lại những cảnh sinh hoạt diễn ra hằng ngày ở phủ chúa thời Trịnh Sâm. Qua đó, tác giả ngầm lên án thói ăn chơi xa xỉ, vô đạo đức của Trịnh Sâm và bọn quan lại hầu cận dưới quyền. Lúc mới lên ngôi chúa, Trịnh Sâm là con người cứng rắn, thông minh, quyết đoán, sáng suốt, trí tuệ hơn người. Nhưng sau khi đã dẹp yên được các phe phái chống đối, lập lại kỉ cương cho triều đình thì dần dần sinh bụng kiêu căng, xa xỉ, phi tần thị nữ kén vào rất nhiều, mặc ý vui chơi thỏa thích.
Chúa Trịnh say mê Đặng Thị Huệ, đắm chìm trong cuộc sống xa hoa, ăn chơi hưởng lạc, phế con trưởng, lập con thứ, gây nên rất nhiều điều bạo ngược, dẫn đến cảnh nồi da xáo thịt. Các vương tử tranh giành quyền lực, chém giết lẫn nhau. Trịnh Sâm mất năm 1782, ở ngôi chùa được 16 năm.
Thỏi ăn chơi ngông nghênh, xa xỉ của Trịnh Sâm và lũ quan lại hầu cận được tác giả miêu tả qua những chi tiết tiêu biểu như Trịnh Sâm cho xây dựng nhiều cung điện, đền đài ở các nơi để thoả mãn ý thích đi chơi, ngắm cảnh đẹp của mình. Việc xây dựng đình đài cứ làm liên tục trong nhiều năm, hao tốn không biết bao nhiêu là tiền của. Không mấy quan tâm đến lợi ích to lớn của quốc gia, dân tộc; ngược lại, chúa Trịnh dành rất nhiều thời gian để hưởng lạc:
Mỗi tháng ba bốn lần, Vương ra cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ, binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ, các nội thần thì đều bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hóa chung quanh bờ hồ để bán. Thuyền ngự đi đến đâu thì các quan hỗ tụng đại thần tuỳ ý ghé vào bờ mua bán các thứ như ở cửa hàng trong chợ. Cũng có lúc cho bọn nhạc công ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc, hay dưới bóng cây bến đá nào đó, hòa vài khúc nhạc.
Trong đoạn văn dưới đây, tác giả đã phơi bày bản chất tham lam của chúa Trịnh và bè lũ tay sai. Cậy quyền cậy thế, chúng trắng trợn ép buộc dân lành phải cung nộp cho phủ chúa những thứ quý giá mà chúa thích: Buổi ấy, bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, Chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì. Có khi lấy cả cây đa to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về. Nó giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ binh mới khiêng nổi…
Tác giả vạch rõ lòng tham vô đáy của chúa Trịnh bằng nghệ thuật kể chuyện và miêu tả. Các dẫn chứng đưa ra đều khách quan, không xen lời bình. Một vài sự kiện được miêu tả tỉ mỉ, gây ấn tượng sâu đậm đối với người đọc. Thái độ bất bình của tác giả thể hiện khá kín đáo trong những câu văn đầy ẩn ý: Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bể, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường.
Cảnh được miêu tả là cảnh thực của những khu vườn lộng lẫy, đầy trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, được bày vẽ, tô điểm cho giống thiên nhiên nơi bến bể đầu non, nhưng âm thanh lại gợi cảm giác ghê rợn trước một cái gì đó tan tác, đau thương, chứ không phải trước cảnh đẹp yên bình, thơ mộng. Đó là triệu bất tường, tức là điềm gở, báo trước sự suy vong tất yếu của một triều đại chỉ lo ăn chơi hưởng lạc trên mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của dân lành. Quả thực điều đó đã xảy ra sau khi Trịnh Sâm mất không lâu.
Thời Trịnh Sâm, bọn hoạn quan hầu cận trong phủ chúa được sủng ái bởi chúng rất đắc lực trong việc giúp chúa bày ra các trò ăn chơi hưởng lạc. Vì vậy nên chúng thường ỷ thế chúa mà hoành hành, tác oai tác quái, mượn gió bẻ măng, nhũng nhiễu, vơ vét của dân lành bằng nhiều thủ đoạn hèn hạ, độc ác.
Thủ đoạn mà chúng thường sử dụng là hành động vừa ăn cướp, vừa la làng. Người dân bị hại tới hai lần, bằng không thì cũng phải tự tay huỷ bỏ tài sản của mình để tránh tai vạ. Đó là điều hết sức vô lí, bất công. Bọn hoạn quan vừa vơ vét để ních đầy túi tham, vừa được tiếng mẫn cán trong việc cung phụng chúa:
Bọn hoạn quân cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm. Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay, thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” vào. Đêm đến, các cậu trèo qua tường thành lẻn ra, sai tay chân đem lính đến lấy phăng đi, rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền. Hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá, thậm chí phải phá nhà huỷ tường để khiêng ra. Các nhà giàu bị họ vu cho là giấu vật cung phụng, thường phải bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ.
Kết thúc đoạn văn miêu tả thủ đoạn nham hiểm, độc ác của bọn hoạn quan này, tác giả kể lại một sự việc đã từng xảy ra ngay tại gia đình mình: Dù tiếc đứt ruột nhưng chủ nhà phải sai đầy tớ chặt đi một cây lê và hai cây lựu quý trong vườn để tránh tai hoạ:
Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà tiền đường có trồng một cây lê, cao vài mươi trượng, lúc nở hoa, trắng xoá thơm lừng; trước nhà trung đường cũng trồng hai cây lựu trắng, lựu đỏ, lúc ra quả trông rất đẹp, bà cung nhân ta sai chặt đi cũng vì cớ ấy.
Kiểu dẫn dắt câu chuyện như thế đã làm gia tăng đáng kể sức thuyết phục cho những chi tiết chân thực mà tác giả đã ghi chép ở trên, đồng thời cũng làm cho cách viết thêm phong phú và sinh động. Cảm xúc của tác giả cũng được gửi gắm kín đáo ở trong đó.
Qua đoạn văn này, tác giả tố cáo bọn quan lại trong phủ chúa Trịnh vừa tham vừa ác, làm trái với đạo trời và lòng người. Tất yếu, nhân dân sẽ vùng lên lật đổ chúng. Câu chuyện được tác giả ghi chép rất tự nhiên. Những chi tiết, hiện tượng chân thực được miêu tả tỉ mỉ mà không nhàm chán, xen kẽ những lời bình ngắn gọn, sắc sảo càng làm tăng thêm sức hấp dẫn của tác phẩm.
Bằng thể loại tuỳ bút ghi chép lại những sự kiện mắt thấy tai nghe, tác giả Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh đã phản ánh cuộc sống xa hoa vô độ của vua chúa, quan lại phong kiến thời vua Lê chúa Trịnh suy tàn. Đồng thời qua tác phẩm này, người đọc phần nào nắm được đặc trưng của thể văn tuỳ bút đời xưa và giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của những dòng ghi chép đầy tính hiện thực của Phạm Đình Hổ.
Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh- Mẫu 7
Hiện thực suy tàn của các tập đoàn phong kiến trong xã hội Việt Nam thế kỉ XVIII là mảnh đất, màu mỡ cho văn chương mang cảm hứng phê phán phát triển. Một trong số những tác phẩm ấy là Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ. Qua đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh người đọc có thể thấy được giá trị hiện thực của văn bản qua việc miêu tả thói ăn chơi vô độ của chúa quan phủ chúa và sự lộng hành của lũ hoạn quan.
Thói ăn chơi xa xỉ, vô độ của chúa Trịnh và các quan lại hầu cận trong phủ được được miêu tả thông qua những cảnh và những việc cụ thể. Đó là việc xây dựng quá nhiều đình đài và thú ngao du xa xỉ. Cậch bài trí phong cảnh và những cuộc dạo chơi của chúa Trịnh được miêu tả tỉ mỉ thể hiện sự xa hoa trong lối sống hưởng thụ của hắn. Hơn thế, còn có việc thu sản vật, những thứ quý giá trong dân gian để trang trí phủ chúa. Những việc này gây phiền nhiễu, tốn kém cho đời sống vốn rất khó khăn của nhân dân.
Đi xa hơn việc miêu tả thông thường, tác giả kín đáo bộc lộ thái độ chủ quan của mình trước việc ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh: “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ đổ tan tành, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường.”
Cảm nhận của tác giả về cái “triệu bất tường” mang ý nghĩa như sự phê phán, cảnh báo về thói ăn chơi, hưởng lạc sa hoa trên mồ hôi, xương máu của nhân dân sẽ dẫn đến cảnh suy tàn, tan vỡ tang thương. “Thượng bất chính, hạ tắc loạn”, chúa và quan như vậy dẫn đến sự lộng hành của bọn quan lại hầu cận. Chúng “nhờ gió bẻ măng”, nhũng nhiễu, vơ vét của dân bằng những thủ đoạn trơ tráo, trắng trợn, vừa ăn cướp vừa la làng: “Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khiếu hay, thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” vào.
Đêm đến, các cậu trèo qua tường thành lẻn ra, sai tay chân đem lính đến lấy phăng đi, rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để dậm doạ lấy tiền. Hòn đá hoặc cây cối gì to lớn thì thậm chí phải phá nhà huỷ tường để khiêng ra. Các nhà giàu bị họ vu cho là giấu vật cung phụng, thường phải bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ.”.
Kết thúc bài tuỳ bút, tác giả ghi lại việc có thực đó từng xảy ra trong nhà mình: “Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà tiền đường có trồng một cây lê, cao vài mươi trượng, lúc nở hoa, trắng xoá thơm lừng; trước nhà trung đường cũng trồng hai cây lựu trắng, lựu đỏ, lúc ra quả trông Tắt đẹp, bà cung nhân ta đều sai chặt đi”. Câu chuyện tbực xảy ra ở chính gia đình tác giả có tác dụng làm tăng thêm tính xác thực, sinh động cho những chứng cứ lên án chúa Trịnh và quan lại.
Vạch tội chính quyền phủ chúa, tác giả dùng một giọng văn rất khách quan, hầu như chỉ kể và tả, không có yếu tố biểu cảm. Tuy vậy, những điều được kể, tả đều là những chi tiết được chọn lọc kĩ lưỡng, có tác dụng phơi bày sự mục ruỗng của tập đoàn phong kiến này. Bởi vậy, toàn bộ đoạn trích toát lên cảm hứng phê phán, lên án sâu sắc.
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh với những giá trị hiện thực chân thực, sống động vừa là một văn bản có giá trị văn chương vừa là những ghi chép có giá trị lịch sử quan trọng.
Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh- Mẫu 8
Phạm Đình Hổ (1768 – 1839, sinh trưởng trong một gia đình dòng dõi khoa bảng ở tinh Hải Dương. Thời đại ông sống là thời thời kì xã hội phong kiến đang trên đà mục ruỗng, thối nát. Vì vậy, qua các tác phẩm của mình, ông thường kí thác tâm sự của nho sĩ sinh bất phùng thời. Trong số các tác phẩm đặc sắc, không thể không nhắc đến “Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh” trích “Vũ trung tùy bút”. Tùy bút này ghi lại cảnh sống xa hoa, vô độ của Chúa Trịnh và bọn quan lại, đồng thời tác phẩm cũng phơi bày nỗi thống khổ của nhân dân.
Lúc mới đăng cơ, Trịnh Sâm tỏ ra là bậc minh chúa với trí thông minh thiên phú, quyết đoán, bản lĩnh hơn người, nhưng khi đã yên vị, y lại đắm chìm trong tửu sắc, ăn chơi sa đọa. Mỗi tháng đều đặn ba đến bốn lần, nhà Chúa xa giá tới cung Thụy Liên bên Hồ Tây. Binh lính, quan lại có mặt đông đủ, khung cảnh buôn bán diễn ra vô cùng tấp nập, nhộn nhịp.
Niềm vui với nhà chúa như vậy có lẽ chưa thỏa, nên chúa liên tục cho xây dựng đền đài, lăng tẩm ở các nơi để được mặc sức vui chơi, hưởng lạc. Chính việc xây dựng những hành cung xa hoa, lộng lẫy tốn kém làm nhân dân lâm vào tình cảnh khốn khổ vô cùng. Lòng dân đã oán hận ngút trời, còn Chúa Trịnh vẫn chìm đắm trong tửu sắc, đàn hát, u mê.
Là bá chủ thiên hạ nên Chúa Trịnh cũng muốn mọi tuyệt phẩm trong nhân gian đều là của Chúa. Nhân cơ hội này, bọn cận thần cũng tranh thủ vừa lấy lòng Chúa, vừa vơ vét vào túi riêng. Nào là trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chúng đều mặc sức thu lấy, không thiếu một thứ gì.
Có khi để di dời cả cây đa to, cành lá um tùm, rễ dài đến vài trượng từ bên bắc chở qua song đem về, cả một cơ binh được huy động. Cả những khu vườn lộng lẫy, chất đầy đồ vật, cây cối, chim muông quý hiếm trong thiên hạ, nhưng âm thanh phát ra từ đó lại gây cảm giác ghê rợn, gai người. Đó như điềm gở, báo hiệu nguy cơ diệt vong của triều đại chỉ lo ăn chơi hưởng lạc, mà không quan tâm đến đời sống nhân dân.
Người xưa nói: “Ông chủ nào thì đầy tớ nấy”, bọn hoạn quan dưới quyền cũng ỷ thế cậy quyền mà tác oai, tác quái, nhũng nhiễu nhân dân. Chúng thăm dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay thì lập tức biến hai chữ “phụng thủ”. Đêm khuya thanh vắng, chúng cho tay chân vào nhà người ta ăn cắp đồ rồi lại vu vạ cho họ tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền. Nạn nhân thì quá sợ hãi, phải bỏ của ra kêu van chí chết. Thủ đoạn nham hiểm, độc ác đó của bọn quan lại đã đẩy người dân vào tình cảnh thảm thương.
Đoạn cuối, tác giả không chỉ kể chuyện nhà người, mà còn kể chuyện nhà mình, sống trong xã hội suy tàn lúc bấy giờ, nỗi bất hạnh không còn là của riêng nhà nào: “Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà tiền đường có trồng một cây lê, cao vài mươi trượng lúc nở hoa, trắng xóa thơm lừng, trước nhà trung đường cũng trồng hai cây lựu trắng, lựu đỏ, lúc ra quá trông rất đẹp”. Dù tiếc đứt ruột cũng phải chặt đi để tránh tai bay vạ gió ập đến nhà.
Cách kể chuyện như vậy đã kéo người kể chuyện thành một trong những nhân vật chứng kiến, tham gia câu chuyện. Do đó, câu chuyện được kể tăng thêm tính thuyết phục, lôi cuốn người đọc. Cảm xúc cũng vì thế mà trở nên chân thực, sâu sắc hơn.
Với cảm quan hiện thực và tấm lòng nhân đạo, Phạm Đình Hổ đã ghi lại chân thực cảnh sống xa hoa, ăn chơi sa đọa, thương thiên nghịch lí của Trịnh Sâm và bọn quan lại dưới quyền, dồn đẩy nhân dân vào chân tường cuộc sống. Chúng đâu biết rằng, “Đẩy thuyền đi là dân, mà lật thuyền cũng là dân”, được lòng dân thì được cả thiên hạ, mà mất lòng dân thì mất cả vương triều.
Chi tiết miêu tả tỉ mỉ, chân thực, sinh động, lời bình ngắn gọn, cảm xúc được ẩn sâu kín trong câu chữ, tác phẩm ghi chép những chuyện người thật việc thật này có lẽ không chỉ dừng lại ở ý nghĩa lịch sử, mà còn có giá trị văn học cao. Bởi thế chăng, mà sau này, ở thế kỉ XX, ta bắt gặp những tài năng về phóng sự, tùy bút có lẽ đã được mạch ngầm này nuôi dưỡng, đó là những Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng…
Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh- Mẫu 9
Tác phẩm Vũ trung tùy bút (tùy bút viết trong những ngày mưa) của danh sĩ Phạm Đình Hổ là tập bút kí sinh động về xã hội Việt Nam thời Lê – Trịnh, vào những năm cuối thế kỉ XVIII. Mặc dù được viết theo thể tùy bút khá tự do, nhưng những điều được ghi lại trong đó đã chứa đựng một giá trị hiện thực rất sắc sảo, đồng thời bộc lộ rõ cái nhìn phê phán của tác giả với thói xa hoa vô độ của vua chúa phong kiến.
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là một trong những câu chuyện được kể lại trung thực giúp ta hiểu về bộ mặt thật xấu xa của tập đoàn chúa Trịnh được che đậy trong lớp vỏ vàng son hào nhoáng. Phạm Đình Hổ (1768 – 1839) là người nổi tiếng với biệt danh Chiêu Hổ, là người am hiểu văn hóa nếp sống của Thăng Long – Kẻ Chợ. Vốn dòng dõi quan lại đời Lê nên ông có điều kiện hiểu rõ những kẻ thuộc giới quý tộc kinh kì.
Những điều nhà văn ghi lại tưởng như là sự ghi nhận về thời vô sự – bốn phương yên hưởng thái bình. Mỉa mai thay, thực trạng lại là một bức tranh với sắc chói chang của mũ mão cân đai rỡ ràng đối lập với thực tại tinh thần tối sầm những cảm giác bất an trong đời sống dân lành. Thực trạng ấy từng được mô tả trong Thượng kinh kí sự của Hải Thượng Lãn Ông, Tang thương ngẫu lục của danh sĩ Nguyễn Án. Nhưng câu chuyện của Chiêu Hổ vẫn có sức hấp dẫn riêng.
Thời gian, khung cảnh câu chuyện được thuật lại tỉ mỉ. Trong bối cảnh trong nước vô sự, việc an hưởng thái bình, du ngoạn cảnh đẹp của một ông chúa có lẽ chẳng có gì đáng nói. Việc ăn chơi của Chúa đáng nói ở chỗ “đình đài được làm liên tục”. Hãy so sánh với những gì trong phủ Chúa được Hải Thượng Lãn Ông mô tả: “nơi nào cũng lâu đài, đình các, rèm châu cửa ngọc, áng nước mây loà, suốt cõi toàn hoa, hoa cỏ kì lạ, gió thoảng hương trời, thú đẹp chim quý, nhảy nhót bay hót, giữa đất bằng nhô lên một ngọn núi cao, cây to bóng mát, nhịp cầu sơn vẽ bắc qua lạch nước quanh co, lại có lan can làm toàn bằng đá màu…”.
Ngoài cung cũng là cả một sự xa xỉ cầu kì như vậy. Chúa thưởng ngoạn cảnh đẹp kéo theo cả một đội quân tiền hô hậu ủng với binh lính, nội thần, các quan hỗ tụng đại thần… Quang cảnh phô bày qua sự mô tả của tác giả khiến người đọc hình dung một sự sắp đặt nhằm làm đẹp lòng Chúa của đám nịnh thần mặt trắng, đồng thời hiện rõ tính chất phồn vinh giả tạo của cuộc sống kinh kì.
Thức ngon sẵn bày, đàn hay sáo ngọt. Chỉ cần vài cảnh đã cho thấy sự xa hoa tráng lệ xứng đáng với tiếng tăm Thịnh Vương – quyền hành dưới mà trên cả hoàng đế. Đàng sau những vẻ phô trương hào nhoáng đó là sự lố bịch hiện hình : bọn nội thần mặc quần áo đàn bà đứng bán hàng, cảnh đi chợ của các quan như trò chơi trẻ con cho thấy sự phồn vinh giả tạo. Nhằm thoả mãn nhu cầu ích kỉ của mình, “bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, Chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì”.
Quyền lực, xa xỉ, ngang ngược, hống hách là những gì chúng ta có thể hình dung về ông Chúa nổi tiếng ăn chơi này. Tác giả đã bình bằng một điềm báo : “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”. Câu văn miêu tả vẽ ra viễn cảnh u ám, đầy âm khí, như kết đọng nỗi oán hờn của dân gian, chứa đựng ý nghĩa cảnh báo sự sụp đổ không thể tránh khỏi của một vương triều quái thai mục ruỗng.
“Thượng bất chính, hạ tắc loạn” (Trên không nghiêm, dưới sinh loạn) ! Quả thật, những gì Phạm Đình Hổ diễn tả tiếp nối về hành động của bọn tay chân nhà Chúa đục nước béo cò, “nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm”. Nhà dột từ nóc, bởi thế người đọc không nghi ngờ gì về bản chất thối nát của vương triều Lê – Trịnh. Tất yếu, những hành vi của chúng gây tác hại cho dân lành lương thiện như thế nào : bị vu oan, hãm hại cửa nát nhà tan.
Không phải là cách nói ví von mà Phạm Đình Hổ còn kể lại câu chuyện sinh động : “Hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá thì thậm chí phải phá nhà hủy tường để khiêng ra”. Người giàu có của bỗng thành miếng mồi ngon cho bầy diều quạ hung dữ mượn danh Chúa đục khoét, hành hạ.
Không những thế, người kể chuyện còn đưa ra bằng chứng ngay trong gia đình mình như xác minh tính chân thực của câu chuyện kể : “Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà tiền đường có trồng một cây lê, cao vài mươi trượng, lúc nở hoa trắng xóa thơm lừng; trước nhà trung đường, cũng trồng hai cây lựu trắng, lựu đỏ, lúc ra quả trông rất đẹp, bà cùng nhân ta đều sai chặt đi cũng vì cớ ấy”.
Bản thân gia đình tác giả thuộc hàng quý tộc chốn cung đình, vậy mà còn trở thành nạn nhân của Chúa Trịnh. Ta chứng kiến cái đẹp bị hủy hoại bởi lẽ không cái đẹp nào có thể được phát triển tự nhiên dưới ách bạo quyền. Câu chuyện kết thúc ở đó, nhưng giá trị tố cáo đã thật đầy đủ, không cần nói thêm, viết thêm.
Một chuyện cũ viết lại qua lời kể chuyện, miêu tả sinh động của Phạm Đình Hổ đã giúp ta hình dung tất cả sự thối nát tàn bạo của triều đình vua Lê – chúa Trịnh và hiểu rõ nguyên nhân sụp đổ của nó. Khi những kẻ cầm quyền chỉ biết vun vén bản thân, bỏ mặc nhân dân, chắc chắn sẽ mất lòng dân, lời ta thán của dân chúng sẽ biến thành sức mạnh khởi nghĩa lật nhào chế độ. Có lẽ, đó còn là lời nhắc nhở, cảnh tỉnh của Chiêu Hổ cho triều đại nhà Nguyễn đương thời. Ông đã vạch đúng bản chất chung của giai cấp phong kiến, qua những trang tùy bút đặc sắc .
Vũ trung tùy bút là tập kí họa về thời đại qua tài hoa của cây bút Phạm Đình Hổ. Dù thời ấy đã qua, nhưng những câu chuyện trong đó vẫn còn giá trị tư liệu, giá trị lịch sử và văn chương. Người đọc có thể nhận thấy sức mạnh hủy diệt của thế lực đồng tiền khi song hành với quyền lực và phù hoa làm hủy hoại nhân tính con người đến mức nào !
Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh- Mẫu 10
Phạm Đình Hổ là người người làng Đan Loan, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương (nay là xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Ông là một con người có tài, từng làm quan dưới thời vua Minh Mạng. Phạm Đình Hổ đã có rất nhiều những công trình biên soạn, khảo cứu có giá trị thuộc đủ các lĩnh vực: văn học, triết học, lịch sử, địa lí…Trong số những tác phẩm của ông, tiêu biểu nhất có thể kể đến đó chính là “Vũ Trung tùy bút”, trong đó có đoạn trích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh.
Vũ Trung tùy bút hay còn được hiểu với nghĩa nôm na là tùy bút biết trong những ngày mưa, đây là một tác phẩm đặc sắc của Phạm Đình Hổ, viết vào đầu đời Nguyễn, tức đầu thế kỉ XIX. Tác phẩm gồm có 88 mẩu chuyện nhỏ, viết theo thể tùy bút, trong những mẩu chuyện đó, Phạm Đình Hổ đã bàn về những điều mắt thấy tai nghe, những lễ nghi, phong tục tập quán…ghi chép những việc xảy ra trong xã hội lúc đó.
Tất cả những nội dung đó được tác giả trình bày một cách giản dị, sinh động và hấp dẫn. Bởi vậy mà những tác phẩm của Phạm Đình Hổ chẳng những có giá văn chương đặc sắc mà còn cung cấp những tài liệu quý về sử học, địa lí, xã hội học.
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là bài tùy bút mà tác giả Phạm Đình Hổ viết về những điều mà nhà văn chứng kiến trong phủ chúa, đó là những điều mắt thấy tai nghe nên bài tùy bút không chỉ đặc sắc, sinh động mà còn mang tính xác thực, tính tố cáo cao. Mở đầu của bài tùy bút, tác giả Phạm Đình Hổ đã ghi chép lại chính xác thời gian của những sự kiện trong bài tùy bút, đó chính là khoảng năm Giáp Ngọ, Ất Mùi (1774-1775).
Trong khoảng thời gian này, trong nước tuy yên bình, nhân dân yên ổn làm ăn nhưng chúa Trịnh Sâm sau khi lên ngôi thì lâm vào cảnh ăn chơi xa đọa, ham những thú vui lạc thú, không lo việc trị nước mà dùng quyền lực để bắt nhân dân xây dựng cho mình những đền đài, phục vụ cho mục đích ăn chơi, hưởng lạc đồi trụy “ Thịnh Vương (Trịnh Sâm) thích chơi đèn đuốc, thường ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy. Việc xây dựng đình đài cứ liên miên. Mỗi tháng ba bốn lần, Vương ra cung Thụy Liên trên Tây Hồ, binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ, các nội thần đều bịt kín khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hóa chung quanh hồ để bán”.
Vậy là ta có thể thấy việc ăn chơi hưởng lạc của chúa Trịnh Sâm không chỉ hoang phí, tốn kém, tiêu hao ngân sách triều đình mà còn làm cho cuộc sống của người dân thêm phần lầm than, đau khổ vì đủ thứ sưu cao, thuế nặng. Không những vậy, những người nông dân còn bị bắt đi lính khổ sai, xây dựng lên những công trình nguy nga tráng lệ, vô cùng tốn kém để phục vụ cho thú vui của chúa.
Trong triều đại của chúa Trịnh Sâm, sự thối nát tiêu cực bộc lộ ra từ người đứng đầu là vua Trịnh Sâm đến những người hiền thần được xem là trụ cột của quốc gia.Trước sự ăn chơi xa hoa thì những người hiền thần này không những không can ngăn chúa mà còn hùa theo những trò tiêu khiển của chúa một cách quái đản, họ mặc trang phục của nữ giới và bày bán những thú đồ hang bên bờ hồ. Qua cách miêu tả của tác giả Phạm Đình Hổ ta thấy được sự lố lăng kệch cỡm của những con người tự xưng là bậc phụ mẫu của nhân dân.
Điều mà chúa Trịnh Sâm làm được cho dân không phải cuộc sống ấm no, cuộc sống thái bình mà là những đau khổ, lầm than không sao kể xiết. Cuộc du ngoạn của chúa cũng thật lố lăng đến mức nực cười, thuyền ngự đến đâu thì quan hỗ tụng đại thần lại có thể tùy ý ghé vào mua bán các thứ như cửa hang trong chợ.
Đỉnh điểm của những trò lố lăng, kệch cỡm đó chính là những nơi thiêng liêng như chùa Trấn Quốc cũng bị mang ra làm thú vui tiêu khiển cho bọn vua chúa vô năng “ Cũng có lúc cho bọn nhạc công ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc, hay dưới bóng cây bến đá nào đó, hòa vài khúc nhạc”.
Chúa Trịnh Sâm khi mới lên ngôi vốn là một con người có trí tuệ, thông minh quyết đoán nhưng sau khi giành được vương vị thì bỗng thành ra đổ đốn, ăn chơi hưởng lạc và trở thành một vị chúa điển hình cho những thói hưởng lạc kệch cỡm, xa hoa bậc nhất lịch sử triều đại phong kiến Việt Nam. Sau khi dẹp được các bè phái đối lập, Trịnh Sâm kiêu căng sa đọa vào những thú vui xa xỉ. Chúa Trịnh Sâm say mê Đặng Thị Huệ, phế con trưởng lập con thứ gây nên bao nhiêu cảnh bạo ngược.
Không chỉ đắm chìm trong tửu sắc, cuộc sống xa hoa trụy lạc mà chúa Trịnh Sâm cũng say mê những trân cầm dị thú ttrong dân gian, để có được những thứ mình thích, chúa đã dung quyền lực để thu về hết, không cần quan tâm đó là của ai và giành lấy bằng cách cướp đoạt trắng trợn.
Từ những thứ nhỏ gọn như cổ mộc quái thạch đến những thứ to lớn, rườm rà chúa đều sai người lấy về bằng hết: “ bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, Chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì. Có khi lấy cả cây đa to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về…”
Đối ngược với cuộc sống lầm than chốn dân gian, nơi phủ chúa lại vô cùng xa hoa tráng lệ, trong phủ được trưng bày đủ những thứ quý giá, đẹp đẽ trong dân gian “Trong phủ, tùy chỗ điểm xuyết bày vẽ ra hình núi non bộ trông như bến bể đầu non”. Không chỉ viết về cuộc sống của chúa Trịnh Sâm mà tác giả Phạm Đình Hổ còn nói đến cuộc sống đầy bất an của dân chúng khi thói trộm cướp, cường quyền hoành hành khắp nơi.
Bọn quan lại cậy quyền mà dò xét những thứ quý giá trong dân gian, một khi đã lọt vào mắt xanh của chúng thì chúng sẽ bày ra việc “phụng thủ” ý chỉ của chúa để thu gom cho bằng hết, cuộc sống của người dân luôn trong tình trạng nơm nớp lo sợ, cảnh giác khi về khuya “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồm ào trận mưa sa gió táp, kẻ thức giả biết đó là triệu bất thường. Bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, mang ra ngoài dọa dẫm…”.
Tác giả còn nói về hoàn cảnh trớ trêu, hài hước của chính mình, nhà tác giả có cây lê đẹp và thơm, cây lựu trắng đỏ đẹp mắt cũng bị những người cung nhân sai chặt đi “Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà tiền đường có trồng một cây lê….hai cây lựu trắng đỏ…bà cung nhân ta sai chặt đi cũng vì cớ đó”.
Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh- Mẫu 11
Nhắc tới Phạm Đình Hổ (1768 – 1839), người đờ nhớ tới tác phẩm ‘Vũ trung tùy bút’ của ông. Một bút pháp nghệ thuật tinh tế, tài hoà, một phong thái thư nhàn cao nhã, ông tiêu biểu cho cốt cách kẻ sĩ Bắc Hà cuối then Lê – Trịnh và thời kì đầu nhà Nguyễn.
‘Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh’ là một trang tùy bút đặc sắc, rút trong ‘Vũ trung tùy bút’ của Phạm Đình Hổ. Tùy hứng mà viết, tùy bút mà viết, cảm hứng dào dạt, dâng trào. Cảnh ăn chen xa hoà của Chúa Trịnh Sâm, cảnh bán hàng của bọn nội thần nội thị, cảnh tấu nhạc của bọn nhạc công cung đình tại chùa Trấn Quốc nơi Hồ Tây giữa thế kỉ xvIII, sự nhũng nhiễu của bọn hoạn quan khắp chốn dân gian… đã được tác giả ‘Vũ trung tùy hút’ chấm phá qua một vài nét, thế mà ta chỉ đọc qua một lần là có thể nhớ mãi.
‘Chuyện cũ…’ đã xảy ra vào 2 năm Giáp Ngọ – Ất Mùi (1774 – 1775), đó là lúc Đàng Ngoài ‘vô sự’, là những năm tháng hoàng kim của Thịnh Vương (Trịnh Sâm); khi mà người ngọc Đặng Thi Huệ được Chúa sủng ái trở thành nguyên phi. Trịnh Sâm sống trong xa hoà: ‘thích đi chơi ngắm cảnh đẹp, thường ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tủ Trầm, núi Dũng Thúy. Chúa ra chơi cung Thụy Liên trên hờ Tây Hồ mỏi tháng ba bốn lấn’.
Cảnh đón tiếp với các thứ nghi lễ thật tưng bừng độc đáo. Có ‘binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ’. Có tổ chức hội chợ, do quan nội thần cải trang ‘đẩu hit khán, mặc áo dàn hà, bày hách hóa chung quanh hồ để hán’. Thuyên ngự đi tới đâu thì các quan hỗ tụng đại thần tùy ý ghé vào bờ mua bán các thứ… Gác chuông chùa Trấn Quốc trở thành nơi hòa nhạc của bọn nhạc công Cung đình.
Đình đài, cung điện được xây dựng ‘liên tục’ nhằm thỏa mãn cuộc sống ăn chơi của vua chúa và bọn quan lại thời Lê – Trịnh. Bao nhiêu tiền của, vàng bạc, châu báu, nước mắt mồ hồi của nhân dân bị bòn vét đến kiệt cùng. Phạm Đình Hổ đã được mắt thấy tai nghe những ‘chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh’ nên cách kể, cách tả của ông rất sống.
Để được sống trong xa hoa, hưởng lạc cuộc đời vàng son đế vương, từ chúa đến quan đều trở thành bọn cướp ngày ra sức hoành hành, trấn lột khắp chốn cùng quê. Chúa thì ‘sức thu lấy’ trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoà cây cảnh ờ chốn dân gian ‘không thiếu một thứ gì’.
Có những cây cảnh ‘cành lá rườm rà… như cây cổ thụ mục trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng’ phải dùng đến một cơ binh mới khiêng nổi, từ bên Bắc chở qua sông đem về. Trong phủ chúa ‘điểm xuyết’ bao núi non bộ trông lạ mắt như ‘bốn bể đầu non’. Vượn ngự uyển, trong những đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bể, hoặc nửa đêm ‘ồn ào như trận mưa sa, gió táp, vỡ tổ tan đàn’. Nếu như trong ‘Thượng kinh kí sự’ Lê Hữu Trác ngạc nhiên viết:
‘Hoà cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen.
Quê mùa cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phù đào nguyên thuở nào’.
thì ở đây, Phạm Đình Hổ ái ngại nghĩ: ‘kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường’. Cuộc sống cực kì xa hoà ấy là nguyên nhân cho sự sụp đổ ngai vàng ngày một ngày hai sẽ xảy ra. Đó là năm 1782, Trịnh Sâm qua đời; loạn kiêu binh bùng nổ, kinh thành Thăng Long bị đốt phá tan hoang; năm 1786, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc Hà lần thứ nhất, cơ nghiệp họ Trịnh tan tành trong nháy mắt! ‘Cái triệu bất thường’ mà Phạm Đình Hổ nghĩ tới thật linh nghiệm. Quy luật cuộc đời vô cùng sòng phẳng, cay nghiệt:
‘Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mổ nấm chung quanh.
Nghìn vàng khôn dổi được mình Lẩu ca viện hát, tan tành còn đâu?’
(‘Văn chiêu hồn’ – Nguyễn Du)
Bọn hoạn quan trong phủ Chúa vừa trắng trợn vừa xảo quyệt, như dân gian đã khinh bỉ chửi vào mặt: ‘Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan’. Chúng dùng thủ đoạn ‘nhờ gió bẻ’ măng, ra ngoài dọa dẫm’. Chi bằng hai chữ ‘phụng thủ’ biên ngay vào chậu hoà cây cảnh, chim tốt khiếu hay của bất cứ nhà nào là chúng cướp được. Chúng còn lập mưu ‘đém đến’ cho tay chân sai lính lẻn vào ‘lấy phăng di, rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để dọa dẫm lấy tiền’.
Chúng ngang ngược ‘phá nhà hủy tường’ của dân để khiêng hòn đá hoặc cây cối gì mà chúng cướp được ! Đối với nhà giàu thì chúng lập mưu vu cho là ‘giấu vật cung phụng’ để hành hạ, để làm tiền, nhiều người phải ‘bỏ cùa ra kêu van chí chết’, có gia đình ‘phải dập bỏ núi non bộ, hoặc phá bò cây cành để tránh khỏi tai vạ’.
Gia đình tác giả thuộc hàng quan lại, quý tộc thời Lê – Trịnh. Trước sự nhũng nhiễu hoành hành, mẹ Phạm Đình Hổ là bà Cung Nhân phải sai người nhà chặt cây lê ‘cao vài mươi trượng, lúc nỏ hoà, trắng xóa thơm lừng’, hai cây lựu trắng, lựu đỏ ‘lúc ra quả trông rất đẹp’. Chi tiết này, tình tiết này rất sống, rất thực. Tác giả đã kể lại một chuyện có thật của gia đình mình ở phường Hà Khẩu để vừa tạo nên niềm tin cho người đọc mai hậu, vừa phê phán bộ mặt tham lam, ghê tởm của bọn quan lại thời Lê – Trịnh, vạch trần sự thối tha trong phủ Chúa.
Trang tùy bút ‘Chuyện cũ trong phù Chúa Trịnh’ của Phạm Đình Hổ có giá trị lịch sử sâu sắc, nó đã làm hiện lên cảnh vật và con người, cuộc sống xa hoà ăn chơi của vua chúa, hành động ăn cướp, làm tiền trắng trợn của bọn quan lại trong phủ Chúa.
Ngòi bút của Phạm Đình Hổ rất trầm tĩnh và sâu sắc. Mọi cảm xúc, ý nghĩ của ông về nhân tình thế sự được gửi gắm qua những chi tiết, tình tiết, mẩu chuyện rất sống, rất chọn lọc, đậm đà, nhã thú.
Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh- Mẫu 12
Tác phẩm “Vũ trung tùy bút” của danh sĩ Phạm Đình Hổ là tập bút kí sinh động của xã hội Viêt Nam thời Lê-Trịnh .”Thượng kinh kí sự” ghi lại hành trình của ông lên kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn văn “Vào phủ chúa Trịnh” trích trong cuốn kí sự ấy rất giàu giá trị hiện thực và cho thấy một ngòi bút đậm đà, tài hoa.
Lần đầu, Lê Hữu Trác được vào Trịnh phủ. Ông ngẫm nghĩ và quan sát rất kĩ càng. Cửa sau vào phủ chúa phải đi qua con đường bên trái, ông ngẩng đầu lên nhìn một khung cảnh tuyệt đẹp “đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”.
Nơi cung cấm, hành lang “quanh co nối nhau liên tiếp”, người giữ cửa, vệ sĩ canh giữ nghiêm ngặt, ai muốn vào ra phải có thẻ, người có việc quan qua lại như mắc cửi, “truyền báo rộn ràng”. Quan sát cảnh cung cấm, Lê Hữu Trác ngẫm nghĩ: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Rồi ông làm thơ nói lên sự ngạc ngạc nhiên, xúc động của mình tựa như “ngư phủ Đào nguyên thuở nào”:
“Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen!”
Ông thầy thuốc trên đường đi khám bệnh, mang tâm hồn thi sĩ, tả cảnh, vịnh thơ, ta tưởng như ông đang đi thăm thú cảnh đẹp. Cách viết kí sự của Lê Hữu Trác hấp dẫn ta vì thế. Trong Trịnh phủ, cung điện nguy nga tráng lệ. Mỗi lâu đài, cung điện có một cái tên riêng. Đó là “Điếm Hậu mã quân túc trực” làm bên một cái hồ, cột và bao lơn “lượn vòng kiểu cách thật là xinh đẹp”, phía ngoài có những cây “lạ lùng”, có những hòn đá “kì lạ”. Nhà “Đại đường” còn gọi là “Quyển bồng”. Là cái lầu cao và rộng, “cột đều sơn son thiếp vàng” gọi là “Gác tía”, nơi Thế tử dùng “chè thuốc”, nên gọi là “Phòng trà”. Lê Hữu Trác có phần choáng ngợp sợ hãi “chỉ dám liếc mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Cảnh đẹp nơi Trịnh phủ, từ vườn hoa đến hồ, từ lầu son đến gác tía là những công trình văn hoá nghệ thuật do tài trí công sức của nhân dân làm nên, vì thế Lê Hữu Trác đã xúc động ngắm nhìn. Cảnh đẹp nơi Trịnh phủ được miêu tả còn mang ý nghĩa hiện thực phản ánh cuộc sống xa hoa của bọn vua chúa thời Lê – Trịnh, cảnh giàu sang “khác hẳn người thường”. Phương tiện đi lại của vua chúa là hai cái kiệu; đồ nghi trượng đều sơn son thiếp vàng. Thứ để ngồi và nằm là một cái sập thiếp vàng, trên sập mắc một cái võng điều đỏ. Xung quanh cái sập bày bàn ghế vô cùng quý giá, sang trọng làm cho ông thầy thuốc phải tấm tắc và cảm thấy “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”. Thế tử – con bệnh – là con Trời, mới lên 5, 6 tuổi mặc áo lụa đỏ, ngồi trên cái sập thiếp vàng. Bên cạnh sập đặt một cái ghế rồng sơn son thiếp vàng, trên ghế bày nệm gấm. Lê Hữu Trác phải đi qua năm, sáu lần trướng gấm mới đến được nơi thế tử ngồi để “lạy bốn lạy” trước và sau khi khám bệnh. Nơi nội cung, đèn sáp chiếu sáng, sau chiếc màn là cung nhân đứng xúm xít, “mặt phấn, màu áo đỏ”. Cả một không gian “lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”. Thật đúng “Cả trời Nam sang nhất là đây!”
Vua chúa và bọn quan lại trong phủ chúa ăn uống như thế nào? Tại điếm “Hậu mã” lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong cuộc đời, vị đại danh y được ăn một bữa cơm ngon nhớ mãi. Tuy chỉ được quan Chánh đường “san mâm cơm cho ăn” nhưng “mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ”. Ông thầy thuốc mà danh tiếng “như sấm động” đã suy nghĩ và nói: “Tôi bây giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”. Chốn đế đô cung cấm là nơi “lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt”. Lê Hữu Trác chỉ mới được đặt chân tới một vài cung điện, mới tiếp xúc một vài cảnh, một số ít người, nhưng ông đã nêu bật được cuộc sống xa hoa, hưởng lạc của vua chúa thời Lê – Trịnh. Cuộc sống đế vương được xây dựng trên mồ hôi xương máu của nhân dân, mọi thứ của ngon vật lạ do người lao động cả nước làm ra bị tước đoạt cho một số ít người hưởng thụ. “Cơm ngự thiện bữa nghìn quan” xưa nay đều thế! Tác giả “Thượng kinh kí sự” có một lối viết rất hiện thực và ấn tượng, mọi chi tiết được ông nói đến rất sống động. Lê Hữu Trác vốn dòng dõi thế tộc thời Lê, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, trong cấm thành chỗ nào cũng đã từng biết, nhưng Trịnh phủ thì “ông mới nghe nói thôi”, lần đầu đi vào ông choáng ngợp như bước vào cảnh thần tiên:
“Quê mùa cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ Đào nguyên thuở nào!”.
Coi thường danh lợi, ông đã vào tận Hương Sơn, Hà Tĩnh sinh sống, chuyên tâm nghề y, lấy chữa bệnh cứu người làm lẽ sống. Vì có tài, tiếng tăm như sấm động nên có thánh chỉ triệu vào cung chữa bệnh cho thế tử. Ông viết một cách hóm hỉnh về cái bả công danh: “Cáng chạy như ngựa lồng, tôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết”. Nửa thế kỉ sau, Cao Bá Quát chua chát viết: “ơn vua kèm theo sấm sét!”.
Tiếp xúc với cảnh và người nơi Trịnh phủ, Lê Hữu Trác có lúc mất tự nhiên, có lúc sợ sệt, hoặc “cúi đầu” hoặc “liếc mắt nhìn”. Lúc xem mạch thì “khúm núm” phải hai lần vái lạy một đứa bé độ 5,6 tuổi, mỗi lần bốn lạy. Lúc kê đơn là một cuộc tự đấu tranh tư tưởng diễn ra vô cùng gay gắt xung quanh vấn đề danh lợi, y đức và chữ nhàn. Ông nghĩ: “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được”, về núi để được sống tự do, thảnh thơi, chan hoà với thiên nhiên. “Lưng không uốn, lộc nên từ là thế. Lương tâm bậc danh y lại nhắc nhở ông “phải dốc hết cả cái lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của ông cha mình mới được”. Cái lòng thành mà ông nói đến là lương y như từ mẫu, là y đức coi việc chữa bệnh cứu người là lẽ sống cao đẹp. Vì thế, mặc dù quan Chánh đường có gợi ý nên dùng những vị thuốc “phát tán mới xong”, mặc dù có năm, sáu vị lương y của sáu cung, hai viện đang ngày đêm chầu chực xung quanh con bệnh, nhưng Lê Hữu Trác vẫn có chủ kiến riêng, lập luận riêng của mình: “Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bồi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên…”. Qua đó, ta thấy tài năng và đức độ của Lê Hữu Trác, một đại danh y coi thường danh lợi, sống thanh bạch, thích nhàn, lấy việc trị bệnh cứu người, đạt lên trên hết, lên trước hết. Biệt hiệu “Lãn Ông” thật giàu ý nghĩa: ông già lười, lười làm quan và biếng danh lợi. Thật hay và thú vị, ta cảm thấy như được tác giả dẫn đi xem cung điện Thăng Long thời Lê – Trịnh.
Đoạn văn cũng như toàn tác phẩm “Thượng kinh kí sự” vừa có giá trị văn chương vừa giàu giá trị lịch sử. Đoạn văn rất giàu tính hiện thực, phản ánh chân thực cảnh vàng son nơi Trịnh phủ và cuộc sống xa hoa, phú quý của vua chúa, quan lại thời Lê – Trịnh. Cách viết của Lãn Ông rất đặc sắc hấp dẫn. Vừa tả, vừa kể, vừa lồng ý nghĩ cảm xúc, rất chân thực, hóm hỉnh. Ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ cung đình, ngôn ngữ chuyên môn về y học được tác giả sử dụng rất sáng tạo, biến hoá.
Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh- Mẫu 13
Trong các áng văn xuôi thời kì trung đại ở nước ta, bên cạnh Truyền kì mạn lục – một “Thiên cổ kì bút” – người đời thường nhắc tới Vũ trung tuỳ bút (Theo ngọn bút viết trong khi mưa) của Phạm Đình Hổ. Tác phẩm ra đời vào đầu thế kỉ XIX. Khác với Truyền kì mạn lục, tập sách “viết trong mưa” ấy thuộc thể loại tuỳ bút. Dùng văn tuỳ bút, danh nho Phạm Đình Hổ đã tuỳ theo hứng thú và suy nghĩ của riêng mình, ghi chép lại những sự việc, những câu chuyện cụ thể chân thực, những điều tai nghe, mắt thấy trong cuộc sống.
Khi đọc Truyền kì mạn lục, chúng ta bắt gặp đây đó những yếu tố lãng mạn, huyền ảo, còn trong Vũ trung tuỳ bút thì đậm đặc chất hiện thực. Một trong những bức tranh hiện thực ấy là những chuyện trong phủ chúa Trịnh Sâm. Viết lại những câu chuyện cũ ấy, tác giả dự báo “đó là triệu bất tường”, là những dấu hiệu không lành, những điềm gở.
Trước hết là những câu chuyện về thói ăn chơi xa xỉ, vô độ của chúa Trịnh Sâm và các quan lại hầu cận trong phủ chúa. Tác giả Phạm Đình Hổ kể ba sự việc tiêu biểu. Việc thứ nhất: Chúa cho xây dựng nhiều cung điện, đình đài ở các nơi để thỏa mãn ý thích “đi chơi ngắm cảnh đẹp”, ý thích đó cứ triền miên, nối tiếp tưởng đến không cùng. Vì vậy, nhà văn viết “Việc xây dựng đình đài cứ liên miên”.
Nghĩa là việc huy động sức dân, thu tiền bạc, chiếm đất đai, bắt nhân công liên tục diễn ra hàng tháng, hàng năm, nơi này, nơi khác. Việc thứ hai: Những cuộc rong chơi của chúa Thịnh Vương (Trịnh Sâm). Chúa thường thích đi chơi, thường ngự – tới ăn ngủ, ngắm cảnh đẹp, hưởng của ngon, vật lạ, thỏa mãn thú vui cả thể xác lẫn tinh thần – ở các li cung (cung điện, lâu đài xa kinh thành) trên Hồ Tây, núi Tử Trầm, núi Dũng Thuý.
Trong những chuyến du lịch ấy của chúa đặc biệt nhất là cuộc dạo chơi trên Hồ Tây. Vòng quanh bốn mặt hồ, binh lính phải “dàn hầu”, vừa để bảo vệ vừa sẵn sàng làm theo lời chúa sai bảo. Cũng vòng quanh bốn mặt hồ, các quan trong triều phải “đầu bịt khăn, mặc áo đàn bà” cải trang là những thị dân buôn bán, bày hàng hoá như một khu chợ sầm uất, đông vui, vui cho thiên hạ thì ít mà vui cho chúa thì nhiều.
Thuyền ngự đến đâu thì chúa và các hỗ tụng đại thần tuỳ ý ghé vào bờ mua bán. Chúa và cận thần tới, thì nhạc công phải tấu lên những khúc nhạc dặt dìu gần xa vẳng từ dưới bóng cây, bến đá nào đó. Đúng là bức tranh cuộc sống phồn hoa mà giả dối. Tác giả chỉ ghi chép khách quan, không một lời nhận xét, mà sự việc nó cứ tự phơi bày những nét rởm hợm, nực cười, đáng chê trách.
Việc thứ ba – đáng chê trách hơn – là câu chuyện chúa “sức thu lấy” – ra lệnh bằng văn bản – cướp đoạt một cách trắng trợn tất cả “những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh” trong nhân dân. Chọn một cảnh điển hình của những cuộc cướp đoạt ấy – cảnh lính tráng chở một cây đa cổ thụ về phủ chúa – tác giả miêu tả bằng những từ ngữ sống động, một giọng văn thật nặng nề.
Cây đa to, cành lá rườm rà, được rước qua sông”… như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ binh mới khiêng nổi, lại bốn người đi kèm, đều cầm gươm đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng đi cho đều tay”. Đó là một đám rước công phu, tốn kém. Cây đa ấy vốn ở đầu non hốc đá tự do – phóng khoáng giữa rừng núi nay bị rước về vườn nhà chúa bề ngoài có vẻ oai phong, song nhìn kĩ thấy tội nghiệp quá.
Bởi vì từ nay, đa đâu còn là biểu tượng trường tồn, bất diệt, biểu tượng cho sức sống của con người, của quê hương, đất nước. Đa đã bị ép buộc để “điểm xuyết, bày vẽ” thành thứ đồ chơi riêng của nhà chúa. Cây đa cũng giống như thân phận của muôn loài trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch, chậu hoa cây cảnh trong dân gian đã bị cầm tù, bị tha hoá. Bao nhiêu cái đẹp của tự nhiên, những thú vui tao nhã, chính đáng của nhân dân đã bị nhà chúa chiếm đoạt. Số phận của cây trời, đá núi, hoa lá,… vô tri thì như thế, hỏi số phận con người ra sao?
Người viết tùy bút, danh nho Phạm Đình Hổ đã đưa ra những sự việc cụ thể chân thực và khách quan, không bình luận mà các hình ảnh, chi tiết cứ hiện lên đầy ấn tượng. Ấn tượng nhất là cảnh đêm nơi vườn nhà chúa: “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”…
Tiếng chim kêu, vượn hót khắp bốn bề giữa đêm khuya thanh vắng, hay là tiếng muôn loài than thở? Trận mưa sa gió táp ồn ào hay sự giận dữ của trời đất? Những âm thanh ấy gợi cảm giác ghê rợn như một điều gì đó đang tan tác đổ vỡ, suy sụp đau đớn, chứ không phải là một cảnh đẹp bình yên, phồn thực, no ấm. Nghe những âm thanh ấy “kẻ thức giả” – nhà nho Phạm Đình Hổ biết “đó là triệu bất tường”.
Đến dòng văn cuối của những câu chuyện nhà chúa, cảm nghĩ của tác giả bộc lộ trực tiếp, nhưng lời văn vẫn nhẹ nhàng, tế nhị, gián tiếp bằng một danh từ chung là “kẻ thức giả”. Kẻ thức giả là những người có học vấn, có hiểu biết sâu rộng. Viết câu văn ấy, Phạm Đình Hổ là một người có tầm phán đoán, dự cảm chính xác.
Ông đã thấy rõ những cuộc ăn chơi xa hoa, vô độ của chúa Trịnh Sâm là “triệu bất tường”, những dấu hiệu không lành, những điềm gở. Nó báo trước sự suy vong tất yếu của một triều đại chỉ chăm lo việc ăn chơi hưởng lạc trên mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của dân lành. Quả thực, điều đó đã xảy ra không lâu sau khi Trịnh Sâm mất.
Sách xưa có câu “Thượng bất chính, hạ tắc loạn” – cấp trên không chân chính, nghiêm túc thì cấp dưới tất sẽ làm loạn. Chúa ở ngôi cao mải mê ăn chơi, sa đọa, tất yếu các quan cấp dưới ỷ thế làm càn. Do đó, từ những câu chuyện của chúa, Phạm Đình Hổ chuyển ý, kể đến chuyện các quan “bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm…”.
Ở đoạn văn thứ hai này, tác giả tập trung kể một sự việc. Đó là việc bọn hoạn quan bày trò cướp đoạt, vu cáo, phá hoại tài sản của nhân dân một cách trắng trợn, tàn ác. Chúng thực hiện công việc rất “bài bản”. Động tác một: “Dò xem” nhà nào có vật quý, thì biên vào hai chữ “phụng thủ” nghĩa là lấy để dâng chúa.
Động tác thứ hai: “Trèo qua tường thành lẻn ra”… “lấy phăng đi”… Động tác thứ ba: Nếu nhà nào phản ứng, thì “buộc cho tội giấu vật báu” của vua chúa… Ở đoạn văn tùy bút này nhà văn sử dụng liên tục các động từ miêu tả thái độ và hành động bọn hoạn quan trong ba câu văn đặc tả với những từ ngữ nhấn mạnh: “Dò xem”, “trèo”, “lẻn”, “lấy phăng”, “buộc tội”, “dọa dẫm”, … Đúng là những thái độ, hành động của một lũ đầu trâu mặt ngựa, vừa ăn cướp, vừa la làng, “Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham” (Truyện Kiều).
Hậu quả của những vụ cướp bóc trắng trợn ấy là: Người dân bị buộc tội phải nộp tiền, phải “phá nhà huỷ tường… bỏ của ra kêu van chí chết” và tự mình phải “đập bỏ núi non bộ hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ”. Người dân phải chịu biết bao nhiêu cảnh đau đớn, bao nhiêu bất công, phi lí. Chính tại gia đình Phạm Đình Hổ – một gia đình quý tộc cận kề phủ chúa – cũng bị cái hoạ ăn cướp kia gieo xuống.
Trước nhà tiền đường trồng một cây lê hoa trắng xoá thơm lừng, trước nhà trung đường trồng hai cây lựu ra quả trông rất đẹp … “Bà cung nhân ta đều sai chặt đi cũng là vì cớ ấy”. So với giọng văn kể chuyện các gia đình khác quanh kinh thành bị quấy nhiễu, giọng kể ở đoạn văn cuối này có vẻ như nhẹ nhàng hơn, song nó tô đậm thêm tính hiện thực, tăng thêm ý nghĩa phê phán, tố cáo.
Bởi vì, nạn cướp bóc, sách nhiễu ở thời Trịnh Sâm đã trở thành cơn sốc trong xã hội, không chỉ gây đau khổ cho dân thường mà còn đe dọa cả những gia đình quyền quý, quan lại, không chỉ cướp bóc của cải vật chất mà còn huỷ diệt cả những thú vui tao nhã mang tính văn hoá truyền thống của biết bao gia đình Việt Nam chúng ta.
Những từ ngữ cuối đoạn văn dừng lại, nhưng lời kể của tác giả vẫn còn vương vấn ngân nga trong lòng chúng ta những cảm giác xót xa, nuối tiếc, thương cho cây đẹp, hoa thơm, cảm thống với những con người phải sống trong một xã hội phong kiến hỗn loạn mục nát đến như vậy.
Đoạn tùy bút Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh ấy không chỉ có giá trị hiện thực, phơi bày bộ mặt xấu xa của chúa, của bọn quan lại, lính tráng mà còn hấp dẫn bạn đọc bởi một ngòi bút tài hoa. Phạm Đình Hổ đã ghi chép người thực, việc thực rất cụ thể, chính xác, theo trí nhớ, cảm xúc, suy nghĩ của riêng mình.
Từ ngữ câu văn tự nhiên, trôi chảy, không bị gò bó bởi cốt truyện, nhân vật…như trong truyện ngắn. Khi kể chuyện, lúc chuyển sang miêu tả, ngẫu hứng thì điểm vào một dự cảm, dự báo, nhịp văn lúc khoan thai, khi dồn dập nhấn mạnh,… ngỡ như buông thả tự do nhưng tác phẩm vẫn tập trung vào một chủ đề, toát lên cảm xúc trữ tình rõ nét của tác giả.
Nói tóm lại, bằng thể văn tùy bút ghi chép tùy hứng những sự việc một cách cụ thể, chân thực, sinh động, Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh giúp chúng ta hiểu về đời sống xa hoa vô độ của bọn vua chúa, quan lại phong kiến thời vua Lê, chúa Trịnh suy tàn nửa cuối thế kỉ XVIII. Đó là một xã hội đầy rẫy những dấu hiệu không lành, những điềm gở đáng chê trách và đáng xóa bỏ. Lịch sử đã xóa bỏ cái xã hội ấy.
Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh- Mẫu 14
Lê Hữu Trác hay còn gọi là Hải Thượng Lãn Ông (1720-1791) là một danh y Đại Việt. Ngoài các công trình y học trong bộ Y tông tâm lĩnh gồm 66 quyển, ông còn để lại nhiều thơ văn, trong đó có kiệt tác độc bản Thượng kinh ký sự. Phong cách thơ của ông nhẹ nhàng, hóm hỉnh, hiện thực và thể hiện một nhân cách cao thượng: trọng thiên nhiên, yêu thương đồng loại, thích cuộc sống an nhàn, không màng danh lợi.
“Thượng kinh ký sự” ghi lại chuyến hành trình của ông đến kinh thành Thăng Long để chữa bệnh cho thái tử Trịnh Cán. Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” trong cuốn sử ký đó đặc biệt đáng chú ý vì giàu chất hiện thực và thể hiện một nhà văn điêu luyện và tài hoa.
Lần đầu vào phủ chúa Trịnh, Lê Hữu Trác đã cẩn thận quan sát và chiêm nghiệm xung quanh. Anh nhận thấy rằng lối vào cung điện của hoàng tử là qua một con đường ở phía bên tay trái. Ngẩng đầu lên, trước mắt là một cảnh tượng ngoạn mục: “Cây cối tươi tốt vây quanh, chim hót líu lo, muôn hoa đua nở, gió nhẹ mang theo hương thơm ngào ngạt.”
Khu vực bị hạn chế, những hành lang quanh co liên kết với nhau, người đứng gác cửa và các vệ sĩ canh giữ đều thực hiện nghiêm ngặt việc kiểm soát thẻ vào ra. Những người có việc quan trọng phải di chuyển nhanh chóng, gây ra sự ồn ào.
Khi Lê Hữu Trác nhìn quan sát khu vực hạn chế, ông suy ngẫm: “Chân tới nơi đây mới cảm nhận được sự giàu có xa hoa của những vị vua chúa, khác hẳn với những người bình thường”. Sau đó, ông viết thơ để miêu tả cảm xúc ngạc nhiên và xúc động của mình, giống như “ngư phủ Đào nguyên thuở nào”.
Ông thầy thuốc đi khám bệnh, nhưng lại mang trong mình tâm hồn thi sĩ, lưu lại cảnh vật và những vịnh thơ tuyệt vời. Nhìn những gì ông miêu tả, ta có cảm giác như đang dạo bước trong một khu vườn thơ mộng. Phong cảnh tại Trịnh phủ nguy nga và tráng lệ, với mỗi lâu đài, cung điện được đặt tên riêng, như “Điếm Hậu mã quân túc trực” nằm bên hồ lớn, được bao quanh bởi những cột và bao lớn “lượn vòng kiểu cách thật là xinh đẹp”. Các cây xung quanh cũng rất “lạ lùng” và những hòn đá kì lạ làm cho cảnh vật trở nên đặc biệt hơn. Nhà “Đại đường” còn được gọi là “Quyển bồng”, một lầu cao và rộng với những cột được sơn son thiếp vàng được gọi là “Gác tía”. Đây là nơi Thế tử uống “chè thuốc” và vì thế nó được gọi là “Phòng trà”.
Lê Hữu Trác đã bị choáng ngợp và sợ hãi bởi cảnh đẹp nơi Trịnh phủ. Tất cả những công trình văn hoá nghệ thuật, từ vườn hoa đến hồ, từ lầu son đến gác tía, đều là thành quả của tài trí và công sức của nhân dân. Tuy nhiên, cảnh đẹp tại Trịnh phủ còn là hiện thực phản ánh cuộc sống xa hoa của vua chúa thời Lê – Trịnh. Điều này khiến Lê Hữu Trác xúc động và cảm thấy rằng cảnh vật giàu sang này “khác hẳn người thường”. Phong cảnh này được miêu tả bởi Lê Hữu Trác mang lại sự hấp dẫn đặc biệt cho độc giả.
Vua chúa sử dụng hai cái kiệu làm phương tiện đi lại, và các đồ nghi trượng đều được sơn son thiếp vàng. Để ngồi và nằm, họ sử dụng một cái sập thiếp vàng, trên đó mắc một cái võng điều đỏ. Xung quanh sập, bày đầy các bàn ghế quý giá, sang trọng đến nỗi ông thầy thuốc phải ngạc nhiên và cảm thấy “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”.
Thế tử, con của vua, mới được 5, 6 tuổi, mặc áo lụa đỏ và ngồi trên một cái sập thiếp vàng. Bên cạnh sập, có một cái ghế rồng sơn son thiếp vàng, trên đó được bày nệm gấm. Lê Hữu Trác phải đi qua năm, sáu lần trang trí gấm mới đến được nơi thế tử ngồi để “lạy bốn lạy” trước và sau khi khám bệnh. Nơi nội cung, có đèn sáp chiếu sáng, và sau chiếc màn là các cung nhân đứng xúm xít, “mặt phấn, màu áo đỏ”. Toàn bộ không gian toả ra sự lấp lánh, hương hoa ngào ngạt. Như thể “cả trời Nam cũng không sang hơn được nơi này!”
Các quan trong phủ chúa và vua chúa ăn uống như thế nào? Tại quán “Hậu mã”, đại danh y Lê Hữu Trác được thưởng thức một bữa cơm ngon đáng nhớ trong cuộc đời. Quan Chánh đường chỉ cung cấp “mâm cơm cho ăn”, nhưng đầy đủ đồ ăn ngon và xa xỉ, từ mâm vàng, chén bạc, đến các loại thực phẩm lạ. Với danh tiếng “như sấm động”, Lê Hữu Trác bày tỏ: “Tôi bây giờ mới biết được hương vị của một gia đình giàu có”.
Cung điện đế vương là nơi “lính nghìn cửa” cảnh giới và chỉ một vài nơi đã được Lê Hữu Trác ghé thăm, tuy nhiên ông đã phát hiện ra cuộc sống xa hoa, tiêu sài của vua chúa thời Lê-Trịnh. Cuộc sống xa hoa này được xây dựng trên nỗi đau và mồ hôi của nhân dân.
Lê Hữu Trác sinh ra trong một gia đình quý tộc thời Lê, lớn lên trong cảnh phồn hoa nơi tử cấm thành, thông thuộc mọi ngõ ngách. Tuy nhiên, ông chưa từng nghe nói đến phủ chúa Trịnh cho đến khi lần đầu tiên đến đây và choáng ngợp, ngỡ như lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh:
“Quê mùa cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ Đào nguyên thuở nào!”.
Không màng danh lợi, ông vào Hương Sơn, Hà Tĩnh để cống hiến hết mình cho nghề y cứu người. Do tài năng và danh tiếng, ông được triệu vào cung để chữa bệnh cho thái tử. Anh hài hước viết về sự nổi tiếng bất ngờ của mình rằng: “Tôi chạy như một con ngựa xổng chuồng, vấp ngã và đau đớn rất nhiều”.
Nửa thế kỷ sau, Cao Bá Quát đã mỉa mai nhận xét “Ơn vua kèm theo sấm chớp!”.
Khi đứng trước người và cảnh vật trong phủ chúa Trịnh, Lê Hữu Trác đôi khi cảm thấy bất an và sợ hãi, cúi đầu hoặc liếc nhìn lén lút. Một lần, khi bắt mạch cho một đứa trẻ, ông ấy lạy bốn lạy đứa bé năm sáu tuổi, tỏ lòng kính trọng vô cùng.
Kê đơn, một thời điểm quan trọng trong cuộc đời của Lê Hữu Trác, được đánh dấu bằng một cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt về các vấn đề danh lợi, y đức và tự do cá nhân. Anh nghĩ: “Nếu mình thành công ngay lập tức, danh sẽ xiềng xích mình, và mình sẽ không thể trở về núi được”. Anh khao khát sự tự do, nhàn hạ và hòa hợp với thiên nhiên mà núi rừng ban tặng. “Cột sống của ta có thể không cong, nhưng vận mệnh của ta đã định!”
Lương tâm người thầy thuốc nhắc nhở ông phải “dốc hết tâm sức” để tiếp nối di sản y học của cha ông. Tâm lương mà ông nói đến chính là mẫu mực của y đức, coi chữa bệnh cứu người là mục đích cao đẹp nhất, cao quý nhất của đời người thầy thuốc. Bất chấp những lời đề nghị của quan ngự y trong triều về việc sử dụng “thuốc tân dược”, và mặc dù sáu thái y và hai thái y đã miệt mài chăm sóc cho đứa trẻ ốm yếu, Lê Hữu Trác vẫn kiên định với quan điểm và lập luận của mình.
Lê Hữu Trác, một đại danh y tài năng và đức độ, không mê danh lợi mà sống một cuộc đời thanh bạch và nhàn nhã. Với ông, việc trị bệnh cứu người là trên hết và lên đầu. Biệt danh “Lãn Ông” mang ý nghĩa rất sâu: ông là người già lười, lười làm quan và không ham danh lợi.
Bên cạnh đó, đoạn văn “Vào phủ chúa Trịnh” rất hấp dẫn và thú vị, giống như tác giả đang dẫn chúng ta tham quan cung điện Thăng Long thời Lê-Trịnh. Nó không chỉ có giá trị văn chương mà còn có giá trị lịch sử. Tác giả tuyệt vời trong việc tả và kể chân thực cảnh quan vàng son nơi Trịnh phủ và cuộc sống xa hoa của vua chúa, quan lại thời Lê-Trịnh. Phong cách viết của Lãn Ông rất đặc sắc và lôi cuốn, hỗn hợp giữa ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ cung đình và ngôn ngữ chuyên môn về y học.
Tuy nhiên, đoạn văn “Vào phủ chúa Trịnh” còn phản ánh cả một tâm hồn đẹp và một nhân cách cao quý của Lãn Ông.
Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh- Mẫu 15
Di sản của Lê Hữu Trác vượt ra ngoài chuyên môn y học ấn tượng của ông để bao gồm một tính cách cao thượng và trong sáng. Những đóng góp của ông cho hậu thế vượt xa kinh nghiệm y học quý giá của ông và bao gồm những miêu tả chân thực về xã hội phong kiến trong thời đại của ông. “Thượng kinh ký sự” là tác phẩm Lê Hữu Trác chia sẻ những điều mắt thấy tai nghe trong thời kỳ đó. Qua đó giúp ta hiểu được lối sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh và khẳng định phẩm hạnh, phẩm giá của người thầy thuốc tài hoa này.
“Phủ chúa Trịnh” là một đoạn trích trong “Thượng kinh ký sự” của Hải Thượng Lãn Ông. Đoạn văn ghi lại thực trạng lối sống xa hoa, quyền thế trong phủ chúa Trịnh khi tác giả được triệu vào cung để chữa bệnh cho thái tử Trịnh Cán.
Cách miêu tả chi tiết, chân thực giúp người đọc có thể theo chân tác giả chiêm ngưỡng khung cảnh của “nơi phồn hoa, sang trọng bậc nhất trời Nam”. Quang cảnh trong phủ chúa Trịnh thật là hùng vĩ. Để vào cung điện, người ta phải đi qua nhiều cổng và “một loạt hành lang quanh co” với lính canh ở mỗi cửa, và “phải có thẻ” để đến và đi. Sự sang trọng còn thể hiện rõ qua những món đồ chỉ dành riêng cho giới quý tộc, từ “đại sảnh”, “vương trượng nghi lễ”, “giường có màn che” với chiếc ghế kiệu bằng vàng cho đến những chiếc bình, đĩa tinh xảo đều được mạ vàng. Cung điện bên trong được trang trí bằng “những thứ mà thường dân chưa từng thấy trước đây.” Để vào được phòng của hoàng tử, tác giả phải đi qua nhiều tấm lụa. Ngoài ra còn có sự nhộn nhịp của kẻ hầu người hạ: “Gia nhân chạy trước”, “Người canh cửa náo nức báo cáo, quan nhân ra vào như kiến bầy”. Quá trình khám bệnh của giới quý tộc diễn ra trong im lặng, phải “đứng từ xa nín thở chờ đợi” và “cúi đầu trước giường bắt mạch”. Có lẽ vài câu khó có thể lột tả hết khung cảnh xa hoa và lối sống buông thả của họ Trịnh. Đằng sau những miêu tả sinh động, chân thực ấy có thể còn là bản cáo trạng đanh thép về sự xa hoa, buông thả của chúa đối lập hoàn toàn với cuộc sống bần cùng, cơ cực của người dân thường.
Ở trên, Lê Hữu Trác đã chứng tỏ tài năng kể chuyện xuất sắc của mình, và ở đây, ông lại cho chúng ta thấy tài năng và phẩm chất của một danh y lỗi lạc. Khác với những người khác, ông đã mạnh dạn chỉ ra nguyên nhân bệnh tình của hoàng tử: “vì sống trong chốn cung cấm xa hoa, hoàng tử ăn uống no đủ, mặc áo ấm quá nên cơ thể yếu đi”. Những điều này tạo ra sự mệt mỏi và thiếu sinh khí, và đây là căn bệnh của những người giàu có, do cuộc sống xa hoa, không quan tâm đến cuộc sống của nhân dân. Vì vậy, tác phẩm không chỉ thể hiện sự thực tế xã hội sâu sắc của thời đại, mà còn cho thấy tấm lòng tốt của danh y đối với nhân dân và đất nước.
Thay vì theo đuổi những thứ vật chất, xa hoa và danh vọng, Lê Hữu Trác đã chọn lối sống cao cả của một ẩn sĩ. Trong bối cảnh xã hội phức tạp, đây là lựa chọn của nhiều nhà giáo chân chính:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chỗ lao xao”.
Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh- Mẫu 16
Phạm Đình Hổ (1768 – 1839), quê ở tỉnh Hải Dương. Ông sinh ra trong một gia đình làm quan cuối thời Lê – Trịnh. Phạm Đình Hổ là người rất tài giỏi. Điều này được minh chứng rất rõ khi ông còn rất nhỏ, khi còn đi học. Ông sáng tác rất nhiều văn thơ chữ Hán có giá trị về nhiều mặt. Nổi bật nhất phải kể đến tác phẩm “Vũ trung tùy bút”, đây là tác phẩm gắn liền với tên tuổi của Phạm Đình Hổ. Trong đó, Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là một trang tùy bút nổi bật trong tác phẩm.
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh được viết dựa vào câu chuyện khoảng năm Giáp Ngọ – Ất Mùi. Đó là những ngày tháng nhung lụa của chúa Trịnh Sâm. Trịnh Sâm sống trong xa hoa, quyền quý với những thú vui sa đọa. Điều này được thể hiện rõ qua những chi tiết như Chúa thích đi chơi ngắm cảnh đẹp, tháng ba bốn lần.
Việc đón tiếp Chúa cũng phải linh đình long trọng không thua kém bất kì lễ hội nào. Thuyền Chúa dừng lại đâu thì các quan lại ghé vào bờ mua bán tấp nập. Chùa Trấn Quốc đã trở thành nơi hòa tấu nhạc, mua vui của lũ nhạc công ở cung đình. Đình, điện được xây dựng, trùng tu để thỏa mãn cuộc sống ăn chơi trác táng của vua chúa cũng như bọn quan lại Lê – Trịnh. Tất cả kinh tế, tiền của của nhân dân đều phục vụ cho mục đích đó của chúng.
Sống trong xa hoa, hưởng lạc nên từ chúa đến lũ quan lại đều trở thành những “lũ cướp” trắng trợn nhân dân. Phạm Đình Hổ đã khắc họa rất cụ thể, chi tiết về thú vui chơi đến táo bạo, khác lạ bóc lột nhân dân của chúa Trịnh Sâm “thu lấy trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian không thiếu một thứ gì”. Có những cây to, khó chở phải điều động nhân lực và vận chuyển vô cùng vất vả về đến phủ Chúa.
Trong phủ chúa, vườn tược đều được điểm xuyết những loại cây quý được đưa từ khắp nơi về. Cuộc sống xa hoa, trác táng không bao giờ bền vững, kéo dài. Đó chính là lí do của sự sụp đổ ngai vàng của Chúa. Năm 1782, chúa Trịnh Sâm qua đời, cảnh loạn binh xảy ra, Nguyễn Huệ khởi nghĩa khiến sự nghiệp của họ Trịnh tan biến trong chớp mắt.
Cảnh loạn lạc xảy ra khắp mọi nơi. Lũ hoạn quan với những thủ đoạn thâm độc đã ngang ngược phá hủy đồ đạc, công trình của triều đình. Lũ nhà giàu thì mưu mô, xảo quyệt. Nhiều gia đình phải li tán, gặp khó khăn về mọi mặt. Trước tình hình đó, tác giả cũng đề cập phần ít đến việc gia đình mình. Mẹ Phạm Đình Hổ là bà cung nhân phải sai người chặt cây lê “cao vài mươi trượng, lúc nở hoa trắng xóa thơm lừng”, hai cây lựu trắng, lựu đỏ lúc ra quả trông rất đẹp.
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là một câu chuyện có thật do chính tác giả quan sát và ghi chép lại. Đây là một câu chuyện có giá trị to lớn về mọi mặt, đặc biệt là giá trị lịch sử với những chi tiết, sự kiện lịch sử nổi bật. Chính ngòi bút sắc lạnh nhưng có phần sâu cay, chua xót đã góp phần tạo nên nội dung ý nghĩa của câu chuyện. Trải qua nhiều năm tháng nhưng giá trị của câu chuyện vẫn còn mãi đối với người đọc và là một trong những câu chuyện nổi bật thuộc thể loại tùy bút.
Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh- Mẫu 17
Nhắc đến tác giả văn học Phạm Đình Hổ là nhắc đến tập “Vũ Trung Tùy Bút” nổi tiếng của ông. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán ghi lại những sự việc, những câu chuyện xảy ra vào cuối đời Lê. Tập tùy bút đã phản ánh được hiện thực xã hội một cách chân thực nhất. Đoạn trích “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” là một trong những đoạn trích tiêu biểu của tập tùy bút này.
Sinh thời, vua Trịnh Sâm ăn chơi sa đoạ, cậy quyền thế, tiền bạc mà ham xây đền đài cung điện chỉ để thưởng ngoạn, ngắm cảnh. Bao cảnh ăn chơi sa đoạ trác táng của vua quan khiến người đọc không khỏi căm phẫn. Tháng ba bốn lần tổ chức đi chơi, ngắm cảnh đây đó.
Binh lính nô tì mặc áo đàn bà giải trí cho vua quan, đón tiếp vua thì lòng trọng hơn cả những lễ hội xưa, phí phạm bao tiền bạc, của cải. Nhạc cung đình chờ sẵn khắp nơi, hòng khi cần thì tấu lên vài bạn mua vui, nội thần thì nhau bày bách hóa chung quanh hồ mà bán, kẻ mua người bán được tổ chức như một phiên chợ. Cảnh thật nhàn nhã, sung sướng.
Nhưng trớ trêu thay, vua Lê chúa Trịnh đang ăn chơi trên xương máu, mồ hôi, tiền bạc của nhân dân, của những người nghèo khổ. Chúng dùng cường quyền, mượn gió bẻ măng mà doạ nạt nhân dân. Chúng chực chờ những của quý, cây cảnh, chim chóc hiếm trong nhà nhân dân, mượn cớ dâng lên vua chúa mà chiếm đoạt. Chúng tàn bạo đến mức “ăn cắp la làng” nhằm đày đoạ người vô tội mà ăn tiền, mà cướp bóc.
Đời sống nhân dân khổ cực lầm than chúng chẳng hề xót xa lay động, quan quân thì nhau hoành hành, tàn phá của cải, trấn lột nhân dân. Còn gì đốn mạt, đê hèn hơn. Những hưởng lạc trác táng của bọn vừa chúa lúc bấy giờ khiến không khỏi nghi ngại về một tương lai tan tành, tăm tối: “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ đổ tan tành, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường.”.
Trang tùy bút đã vạch mặt được bản chất tham nhũng, đê hèn chỉ biết hưởng thụ của một bầy vua tôi nhu nhược. Chúng sung sướng trên sự khổ đau của nhân dân. Vua tôi càng giàu có, càng chuyên quyền bao nhiêu thì nhân dân càng khổ cực, càng đau đớn và căm phẫn bấy nhiêu. Sự “triệu bất tường” trong dòng suy nghĩ của tác giả như điềm dự báo cho sự suy vong của triều đại này trong tương lai. Là điều cảnh báo và lời cảnh tỉnh cho vua quan chúa Trịnh lúc bấy giờ.
Thực tế lịch sử đã chứng minh cho sự tàn nhẫn đó khi vào năm 1782 chúa Trịnh qua đời, thành Thăng Long bị đánh phá tan tành bởi loạn kiêu binh, không một quân tướng nào chống đỡ nổi, sự nghiệp, cơ độ tàn tành trong chớp mắt. Có chăng, sự ân hận cũng đã muộn màng.
Chúng như những con ma giết người, ngang nhiên cho quân lính vượt tường nhà dân mà cướp đi của cải rồi hăm doạ. Chúng buộc nhân dân đến đường cùng khi phải phá bỏ của cải chính mình làm ra để tránh tai vạ. Mẹ Phạm Đình Hổ cũng buộc phải thuê người chặt cây lê, cây lựu quý trước nhà để tránh sự nhũng nhiễu của lũ quan tham kia.
Bằng ngòi bút chân thực, khách quan, tác giả đã tái hiện lại cảnh tượng xa hoa thời vua Lê chúa Trịnh. Đồng thời gián tiếp tố cáo tội ác “vô nhân đạo” của vua quan lúc bấy giờ và cất lên tiếng nói thương cảm đối với cuộc sống cơ cực khốn khổ của nhân dân. Đoạn trích tuy ngắn nhưng mỗi lời, mỗi chữ viết ra đều thâm trầm, sâu sắc, cho thấy được tài năng và tấm lòng thiết tha bởi dân với nước của một hiền tài dân tộc.
Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh- Mẫu 18
Nhắc tới Phạm Đình Hổ (1768 – 1839), người đời nhớ tới tác phẩm Vũ trung tùy bút của ông. Một bút pháp nghệ thuật tinh tế, tài hoa, một phong thái thư nhàn cao nhã, ông tiêu biểu cho cốt cách kẻ sĩ Bắc Hà cuối thời Lê – Trịnh và thời kì đầu nhà Nguyễn. Chuyên cũ trong phủ chúa Trịnh là một trang tùy bút đặc sắc, rút trong Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ.
Tùy hứng mà viết, tùy bút mà viết, cảm hứng dào dạt, dâng trào, cảnh ăn chơi xa hoa của chúa Trịnh Sâm, cảnh bán hàng của bọn nội thần nội thị, cảnh tấu nhạc của bọn nhạc công cung đình tại chùa Trấn Quốc nơi Hồ Tây giữa thế ki XVIII, sự nhũng nhiễu của bọn hoạn quan khắp chốn dân gian… đã được tác giả Vũ Trung tùy bút chấm phá qua một vài nét, thế mà ta chỉ đọc qua một lần là có thể nhớ mãi.
Chuyện cũ… đã xảy ra vào khoảng năm Giáp Ngọ – Ất Mùi (1774 – 1775), đó là lúc Đàng Ngoài “vô sự”, là những năm tháng hoàng kim của Thịnh Vương (Trịnh Sâm); khi mà người ngọc Đặng Thị Huệ được chúa sủng ái trở thành nguyên phi. Trịnh Sâm sống trong xa hoa: Thích đi chơi ngắm cảnh đẹp, thường ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy.
Chúa ra chơi cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ mỗi tháng ba bốn lần. Cảnh đón tiếp với các thứ nghi lễ thật tưng bừng độc đáo. Có “binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ” Có tổ chức hội chợ, do quan nội thần cải trang “đều bịt khăn, mặc đồ đàn bà, bày bách hóa chung quanh bờ hồ để bán”
Thuyền ngự đi tới đâu thì các quan hô tụng đại thần tùy ý ghé vào bờ mua bán các thứ… Gác chuông chùa Trấn Quốc trở thành nơi hòa nhạc của bọn nhạc công cung đình. Đình đài, cung điện được xây dựng “liên tục” nhằm thỏa mãn cuộc sống ăn chơi của vua chúa và bọn quan lại thời Lê – Trịnh. Bao nhiêu tiền của, vàng bạc, châu báu, nước mắt mồ hôi của nhân dân bị bòn vét đến kiệt cùng. Phạm Đình Hổ đã được mắt thấy tai nghe những Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh nên cách kể, cách tả của ông rất sống động.
Để được sống trong xa hoa, hưởng lạc đế vương, từ chúa đến quan đều trở thành bọn cướp ngày ra sức hoành hành, trấn lột khắp chốn cùng quê. Chúa thì “sức thu lấy” trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian “không thiếu một thứ gì”. Có những cây cảnh “cành lá rườm rà… như cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng” phải dùng đến một cơ binh mới khiêng nổi, từ bên bắc chở qua sông đem về.
Trong phủ chúa “điểm xuyết” bao núi non bộ trông lạ mắt như “bốn bể đầu non”. Vườn ngự uyển, trong những đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm “ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn”. Nếu như trong Thượng kinh kí sự, Lê Hữu Trác ngạc nhiên viết:
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen.
Quê mùa cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào.
Thì ở đây, Phạm Đình Hổ ái ngại nghĩ: “Kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”. Cuộc sống cực kì xa hoa ấy là nguyên nhân cho sự sụp đổ ngai vàng ngày một ngày hai sẽ nổ ra. Đó là năm 1782, Trịnh Sâm qua đời; loạn kiêu binh nổ ra, kinh thành Thăng Long bị đốt phá tan hoang; năm 1786, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc Hà lần thứ nhất, cơ nghiệp họ Trịnh tan tành trong nháy mắt! “Cái triệu bất tường” mà Phạm Đình Hổ nghĩ tới thật linh nghiệm. Quy luật cuộc đời vô cùng sòng phẳng, cay nghiệt:
Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh.
Nghìn vàng khôn đổi được mình
Lầu ca viện hát, tan tành còn đâu?
(Văn chiêu hồn – Nguyễn Du)
Bọn hoạn quan trong phủ chúa vừa trắng trợn vừa xảo quyệt, như dân gian đã khinh bỉ chửi vào mặt: “Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”. Chúng dùng thủ đoạn “nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm”. Chỉ bằng hai chữ “phụng thủ” biên ngay vào chậu hoa cây cảnh, chim tốt khiếu hay của bất cứ nhà nào là chúng cướp được.
Chúng còn lập mưu đêm đến cho tay chân sai lính lẻn vào “lấy phăng đi, rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền”. Chúng ngang ngược “phá nhà hủy tường” của dân để khiêng hòn đá hoặc cây cối gì mà chúng cướp được! Đối với nhà giàu thì chúng lập mưu vu cho là “giấu vật cung phụng” để hành hạ, để làm tiền, nhiều người phải “bỏ của ra kêu van chí chết”, có gia đình “phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ”
Gia đình tác giả thuộc hàng quan lại, quý tộc thời Lê – Trịnh. Trước sự nhũng nhiễu hoành hành, mẹ Phạm Đình Hổ là bà cung nhân phải sai người nhà chặt cây lê “cao vài mươi trượng, lúc nở hoa trắng xóa thơm lừng”, hai cây lựu trắng, lựu đỏ “lúc ra quả trông rất đẹp”. Chi tiết này, tình tiết này rất sống, rất thực. Tác giả đã kể lại một chuyện có thật của gia đình mình ở phường Hà Khẩu để vừa tạo nên niềm tin cho người đọc mai hậu, vừa phê phán bộ mặt tham lam, ghê tởm của bọn quan lại thời Lê – Trịnh, vạch trần sự thối tha trong phủ chúa.
Trang tùy bút Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ có giá trị lịch sử sâu sắc, nó đã làm hiện lên cảnh vật và con người, cuộc sống xa hoa ăn chơi của vua chúa, hành động ăn cướp, làm tiền trắng trợn của bọn quan lại trong phủ chúa. Ngòi bút của Phạm Đình Hổ rất trầm tĩnh và sâu sắc. Mọi cảm xúc, ý nghĩ của ông về nhân tình thế sự được gửi gắm qua những chi tiết, tình tiết, mẩu chuyện rất sống động, rất chọn lọc, đậm đà, nhã thú.
Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh- Mẫu 19
Là bậc vua chúa đáng lẽ ra phải chăm lo cho đời sống nhân dân nhưng chúa Trịnh Sâm lại chỉ lo ăn chơi vô độ, không quan tâm đến dân lành. “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” được trích từ tập “Vũ trung tùy bút” của Phạm Đình Hổ đã tái hiện lại chân thực lối sống xa hoa, trác táng ấy. Đó là cơ sở để tạo nên giá trị hiện thực của đoạn trích.
Giá trị hiện thực là toàn bộ hiện thực cuộc sống mà tác giả muốn phản ánh thông qua tác phẩm của mình. Đó là sự tố cáo những thói ăn chơi sa đọa của các bậc vua chúa, sự cực khổ của dân lành hay những bất công của chế độ xã hội,…Trong đoạn trích này, giá trị hiện thực được thể hiện qua sự quan sát, miêu tả chi tiết, chân thực của Phạm Đình Hổ về thói ăn chơi trụy lạc của chúa Trịnh.
Mở đầu đoạn trích, bạn đọc có thể dễ dàng nhận thấy lối sống xa xỉ của Trịnh Sâm khi chúa xây dựng các đình đài liên miên để phục vụ cho công cuộc ăn chơi hưởng lạc. Chúa sống trong sự giàu có và sung sướng còn nhân dân thì phải lao động cực khổ theo lệnh chúa để xây xong các đình đài. Chỉ vì thú chơi đèn đuốc mà Trịnh Sâm bóc lột sức lao động của dân lành. Điều đó thật bất nhân.
Chúa Trịnh không quan tâm việc triều chính mà chỉ quan tâm đến những trò tiêu khiển tốn kém, những trò mua vui cho bản thân: “Mỗi tháng ba bốn lần, Vương ra cung Thụy Liên bên bờ Tây hồ, binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ, các nội thần thì đều bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hóa chung quanh bờ hồ để bán”. Một cảnh tượng nhốn nháo, nực cười đang hiện lên trước mắt người đọc.
Cuộc vui chơi ấy không chỉ có chúa mà còn có cả các quan và binh lính. Họ mặc áo đàn bà để làm trò mua vui cho Trịnh Sâm. Ngoài ra còn có các nhạc công “ngồi trên gác chuông chùa Trần Quốc hay dưới bóng cây bến đá nào đó, hòa vài khúc nhạc” để không khí cuộc mua bán trở nên sôi động hơn. Thay vì luyện tập để bảo vệ chủ quyền thì các binh lính lại được huy động để bảo vệ cho những cuộc chơi vô bổ, lố lăng của chúa.
Không chỉ có sở thích đèn đuốc, Trịnh Sâm còn có thú chơi cây cảnh. Chúa vơ vét, cướp đoạt từ tay nhân dân tất cả loài cây quý hiếm. Chúa ra sức thu lấy những loài “trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian”. Ngay cả cây đa to “giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng” chúa cũng cho “một cơ binh mới khiêng nổi, lại bốn người đi kèm, cầm gươm đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng cho đều tay” để “từ bên bắc chở qua sông đem về”.
Bọn hoạn quan thì mượn gió bẻ măng, ức hiếp dân lành để phục vụ lợi ích cho bản thân. Chúng dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt, khướu hay, thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” rồi đêm đến thì đem lính tới lấy và buộc những người dân vô tội vào tội “đem giấu vật cung phụng” nhằm lấy tiền của họ. Bọn chúng dùng thủ đoạn để chèn ép và cướp bóc tài sản của nhân dân ta. Thậm chí chúng “phá nhà hủy tường” để lấy bằng được hòn đá hay cây cảnh quý về trang trí cho phủ chúa.
Cuộc sống của nhân dân lầm than bao nhiêu thì sự cướp bóc của hoạn quan lại trắng trợn bấy nhiêu. Trước hành động tàn nhẫn đó, những nạn nhân vô tội chỉ còn cách nộp tiền, để chúng “phá nhà hủy tường” hoặc “phá cây cảnh để tránh khỏi tai vạ”.
Cũng vì cớ ấy mà bà cung nhân nhà Phạm Đình Hổ sai người chặt đi hai cây lựu trắng, lựu đỏ để tránh sự dòm ngó của hoạn quan. Tác giả đã kể thêm câu chuyện có thật ở gia đình mình để tăng tính thuyết phục cho những hành động bỉ ổi của bọn quan lại. Lấy được lòng tin tưởng của chúa nên bọn chúng ra sức thực hiện những hành vi cướp đoạt, vu khống nhân dân.
Với lối kể chuyện tự nhiên, sinh động, Phạm Đình Hổ không chỉ liệt kê chi tiết những việc làm của chúa và bọn hoạn quan mà còn thể hiện thái độ bất bình của mình trước những hành động đó. Đó là cảm giác “triệu bất tường” khi mỗi đêm nghe thấy “tiếng chim kêu vượn hót vang khắp bốn bề hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp,vỡ tổ tan đàn”.
Trước hiện thực rối ren như vậy thì đó là dự cảm chẳng lành về sự suy tàn của một triều đại. Vua chúa, quan lại ăn chơi hưởng lạc trên mồ hôi công sức, xương máu của nhân dân mà không chăm lo cho đời sống của họ thì sự suy vong lại càng đến gần.
Giá trị hiện thực của đoạn trích được Phạm Đình Hổ thể hiện bằng ngòi bút trung thực và khách quan. Vì lẽ đó mà “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” nói riêng và tập “Vũ trung tùy bút” nói chung đã chiếm được vị trí nhất định trong lòng bạn đọc.
Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh- Mẫu 20
Phạm Đình Hổ (1768 1839), là người có bút pháp nghệ thuật tinh tế tài hoa, một phong thái thư nhàn cao nhã, ông tiêu biểu cho cốt cách kẻ sĩ Bắc Hà cuối thời Lê Trịnh và thời kì đầu nhà Nguyễn. Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là một trang tuỳ bút đặc sắc, rút trong Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ. Tác phẩm tập trung đi sâu vào phản ánh cảnh ăn chơi xa hoa của Chúa Trịnh Sâm, cảnh bán hàng của bọn nội thần nội thị, cảnh tấu nhạc của bọn nhạc công cung đình tại chùa Trấn Quốc nơi Hồ Tây giữa TK XVIII, sự nhũng nhiễu của bọn hoạn quan khắp chốn dân gian.
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh đã sảy ra vào 2 năm Giáp Ngọ ất mùi (1774 1775), đó là lúc Đàng Ngoài vô sự, là những năm tháng hoàng kim của Chúa Trịnh Sâm Khi Đặng Thị Huệ được Chúa sùng ái trở thành nguyên phi Trịnh Sâm sống xa hoa thích đi chơi ngắm cảnh đẹp, thường ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thuý.
Cảnh đón tiếp với các nghi lễ thật tưng bừng độc đáo. Có binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ. Có tổ chức hội chợ, do quan nội thần cải trang đầu bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hoá chung quanh hồ để bán. Thuyền ngự đi đến đâu thì các quan hô tụng đại thần tuỳ ý nghé vài bờ để mua bán các thứ Gác chuông chùa Trấn Quốc trở thành nơi hoà nhạc của bọn nhạc công cung đình. Đền đài cung điện được xây dựng liên tục nhằm thoả mãn cuộc sống ăn chơi của bọn vua chúa và bọn quan lại. Bao nhiêu tiền của, vàng bạc, châu báu, nước mắt, mồ hôi của nhân dân bị bòn vét đến kiệt cùng. Phạm Đình Hổ đã được mắt thấy, tai nghe những Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh nên cách kể , cách tả của ông ở đây hết sức sống động.
Để được sống trong xa hoa, hưởng lạc cuộc đời vàng son đế vương, từ Chúa đến quan đều trở thành bọn cướp ngày ra sức hoành hành, trấn lột khắp chốn cùng quê. Chúa thì sức thu lấy những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian, không thiếu một thứ gì. có những cây cảnh cành lá rườm rànhư cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng ở bên bắc phải dùng dến một cơ binh mới mang về nổi cũng được chúa trở qua sông đem về. Trong phủ chúa điểm xuyết bao núi non bộ trông lạ mắt như bến bể đầu non. Vườn ngự uyển trong những đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa xa, bão táp, vỡ tổ tan đàn.
Bọn hoạn quan trong phủ Chúa vừa trắng trợn vừa xảo quyệt, như dân gian đã khinh bỉ chửi vào mặt Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan. Chúng dùng thủ đoạn nhờ gió bẻ măng, ra ngoài doạ dẫm. Chỉ bằng hai chữ phụng thủ biên ngay vào chậu hoa cây cảnh, chim tốt khiếu haycủa bất cứ nhà nào là chúng cướp được. Chúng còn lập mưu đêm đến cho tay chân sai lính lẻn vào lấy phăng đi, rồi buộc tội đem dấu vật cung phụng để doạ dẫm lấy tiền. Chúng ngang ngược phá nhà, huỷ tường của dân để khiêng hòn đá hoặc cây cối gì mà chúng cướp được. Đối với nhà giàu thì chúng lập mưu vu cho là dấu vật cung phụngđể hành hạ, để làm tiền, nhiều người phải bỏ của ra kêu van chí chết, có gia đình phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ.
Gia đình tác giả thuộc hàng quan lại, quý tộc thời Lê Trịnh. Trước sự nhũng nhiễu hoành hành, mẹ của Phạm Đình Hổ là bà Cung Nhân phải sai người nhà chặt cây lê cao vài mươi trượng, lúc nở hoa, trắng xoá thơm lừng đây là chi tiết rất sống, rất thực là chuyện có thực của chính gia đình tác giả nhằm tạo niềm tin cho người đọc, vừa phê phán bộ mặt tham lam, ghê tởm của bọn quan lại thời Lê Trịnh, vạch trần sự thối tha trong phủ Chúa.
Cuộc sống cực kì xa hoa và tàn ác ấy chính là nguyên nhân cho sự sụp đổ ngai vàng sảy ra đối với nhà Chúa Lê Trịnh sau này – Đó là vào năm 1782, Trịnh Sâm qua đời, loạn kiêu binh bùng nổ, kinh thành Thăng Long bị đốt phá tan hoang. Đến năm 1786, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc Hà lần thứ nhất, cơ nghiệp họ Trịnh đã tan trong nháy mắt. Đó là quy luật cuộc đời vô cùng cay nghiệt nhưng cũng hết sức sòng phẳng như Nguyễn Du đã từng nói trong tác phẩm Văn chiêu hồn.
“Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh.
Nghìn vàng không đổi được mình
Lầu ca viện hát, tan tành còn đâu?” .
Trang tuỳ bút Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ là tác phẩm có giá trị lịch sử sâu sắc, nó đã làm hiện lên cảnh vật và con người, cuộc sống ăn chơi xa hoa của vua chúa, hành động ăn cướp, làm tiền trắng trợn của bọn quan lại trong phủ Chúa. Tác phẩm thể hiện một ngòi bút rất trầm tĩnh và hết sức sâu sắc. Mọi cảm hứng, suy nghĩ của tác giả về nhân tình thế sự đã được gửi gắm qua những chi tiết, tình tiết, mẩu chuyện rất sống, rất chọn lọc, đậm đà và sâu sắc.
Trên đây là nội dung bài học [tiêu đề bài viết] do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập
- Hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay (25 mẫu)
- Rừng là lá phổi xanh của nhân loại. Em hãy viết bài văn trình bày suy nghĩ của em về ý kiến trên (5 mẫu)
- Bạo lực học đường đang là vấn đề được cả xã hội quan tâm. Em hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề trên (51 mẫu)
- Viết một đoạn văn ngắn nói về cảm xúc của em khi được thưởng thức một tác phẩm văn nghệ (truyện, thơ, phim, ảnh, tượng,…), trong đoạn văn đó có câu chứa thành phần tình thái hoặc cảm thán (25 mẫu)
- Nêu một tác phẩm văn nghệ mà em yêu thích và phân tích ý nghĩa, tác động của tác phẩm ấy đối với mình (9 mẫu)
- Phân tích Tiếng nói của văn nghệ của Nguyễn Đình Thi lớp 9 hay nhất (17 mẫu)