Học TậpLớp 9

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích hay nhất (24 bài mẫu)

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích của Nguyễn Du lớp 9 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 24 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.

Đề bài: Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích
Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích

Mục lục

Dàn ý Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích chi tiết

I. Mở bài

Bạn đang xem: Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích hay nhất (24 bài mẫu)

  • Giới thiệu tác giả và đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
  • Giới thiệu đoạn thơ cuối (8 câu cuối).

II. Thân bài

– Cặp lục bát 1: Phân tích hình ảnh “cửa bể chiều hôm”, “cánh buồm xa xa” gợi tả nỗi buồn của Kiều khi nghĩ về cha mẹ – những người sinh thành ra mình, nàng cảm thấy xót xa.

– Cặp lục bát 2: Phân tính hình ảnh “ngọn nước mới sa”, “hoa trôi man mác” gợi tả nỗi mông lung lo lắng của Kiều không biết cuộc đời sẽ trôi đi đâu về đâu. Tâm trạng của Thúy kiều lại trở về với thực tại của đời mình, trở về với nỗi đau hiện thực.

– Cặp lục bát 3: Phân tích hình ảnh “nội cỏ rầu rầu”, “chân mây mặt đất” gợi tả sự vô định của Kiều. Từ láy “rầu rầu” gợi cho ta sự tàn úa đến thảm thương, màu xanh tàn úa, héo hắt.

– Cặp lục bát 4: Phân tích hình ảnh “gió cuốn mặt duềnh”, “tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi” gợi sự sợ hãi, hoảng hốt của Kiều. Sự lênh đênh trên chặng đường đời nhiều sóng gió trước mặt Kiều, cũng là những phong ba, gập ghềnh mà Kiều sẽ phải đi qua.

=> Điệp từ “buồn trông” được nhắc đi nhắc lại trong khổ thơ. Nó như tâm trạng của Kiều lúc này, đúng là “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

* Tổng kết nghệ thuật:

  • Điệp cấu trúc với điệp ngữ “buồn trông”.
  • Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình.
  • Hình ảnh có sự tăng tiến gợi tả sự tăng tiến của cảm xúc.

III. Kết bài

  • Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một bức tranh được vẽ lên với những màu sắc xám lạnh, gợi tả tâm trạng vô cùng sống động, nhưng nó cũng nhiều thê lương ai oán.
  • Phân tích bút pháp nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình” của Nguyễn Du. Cảnh và người trong đoạn trích như hòa vào làm một.

24 bài mẫu Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích hay nhất

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 1

Nguyễn Du không chỉ xuất sắc trong nghệ thuật miêu tả chân dung nhân vật mà còn là người có biệt tài miêu tả thiên nhiên, ngụ tâm tình, tình cảm của con người. Mỗi bức tranh dưới đôi bàn tay Nguyễn Du luôn luôn thực hiện hai chức năng chính: thể hiện ngoại cảnh và thể hiện tâm trạng. Tám câu thơ cuối trong bài “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã cho thấy rõ biệt tài này của ông.

Sau khi bị lừa bán vào lầu xanh, Kiều sống trong đau đớn, ê chề, với bản tính là con người trọng nhân phẩm, Kiều đã tìm đến cái chết để giải thoát nhưng không thành công. Thúy Kiều bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, chờ đến ngày thực hiện âm mưu mới. Những ngày ở lầu Ngưng Bích nàng sống trong đau đớn, tủi hổ, cô đơn, tuyệt vọng đến cùng cực.

Trong nỗi cô đơn, dường như ai cũng một lòng hướng về gia đình. Người con gái trong ca dao, dù lấy chồng, nhưng trong những khoảnh khắc ngày tàn vẫn tha thiết nhớ về quê mẹ:

Chiều về ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều

Huống chi là nàng Kiều, thân phận nổi trôi, bán mình cứu gia đình, thì nỗi nhớ gia đình lại càng da diết hơn bao giờ hết:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.

Không gian mênh mông của cửa bể kết hợp với hình ảnh thuyền thấp thoáng phía xa gợi lên không gian rợn ngợp, hoang vắng. Cánh buồm dường như trở nên nhỏ bé hơn trong không gian rộng lớn ấy. Thân phận nàng cũng chẳng khác gì cánh buồm kia, lênh đênh, nhỏ nhoi giữa cuộc đời bất định. Đồng thời ông cũng rất khéo léo lựa chọn thời gian cho nỗi nhớ, ấy là “chiều hôm”. Trong văn học không gian buổi chiều thường gợi ra nỗi buồn man mác, ở đây trong hoàn cảnh của Kiều nỗi buồn ấy gắn với khát khao được sum họp, đoàn tụ, được trở về bên quê hương, gia đình.

Sau nỗi buồn tha hương, xa xứ, nàng nghĩ về thân phận mình mà lại càng đau lòng hơn: “Buồn trông ngọn nước mới sa/ Hoa trôi man mác biết là về đâu?”. Hình ảnh ẩn dụ “hoa trôi” là biểu trưng cho thân phận của nàng Kiều. Ngọn nước mới sa kia có sức mạnh ghê gớm, là những giông bão, sóng gió trong cuộc đời đã vùi dập cuộc đời nàng. Những cánh hoa trôi man mác cũng như thân phận bé bỏng, mong manh của nàng. Cuộc đời nàng lênh đênh theo dòng đời, không biết tương lai sẽ đi đâu về đâu. Câu hỏi tu từ “biết là về đâu” như một lời than, một lời ai oán cho số phận bất hạnh. Qua đó càng nhấn mạnh hơn nữa thân phận chìm nổi, bèo bọt của nàng.

Trong tác phẩm của Nguyễn Du, sắc xanh đã xuất hiện nhiều lần, mỗi lần xuất hiện đều mang ý nghĩa khác nhau. Nếu như trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, sắc xanh tượng trưng cho sự sống, tươi tốt mơn mởn, thì trong đoạn trích này màu xanh lại mang một ý nghĩa khác: “Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”. Nội cỏ chỉ mang một màu tàn lụi héo úa. Sắc xanh cũng nối chân trời mặt đất với nhau nhưng lại nhạt nhòa, đơn sắc. Tất cả những màu sắc đó hòa điệu với nhau càng khiến cho tâm trạng Kiều trở nên ngao ngán, chán nản hơn. Kiều nhìn ra bốn phía để tìm được sự đồng điệu, tìm sự sẻ chia. Vậy mà, khung cảnh chỉ càng làm nàng thêm u sầu, ảo não. Quả thực “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Dưới con mắt tuyệt vọng của nàng, khung cảnh nào cũng chỉ thấm đầy nỗi buồn chán, bế tắc và vô vọng. Điều đó càng đẩy Kiều rơi vào sâu hơn hố sâu của sự sầu muộn, tuyệt vọng.

Hai câu thơ cuối cùng có thể coi là đỉnh cao của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, sự hoang mang, rợn ngợp của Kiều đã được tác giả tập trung bút lực thể hiện rõ nhất trong hai câu thơ này:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Cảnh cuối thiên nhiên hiện ra thật dữ dội, đó không chỉ còn là ngoại cảnh mà còn là tâm cảnh, Kiều tưởng mình không còn ngồi ở lầu Ngưng Bích mà đang ngồi giữa biển khơi mênh mông, xung quanh là sóng biển gào thét như muốn nhấn chìm nàng xuống biển. Đặc biệt từ láy “ầm ầm” vừa diễn tả một khung cảnh khủng khiếp vừa diễn tả tâm trạng buồn lo, hoảng loạn của Thúy Kiều. Nàng đang dự cảm những giông bão của số phận, rồi đây sẽ nổi lên và nhấn chìm cuộc đời mình.

Đoạn thơ đã vận dụng tài tình nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, mỗi cảnh là một tâm trạng, là một nỗi đau mà Kiều phải gánh chịu. Không chỉ vậy Nguyễn Du còn có sự miêu tả theo trình tự hợp lý: Từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt nhòa đến đậm nét, khắc họa nỗi buồn da diết của Kiều. Sử dụng hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, lớp từ láy giàu giá trị tạo hình và biểu cảm. Tất cả những yếu tố đó góp phần tạo nên thành công cho đoạn trích.

Tám câu thơ cuối là một tuyệt tác của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Bằng những bức tranh đặc sắc, Nguyễn Du đã khắc họa được những trạng thái xúc cảm, nỗi cô đơn, lo âu, sợ hãi về tương lai đầy sóng gió của nàng Kiều. Không chỉ vậy, qua bức tranh ấy, Nguyễn Du cho thể hiện niềm cảm thương sâu sắc cho số phận nàng nói riêng và số phận người phụ nữ nói chung dưới chế độ phong kiến.

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 2

Nguyễn Du đã từng đúc kết rằng:

Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

Quả thực điều ấy đã ứng vào cuộc đời nàng Kiều, tài mệnh tương đố, nàng Kiều đẹp cả ở ngoại hình và nhân cách nhưng lại phải chịu nhiều cảnh tang thương, bất hạnh. Đau đớn nhất có lẽ là khi cô đơn ở lầu Ngưng Bích, bị giam lỏng, cầm tù và mường tượng về tương lai sóng gió sau này của chính mình. Tám câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là minh chứng đầy đủ nhất cho điều ấy.

Tám câu thơ cuối cùng cho thấy tài năng phân tích, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình bậc thầy của Nguyễn Du. Ông lấy bức tranh phong cảnh không chỉ đơn thuần là phong cảnh mà đó còn là bức tranh tâm trạng. Nguyễn Du đã biến khung cảnh thiên nhiên là phương tiện để miêu tả tâm trạng của con người. Có thể thấy tám câu thơ đã đạt đến mẫu mực của bút pháp tả cảnh ngụ tình. Bi kịch nội tâm của nàng Kiều đã được Nguyễn Du diễn tả qua bức tranh thiên nhiên phong phú khi nàng ở lầu Ngưng Bích.

Đoạn thơ chia ra làm bốn cặp lục bát, mở đầu mỗi cảnh là điệp từ “buồn trông” xuất hiện với âm hưởng trầm buồn, báo hiệu biết bao sóng gió, khó khăn phía trước. Đồng thời mỗi cặp lục bát cũng tương ứng với một nét tâm trạng của Thúy Kiều. Mở đầu là khung cảnh biển nước mênh mông:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Nguyễn Du sử dụng linh hoạt hai từ láy thấp thoáng, xa xa và kết hợp với đại từ phiếm chỉ “ai” cho thấy nỗi chờ đợi, trống ngóng trong vô vọng của nàng. Không chỉ vậy, Nguyễn Du cũng rất tinh tế khi lựa chọn khoảng thời gian để bộc lộ tâm trạng, đó là thời gian buổi chiều, gợi nhắc gợi nhớ về hơi ấm gia đình. Đúng lúc ấy lại xuất hiện hình ảnh cánh buồm nhỏ bé trước cửa bể rộng lớn, làm cho nỗi hoang vắng mênh mông càng lớn hơn. Đồng thời cánh buồm đó cũng chính là ẩn dụ cho thân phận bé nhỏ, lẻ loi của nàng.

Thu hẹp khoảng không gian, để tìm sự đồng điệu, thì trước mắt nàng lại hiện lên cảnh tan tác, chia lìa:

Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Nàng Kiều tự ví bản thân mình với những cánh hoa mỏng manh, yếu đuối, thân phận nổi trôi không biết đi đâu về đâu. Kết hợp với câu hỏi tu từ “biết là về đâu?” càng cho thấy rõ hơn nửa thân phận bọt bèo, bấp bênh, vô định của nàng. Nàng lênh đênh giữa dòng đời xuôi ngược, không biết đâu là bến bờ.

Hình ảnh cỏ, đã nhiều lần xuất hiện trong thơ Nguyễn Du, là sắc xanh non mơn mởn trong ngày hội xuân, đầy sức sống: “Cỏ non xanh tận chân trời”. Nhưng đến đây sắc xanh ấy đâu còn nữa, mà thay vào đó là màu sắc của sự tàn tạ, héo úa: “Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”. Cỏ trong đôi mắt thấm đẫm tâm trạng của nàng Kiều “rầu rầu” tàn lụi, héo úa. Tác giả tả màu xanh của cỏ nối tiếp nhau đến tận chân trời, nhưng màu xanh ấy không sắc nét mà nhòe mờ, pha lẫn vào nhau, có phần đơn điệu. Phải chăng trong dòng nước mắt cô đơn và tủi cực mà cái nhìn của nàng đã khiến những màu xanh kia càng trở nên sầu bi, héo tàn hơn.

Một lần nữa nàng Kiều lắng lòng mình, để nghe những vang vọng của cuộc sống. Nhưng những thứ nàng nghe được chỉ là chuỗi âm thanh khủng khiếp

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Mặt biển đổ ập sóng gió đến bủa vây lấy nàng Kiều nhỏ bé. Đó cũng chính là dự cảm của nàng về số phận đầy bất hạnh, những giông tố đang đợi nàng phía trước. Kiều rơi vào trạng thái sợ hãi, âu lo đến tột cùng.

Khung cảnh được nhìn qua mắt Kiều đẫm màu sắc tâm trạng. Cảnh được Nguyễn Du miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, nỗi buồn diễn tả theo chiều tăng tiến từ man mác buồn, cô đơn cho đến âu lo, kinh sợ. Lúc này, Kiều rơi vào trạng thái tuyệt vọng và yếu đuối nhất, cũng bởi vậy trước những lời ngon ngọt của Sở Khanh nàng dễ dàng bị mắc lừa, để rồi nàng bị đẩy xuống bùn nhơ của cuộc đời: “Thanh y hai lượt thanh lâu hai lần”.

Bằng ngòi bút tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Nguyễn Du đã đem đến cho người đọc những câu thơ xuất sắc nhất diễn tả tâm trạng cô đơn, đau đớn đến tột cùng của nàng Kiều. Đồng thời ta cũng thấy được tấm lòng nhân đạo, niềm cảm thương sâu sắc mà Nguyễn Du dành cho người con gái hồng nhan bạc mệnh.

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 3

Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc là danh nhân văn hóa thế giới. Nhắc đến ông, người ta kể đến “Truyện Kiều” – một tác phẩm đã nâng Tiếng Việt lên thành ngôn ngữ dân tộc. Đọc truyện, ta cảm nhận được trái tim nhân hậu, đa cảm đối với con người của nhà thơ. Như Mông Liên Tưởng chủ nhân trong lời tựa Truyện Kiều đã viết “Lời văn tả ra hình như có máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc cũng phải thấm thìa, ngậm ngùi, day dứt đến đứt ruột”. Và có đọc tám câu thơ cuối của đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, ta mới cảm nhận được nét tinh tế, được cái hay, cái đẹp của bút pháp tài ba của Nguyễn Du, đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ tình.

Có thể nói, tám câu thơ cuối được xem như là kiểu mẫu của lối thơ tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển (lấy cảnh sắc thiên nhiên để gửi gắm tâm trạng, cảm xúc). Để diễn tả tâm trạng cô đơn buồn tủi, tuyệt vọng của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc” – tình trong cảnh ấy cảnh trong tình này” là thực cảnh cũng là tâm cảnh. Mỗi cảnh gợi ra một nỗi buồn khác nhau, để rồi tình buồn tác động đến cảnh buồn khiến cảnh mỗi lúc lại buồn hơn, nỗi buồn càng trở nên ghê gớm mãnh liệt. Đúng như Nguyễn Du từng viết:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ

Những dòng thơ sinh động, dưới cái tài miêu tả nội dung nhân vật của tác giả làm hiện lên một bức tranh vừa gợi tả cảnh thiên nhiên vừa gợi nỗi lòng của nàng Kiều. Một mình bơ vơ, trơ trọi giữa không gian mênh mông, nỗi nhớ nhà quê hương bỗng trỗi dậy trong lòng Kiều.

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng, cánh buồm xa xa

“Cửa bể” là không gian biển khơi mênh mang, rợn ngợp vô cùng, đặt trong thời gian chiều tà, gợi nỗi buồn vắng da diết. Câu thơ của Nguyễn Du khiến người đọc nghĩ tới hình ảnh người con gái lấy chồng xa quê nhìn về quê vào mỗi chiều tà trong câu ca dao:

Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.

Trong thơ, cảnh chiều hôm giữa không gian bao la ấy có một cánh buồm lẻ loi, lạc lõng lúc ẩn lúc hiện ”thấp thoáng” đã gợi lên cho ta sự lưu lạc tha hương cùng với nỗi buồn da diết về cha mẹ của đứa con nơi ”đất khách quê người”. Câu thơ từ từ ngân lên như một niềm khao khát, hoài bão, ngóng trông, nhưng hiện tại, nơi góc bể chân trời, Kiều vẫn lẻ loi một mình đối đầu với sóng gió cuộc đời, rồi thân phận kiều sẽ lênh đênh, trôi dạt về phương trời nào?

Tâm trạng sợ hãi, lo lắng của Kiều giữa biển trời vô định khiến người đọc phải xót thương, nơi xa kia Kiều nhìn thấy cánh hoa trôi và nghĩ đến thân phận mình:

Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?

“Ngọn nước mới sa” chứa đựng một sức mạnh của tự nhiên có thể vùi dập, cuốn trôi, hủy diệt những gì nhỏ bé. Giờ đây, không gian không chỉ mênh mông rợn ngợp mà nó còn mạnh mẽ dữ dội, hình ảnh hoa lìa cội, lìa cành nổi trôi trên sóng nước bị dập vùi cũng chính là cuộc đời Kiều trôi nổi giữa dòng đời, Kiều bất lực và mặc thác cho số phận xô đẩy. Đau xót thay khi Kiều giờ đây như một con chim lạc bầy đang bay trong giông tố.

Đọc hai câu thơ tiếp theo, tâm trạng sợ hãi, lo lắng của Kiều đã nâng lên thành tâm trạng tuyệt vọng, bế tắc khi Kiều còn nhìn thấy ngọn cỏ rầu rầu:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Cảnh khá ấn tượng không phải là “cỏ non xanh tận chân trời” của ngày xuân đầy sức sống mà là “nội cỏ rầu rầu” héo úa, tàn lụi, chết chóc càng làm cho Thúy Kiều thêm chán nản, vô vọng. Màu “xanh xanh” làm cho cả cỏ cây không còn tươi tắn, cảnh vật thêm ảm đạm, như màu cỏ trên mộ Đạm Tiên:

Sè sè nấm đất bên đường
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh

Hai câu thơ cuối có thể coi là bút pháp tả cảnh ngụ tình đạt đến đỉnh điểm. Sóng gió âm thanh dữ dội duy nhất xuất hiện gắn liền với sự mạnh mẽ tượng trưng cho sức mạnh phong kiến rình rập bủa vây cuộc đời Thúy Kiều:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Chiều đã muộn, cảnh không còn hiện rõ nữa, âm thanh dội lên mạnh hơn. Kiều nhìn thấy “gió cuốn” từng đợt sóng trào dâng, nghe “sóng kêu” vang dội bỗng thấy kinh hãi, lo sợ đến hãi hùng, Kiều chơi vơi như rơi vào vực thẳm một cách bất lực, và cũng chính lúc này, Kiều trở nên tuyệt vọng yếu đuối nhất. Vì thế nàng đã mắc lừa Sở Khanh, để rồi dấn thân vào cuộc đời “thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”.

Không chỉ vậy, bốn câu lục bát được liên kết bằng điệp ngữ “buồn trông” gợi nỗi buồn điệp trùng, triền miên, tạo âm hưởng của một bản nhạc buồn với điệp khúc tâm trạng. “Buồn trông” ở đây là buồn mà nhìn xa trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ thay đổi hiện tại nhưng càng trông càng vô vọng. Điệp ngữ “buồn trông” kết hợp với nhiều từ láy “thấp thoáng”, “xa xa”, “man mác”, “rầu rầu”, “xanh xanh”, “ầm ầm” đứng ở cuối câu tạo nên nhịp điệu trầm và đã diễn tả sâu sắc tâm trạng đau thương, buồn thảm của Kiều. Đồng thời với hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động và tâm trạng từ tuyệt vọng cô đơn đến lo lắng, hoang mang.

Tóm lại, “Kiều ở Lầu Ngưng Bích” không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng. Đoạn trích thể hiện tài năng bậc thầy của Nguyễn Du trong tả cảnh ngụ tình, trong đó, tám câu thơ cuối đã gieo vào lòng người nỗi buồn thương cùng Kiều và tình yêu thương, thấu hiểu với thân phận người đàn bà của Nguyễn Du.

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 4

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nằm trong phần “Gia biến và lưu lạc” thuộc “Truyện Kiều” của Nguyễn Du – được coi là một kiệt tác văn học của nền văn học trung đại Việt Nam. Qua đoạn trích trên, người đọc đã thấy được nỗi cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung hiếu thảo của nàng. Điều đó được thể hiện rõ nhất qua tám câu thơ cuối cùng.

Khi Thúy Kiều biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, nàng đã định tự vẫn. Nhưng Tú Bà vờ hứa hẹn đợi nàng bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi giam lỏng nàng ở lầu Ngưng Bích để tiếp tục nghĩ ra kế sách mới. Trước không gian lầu Ngưng Bích rộng lớn, nàng nhìn thấy cảnh vật thiên nhiên mà chất chứa đầy tâm trạng:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”

Đầu tiên, nàng nhớ về quê hương. Hai chữ “chiều hôm” là để chỉ khoảng thời gian khi mặt trời khi sắp lặn. Đấy là thời gian mà con người trở về nhà với gia đình, có những phút giây sum họp bên người thân. Nhưng nhìn lại cảnh ngộ của Kiều thì nàng chỉ có một mình. Nàng trông thấy “cánh buồm” ở phía xa mà nhớ về người thân, nhưng không biết đến bao giờ mới có thể trở về đoàn tụ bên họ.

“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”

Tiếp đến, Kiều chứng kiến cánh hoa mong manh bị đẩy trôi theo dòng nước. Nàng cảm thấy cuộc đời của mình cũng giống như vậy. Thúy Kiều lúc này đã không còn giữ được tấm thân trong trắng nữa. Cuộc đời bị vùi dập không thương tiếc, chẳng biết đi đâu về đâu. Chính vì thế, nàng càng xót xa, tủi nhục.

Cảnh vật xung quanh lầu Ngưng Bích rộng lớn như vậy nhưng cũng chẳng thể chứa được hết được tâm trạng của Kiều:

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

Nếu trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, màu xanh là của sức sống, của hy vọng. Thì màu xanh ở đây lại không phải như vậy. Từ “chân mây” đến “mặt đất” đều là một màu xanh. Nhưng đó là màu xanh của đau thương, tuyệt vọng. Nguyễn Du đã rất khéo léo sử dụng từ láy “rầu rầu” để diễn tả tâm trạng của nàng Kiều lúc này.

Đặc biệt nhất là hai câu thơ cuối cùng, nỗi xót xa của Kiều đạt đến cực điểm:

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Thúy Kiều dường như đang ngồi giữa đại dương mênh mông. Xung quanh nàng là tiếng sóng vỗ ầm ầm. Từ láy “ầm ầm” gợi tả âm thanh to lớn, dữ dội. Đó chính là những dự cảm về những bất hạnh trong tương lai bủa vây lấy Kiều, không có cách nào thoát ra được. Càng cảm nhận được điều đó, nàng lại càng đau đớn hơn cho thân phận của mình.

Tám câu thơ được mở đầu bằng cụm từ “buồn trông” kết hợp với các hình ảnh thiên nhiên, diễn tả tâm trạng của Thúy Kiều. Quả như Nguyễn Du từng viết:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Qua tám câu thơ cuối của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, Nguyễn Du đã cho người đọc cảm nhận sâu sắc về tâm trạng của Thúy Kiều trước lầu Ngưng Bích.

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 5

“Truyện Kiều” đã từ mấy trăm năm qua trở thành một phần giá trị tinh thần không thể thiếu được của dân tộc ta. Ở bất kỳ góc độ nào, đây luôn là một viên ngọc quý trong kho tàng văn học dân tộc. Để tạo ra được một kiệt tác như vậy, điều quan trọng nhất mà Nguyễn Du đã thể hiện được là tấm lòng nhân đạo cao cả và tài năng bậc thầy về nghệ thuật. Một trong những phương diện nghệ thuật thể hiện rất rõ tài năng của Nguyễn Du đó là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” tài năng này được thấy rõ hơn cả, nhất là ở 8 câu thơ cuối được mở ra bằng “buồn trông”.

Không chịu nghe lời Tú Bà vào chốn thanh lâu, Kiều bị bắt giam lỏng ở lầu Ngưng Bích cao, xa xôi, bốn bề đẹp nhưng hoang vắng. Ngày nào nàng cũng đau khổ nhớ về gia đình và người yêu. Trong nỗi niềm đằng đẵng bao ngày, nàng nhìn ra phía xa nơi cửa bể vào lúc chiều hôm và thấy thấp thoáng cánh buồm nơi xa. Trong khói sóng hoàng hôn gợi buồn gợi mê, ai biết con thuyền kia là thực hay là ảo, mọi thứ mờ ảo và xa xôi đến mức chỉ có cánh buồm hiện lên. Ở đó có thể là một con thuyền thực nhưng cũng có thể chỉ là con thuyền trong nỗi mong mỏi giải thoát của Kiều. Nàng đang ước ao, mong chờ một con thuyền từ phương xa có thể tới đây, chở nàng về với gia đình thân yêu. Nhưng rồi càng mong lại càng tủi thân, con thuyền kia chỉ là ảo mộng, mà dù có là thực đi nữa lại khiến cho ai kia càng xót xa khi con thuyền cập bến còn mình vẫn còn chơi vơi. Nàng nhớ nhà, rồi nàng buồn. Từ hình ảnh nơi biển cả mông mênh rộng lớn gợi nỗi cô đơn, nàng trông ra đến ngọn nước mới sa, ngọn nước đã đục ngầu vì từng trận thác đổ xuống tung bọt lên trắng xóa.

Và ngay trên dòng nước ấy, có những cánh hoa mỏng manh đang trôi trong vô định, cứ dập dềnh chực chìm chữ nổi. Phải chăng, Kiều đang thấy thân phận mình giống với đóa hoa tội nghiệp kia, cứ trên dòng đời trôi mãi trong sự vùi dập dày vò của bao nhiêu con sóng cuộc đời? Cánh hoa ở giữa dòng ấy rồi sẽ trôi về đâu giống như số phận nàng hiện tại rồi sẽ đi về đâu? Câu hỏi tu từ đã bật lên một sự lo lắng cho một tương lai của một số phận mỏng manh vô định hình. Từ sự lo lắng này, tâm trạng của Kiều lại càng tiếp tục rơi vào sự vô định mông lung không biết đi đâu về đâu. Dường như đến đây, mọi cảnh vật trước mắt Kiều đã bị nhòe đi bởi một màn nước mắt, đến nội cỏ vô tri cũng trở nên rầu rĩ bởi tâm trạng con người không thể nhìn nó bằng con mắt khác.

Khung cảnh mênh mông đến rợn ngợp giờ đây trở nên càng mênh mông hơn khi mà từ chân mây đến mặt đất như không còn ranh giới, màu xanh ở đây không còn là màu xanh tươi của sự sống như ngày xuân xưa kia mà là một màu xanh đơn điệu, một bức tranh một màu không có chút sức sống giống y như cuộc sống lúc này của Kiều. Nhưng mọi thứ vẫn còn ở một mức tâm trạng buồn lo nhưng đến câu cặp lục bát cuối cùng. Từ những cảm xúc buồn, lo lắng, đến đây, ta thấy Kiều như rùng mình sợ hãi. Những cơn gió cuốn những cơn sóng ngoài biển tạo những âm thanh to như cơn bão khiến cho con người phải hãi hùng. Từ tượng thanh “ầm ầm” đặt ở đầu câu như nhấn mạnh sự bất ngờ hoảng hốt của Kiều nơi lầu cao khi con sóng lạnh lùng dữ dội xô vào chân lâu khiến người trên phải sợ hãi.

Đây có lẽ là sự dự đoán về một tương lai không mấy êm đềm sẽ đến với Kiều, và ngay sau đấy, sóng to gió lớn sẽ đổ lên cuộc đời Kiều làm cho nàng phải đau đớn, sợ hãi mà chao đảo. Bốn cặp lục bát mở đầu bằng “buồn trông” tạo nên một đoạn điệp khúc có nhạc tính tăng dần mức độ. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, hình ảnh được chọn từ mờ ảo, mông lung đến rõ ràng cụ thể, tâm trạng nhân vật trữ tình từ buồn, lo đến sợ hãi hoảng hốt. Nguyễn Du đã thật tài tình trong việc miêu tả rõ nét tâm trạng Thúy Kiều trong những ngày tháng dài bị giam nơi lầu Ngưng Bích, những ngày tháng mở đầu cho quãng thời gian mười lăm năm lưu lạc của Kiều. Kiều lúc này, càng buồn thì càng trông, càng trông thì càng buồn, chính Nguyễn Du đã hiểu được điều này và bộc lộ sự cảm thông từ ngòi bút.

Bốn cặp lục bát ngắn gọn mà chứa đựng được tài năng và tấm lòng nhân đạo bao la của đại thi hào Nguyễn Du. Đọc đến những dòng thơ ấy, người đọc không khỏi xót thương trước số phận Thúy Kiều đồng thời trân trọng biết bao tài năng cùng tấm lòng của thi sĩ họ Nguyễn.

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 6

Nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh từng khẳng định: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”, còn nhà thơ Chế Lan Viên lắng sâu và tinh tế khi cất lên lời thơ: “Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn”. Bao thế kỉ qua, Truyện Kiều đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu với mỗi người dân Việt Nam. Những trang thơ có sức cuốn hút diệu kỳ, vương vấn mãi tâm hồn ta, mang đến cho ta niềm cảm thương sâu sắc với “tấm gương oan khổ” Thúy Kiều, đem lại cho ta những khoái cảm thẩm mĩ đặc biệt trước những lời thơ như hoa, như gấm:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Tám câu thơ trích trong đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Đây là những vần thơ có sức ám ảnh nhất của đoạn trích, diễn tả thành công “nỗi lòng tê tái” của Kiều trong những ngày đầu tiên của kiếp đoạn trường.

Hai tiếng “buồn trông” được lặp lại bốn lần trong đoạn trích, vừa như gói trọn tâm thế của Kiều “trước lầu Ngưng Bích”, vừa tạo nhịp điệu đều đều, buồn thương cho đoạn thơ. Ở nơi “khóa xuân”, Kiều chỉ biết lấy thiên nhiên làm điểm tựa, và từ điểm tựa đó nàng nhận thức về số kiếp của mình. Tầm nhìn của nàng trước hết hướng ra xa, vì nơi xa đó là nhà nàng, là nơi có những người thân yêu nhất:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Không gian xa rộng, quạnh hiu nơi cửa bể như càng làm nổi rõ hơn thân phận nhỏ bé, cô đơn của Kiều. Không gian ấy cộng hưởng cùng thời gian “chiều hôm” – thời khắc gợi nhớ, gợi buồn – khiến như thấm sâu hơn vào tâm hồn người con gái nơi xứ lạ nỗi niềm xót xa. Giữa khung cảnh ấy, trái tim cô đơn, tâm hồn trống vắng cần lắm một hơi ấm, một sự hiện diện của sự sống:

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

“Thuyền” chính là hình ảnh biểu tượng cho sự sống con người. Nhưng đó là sự hiện hữu mờ mờ, như có như không, được diễn tả qua hai từ “thấp thoáng”, “xa xa”. Sự xuất hiện mờ ảo của cánh buồm không làm cho khung cảnh thêm thân mật, ấm áp mà càng gợi sầu, gợi cảm giác cô liêu cho con người. Không tìm thấy sự sẻ chia từ nơi cửa biển xa xăm, Kiều hướng tầm mắt về “ngọn nước” gần mình hơn:

Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Giữa dòng nước, cánh hoa trôi man mác như gợi nhắc thân phận cảnh bèo trôi dạt của người trong cảnh. Câu hỏi tu từ như xoáy vào tâm hồn người đọc. Thân phận cánh hoa hay chính là những trăn trở, xót xa cho số kiếp mỏng manh, phiêu bạt của Kiều? Hai tiếng “về đâu” cuối câu thơ với thanh không càng tạo cảm giác xa vắng, vô định, như tương hợp với tâm thế hiện thời của Kiều. Tìm đến với thiên nhiên đó mong sao vơi bớt mối sầu chất chứa trong lòng nhưng càng nhìn cảnh, tâm trạng lại càng rối bời. Dường như nước gợi lên sự lạnh lẽo, bất định, chảy trôi nên Kiều tìm về với bờ cỏ xanh, với mặt đất:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Nhưng cỏ cũng mang tâm trạng buồn thương của người: “rầu rầu”. Đâu còn là “cỏ non” xanh tận chân trời trong tiết thanh minh khi Kiều còn sống những ngày tháng “Êm đềm trướng rủ màn che”. Cảnh nơi xứ lạ như thấu cảm nỗi niềm của Kiều nên nhuốm màu tâm tư của kiếp người phiêu bạt. Nỗi “rầu rầu” ấy tràn ngập, lan tỏa khắp không gian:

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Cái nhìn bao quát từ “chân mây” xa xăm đến “mặt đất” gần gũi, tất cả đều “một màu xanh xanh”. Nó khác lắm cái sắc xanh tràn ngập nhựa sống của tiết trời mùa xuân:

Cỏ non xanh tận chân trời và cũng không giống màu áo xanh tinh khôi của chàng Kim trong ngày đầu gặp gỡ:

Tuyết in sắc ngựa câu giòn.
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.

Màu xanh của không gian nơi lầu Ngưng Bích là màu xanh gợi buồn. Nỗi buồn của người pha vào cảnh vật, mang theo bao tái tê. Không gian trở nên rợn ngợp, cô liêu. Sự vắng lặng bao trùm cảnh vật càng tô đậm tiếng lòng thổn thức của người trong cảnh. Kiều cảm thấy cần một tiếng vọng của sự sống con người nhưng đáp lại nàng chỉ có những thanh âm hào hùng của thiên nhiên:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Gió thổi, nước trôi… tất cả đều gợi sự chảy trôi, như thân phận “Bên trời góc bể bơ vơ” của nàng Kiều. Âm thanh của tiếng sóng ầm ầm như tiếng gào thét của lòng người trong cảnh ngộ bẽ bàng, tê tái. Tầm nhìn của Kiều hướng từ xa về gần, từ cao đến thấp, mong mỏi kiếm tìm một sự đáp vọng. Thanh âm duy nhất đáp lại nàng là tiếng sóng “ầm ầm” “kêu quanh ghế ngồi”. Nó không làm cho không gian vang động hơn mà càng khắc sâu thêm tâm trạng đau đớn lẫn dự cảm lo âu về tương lai của Kiều. Xót xa biết bao, đớn đau biết bao! Chỉ có thiên nhiên bên nàng, sẻ chia “tấm lòng” với nàng. Đó chính là thời khắc Kiều thấm thía nhất nỗi niềm tự thương thân.

Thơ ca chỉ tìm được bến neo đậu nơi lòng người khi đó là tiếng lòng tha thiết, được tạo tác bởi tài năng nghệ thuật chân chính. Đoạn thơ này của Nguyễn Du đã làm được điều đó. Nó không chỉ khắc họa thành công nỗi lòng xót xa, tâm trạng bẽ bàng của Kiều mà còn cho ta thấy nghệ thuật tả cảnh ngụ tình bậc thầy của đại thi hào dân tộc. Âm hưởng của những câu thơ này đã, đang và sẽ vang đọng mãi trong tâm trí người đọc.

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 7

Diễn tả thành công tâm trạng Thúy Kiều chứng tỏ Nguyễn Du thấu hiểu, đồng cảm sâu sắc với tâm tư, số phận của con người. Nói về Nguyễn Du, người ta nhớ về một nghệ sĩ với biệt tài miêu tả chân dung nhân vật xuất thần qua hình tượng Thúy Kiều vang danh hậu thế. Không những vậy, ông còn là một cây bút khắc họa hình ảnh thiên nhiên một cách tài hoa và tinh tế. Điều đó được thể hiện rõ qua tâm trạng của Thúy Kiều khi nàng ở lầu Ngưng Bích.

Sau khi bị lừa, bị “thất thân” với Mã Giám Sinh, rồi lại bị Tú Bà làm nhục, Kiều dùng dao tự vẫn. Nàng đã được cứu sống. Tú Bà lập mưu mới, dỗ dành Kiều ra ở lầu Ngưng Bích.

Thân gái nơi đất khách quê người, lo âu, bơ vơ. Những ngày bão tố, hãi hùng vừa qua. Chặng đường phía trước mịt mờ, đầy cạm bẫy. Nàng cay đắng và vô cùng đau khổ. Giờ đây, nàng sống một mình trong lầu Ngưng Bích với bao tâm trạng “bẽ bàng, chán ngán”. Biết lấy ai, biết cùng ai tâm sự? Nỗi nhớ thương như lớp sóng dâng lên trong lòng. Kiều nhớ thương cha mẹ già yếu, không ai đỡ đần nương lựa “quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”. Nàng nhớ chàng Kim “bên trời góc bể bơ vơ…”

Sau nỗi nhớ là nỗi đau buồn tê tái, sự hoang mang và lo sợ triền miên… Nỗi đau buồn như xé tâm can, cứ siết chặt lấy hồn nàng. Đoạn thơ tám câu đầy ắp tâm trạng. Nhà thơ đã lấy khung cảnh thiên nhiên làm nền cho sư vận động nội tâm của nhân vật trữ tình. Còn đâu nữa cảnh vật thân quen ở vườn Thúy? Tất cả đều trở nên xa lạ và hoang sơ: “cửa bể chiều hôm”, con thuyền và “thấp thoáng cánh buồm”, “ngọn nước mới sa”, một cánh “hoa trôi man mác”, “nội cỏ dầu dầu”, màu xanh xanh của mặt đất, chân mây, gió cuốn và tiếng sóng vỗ ầm ầm… Chính những cảnh vật ấy, âm thanh ấy đã góp phần đặc tả tâm trạng Kiều; một bi kịch đang giày vò tan nát lòng nàng suốt đêm ngày.

Mỗi một hình ảnh, một ngôn từ xuất hiện lại gợi ra trong tâm hồn người đọc một trường liên tưởng chua xót về nỗi đau và số kiếp “bạc mệnh” của người con gái đầu lòng Vương Viên ngoại. Mỗi một hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa tượng trưng cho nỗi lo âu và sợ hãi của Kiều. ”Cánh buồm xa xa” thấp thoáng trên “cửa bể chiều hôm” như gợi ra một hành trình lưu lạc, mờ mịt:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Cánh “hoa trôi man mác” giữa “ngọn nước mới sa” bao la, cũng là tâm trạng lo âu cho thân phận nhỏ bé trôi dạt trên dòng đời vô định:

Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?

“Nội cỏ dầu dầu” vàng úa hiện lên giữa màu xanh “chân mây mặt đất” nơi mờ mịt xa xăm hay là cuộc đời tàn úa của nàng:

Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Và biển trời dữ dội “ầm ầm tiếng sóng” đang vỗ, đang “kêu”, đang bủa vây, như nói lên sự lo âu, sợ hãi, nỗi khiếp sợ của Kiều:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh, ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên, miêu tả ngoại cảnh mang ý nghĩa và giá trị như một ẩn dụ, một tượng trưng về tâm trạng đau khổ và số phận đen tối của một kiếp người trong bể trầm luân.

Một hệ thống từ láy: thấp thoáng, xa xa, man mác, dầu dầu, xanh xanh, ầm ầm tạo nên âm điệu hiu hắt, trầm buồn, ghê sợ, ở vị trí đầu dòng thơ, điệp ngữ “buồn trông” bốn lần cất lên như một tiếng ai oán, não nùng kêu thương, diễn tả nét chủ đạo chi phối tâm trạng Thúy Kiều làm cho người đọc vô cùng xúc động:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Buồn trông ngọn nước mới sa
Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh…

Tóm lại, “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn thơ kì lạ về nỗi “đoạn trường”. Một bức tranh đa dạng, phong phú về ngoại cảnh và tâm cảnh đã khắc họa nỗi đau buồn, sợ hãi mà Kiều đang nếm trải, dự báo sóng gió bão bùng mà nàng phải trải qua trong 15 năm trời lưu lạc “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”, có lửa nồng, có dấm thanh, cười ra tiếng khóc, khóc nên trận cười…

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”(trích “Truyện Kiều”) đã thể hiện tâm trạng cô đơn, buồn nhớ và đặc biệt là những biến động dữ dội trong tâm trạng Thuý Kiều khi ở nơi “góc bể chân trời” bơ vơ, buồn tủi. Đoạn trích đã khẳng sự kì tài của Nguyễn Du trong việc miêu tả nội tâm nhân vật bằng bút pháp “tả cảnh ngụ tình” đặc sắc.

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 8

“Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn thơ cảm động nhất trong Truyện Kiều – kiệt tác của thi hào dân tộc Nguyễn Du. Bi kịch nội tâm của Kiều trên con đường lưu lạc những ngày đầu đã được ngòi bút thiên tài của nhà thơ miêu tả qua hình thái ngôn ngữ nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc:

Bỗng quý cô Kiều như đời dân tộc,
Chữ kiên trinh vượt trăm sóng Tiền Đường.
Chàng Kim đã đến tìm, lau giọt khóc
Và lò trầm đêm ấy tỏa bay hương…

(Đọc Kiều, Chế Lan Viên)

Những vần thơ trên đây của Chế Lan Viên đã gợi thương gợi nhớ trong lòng ta về cuộc đời bạc mệnh của người con gái tài sắc Thúy Kiều, và ta cảm động biết bao trước tấm lòng nhân đạo bao la của Nguyễn Du, nhà thơ lớn của dân tộc.

Đoạn thơ tám câu như thấm đầy lệ làm vương vấn hồn ta: “Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc – sắc tài sao mà lại lắm truân chuyên”.

“Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn thơ cảm động nhất trong Truyện Kiều, kiệt tác của thi hào dân tộc Nguyễn Du. Bi kịch nội tâm của Kiều trên con đường lưu lạc những ngày đầu đã được ngòi bút thiên tài của nhà thơ miêu tả qua hình thái ngôn ngữ nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Những vần thơ buồn thương mênh mang đã gieo vào lòng người đọc nhiều xót xa khôn nguôi về những kiếp người “bạc mệnh” ngày xưa…

Sau khi bị lừa, bị “thất thân” với Mã Giám Sinh, rồi lại bị Tú Bà làm nhục, Kiều dùng dao tự vẫn. Nàng đã được cứu sống. Tú Bà lập mưu mới, dỗ dành Kiều ra ở lầu Ngưng Bích. Thân gái nơi đất khách quê người, lo âu, bơ vơ. Những ngày bão tố, hãi hùng vừa qua. Chặng đường phía trước mịt mờ, đầy cạm bẫy. Nàng cay đắng và vô cùng đau khổ. Giờ đây, nàng sống một mình trong lầu Ngưng Bích với bao tâm trạng “bẽ bàng, chán ngán”. Biết lấy ai, biết cùng ai tâm sự? Nỗi nhớ thương như lớp sóng dâng lên trong lòng. Kiều nhớ thương cha mẹ già yếu, không ai đỡ đần nương lựa “quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”. Nàng nhớ chàng Kim “bên trời góc bể bơ vơ…”.

Sau nỗi nhớ là nỗi đau buồn tê tái, sự hoang mang và lo sợ triền miên. Nỗi đau buồn như xé tâm can, cứ siết chặt lấy hồn nàng. Đoạn thơ tám câu đầy ắp tâm trạng. Nhà thơ đã lấy khung cảnh thiên nhiên làm nền cho sư vận động nội tâm của nhân vật trữ tình. Còn đâu nữa cảnh vật thân quen ở vườn Thúy? Tất cả đều trở nên xa lạ và hoang sơ: “cửa bể chiều hôm”, con thuyền và “thấp thoáng cánh buồm”, “ngọn nước mới sa”, một cánh “hoa trôi man mác”, “nội cỏ dầu dầu”, màu xanh xanh của mặt đất, chân mây, gió cuốn và tiếng sóng vỗ ầm ầm… Chính những cảnh vật ấy, âm thanh ấy đã góp phần đặc tả tâm trạng Kiều; một bi kịch đang giày vò tan nát lòng nàng suốt đêm ngày.

Mỗi một hình ảnh, một ngôn từ xuất hiện lại gợi ra trong tâm hồn người đọc một trường liên tưởng chua xót về nỗi đau và số kiếp “bạc mệnh” của người con gái đầu lòng Vương Viên ngoại. Mỗi một hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa tượng trưng cho nỗi lo âu và sợ hãi của Kiều. ”Cánh buồm xa xa” thấp thoáng trên “cửa bể chiều hôm” như gợi ra một hành trình lưu lạc, mờ mịt:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Cánh “hoa trôi man mác” đồi lên đồi xuống giữa “ngọn nước mới sa” bao la, cũng là tâm trạng lo âu cho thân phận nhỏ bé trôi dạt trên dòng đời vô định:

Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?

“Nội cỏ dầu dầu” vàng úa hiện lên giữa màu xanh “chân mây mặt đất” nơi mờ mịt xa xăm hay là cuộc đời tàn úa của nàng:

Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Và biển trời dữ dội “ầm ầm tiếng sóng” đang vỗ, đang “kêu”, đang bủa vây, như nói lên sự lo âu, sợ hãi, nỗi khiếp sợ của Kiều:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh, ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên, miêu tả ngoại cảnh mang ý nghĩa và giá trị như một ẩn dụ, một tượng trưng về tâm trạng đau khổ và số phận đen tối của một kiếp người trong bể trầm luân.

Một hệ thống từ láy: “thấp thoáng, xa xa, man mác, dầu dầu, xanh xanh, ầm ầm” tạo nên âm điệu hiu hắt, trầm buồn, ghê sợ, ở vị trí đầu dòng thơ, điệp ngữ “buồn trông” bốn lần cất lên như một tiếng ai oán, não nùng kêu thương, diễn tả nét chủ đạo chi phối tâm trạng Thúy Kiều làm cho người đọc vô cùng xúc động:

Buồn trông cửa bể chiều hôm…
Buồn trông ngọn nước mới sa…
Buồn trông nội cỏ dầu dầu…
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh…

Tóm lại, “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn thơ kì lạ về nỗi “đoạn trường”. Một bức tranh đa dạng, phong phú về ngoại cảnh và tâm cảnh đã khắc họa nỗi đau buồn, sợ hãi mà Kiều đang nếm trải, dự báo sóng gió bão bùng mà nàng phải trải qua trong mười năm năm trời lưu lạc “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”, có lửa nồng, có dấm thanh, cười ra tiếng khóc, khóc nên trận cười…

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du vô cùng điêu luyện, cảnh mang hồn người. Cảnh và tình hòa hợp, sống động, hình tượng, biểu cảm. Tả cảnh để tả tình, trong cảnh có tình, lấy cảnh để phô diễn tâm trạng “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Mỗi một cảnh vật là một nét đau, nỗi lo, nỗi buồn tê tái người con gái lưu lạc.

Đoạn thơ có giá trị nhân bản sâu sắc. Nó dấy lên trong lòng mỗi chúng ta những xót thương về con người tài sắc bạc mệnh. Một thái độ yêu thương, một tấm lòng nhân hậu, cảm thông, chia sẻ của nhà thơ đối với nỗi đau của Thúy Kiều đã để lại ấn tượng sâu sắc trong trái tim người đọc qua hàng thế kỷ nay:

Tố Như ơi! Lệ chảy quanh thân Kiều.

(Tố Hữu)

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 9

Nguyễn Du – người đưa nền văn học chữ Nôm của dân tộc ta phát triển tới đỉnh cao từ thế kỉ XVIII với kiệt tác “Truyện Kiều”. Người ta say mê Kiều không chỉ bởi tài năng của Nguyễn Du mà có lẽ trước hết là ở tấm lòng nhân đạo ông dành cho người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Đến với tám câu cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là bức tranh tâm trạng đầy xúc động của Thúy Kiều qua cách nhìn cảnh vật.

Đoạn trích “Kiều ở Lầu Ngưng Bích” nằm ở phần hai “Gia biến và lưu lạc”. Khi gia đình gặp cơn hoạn nạn, Kiều đã quyết định bán mình chuộc cha. Đời nàng rẽ lối, những nốt nhạc đầu tiên trong “thiên bạc mệnh” đã ngân lên. Kiều bị Mã Giám Sinh, Tú Bà lừa gạt đẩy vào lầu xanh. Đau đớn và tủi nhục, Kiều đã tự tử nhưng không thành. Sau đó Tú Bà đành phải đưa Kiều ra sống ở lầu Ngưng Bích với lời hứa sẽ kén chồng cho nàng vào nơi tử tế. Trong giờ phút bên ngoài tưởng như yên tĩnh này thì chính trong lòng Kiều lại ngổn ngang trăm mối. Một nỗi buồn mênh mang đang choáng ngợp tâm hồn Kiều: rời xa người yêu, rời xa cha mẹ để rồi nhìn đâu nàng cũng thấy buồn. Nguyễn Du đã chọn cách biểu hiện “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” để thể hiện tâm trạng Kiều. Mỗi cảnh vật là một bức tranh tâm trạng:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Câu thơ tả cảnh biển khơi mênh mông trong ánh chiều dần tắt lịm. Thời điểm buổi chiều dễ gợi buồn, gợi nhớ, nhất là với những kẻ tha hương. Biển bao la nhưng chỉ có một con thuyền “thấp thoáng” “xa xa” lúc ẩn lúc hiện, như có như không. Sự lẻ loi, đơn chiếc của chiếc thuyền phải chăng cũng chính là thân phận bơ vơ, côi cút của Kiều nơi góc bể chân trời, một mình cô độc.

Sau cảnh biển bao la chấp chới con thuyền là đến cảnh hoa rơi sóng nước:

Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Thuyền trôi vô định, hoa cũng trôi vô định chẳng biết về đâu. Nhìn cánh hoa rơi nơi sóng nước, Kiều lại liên tưởng đến thân phận mình. Đời nàng cũng có khác chi một đóa phù dung sớm nở tối tàn. Hoa lìa cành hoa héo, hoa tàn, hoa rơi sóng nước sẽ bị gió dập sóng dồi. Kiều xa cha mẹ, đời nàng cũng như cánh chim lạc bầy trong giông tố không tự quyết định được tương lai của mình. Kiều cũng đang nhắm mắt đưa chân mặc dòng đời xô đẩy.

Sóng nước mênh mông, trôi nổi, Kiều nhìn xuống mặt đất cũng chỉ một màu vàng úa:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Không phải là “cỏ non xanh tận chân trời” như ngày Tết Thanh minh mà là “nội cỏ rầu rầu” màu vàng úa, héo hắt, tàn tạ, thê lương. Màu “xanh xanh” nhàn nhạt tạo cho cỏ cây không còn nét tươi mà thêm vẻ “rầu rầu” tạo thành một màu sắc buồn, tẻ ngắt. Tuổi thanh xuân tươi đẹp của Kiều, tài năng sắc sảo đủ mùi của nàng đã, đang và sẽ nhạt buồn vô vị như nội cỏ rầu rầu kia. Đời Kiều rồi cũng giống như đời Đạm Tiên tài sắc vẹn toàn để rồi “Sống làm vợ khắp người ta / Hại thay thác xuống làm ma không chồng”.

Khép lại đoạn thơ là những âm thanh dữ dội:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Biển khơi đang êm ả, phẳng lặng bỗng vang lên những âm thanh ghê gớm, khủng khiếp. Tiếng sóng ầm ầm khắp bốn phía như muốn cuốn hết đi thân phận nhỏ bé của Kiều, như sẵn sàng đẩy con người xuống vực thẳm. Sóng gió biển khơi hay sóng gió cuộc đời đang đón đợi nàng? Đó là những âm thanh định mệnh báo trước một tai ương đầy bất trắc. Để rồi sau đó Kiều mắc lừa Sở Khanh và rơi vào cảnh “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”.

Ngòi bút của Nguyễn Du hết sức tinh tế khi tả cảnh cũng như ngụ tình. Cảnh và tình uốn lượn song song, mỗi cảnh là một bức tranh tâm trạng. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động, nỗi buồn từ man mác đến âu lo, kinh sợ. Cảnh vật thay đổi, bốn bức tranh tạo thành một bộ tranh tứ bình về tâm trạng của Kiều. Cụm từ “Buồn trông… ” mở đầu câu thơ lục tạo âm hưởng trầm buồn đã trở thành điệp khúc đoạn thơ và điệp khúc tâm trạng Thúy Kiều. Những câu hỏi tu từ cùng với một loạt các từ láy gợi hình gợi cảm đã góp phần làm xô dậy những cơn sóng lòng của Kiều. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” cho ta thấy rõ những nét tâm trạng của Kiều, giúp ta có những dự cảm đau đớn về tương lai Kiều phía trước đồng thời làm sáng lên cái tài, cái tâm và cái tầm của một thiên tài Nguyễn Du.

Đoạn trích được nhiều người biết đến và quý trọng. Có lẽ vừa bởi cái tài lớn của Nguyễn Du trong bút pháp tả cảnh ngụ tình vừa bởi tấm lòng nhân đạo chủ nghĩa lớn của ông lay động tâm thức người đọc một nỗi xót xa, đồng cảm với thân phận của những con người tài hoa bạc mệnh.

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 10

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”đã thể hiện tâm trạng cô đơn, buồn nhớ và đặc biệt là những biến động dữ dội trong tâm trạng Thuý Kiều khi ở nơi “góc bể chân trời” bơ vơ, buồn tủi.

Tuyệt tác “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du thành công trước hết ở những đoạn thơ tả cảnh tả tình tuyệt bút, đó là những đoạn thơ “tả cảnh ngụ tình” . Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” (Truyện Kiều), Nguyễn Du đã có tám câu thơ cuối rất tài hoa trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Mỗi cảnh vật như nói với ta một nỗi buồn khác nhau và nỗi buồn đó ngày càng mãnh liệt hơn, ghê gớm hơn:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là mượn cảnh vật để gửi gắm (ngụ) tâm trạng. Cảnh được miêu tả không đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng. Cảnh là phương tiện miêu tả còn tình là đích của sự miêu tả. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật ấy, nhất là sự vận dụng thành công trong tám câu thơ cuối đoạn Trong sáu câu thơ đầu, khung cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích với không gian, thời gian được nhìn qua con mắt của nhân vật, bộc lộ hoàn cảnh tâm trạng cô đơn, tội nghiệp của Thuý Kiều:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng…

Lầu Ngưng Bích nơi Kiều bị giam lỏng được gọi là nơi khóa xuân. Đó có nghĩa là nơi khoá giữ tuổi trẻ, ước mơ và hoài bão của đời thiếu nữ. Không gian nơi ấy mênh mông, chống chếnh làm sao: non xa, trăng gần, bốn bề bát ngát xa trông, … vẻ xa xôi, mênh mông của thiên nhiên càng tô đậm tình cảnh cô đơn, trơ trọi của Kiều. “Mây sớm đèn khuya” chỉ một mình nàng “bẽ bàng” vào ra hôm sớm. Hình ảnh trăng, mây sớm đèn khuya biểu đạt sự quay vòng của thời gian. Cùng với những hình ảnh gợi tả không gian, sự tuần hoàn đều đặn của thời gian càng nhấn đậm thêm tình cảnh cô đơn, buồn bã của Kiều. Đúng là nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Bơ vơ nơi chân trời góc bể ấy, tấm lòng Kiều hướng cả về quê hương xứ sở cùng những người thân yêu nhất của mình:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh biết ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm…

Trước hết, nàng nhớ tới Kim Trọng – mối tình đầu trong trẻo, say đắm của mình. Kiều tưởng tượng ra cảnh chàng Kim cũng đang nhớ về mình, mong ngóng mà vẫn bặt tin:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ…

Nghĩ đến đó, tâm trạng Kiều đau đớn, xót xa, tủi phận:

Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai…

Nàng nhớ đến cha mẹ, thương cha mẹ ngày ngày tựa cửa ngóng tin con “xót người tựa cửa hôm mai”, ngậm ngùi vì tuổi già trước sự khắc nghiệt của thời gian “Sân Lai cách mấy nắng mưa – Có khi gốc tử đã vừa người ôm”, day dứt vì mình không được ở bên để báo đáp công ơn sinh thành “quạt nồng ấp lạnh biết ai đó giờ”.

Nguyễn Du để Kiều nhớ tới Kim Trọng trước là hoàn toàn phù hợp với diễn biến tâm lí của nhân vật trong cảnh ngộ cụ thể, đảm bảo tính chân thực cho hình tượng. Trong tình cảnh bị Mã Giám Sinh làm nhục, lại ép tiếp khách làng chơi nên hiện trạng tâm lý Kiều là nỗi đau đớn về “tấm son gột rửa bao giờ cho phai”, là nỗi buồn nhớ người yêu, nuối tiếc mối tình đầu đẹp đẽ. Kiều đã hi sinh thân mình vì đạo hiếu, khi lâm vào tình cảnh đáng thương, nàng lại một lòng nhớ đến Kim Trọng, nhớ thương cha mẹ, quên cả cảnh ngộ của mình. Trong đoạn trích này, Kiều hiện ra với đức vị tha cao đẹp.

Càng nhớ người yêu, càng nhớ cha mẹ, Kiều càng đau xót cho số phận và hoàn cảnh buồn khổ của mình. Tâm trạng ấy của nàng tập trung vào tám câu thơ cuối đoạn trích. Tại dó, Nguyễn Du đã cho thấy một bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Cảnh vật được miêu tả qua tâm trạng, tâm trạng nhuốm lên cảnh vật, cảnh vật thể hiện tâm trạng, sắc thái của bức tranh thiên nhiên thể hiện từng trạng thái tình cảm của Thuý Kiều:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa…

Buổi chiều tà thường gợi nỗi nhớ về quê hương xứ sở. Ca dao từng có câu:

Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.

Huống gì cảnh chiều hôm lại đứng trước biển trời bao la. Khung cảnh rợn ngợp ấy gọi nỗi cô đơn không gì khỏa lấp. Kiều thấy cả những cánh buồm thấp thoáng”, những cánh buồm chợt ẩn, chợt hiện không rõ ràng phía chân trời chứng tỏ nàng đã ngóng trông đau đáu đến nhường nào. Trong những cánh buồm đi về nơi tổ ấm nơi xa kia, liệu có cánh buồm nào đưa Kiều về với quê mẹ của nàng?

Lại đây nữa, thêm cảnh là lại thêm buồn:

Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu

Nhìn cánh hoa rơi bị cuốn theo dòng nước, nàng nghĩ đến thân phận trôi dạt, vô định của mình, chẳng biết rồi mình sẽ đi đâu về đâu. Những động từ, tính từ trong câu thơ tất thảy đều gợi sự dạt trôi, vô định đến vô tình của tạo hoá: “sa”, “man mác”. Điều đó khiến cho không phải bản thân cánh hoa mà trong sự “trôi” của cánh hoa đã phảng phất nỗi buồn “man mác” tủi hờn. Nó cũng giống như những chuỗi ngày nhạt nhẽo vô vị Kiều phải giam mình nơi lầu xanh ô nhục và đơn độc này:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

“Rầu rầu” gợi dáng vẻ rũ xuống, lả đi. Nếu như “nội cỏ rầu rầu” thì cái sắc “xanh xanh” liền chân mây mặt đất kia hẳn không phải sắc xanh của tuổi trẻ, hy vọng và tình yêu. Nó là màu xanh cỏ úa héo hon rầu rĩ. Nó chẳng khác nào nỗi lòng đang tan ra vì buồn tủi của Thuý Kiều.

Đáng sợ hơn, nơi lầu Ngưng Bích bơ vơ tứ bể biển cả, Kiều còn mang một dự cảm hãi hùng về tương lai đầy sóng gió:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

“Gió cuốn mặt duềnh” để báo trước một đợt giông bão của biển cả và cũng là báo trước những giông bão của cuộc đời. Vậy là bi kịch của đời Kiều chưa dừng lại. Con Tạo còn muốn đánh ghen đến “dập liễu vùi hoa tơi bời” mới thoả. Nghe trong tiếng “ầm ầm” của sóng bể có tiếng bước chân của những bầy Khuyến Ưng hung hãn và vô nhân tính.

Từng chi tiết, hình ảnh khung cảnh thiên nhiên đều mang đậm trạng thái tình cảm của Thuý Kiều. Mỗi cảnh là mối tình, song tất cả đều buồn thương, đúng là: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Đặc biệt, cụm từ buồn trông lặp lại bốn lần trong tám câu thơ như những đợt sóng lòng trùng điệp, càng khiến nỗi buồn dằng dặc, mênh mông, kết hợp với cái nhìn từ xa đến gần, thu hẹp dần vào nội cảm con người để đến cuối đoạn thì tâm trạng cô đơn, sầu nhớ, cảm giác đau đớn trào lên. Sóng gió nổi lên như sự báo về những đau khổ ê chề rồi đây sẽ xảy ra đối với Kiều, là dự cảm cho một đoạn đời “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.”.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”(trích Truyện Kiều) đã thể hiện tâm trạng cô đơn, buồn nhớ và đặc biệt là những biến động dữ dội trong tâm trạng Thuý Kiều khi ở nơi “góc bể chân trời” bơ vơ, buồn tủi. Đoạn trích đã khẳng sự kì tài của Nguyễn Du trong việc miêu tả nội tâm nhân vật bằng bút pháp “tả cảnh ngụ tình” đặc sắc.

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 11

Nguyễn Du chính là ngọn cờ đầu đưa nền văn học chữ Nôm của dân tộc ta phát triển tới đỉnh cao với kiệt tác truyện Kiều. Người ta đọc truyện và ấn tượng với nó không chỉ bởi tài năng của Nguyễn Du mà có lẽ bởi tấm lòng nhân đạo của ông dành cho người phụ nữ tài hoa nhưng bạc mệnh. Với tám câu thơ cuối đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích chính là bức tranh tâm trạng đầy xúc động của Thúy Kiều qua cách nhìn cảnh vật.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích nằm ở phần Gia biến và lưu lạc khi gia đình gặp cơn loạn lạc, Kiều đã quyết định bán mình để chuộc cha. Trải qua bao gian khổ Kiều đã bị Tú Bà đưa ra sống ở lầu Ngưng Bích. Trong tâm trạng của một con người xa quê và nhớ nhà trước khung cảnh của lầu Ngưng Bích một nỗi buồn mênh mang đã khiến cho Kiều có những cảm xúc:

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Hai câu thơ tả cảnh biển khơi mênh mông dưới ánh chiều tà, thời điểm buổi chiều luôn là thời điểm gọi buồn gợi nhớ đặc biệt là đối với những kẻ tha hương xa xứ. Hình ảnh biển bao la nhưng chỉ có một con thuyền thấp thoáng xa xa, lúc ẩn lúc hiện như có như không. Chính sự lẻ loi, cô đơn của chiếc thuyền đã là hình ảnh ẩn dụ cho thân phận bơ vơ, lẻ loi của Kiều.

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu

Hình ảnh thuyền trôi vô định nhưng đến cánh hoa cũng vô định cũng chẳng biết về đâu. Cánh hoa rơi nơi sóng nước Kiều lại liên tưởng đến thân phận của mình, cuộc đời nàng cũng giống như một đóa hoa phù dung sớm nở tối tàn, bị gió dập sóng dồi. Xa cha mẹ là cuộc đời Kiều giống như cánh chim lạc bầy trong giông tố, không tự quyết định được phương hướng và tương lai của mình. Kiều nhắm mắt mặc dòng đời xô đẩy

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Màu cỏ ở đây không còn là cỏ non xanh tận chân trời giống như ngày tiết Thanh minh mà là nội cỏ rầu rầu, chính là một màu vàng úa, héo hắt, thê lương. Màu xanh xanh nhưng lại nhàn nhạt tạo cho cỏ cây không còn nét tươi mà thêm vẻ ủ rũ tạo nên một sắc buồn tẻ nhạt. Tuổi thanh xuân của Kiều với tài năng trời phú và nét đẹp của mình nhưng Kiều đã phải chôn vùi tuổi thanh xuân ấy ở lầu Ngưng Bích.

Buồn trông gió cuốn mặt dềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Hình ảnh biển khơi đang êm ả không có một chút âm thanh nhưng cuối khổ thơ lại là tiếng sóng ầm ầm, tiếng sóng bốn phía như muốn cuốn hết đi thân phận nhỏ bé của Kiều, như chỉ trực chờ đẩy con người xuống vực thẳm. Sóng gió biển khơi hay thực chất là sóng gió cuộc đời đang chờ đón Kiều. Đó chính là những âm thanh báo hiệu một tương lai đầy bất chấp để sau đó Kiều liên tiếp gặp những khổ cực trong cuộc đời mình.

Với ngòi bút tài hoa và tinh tế của Nguyễn Du cảnh và tình uốn lượn song song. Cảnh vật thay đổi tạo thành một bộ bức tranh tứ bình về tâm trạng của Kiều với các câu hỏi tu từ, một loạt các từ láy đã gợi hình ảnh gợi cảm góp phần khơi dậy những cơn sóng trong lòng của Kiều. Với đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã cho ta thấy rõ những nét tâm trạng của Kiều, giúp ta có những sự cảm đau đớn về tương lai của Kiều ở phía trước. Đồng thời thể hiện được cái tài, cái tâm của Nguyễn Du.

Với 8 câu thơ ngắn gọn nhưng đã thể hiện được cái tài của Nguyễn Du trong bút pháp tả cảnh ngụ tình với tấm lòng nhân đạo của ông người đọc như cảm thông với số phận của nàng Kiều. Đồng thời lên án xã hội phong kiến đã đẩy những con người tài hoa nhưng không được xã hội coi trọng.

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 12

Khi nhắc tới đại thi hào Nguyễn Du ta không thể không nhớ tới tài năng sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của ông. Một trong những đoạn trích tiêu biểu miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc nhất của Nguyễn Du đó chính là đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích. Với tám câu thơ cuối của đoạn trích ta có thể cảm nhận được tâm trạng đau đớn, buồn tủi và cô đơn của Kiều ở lầu Ngưng Bích qua tài năng, nghệ thuật xuất sắc của đại thi hào.

Tám câu thơ cuối đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích chính là đỉnh cao trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du. Với bốn cặp thơ lục bát không chỉ cho thấy được sự đau đớn cô đơn của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích mà còn mang tới những dự cảm về một tương lai sóng gió cuộc đời.

Mở đầu bức tranh tâm trạng là điệp ngữ Buồn trông được lặp lại bốn lần tạo thành điệp khúc buồn bộc lộ nội tâm nhân vật với một nỗi buồn đang dâng lên tầng tầng lớp lớp

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Cảnh vật ở lầu Ngưng Bích như thấu hiểu đồng điệu với nỗi đau của Thúy Kiều. Hình ảnh hoàng hôn gợi một cảnh chiều buồn, cả không gian mênh mông và thời gian qua con mắt của Kiều hình ảnh hoàng hôn ấy thật trầm buồn và uất giống như những nỗi sầu đang trào dâng trong tâm hồn của nàng. Chiều hôm là khi bóng đêm dần bao phủ. Đây chính là khoảng thời gian yên tĩnh để con người ta sống chậm lại, để có những chiêm nghiệm và suy ngẫm về cuộc đời. Với không gian chiều tà mênh mông trước biển cả rộng lớn, Thúy Kiều cũng tủi phận và nghĩ về thân phận mình. Kiều thấm thía hơn nữa sự cô đơn bé nhỏ và tình cảnh trớ trêu của bản thân mình. Không gian rộng lớn và hình ảnh chiếc thuyền nhỏ bé khiến cho tâm trạng của người con gái xa nhà càng thêm buồn tủi, cô đơn, xót xa.

Kiều mong mỏi một mái ấm gia đình, một người để dựa vào thế nhưng Thuyền ai thấp thoáng chính là biểu tượng của sự sống có người nhưng sự thấp thoáng ở đây và từ xa xa đã cho thấy điều hư ảo, mịt mờ mà không có thật. Với nghệ thuật đảo ngữ đã nhấn mạnh sự nhỏ bé, xa xôi, mờ ảo của con thuyền nơi cửa bể. Chiếc thuyền lênh đênh như Kiều mờ mịt không bến, không bờ, không phương hướng giống như cuộc đời của Kiều.

Khi ngắm nhìn cảnh mặt biển phía xa Kiều cảm thấy buồn nên đã tìm về cảnh vật xung quanh mình gần hơn để có thể quan sát kĩ càng hơn để không còn thấy thấp thoáng, không còn thấy mịt mù như con thuyền kia nữa. Thế nhưng

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu

Giữa dòng nước đang cuộn chảy phía dưới chân kìa những cánh hoa đang xoay tròn, bị cuốn trôi đi. Cánh hoa mỏng manh ấy chính là ẩn dụ về số phận của người con gái chìm nổi giữa dòng đời, gợi nhắc về một số phận đầy bi kịch của nàng. Câu hỏi tu từ hoa trôi man mác biết là về đâu giống như xoáy vào trong tâm tư của người đọc. Ta thấy sự tuyệt vọng và thấy sự buông xuôi của Kiều.

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt nước một màu xanh xanh

Hình ảnh ngọn cỏ không còn xanh non như trước mà đã rầu rầu càng nhấn mạnh thêm nỗi ưu phiền của nàng. Trong khung cảnh vắng lặng ấy Kiều muốn nghe được một tiếng vọng lại của một lời hồi đáp của con người để nàng cảm thấy an ủi và được thấy đỡ cô đơn

Buồn trông gió cuốn mặt dềnh

Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi

Cả sáu câu thơ đầu đều không có một chút âm thanh nhưng ở hai câu thơ cuối tiếng sóng ầm ầm thể hiện sự đột ngột bất ngờ. Từ ầm ầm cũng là dự đoán tương lai về một số phận, về những bi kịch mà Kiều phải chịu đựng tiếp theo.

Qua tám câu thơ ta thấy được bút pháp tả cảnh ngụ tình tài hoa của Nguyễn Du. Đó chính là tâm trạng của người con xa xứ, của một con người tài hoa nhưng bạc mệnh bị xã hội ruồng bỏ.

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 13

Nguyễn Du không chỉ là một cây bút tài tình trong việc miêu tả chân dung nhân vật mà ông còn có biệt tài miêu tả về thiên nhiên tâm trạng, tình cảm của con người. Dưới bàn tay của Nguyễn Du mỗi bức tranh luôn thể hiện tâm trạng và ngoại cảnh. Đặc biệt trong 8 câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã thể rõ biệt tài đó của Nguyễn Du.

Sau khi Thúy Kiều bị lừa bán vào lầu xanh, cuộc sống của nàng Kiều trở nên ê chề, đau đớn và nàng đã giải thoát cho mình bằng cái chết nhưng không thành công. Tú Bà đã giam lỏng Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích, chờ ngày âm mưu mới được thực hiện. Ở lầu Ngưng Bích Kiều sống trong sự tủi hổ, cô đơn, đau đớn đến tuyệt vọng. Lòng Kiều lúc này một lòng hướng về gia đình của mình. Thân phận nàng Kiều nổi trôi, bán mình để cứu gia đình thoát khỏi tình cảnh khó khăn, thì nỗi nhớ ấy lại càng da diết vô cùng:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”.

Không gian cửa bể mênh mông kết hợp với thuyền “thấp thoáng cánh buồm xa xa” gợi ra một không gian hoang vắng. Dường như cánh buồm trở nên bé nhot hơn rất nhiều ở trong không gian mênh mông ấy. Hiện giờ thân phận của nàng chẳng khác nào cánh buồm bé nhỏ, lênh đênh, trôi nổi giữa cuộc đời vô định. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã rất khéo léo khi chọn lựa thời gian “chiều hôm” để diễn tả nỗi nhớ da diết của Kiều. Đây là không gian thường gợi ra một nỗi buồn man mác, nỗi buồn của Kiều gắn với khao khát được hạnh phúc, sum họp bên gia đình.

“Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?”

Hình ảnh “hoa trôi” đó là biểu tượng cho số phận bất hạnh của Thúy Kiều. Sức mạnh của “ngọn nước mới sa” rất ghê gớm, sóng gió ở trong cuộc đời đã vùi dập nàng Kiều. Cuộc đời của nàng trôi nổi theo dòng đời, không biết rằng đi đâu về đâu. Câu hỏi tu từ “biết là về đâu” tựa như một ai oán trách cho cuộc đời đầy nỗi bất hạnh. Qua đó càng khẳng định thân phận bèo bọt, lênh đênh của nàng. Sắc xanh đã xuất hiện rất nhiều lần ở trong tác phẩm nhưng mỗi lần đều có ý nghĩa khác nhau. Với đoạn trích này màu xanh lại đem đến cho người đọc một ý nghĩa nhạt nhoà:

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”.

Hình ảnh “nội cỏ” mang màu sắc của sự lụi tàn, héo úa. Từ chân trời đến mặt đất được nối lại bởi sắc xanh nhưng lại đơn sắc, nhạt nhòa. Tất cả các màu sắc ấy có sự hài hòa với nhau càng góp phần khiến cho tâm trạng Kiều chán nản hơn với cuộc sống thực tại. Khung cảnh xung quanh chỉ càng làm cho Kiều thêm ảm đạm, u sầu. Dưới ánh mắt chất chứa nỗi tuyệt vọng của nàng, “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” khung cảnh cũng trở nên bế tắc, buồn chán và vô vọng. Hai câu thơ cuối được xem là đỉnh cao của nghệ thuật khi tác giả đã miêu tả cảnh ngụ tình, sự rợn ngợp, hoang vắng của Thúy Kiều:

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Thiên nhiên xuất hiện thật dữ dội, Thúy Kiều tưởng rằng mình đang ở giữa biển khơi bao la rộng lớn chứ không phải đang ở lầu Ngưng Bích. Những cơn sóng biển gào thét như đang muốn nhấn mình thân xác Kiều xuống biển. Với từ láy “ầm ầm” gợi ra một khung cảnh dữ dội đồng thời thể hiện tâm trạng đang hoản loạn của Kiều. Nàng có dự cảm rằng giông bão của số phận sẽ nhấn chìm cuộc đời của mình xuống biển sâu.

Tác giả đã sử dụng tài tình nghệ thuật miêu tả cảnh ngụ tình, mỗi khung cảnh trong khổ thơ lại là một nỗi đau mà Thúy Kiều đang phải gánh chịu. Với hình ảnh ẩn dụ độc đáo kết hợp với từ láy giàu giá trị biểu cảm và tạo hình góp phần tạo nên sự thành công của đoạn trích. Nguyễn Du đã khắc hoạ một bức tranh đặc sắc với nhiều trạng thái xúc cảm khác nhau trước cuộc đời đầy sóng gió của Thúy Kiều. Đồng thời tác giả đã thể hiện một niềm thương cảm sâu sắc cho số phận bất hạnh của nàng Kiều nói riêng và những người phụ nữ dưới xã hội phong kiến nói chung.

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 14

Nhắc đến Nguyễn Du chắc hẳn người ta sẽ nghĩ ngay đến kiệt tác “Truyện Kiều”. Đọc tác phẩm, người đọc như cảm nhận được tác giả có một trái tim nhân hậu đối với con người. Và 8 câu thơ cuối trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã thể hiện được bút pháp tài tình của Nguyễn Du, trong đó đặc biệt là bút pháp miêu tả cảnh ngụ tình.

Tác giả Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc để diễn tả tâm trạng của Kiều, một tâm trạng cô đơn buồn tủi và đầu tuyệt vọng. Mỗi cảnh đều gợi ra một nỗi buồn khác nhau, cảnh mỗi lúc một buồn hơn bởi tình buồn tác động đến cảnh buồn và khiến cho nỗi buồn ấy ngày càng trở mãnh liệt hơn.

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Bằng những dòng thơ sinh động cộng thêm sự tài giỏi trong việc miêu tả nội dung nhân vật của Nguyễn Du đã làm hiện lên một bức tranh tả cảnh thiên nhiên đẹp không những thế mà còn thể hiện nỗi lòng của Thúy Kiều. Kiều bơ vơ một mình, cô đơn giữa một không gian mênh mông, rộng lớn cùng với nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương trỗi dậy không nguôi trong lòng nàng.

“Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng, cánh buồm xa xa”

Từ “cửa bể” chỉ một không gian mênh mông của biển khơi, nỗi buồn ấy càng trở nên khủng khiếp hơn khi tác giả đặt nó vào khoảng thời gian chiều tà. Qua câu thơ này người đọc có thể hình dung được cảnh người con gái lấy chồng xa quê, man mác buồn. Hình ảnh một cánh buồm lẻ loi giữa một khoảng không gian bao la, rộng lớn vào buổi chiều hôm. Một sự lạc long lúc ẩn lúc hiện gợi lên sự cô đơn cùng một nỗi buồn da diết của một con người giữa chốn đất khách xa xôi. Cho thấy được tình cảnh của Kiều lúc bấy giờ, một mình lẻ loi đối đầu với bão tố sóng gió chả cuộc đời, số phận Kiều giống như cánh buồn kia trôi lênh đênh và không biết sẽ dạt về phương trời nào.

“Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?”

Người đọc cản thấy xót thương khi chứng kiến cảnh Kiều lo lắng và sợ hãi giữa cảnh biển trời mênh mông vô hướng, ở nơi đó Kiều nhìn thấy cánh hoa trôi và nghĩ đến thân phận của chính bản thân mình: Không gian bây giờ đã càng trở nên mạnh mẽ và dữ dội hơn. Hình ảnh của cánh hia trôi giống như cuộc đời Kiều một mình trôi nổi giữa dòng đời và cảm thấy bất lực mặc cho số phận xô đẩy về đâu. Đến hai câu thơ tiếp theo, thì tâm trạng của Kiều bây giờ đã chuyển từ lo lắng và sợ hãi thành tuyệt vọng và bế tắc

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

Ngày xuân cảnh vật đầy sức sống đáng kẽ ra phải là cỏ non xanh tận chân trời nhưng Kiều nhìn thấy là hình ảnh của “nội cỏ rầu rầu” gợi lên sự úa héo, tàn phai, chết chóc, đã khiến cho Kiều càng trở nên chán nản và tuyệt vọng. Bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du trong hai câu thơ cuối có thể nói là đạt đến đỉnh điểm. Âm thanh của sóng gió dữ dội đang bủa vây lấy cuộc đời Thúy Kiều như đang muốn báo điều gì xấu sắp xảy ra.

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Chiều đã dần muộn, mọi cảnh vậy đều không còn nhìn rõ nhưng âm thanh của sóng gió lại càng mạnh mẽ hơn. Kiều cảm thấy lo sợ và kinh hãi, Kiều cô đơn, lẻ loi, chơi vơi và bất lực rơi vào vực thẳm và Kiều cảm thấy tuyệt vọng và yếu đuối. Không những thế, bốn câu thơ lục bát đã được liên kết lại với nhau qua điệp ngữ “buồn trông” thể hiện nỗi buồn triền miên, tựa như âm hưởng của một bản nhạc buồn. Với hình ảnh ẩn dụ độc đáo, khung cảnh như được miêu tả từ xa cho đến gần, màu sắc cũng chuyển dần từ nhạt cho đến đậm, âm thanh cũng chuyển từ tĩnh thành động và tâm trạng của nàng Kiều cũng từ cô đơn, tuyệt vọng cô đơn cho đến hoang mang và lo lắng.

Nói tóm lại, đoạn trích “Kiều ở Lầu Ngưng Bích” vừa là một bức tranh thiên nhiên vừa là một bức tranh thể hiện tâm trạng sâu sắc. Đồng thời thể hiện tài năng bậc thầy của tác giả trong tả cảnh ngụ tình, đặc biệt đó là 8 câu thơ cuối cùng đã gieo vào trong lòng độc giả biết bao nỗi buồn thương nàng Kiều và từ đó thấu hiểu thân phận người đàn bà của Nguyễn Du.

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 15

Thể thơ lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc. Thể thơ ấy không chỉ thể hiện được cái tài hoa của người tác giả mà nó còn cho thấy cái hồn của tiếng Việt. Nhà thơ Nguyễn Du chọn thể thơ lục bát khi viết Truyện Kiều là ông đã làm được cả 2 điều trên. Truyện Kiều trở thành áng thi ca bất hủ của mọi thời đại. 8 câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích cũng đủ cho ta thấy được cái tài của Nguyễn Du khi tả cảnh ngụ tình. Cho đến nay, có lẽ chưa ai làm được điều này tốt như ông.

Thúy Kiều được miêu tả ở là người “sắc đành đòi một tài đành họa hai” nhưng “chữ tài đi với chữ tai một vần”. Những năm tháng “êm đềm chiếu rủ màn che” nhanh chóng kết thúc, thay vào đó là những năm tháng bi thương mà mở đầu là chuỗi ngày Kiều ở lầu Ngưng Bích:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Đây có lẽ là giai đoạn khó khăn với Thúy Kiều khi mà cuộc sống đã thay đổi hoàn toàn. Những ngày đầu tiên của kiếp đoạn trường, Kiều thương mình, thương gia đình, thương cả mối tình vừa mới chớm nỏ nhưng đã vội chia lìa. Lòng nàng đau như cắt và nó khiến cho khung cảnh xung quanh cũng trở nên ảm đạm theo.

Trong 8 câu cuối này, hai tiếng “buồn trông” được nhắc lại tới 4 lần. Có thể thấy lúc này, Kiều không còn ai để dựa vào ngoài chính mình. Nàng mong chờ thiên nhiên tươi đẹp mang đến cho nàng chút gì đó làm niềm vui nhưng không, với đôi mắt “buồn trông” thì nàng không thể nhìn thấy những điều tốt đẹp.

Thúy Kiều hướng đôi mắt của mình về phía xa, nơi có nhà của nàng, có một người nàng thương yêu nhưng chưa kịp nói lời từ biệt:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Buổi chiều hôm là lúc mà khung cảnh trở nên ảm đạm. Cộng thêm cái nhìn của Thúy Kiều về nơi cửa bể quạnh hiu càng làm tăng thêm sự nhỏ bé, nỗi cô đơn của Thúy Kiều. Xót xa thay cho người con gái bé nhỏ. Nàng tìm kiếm cho mình một chút hiện diện của sự sống như mong muốn vơi đi nỗi cô đơn của mình:

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Có thuyền, ắt hẳn phải có người. Nhưng sự sống ấy ở xa quá, chẳng đủ làm khỏa lấp nỗi cô đơn của Thúy Kiều. Hai chữ “thấp thoáng”, “xa xa” chỉ làm tăng thêm cảm giác cô liêu. Bấu víu vào cánh buồm xa không được, Thúy Kiều hướng ánh mắt buồn trông về phía ngọn nước:

Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Cụm từ hoa trôi man mác khiến ta liên tưởng đến cánh bèo trôi. Cánh bèo thường được ví như thân phận của người phụ nữ. Hoa trôi về đâu? Cuộc đời của Thúy Kiều sau này sẽ đi về đâu? Thúy Kiều đặt ra câu hỏi cho cánh hoa nhưng cũng là đặt câu hỏi cho chính cuộc đời mình. Câu hỏi không có câu trả lời. Về đâu? Thúy Kiều cũng không biết được. Một cánh hoa trôi trên dòng nước lạnh lẽo, cô độc như Thúy Kiều của thực tại. Kiều lại đưa mắt về với mặt đất:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Cỏ xanh không còn rợn chân trời như ngày tết thanh minh nữa mà giờ đã trở nên rầu rầu như tâm trạng của con người. Phải chăng, ngọn cỏ cũng hiểu cho tâm trạng của Kiều? Tâm trạng buồn rầu ấy phủ ngập lấy không gian xung quanh. Kiều nhìn xa về phía chân mây rồi lại nhìn gần xuống mặt đất nhưng nơi đâu cũng chỉ thấy một màu xanh xanh. Đó là một màu xanh xám ảm đạm của buổi chiều tà chứ không còn là màu xanh của sự sống trong tiết trời mùa xuân nữa.

Chính nỗi buồn của Thúy Kiều đã nhuộm buồn màu xanh của cảnh vật nơi lầu Ngưng Bích. Trong khung cảnh ấy, chỉ có Thúy Kiều với nỗi cô đơn, buồn tủi trong lòng. Nàng tha thiết tìm một tiếng vọng của sự sống nhưng không, những gì nàng nhận về chỉ có âm thanh của tự nhiên:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Cách lựa chọn từ ngữ của Nguyễn Du rất tinh tế. Tất cả đều nhằm nói lên thân phận bèo trôi của Thúy Kiều. Tiếng sóng ầm ầm ở đây là tiếng sóng lòng của Thúy Kiều. Điều đó đủ cho ta thấy trong lòng nàng tâm trạng giằng xé dữ dội như thế nào. Tiếng sóng không làm phá vỡ không gian yên tĩnh của không gian mà nó càng làm khắc sâu thêm tâm trạng đau đớn của Kiều. Đau đớn lắm chứ bởi lúc cần có người bên cạnh nhất thì Kiều chỉ tìm thấy được sự an ủi nơi thiên nhiên.

Đoạn thơ 8 câu đã nói lên được hết nỗi lòng của nàng Kiều khi ở lầu Ngưng Bích. Bên cạnh đó, đoạn thơ cho thấy tài năng nghệ thuật bậc thầy của Nguyễn Du trong việc tả cảnh, ngụ tình. Khép lại đoạn thơ nhưng hình ảnh, âm thanh của nó vẫn sẽ còn lưu lại mãi trong tâm trí người đọc.

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 16

Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một trong những tác phẩm truyện thơ nổi tiếng nhất trong nền văn học trung đại Việt Nam, đồng thời cũng là một tác phẩm xứng tầm kiệt tác của toàn bộ nền văn học nước ta. Đó là một tác phẩm mang trong mình nhiều giá trị, trước hết là giá trị hiện thực khi phản ánh nỗi bất công và cuộc đời đầy đau khổ khổ của người phụ nữ trong chế độ phong kiến.

Thứ hai, ấy là giá trị nhân đạo, qua Truyện Kiều, tác giả Nguyễn Du đã thể hiện thái độ cảm thông cho số phận người phụ nữ, mang trong mình nhiều vẻ đẹp nhưng cuộc đời vẫn chông chênh. Một trong những đoạn trích tiêu biểu nhất trong Truyện Kiều có thể kể đến “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Đặc biệt ở 8 câu thơ cuối bài, nỗi buồn của nàng Kiều được bộc lộ một cách trực tiếp và mạnh mẽ thông qua những cảnh vật tưởng vô tình nhưng lại hữu ý ám chỉ về tâm tư, về cuộc đời và số phận của nàng Kiều tội nghiệp.

Sau gia biến Kiều bị Mã Giám Sinh lừa bán, rồi lưu lạc vào lầu xanh. Với bản tính quật cường, Kiều không chấp nhận cuộc sống ong bướm gió trăng nơi lầu xanh, quyết không chịu tiếp khách và nhiều lần muốn tự tử, thấy vậy Tú Bà bèn dỗ, ngon dỗ ngọt Kiều rằng sẽ gả nàng vào chỗ tốt và giam lỏng nàng ở lầu Ngưng Bích. Tại đây Kiều ngày ngày ôm nỗi buồn, nỗi nhớ thương gia đình, lại xót xa cho mình phận bạc, điều ấy được Nguyễn Du diễn tả một cách rất tinh tế.

“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”

Mở ra trước mắt ấy là cảnh “cửa bể chiều hôm”, vốn thời gian buổi chiều đã phần nào khiến cho con người ta lâm vào cảm giác buồn man mác, thì cái cửa bể mênh mông sóng nước kia lại càng khiến lòng người thêm quạnh quẽ, cô đơn. Câu hỏi tu từ “Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?”, Kiều tự hỏi lòng vậy, thấy cảnh thuyền lênh đênh trên biển, lại thêm cảnh mờ mịt xa khơi, rồi lại nghĩ đến phận mình.

Nàng có khác chi chiếc thuyền kia không, cũng lênh đênh vô định, gia đình chẳng hay tin, đến chính bản thân nàng cũng chẳng thể quyết định đời mình sẽ về đâu, nàng càng nhìn lại càng thấy mờ mịt, thấy cô đơn, đau một nỗi đau ẩn trong lòng, nàng nhớ quê hương, nhớ gia đình khôn xiết.

“Buồn trông ngọn nước mới ra
Hoa trôi man mác biết là về đâu”

Hết cảnh sóng nước thuyền bến, tầm mắt Kiều đã thu hẹp lại nhìn đến hình ảnh ngọn nước chảy xuôi, trên ấy là những bông hoa xinh đẹp, cứ thuận theo dòng nước trôi mãi. Một câu hỏi tư từ nữa lại tiếp tục được sử dụng “Hoa trôi man mác biết là về đâu?”, hoa mà lại trôi man mác như thế, chỉ gợi đến một cảm giác nhẹ bẫng, không có sức nặng, thêm vào đó là nỗi buồn, nỗi u uất của phận làm hoa.

Điều đó làm ta dễ dàng liên tưởng đến thân phận Kiều, nàng đẹp tựa như hoa thậm chí là “Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”, nhưng phận nàng có lẽ bạc hơn hoa kia rất nhiều lần.

Nàng đâu chỉ là trôi dạt, lênh đênh, mà đời nàng còn phải chịu biết bao tủi hờn nhục nhã, hoa kia vô tri, nhưng nàng có ý thức, có ý thức vậy mà số phận lại bị người khác định đoạt, không thể phản kháng, hỏi có thể không u uất, chán chường khi thấy cảnh nước chảy hoa trôi? Nàng đang hoang mang, sợ sệt, cũng lo lắng cho phận số mình, có lẽ nàng chẳng thể ngờ được đời mình lại éo le đến thế.

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

Càng hướng tầm mắt về gần, thì tâm trạng Kiều càng thêm bế tắc, cái “nội cỏ rầu rầu”, gợi cảm giác bó hẹp, mất tự do, màu héo úa khiến người ta liên tưởng đến sự tàn lụi nghiệt ngã. Trong tầm mắt Kiều trời xanh, đất cũng lại xanh nốt, đó là sự nhạt nhẽo, vô vị đến chừng nào, việc bị giam lỏng đã khiến Kiều cảm thấy bí bách và vô cùng chán nản, sự bế tắc đã hiện rõ trong tầm mắt của Kiều.

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi”

Khác với 6 câu thơ trước, thì ở hai câu thơ cuối cảnh sắc không chỉ nằm ở phần nhìn, mà còn có sự xuất hiện của âm thanh, ấy là tiếng sóng, tiếng gió ầm ầm nổi lên. Đó chính là phong ba bão táp trong lòng Kiều, cũng là dự đoán cho những biến động không ngừng trong cuộc đời sẵn sàng đang chờ trực phía trước chỉ để vùi dập người con gái tài sắc. Nàng trở nên tuyệt vọng và sợ hãi trước những điều mà mình đang và sắp phải trải qua.

Cả đoạn thơ 8 câu tựa như bức tranh tứ bình về tâm trạng của Kiều, bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, cùng nghệ thuật điệp từ, những câu hỏi tu từ, những từ láy tinh tế, Nguyễn Du đã diễn tả một cách vô cùng sâu sắc sự thay đổi tâm trạng của nàng Kiều. Từ đó khiến người đọc xót xa cho số phận của người con gái tuy tài sắc nhưng lại gặp phải mệnh “đoạn trường”.

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 17

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong thơ ca trung đại Việt Nam khá đặc sắc.Trong đó, đại thi hào Nguyễn Du là bậc thầy về miêu tả tâm lý nhân vật qua những bức tranh phong cảnh nhiều cảm xúc. Tác phẩm “Truyện Kiều”, một truyện thơ Nôm bất hủ của ông có nhiều đoạn thơ hay, đặc biệt là đoạn được coi là bức tứ bình bắt đầu bằng hai từ “buồn trông”, miêu tả tâm trạng Kiều ở Lầu Ngưng Bích:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”

Kiều vốn là một cô gái xinh đẹp, tài hoa và rất đỗi lương thiện.Sinh ra trong một gia đình trung lưu trong xã hội phong kiến, Kiều sống trong mái ấm gia đình cùng cha mẹ và hai em, được yêu thương và hạnh phúc trong nề nếp gia phong tốt đẹp.Thế rồi xã hội thối nát, với thế lực đồng tiền tàn nhẫn đã làm cho mái ấm gia đình ấy tan nát chỉ qua lời vu khống của “thằng bán tơ”.

Kiều vì hiếu thảo, bán mình chuộc cha mà bị lừa dối, rơi vào lầu xanh của Tú Bà. Sau đó nàng bị giam lòng tại lầu Ngưng Bích, một nơi hoang vắng, đáng sợ. Tâm trạng chua xót của Kiều trong những ngày tháng đơn độc ở đây đã được Nguyễn Du khắc họa qua một ngòi bút vô cùng sâu sắc và cảm động.

Mở đầu của bức tranh tứ bình, tác giả vẽ lên cảnh vật:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Đó là một bức tranh mênh mông của cảnh biển khơi “cửa bể” trong khoảng thời gian “chiều hôm” dễ gợi cho lòng người con gái xa quê hương xứ sở nhiều nỗi buồn thương. Giữa khung cảnh trời nước ấy là một con thuyền đang đi về đâu phía cuối chân trời. Nếu xét về ngòi bút tả cảnh thì đây quả thật là một bức tranh đẹp bằng ngôn từ, với tất cả sự khoáng đạt của thiên nhiên với mặt biển tuôn trào sóng vỗ. Nhưng đằng sau đó, ta như nhìn thấy nàng Kiều đang dõi mắt nhìn theo cánh buồm thấp thoáng xa dần.

Buồm trôi về đâu, phải chăng đi về phía quê hương xa xăm, hãy cho nàng nhắn nhủ vài lời thương nhớ, bởi “xót người tựa cửa hôm mai…”.Và như vậy, con thuyền phía xa cửa bể đã chứa nặng mối tình quê của Kiều.

Câu thơ lục bát đậm đà chất Việt qua những từ ngữ bình dị như “cửa bể”, “thấp thoáng” mà bỗng nhiên khiến người đọc liên tưởng tới cái xúc cảm Đường thi trong câu cuối bài thơ “Tuyệt cú” của Đỗ Phủ: “Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình”. Lúc viết bài thơ “Tuyệt cú”, Đỗ Phủ đang lưu lạc tha hương với nỗi nhớ quê hương canh cánh trong lòng, và ông cũng đành gửi nỗi niềm đó theo bóng con thuyền rồi sẽ rời bến.

Nếu như cái nhìn đầu tiên của Kiều là hướng ra xa khơi, với nỗi nhớ quê dâng trào như ngọn sóng, gửi trọn tình theo cánh buồm thấp thoáng xa dần, thì đến bức tranh thứ hai, Nguyễn Du để nhân vật ngắm nhìn phong cảnh ở tầm gần hơn:

Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu

Cái nhìn buồn của Kiều đã phát hiện ra một vài cánh hoa dập dềnh trôi trên ngọn sóng. Cảnh buồn thấm đẫm tâm trạng con người. Với câu hỏi tu từ “biết là về đâu?”, ta cảm nhận được một nỗi đau thân phận của người hồng nhan. Từ lâu, trong văn chương cổ, những cánh hoa trôi đã trở thành hình ảnh ước lệ tượng trưng cho thân phận người con gái có số phận lênh đênh, lạc loài, đáng thương. Như vậy bức tranh ngoại cảnh cũng là tâm cảnh, càng khiến cho nhân vật trữ tình thêm chua xót cho mình.

Rồi phóng tầm mắt về phía khác, không còn là mặt biển, nàng Kiều nhìn thấy hình ảnh:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Câu thơ lục bát trầm buồn, với cách sử dụng từ láy tinh tế “rầu rầu” và “xanh xanh” vừa tả được cảnh mà vừa thể hiện được lòng người. Sắc thái “rầu rầu” của cỏ gợi lên sự úa héo, không sức sống, trái hẳn với màu “cỏ non xanh tận chân trời” mà Kiều từng được ngắm trong tiết thanh minh, thưở đời nàng còn yên ấm. Đó cũng là biểu tượng cho số phận của nàng.

Nội cỏ hôm nay ở phía trước lầu Ngưng Bích là một màu xanh xanh mù mịt, không có phương hướng, không có một con đường để có chốn mà đi. Đó chính là tâm trạng bẽ bàng đau xót của Kiều, khi nghĩ về số kiếp hồng nhan của mình, hẳn là nỗi đoạn trường còn đợi ở nơi nào phía trước. Từng khía cạnh lo âu, sợ hãi cứ thế được nhà thơ thể hiện trên từng câu chữ, khiến cho người đọc thêm xót xa thương cảm cho Kiều.

Bức tranh thứ tư không được Nguyễn Du miêu tả nhiều bằng màu sắc và hình ảnh, mà nhà thơ đặc tả cảnh vật bằng âm thanh đe dọa của sóng gió:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Những nét êm đềm, thi vị của cửa bể chiều hôm, ngọn nước- đóa hoa hay nội cỏ đã thay bằng sắc thái khác của cảnh vật. Đó là ngọn gió ở đâu kéo đến, cuốn dữ dội trên mặt duềnh. Có lẽ buổi chiều tà buông xuống, khiến cho sóng gió mạnh mẽ hơn, phong cảnh trở nên u ám, và lầu Ngưng Bích chơ vơ giữa khung cảnh đó càng khiến cho người con gái cô độc trở nên lo âu sợ hãi nhiều hơn.

Từ láy “ầm ầm” gợi tả những âm thanh hung dữ của sóng gió, không còn ở đâu xa, mà ngay ở quanh ghế ngồi của nàng Kiều. Phải chăng đó không phải chỉ là sóng gió thiên nhiên, mà còn là linh cảm của Kiều về sóng gió cuộc đời đang bủa vây quanh nàng đầy đe dọa.

Bức tranh tứ bình cảnh vật thực ra là bức tranh tứ bình về tâm trạng, đã thể hiện rất rõ tài hoa của đại thi hào Nguyễn Du. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã đạt đến bậc thầy trong miêu tả những khía cạnh tâm lý nhân vật. Từng từ ngữ, hình ảnh vừa rất cổ điển, mang tính ước lệ, mà vừa rất thật trong biểu lộ mạch cảm xúc thơ.

Điệp từ “Buồn trông” đứng đầu mỗi câu lục bát tạo nên nhịp điệu vừa buồn bã, vừa ngày một dồn dập trong nhịp sóng. Và cũng từ “buồn trông” đó đã giúp người đọc nhìn rõ bức tranh trước lầu Ngưng Bích qua cái nhìn u sầu, âu lo của Kiều, người con gái đáng thương.

Có thể nói, không phải ngẫu nhiên mà “Truyện Kiều” được coi là một tuyệt tác của nền văn học dân tộc, và cũng không phải tự nhiên mà đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã làm lay động trái tim người đọc nhiều thế hệ. Ở đây, chúng ta cảm nhận được ngòi bút thấm thía tình yêu thương con người của đại thi hào Nguyễn Du, và càng thấy xót thương cho nàng Kiều, đóa hoa sen nhiều hương sắc bị chà đạp trong bùn lầy của xã hội phong kiến thối nát.

Những nỗi đau xót của nàng Kiều sẽ mãi là tiếng nói tố cáo xã hội đó, và thôi thúc chúng ta thêm trân trọng giá trị cuộc sống bình yên, hạnh phúc ngày hôm nay.

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 18

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích nằm ở phần thứ hai “Gia biến và lưu lạc”. Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà sợ mất đi món hàng quý, bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ. Mụ vờ chăm sóc, thuốc thang, hứa hẹn khi nàng bình phục, sẽ gả cho người tử tế. Sau đó người đàn bà thâm hiểm này đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới. 8 câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là bức tranh tâm trạng đớn đau, tuyệt vọng của Thúy Kiều khi mới bước vào đời.

Đoạn trích nằm giữa hai biến cố đau xót. Đây là những biến cố giúp ta hiểu những bàng hoàng tê tái và sự lo âu về tương lai của nàng Kiều. Tại lầu Ngưng Bích, Kiều không thôi buồn nhớ. Nàng nghĩ đến thân phận hoa trôi bèo nổi của mình rệu rã tâm hồn. Nàng còn nhớ đến Kim trọng, nhớ đến đêm uống rượu hẹn thề mà đắng cay. Thấy thương Kim Trọng rày trông mai chờ mòn mỏi.

Rồi nàng thương cha mẹ ngày đêm ngóng chờ. Song thân tuổi già hiu quạnh, không người kề cận mà xót xa trong lòng. Càng suy nghĩ, nàng càng đau đớn và tuyệt vọng. Nhìn ra bốn bề mong tìm lấy một sự trợ giúp nào đó. Thế nhưng, càng mong đợi, lại càng thấy xa vời, mờ mịt hơn:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Đoạn thơ được xem là những dòng tuyệt bút của tác phẩm Truyện Kiều. Không những Nguyễn Du gợi tả được nỗi buồn trong lòng người mà còn diễn đạt nó một cách chính xác. Thủ pháp đặc tả nội tâm đạt đến mức độ biện chứng tâm hồn. Chỉ với 8 dòng lục bát, thiên tài họ Nguyễn đã dựng nên bốn bức tranh tâm trạng đặc sắc. Mỗi bức là một ẩn dụ cho một trạng thái tâm lí của Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.

Khởi đầu mỗi bức là điệp từ liên hoàn “buồn trông”. Điệp ngữ ấy được lặp lại 4 lần tạo âm hưởng trầm buồn. “Buồn trông” trở thành điệp khúc diễn tả nỗi buồn đang dâng lên lớp lớp trong lòng Kiều. Cảnh vật thiên nhiên qua con mắt của Kiều gợi nỗi buồn da diết.

Bóng chiều u uất nhuộm tím cả bức tranh. Không gian mênh mông, thời gian tàn tạ, khiến người đọc cảm nhận được nỗi buồn sầu dâng lớp lớp trong lòng người con gái bơ vơ, lạc lõng nơi đất khách quê người:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”

Cánh buồm thấp thoáng, lúc ẩn lúc hiện nơi cửa bể chiều hôm gợi hành trình lưu lạc mờ mịt không biết đâu là bến bờ. Sức mạnh biểu đạt của từ láy đã được Nguyễn Du khai thác triệt để. Nó vừa gợi tả bức tranh thiên nhiên đơn điệu, buồn chán vừa ghi lại những cung bậc cảm xúc của người trước cảnh. Cảnh vật mở ra với cảnh biển chiều hôm. Cánh buồm thấp thoáng xa xa lúc ẩn, lúc hiện. Dõi theo cánh buồm trên biển xa mờ mịt, Thúy Kiều như muốn theo về với gia đình.

Con thuyền từ lâu được xem là vật kết nối giữa con người phương xa và gia đình, quê hương. Nó tựa như niềm hi vọng, niềm mong mỏi trở về đoàn tụ với cha mẹ và các em mà Thúy Kiều từng đêm mong nhớ. Nhưng càng hoài vọng càng thấy xa vời. Nguyễn Du đã khéo léo diễn tả tâm trạng chán chường, bất lực của Thúy Kiều trước nghịch cảnh. Đến bức tranh thứ hai, Nguyễn Du dựng nên cảnh dòng nước với đóa hoa trôi. Cảnh vật được nhìn bằng ánh mắt sầu não đến ghê gớm:

Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Trong dòng nước mênh mang, cánh hoa trôi chao đảo, cứ dập dềnh, quẩn quanh, không biết trôi về đâu. Dòng nước ấy hay chính là dòng đời vạn biến. Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi lên thân phận nhỏ bé, mỏng manh, lênh đênh trôi dạt trên dòng đời vô định không biết đi đâu về đâu. Số kiếp của bông hoa hay cũng chính là số kiếp của đời Kiều đấy thôi. Càng nghĩ càng thêm đáng sợ.

Lỡ sa bước vào cạm bẫy cuộc đời giả trá Kiều nào có hay. Để đến nỗi giờ đây nàng cũng không biết đời mình sẽ đi đâu về đâu. Rồi phận gái long đong, tuổi xuân cao quý cũng sẽ bị cuộc đời vùi dập tan tành mà thôi. Câu hỏi tu từ như chạm vào nơi sâu thẳm của trái tim người đọc. Dựng nên bức tranh này, Nguyễn Du muốn nói với chúng ta rằng Kiều đang rất băn khoăn và lo lắng cho tương lai của mình. Đó là một tương lai vô định, càng nghĩ ngợi càng thấy mờ mịt. Càng nhìn xa càng thấy mịt mờ.

Dưới ánh mắt của Thúy Kiều, tất cả dường như mờ ảo, tan biến, ẩn giấu biết bao hoài nghi và bí mật:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Nội cỏ “rầu rầu” nhuốm màu đau thương trải rộng nơi chân mây mặt đất gợi cuộc sống úa tàn, bi thương, vô vọng kéo dài không biết đến bao giờ. Màu cỏ héo úa như sắp tàn lụi như sắp từ biệt vũ trụ, kết thúc cuộc đời ngắn ngủi. Màu cỏ hay cũng chính là tâm hồn của Thúy Kiều đang héo úa, heo hắt, rệu rã trước cuộc đời. Tâm trạng thúy Kiều rơi vào trạng thái hoảng hốt, tâm thức bấn loạn vô cùng, nhìn đâu cũng thấy vô vọng. Đến bức tranh cuối cùng, xuất hiện cảnh biển sóng vỗ.

Những đợt sóng cuộn trào, lớp lớp như đang muốn nhấn chìm mọi thứ, dìm xuống bể sâu người con gái nhỏ bé, đáng thương:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Hình ảnh “gió cuốn mặt duềnh” và âm thanh ầm ầm của tiếng sóng “kêu quanh ghế ngồi” gợi tâm trạng lo sợ, hãi hùng của Thúy Kiều. Nàng hoàn toàn tuyệt vọng trong cái nghịch cảnh trớ trêu của mình. Nó như báo trước những trắc trở, như vẽ ra con đường gian nan mà nàng sẽ phải đi qua. Chỉ ngay sau lúc này, giông bão của số phận sẽ nổi lên, xô đẩy, vùi dập cuộc đời Kiều.

Với những nét vẽ này, Nguyễn Du khắc họa đậm nét sự hoảng loạn, mất phương hướng trong tinh thần của Kiều. Nàng hoàng toàn tuyệt vọng trước dòng đời khắc nghiệt. Nàng cầu cứu trăm phương nhưng bất lực.

Độc đáo hơn, khi những bức tranh tâm trạng được cụ Nguyễn Du sắp xếp theo trình tự tăng tiến. Từ cảm giác hoang mang trước của biển, đến suy nghĩ về tương lai vô định, nổi trôi của kiếp đời con gái. Sau đó là sự tuyệt vọng trước nghịch cảnh bế tắc, tối tăm. Cuối cùng, nàng rơi vào trạng thái hoang tưởng, tột cùng đau đớn và sợ hãi.

Bằng nghệ thuật ẩn dụ, hệ thống câu hỏi tu từ, các từ láy “thấp thoáng”, “xa xa”, “man mác”,“rầu rầu”,”xanh xanh”,”ầm ầm”… góp phần làm nổi bật nỗi buồn nhiều bề trong tâm trạng Kiều. Tác giả lấy ngoại cảnh để bộc lộ tâm cảnh.

Cảnh được miêu tả từ xa đến gần. Màu sắc từ nhạt đến đậm. Âm thanh từ tĩnh đến động. Nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến cơn bão táp của nội tâm, cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Toàn là hình ảnh về sự vô định. Sự vật mong manh, dạt trôi. Lòng người chao đảo nghiêng đổ dữ dội. Cuối cùng hoàn toàn rơi vào bế tắc, tuyệt vọng đến tận cùng. Lúc này, Kiều bất lực , buông xuôi trước thực tại phũ phàng. Bởi thế, nàng ngây thơ mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời ô nhục sau đó.

8 câu thơ cuối trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đặc tả tâm trạng cô đơn, buồn tủi và khổ đau của Thúy Kiều. Nguyễn Du đã rất thành công khi vận dụng thủ pháp miêu tả tâm lí hết sức tinh tế, chân thực và sinh động. Tâm trạng của thúy Kiều hay cũng chính là tâm trạng của tác giả trước cuộc đời đầy sóng gió phong ba. Ông có lúc cũng bế tắc, tuyệt vọng trên đường đời như chính nhân vật của ông vậy.

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 19

Truyện Kiều là một trong những tác phẩm lớn và xuất sắc nhất của Nguyễn Du. Để viết nên tuyệt tác này, ông đã sử dụng rất thành công các phép tu từ, đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ tình. Tám câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích có lẽ là tám câu thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong tác phẩm, qua đó đã diễn tả sinh động tâm trạng Thuý Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, để lại ấn tượng không thể nào quên cho người đọc:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Khung cảnh thiên nhiên của cửa biển trước lầu Ngưng Bích như hiện lên trước mắt ta: một nỗi buồn chiều hoàng hôn đẹp nhưng buồn và quạnh hiu. Đó là những con thuyền với những cánh buồm trắng nhấp nhô, con sóng bạc dập dềnh cuốn trôi từng cánh hoa, lác đác rơi trong ánh nắng cuối chiều, cỏ xanh ươm nối liền đường chân trời xanh vô tận. Cùng với âm thanh dữ dội của biển khơi như một nét chấm phá cho cảnh vật, bức tranh thiên nhiên chứa đựng trong nó biết bao nỗi niềm chất chứa của con người…

Qua những ngôn từ và hình ảnh miêu tả cảnh vật, bằng cách sử dụng khéo léo và tinh tế bút pháp tả cành ngụ tình, Nguyễn Du đã cho ta hiểu và cảm thương với tâm trạng nàng Kiều.

Điệp ngữ buồn trông được sử dụng xuyên suốt đoạn trích tạo thành điệp khúc cho đoạn thơ và cũng tạo nên điệp khúc tâm trạng Thuý Kiều. Nỗi buồn trong Kiều như trào dâng như lớp sóng ồ ạt dồn về phía đại dương mênh mông. Nỗi niềm đó cứ triền miên, cứ dai dẳng, đeo bám, tạo thành cái vòng luẩn quẩn không lối thoát, con người ta có muốn vùng thoát ra mà cũng không thể nào được. Mỗi cảnh vật như đều nói lên nỗi niềm tâm sự ấy.

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thóang cánh buồm xa xa?

Con thuyền không bến đậu, không nơi chốn quay về gợi nhớ nỗi nhớ, nỗi cô đơn của người đi xa, muốn trở về bên gia đình êm ấm, bên bạn bè thân thương, điều này vó cùng phù hợp với cảnh ngộ của Kiều.

Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Cuộc đời Kiều bây giờ như cánh hoa mỏng manh trước sóng to gió lớn, chỉ biết mặc cho bão bùng, mưa giông vùi dập. Câu thơ bộc lộ nỗi lo lắng, xót xa, buồn tủi về cảnh ngộ lênh đênh chìm nổi trước sóng gió cuộc đời.

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Thảm cỏ, biển cả với màu xanh vô vọng thật buồn và ảm đạm. Liệu có phải cánh cửa tương lai đang khép lại trước mắt Kiều, hố đen tuyệt vọng cua số phận như lấp hết cả ước mơ và khát khao.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ẩm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Ngoài kia, biển xanh đang cuộn sóng. Những âm thanh gợi sự việc kinh khủng, hãi hùng, như dự báo tai biến, nguy nan như chực đổ xuống thân phận bé nhỏ của Kiều.

Lần lượt từng câu hỏi tu từ vang lên như muốn xoáy sâu vào tâm can người đọc. Ta như hiểu, cảm thông, thương xót cho những lo lắng rối bời cùng nỗi hoảng sợ tuyệt vọng của Kiều trước tương lai vô định.

Có thể nói, đây là tám câu thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất xuyên suốt tác phẩm. Qua bức tranh thiên nhiên, ta xót xa, thương cảm cho số phận người con gái tài hoa bạc mệnh, qua đó cũng bày tỏ niềm đồng cảm, trân trọng của Nguyễn Du đối với số phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến xưa.

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 20

Trong tác phẩm Truyện Kiều có rất nhiều đoạn trích độc thoại nội tâm, miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều trong mười lăm năm lưu lạc xa quê. Thế nhưng để nói tới đoạn thơ miêu tả nội tâm đặc sắc nhất thì không thể không nhắc tới đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Đây là một trong những trích đoạn miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc nhất, độc đáo nhất của Nguyễn Du, đặc biệt là tám câu cuối của đoạn thơ. Tất cả vẻ đẹp, cái hay, cái tài hoa của Nguyễn Du đều đọng lại trong tám câu thơ này cùng với điệp từ “buồn trông”:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt nước một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi”.

Tám câu thơ trên mới đọc qua tưởng chừng chỉ tả những cảnh vật bên ngoài lầu Ngưng Bích nhưng ngẫm lại thì mới thấy thực ra nó đang tả lại cái tâm trạng con người, tâm trạng của Kiều.

Bốn bức tranh được dựng lên bằng tám câu thơ, mỗi bức tranh là một khung cảnh khác nhau nhưng bức tranh nào cũng bắt đầu bằng điệp từ “Buồn trông”. Đọc lên nghe sao mà não lòng, sầu bi, thương xót đến thế! Nỗi buồn ấy dường như chứa đựng sẵn trong lòng người, vậy nên khi nhìn vào cảnh vật, Kiều lại càng thấy buồn bã hơn, buồn đến vô cùng, càng ngắm nhìn lại càng thêm buồn thảm. Tâm trạng đau thương, buồn tủi của Kiều đã thấm sang cảnh vật khiến nó cũng nhuốm màu thê lương giống như nàng lúc này. Cảnh vật ấy quả thực hợp với nàng hay do lòng nàng mà nên!

Trước khi gặp gia biến, Kiều sống trong cảnh “Êm đềm trướng rủ màn che”, nàng có buồn nhưng cái buồn ấy chỉ là sự thoáng qua, cái buồn bã của một thiếu nữ khuê các. Nhưng giờ đây, trải qua bao biến cố, bao đau khổ, ngồi một mình nơi này, nàng mới thấy cái buồn đang thấm vào tim gan của nàng, gieo rắc cho nàng một nỗi buồn dai dẳng, kéo dài tới tận cuộc đời phía trước.

Biến cố bắt đầu tất cả từ khi nàng phải bán mình chuộc cha, phải rời xa tình yêu đầu đời Kim Trọng, xa nhà, xa quê hương, xa cả gia đình êm ấm, rồi bị làm nhục, bị đưa vào lầu xanh, bị lừa, bị đánh đập, tất cả cứ liên tiếp, liên tiếp xảy đến với nàng. Như thế hỏi sao nàng không buồn được chứ? Nhưng cái buồn ấy cũng chỉ mới thoảng đến thoảng đi, bởi nàng còn chưa kịp hoàn hồn trước biến cố này thì biến cố khác đã ập tới. Để đến tận giờ đây, ngồi lại một mình yên tĩnh, nàng mới có cơ hội được thấm cái buồn trong số mệnh của mình.

Quả thực là buồn bởi ngay từ những dòng thơ đầu tiên, người ta đã thấy Kiều thơ thẩn một mình ngoài hàng hiên của lầu Ngưng Bích, ngắm những cảnh vật xa xăm, khi bốn bề thật là vắng lặng, quạnh quẽ đến vô cùng. Không gian ấy dội vào lòng Kiều những nỗi buồn khó tả.

Nàng nhớ Kim Trọng, nhớ mẹ cha, nhớ nhà. Tất cả nỗi nhớ ấy hòa quyện đượm lên nỗi buồn của nàng, thấm thía làm sao. Và Nguyễn Du đã thật tinh tế khi gợi lên nỗi buồn ấy của nàng bằng một từ thật mộc mạc, chân thật quá đỗi: “Buồn trông”. Vì buồn nên trông nên ngắm nhưng càng trông càng ngắm lại càng thấy buồn. Hai tiếng ấy dội vào lòng người thật thê lương biết bao! Để đến giờ đây, nàng ngắm đâu nhìn đâu cũng thấy cảnh vật thật buồn bã.

Bức tranh đầu tiên hiện lên trước mắt chúng ta:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”

Ghé mắt nhìn về cửa bể, mong cảnh vật mang lại chút niềm vui cho mình, nhưng lại bắt gặp khung cảnh “của bể chiều hôm”. Chỉ nghe hai tiếng “chiều hôm” thôi, cũng thấy cái gì đó thật sầu muộn. Bởi khi đó là khi ánh mặt trời sắp lụi tàn, chỉ còn vương vấn chút ánh sáng thoi thóp trên mặt nước bể. Một dải nước mênh mang choáng lấy cái nhìn, nó cứ hút mãi tầm mắt ra xa, càng trông lại càng vô tận vô cùng. Ngoài đó chẳng có gì ngoài một miền trống vắng đến hoang hoải khi bầu trời đang dần chuyển mình vào màn đêm. Tưởng như chẳng có gì để mà bắt gặp vậy mà Kiều lại thấy “thấp thoáng” đâu đó một chiếc thuyền với “cánh buồm xa xa”.

Nếu như người ta thường trông thấy cả một đoàn thuyền tấp nập, nhộn nhịp nối đuôi nhau thì ở đây, Kiều chỉ trông thấy một chiếc thuyền đang lẻ loi giữa cửa biển xa xăm. Chiếc thuyền ấy thật mơ hồ, lẻ loi, “thuyền ai”, Kiều tự hỏi, nó đang trôi về đâu? Phải chăng nó cũng đang trôi dần về vô định, trôi trong sự cô đơn lạc lõng giống như Kiều?

Và chiếc thuyền ấy cũng đang dần mất hút về phía chân trời bởi Kiều chỉ còn nhìn thấy chiếc buồm “thấp thoáng” ngoài xa. “Thấp thoáng” – một từ mà khiến người ta cảm thấy nó mờ nhạt quá, cứ chợt ẩn, chợt hiện, mơ hồ, như một ảo ảnh của con người. Tâm trạng đã thật trĩu nặng, cảnh vật lại càng khiến cho lòng nàng thấm thía, buồn tủi hơn vài phần.

Ngoảnh mặt sang phía bên kia của góc lầu, nàng muốn tìm một khung cảnh khác tươi vui hơn thế nhưng:

“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu”

Kiều chỉ muốn tìm một khoảnh khắc tươi vui giữa sự sầu muộn đang bủa vây lấy mình, thế nhưng, ngoảnh đi ngoảnh lại, nàng vẫn chỉ bắt gặp những khung cảnh thật sầu đến não lòng.

Một ngọn nước đang ầm ầm từ trên cao tuôn xuống, dòng nước tuôn chảy dữ dội, sôi trào. Nó cuộn xoáy, xô đẩy, cuốn trôi đi mọi cát bụi, cành lá. Nhìn cảnh tượng ấy, Kiều chẳng khỏi chạnh lòng, càng nhìn con nước ấy, lại càng buồn thương hơn. Nàng chợt bắt gặp một cánh hoa đang xoay tròn trên dòng nước xiết, cánh hoa ấy mỏng manh, yếu đuối bất lực giữa những xoáy nước hung dữ. Cánh hoa ấy phải chăng cũng như số phận nàng giờ đây, rơi vào chốn tủi nhục, vào dòng nước xoáy, không thể thoát ra nổi, cũng chẳng “biết là về đâu”.

Cánh hoa ấy quá yếu đuối, sa vào dòng nước này, nó chẳng thể thoát ra nổi, lang thang vô định, bị vùi cho tan nát giữa dòng đời. Từ láy “man mác” được Nguyễn Du khéo léo dẫn vào câu thơ, đọc lên ta thấy một nỗi buồn thật khó tả. Cánh hoa ấy cứ dập dềnh, “man mác” gợi lên một nỗi buồn thật mơ hồ, nỗi buồn cho cánh hoa rơi giữa dòng nước dữ hay nỗi buồn cho chính số phận lênh đênh của mình giữa dòng đời dài rộng?

Hai lần ngoảnh mặt giữa khoảng không vô định là hai lần Kiều bắt gặp những cảnh vật thật vàng võ, thật sầu thảm giống y như cuộc đời của nàng. Lần thứ ba ngoảnh mặt, bức tranh cảnh vật lại càng thêm bi thương hơn nữa:

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt nước một màu xanh xanh”

Như Nguyễn Du cũng đã từng nói: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, vậy nên giờ đây, ngó quanh bên mình, cái nhìn mang một nỗi sầu muộn nên vẫn chỉ là “buồn” mà “trông”. Lại là một khung cảnh quạnh quẽ, thê lương! Chẳng còn màu xanh tươi mát của: “Cỏ non xanh tận chân trời” như những ngày còn êm ấm, giờ đây, Kiều chỉ thấy một “nội cỏ rầu rầu”. Vẫn là một thảm cỏ trải dài tới tận chân trời, thế nhưng lại mang một màu sắc thật u ám “rầu rầu”, không chút sức sống.

Cả một cánh đồng cỏ mênh mông, không một bóng hoa, bóng cây, nhà cửa, con người, thật đơn điệu, thật nhàm chán biết bao. Nhìn ra xa, toàn một màu cỏ vàng úa, héo tàn, chẳng còn chút sức sống mãnh liệt thuở nào, hay chăng cũng giống như tâm trạng của Kiều lúc này, cùng sầu thảm, bi thương, héo úa hệt như thế? Cánh đồng cỏ bát ngát ấy chắc cũng hệt như tâm trạng con người ngắm nó lúc này:

“Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

Mặt đất, bầu trời dường như nối liền vào với nhau, tạo nên một màu “xanh xanh”. “Xanh xanh” – chẳng phải là xanh hẳn mà chỉ là “xanh xanh”. Cái màu xanh ấy nó nhợt nhạt, xa xôi quá khiến cho người ngắm nhìn cảm thấy cô đơn, sầu thảm. Nguyễn Du đã đặt vào bức tranh thứ ba này hai từ láy chỉ màu sắc liên tiếp ở hai câu thơ. Phải chăng ông đang muốn nhấn mạnh màu sắc u ám của bức tranh thứ ba mà Kiều đang ngắm nhìn?

Ngoảnh mặt ba bên, bên nào cũng là những cảnh vật thật khiến người ta cảm thấy thê lương đến vô cùng. Chỉ còn một phía cuối cùng, Kiều ngoảnh lại nhìn. Nếu ba bức tranh đầu kia, cái buồn chỉ là chút vương vấn, tăng dần theo khung cảnh, chưa thực sự hẳn là buồn thì ở bức tranh này, cái nỗi buồn ấy mới thực là thấm thía tim gan:

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi”.

Dường như ba bức tranh trên chỉ là phông nền, là sự chuẩn bị cho nỗi buồn trào dâng ở bức tranh thứ tư này.

Một vùng biển ăn sâu vào trong bờ đất, bên ngoài là mặt biển lớn mênh mang, gió từ biển cuộn lại hút sâu vào cái “duềnh”, tạo nền một thứ âm thanh thật khủng khiếp. Nó ầm ầm, rung chuyển, cuộn trào bọt tung trắng xóa. Những con sóng ở đây chẳng êm đềm mà đang gào thét, cuồng nộ, xô nhau, cuốn phăng đi mọi thứ. “Ầm ầm”, từ láy âm thanh mà khi đọc lên dường như ta còn cảm nhận thấy được sự dũng mãnh, sự cuồng nộ vô cùng của những con sóng biển.

Dường như ta còn nghe được tiếng nó đang gào thét ngay bên mình, hết lớp này tới lớp nọ, không ngơi không nghỉ. Tiếng sóng dữ dội ấy dường như đang vây quanh Kiều. Nàng thấy mình chẳng còn ngồi trong lầu Ngưng Bích “khóa xuân” ấy nữa mà ngồi giữa mặt biển, nghe tiếng sóng vỗ đang gào thét quanh mình.

Trong lòng nàng chợt dâng lên một nỗi lo lắng, cảm khái, sợ hãi trước tương lai. Những con sóng ấy phải chăng là sóng gió của cuộc đời đang bủa vây lấy nàng, tâm hồn nàng, nhìn nàng mà cuồng nộ? Hay phải chăng đó cũng là lời của Nguyễn Du muốn báo trước cho nàng về số mệnh của người con gái tài hoa nhưng truân chuyên ấy?

Ba bức tranh trước, chúng ta luôn thấy con người và cảnh vật song hành. Tuy xuất hiện cùng nhau nhưng lại hoàn toàn tách biệt đến tận bức tranh thứ tư, con người và cảnh vật đã hòa quyện lại với nhau. Cái buồn của con người đã thấm hết sang cảnh vật, đẩy nó lên cao trào, tột đỉnh. Sự tột đỉnh của cái buồn có thể khiến con người có thể làm bất cứ điều gì để thoát khỏi cái bóng ghê gớm của nó. Chính điều này có lẽ là nguyên do khiến cho sau này Kiều dại dột nghe theo Sở Khanh để rồi bị hắn lừa gạt.

Khép lại bốn bức tranh, người đọc không thể không ấn tượng bởi điệp từ “buồn trông”. Khi tâm trạng buồn tủi, chán chường đến vô cùng thì nhìn đâu cũng chỉ là cái nhìn đầy sầu muộn mà thôi. Điệp từ luôn được Nguyễn Du đặt ở đầu câu, theo sau nó là bốn bức tranh phong cảnh chứa đựng sự u ám, đầy thê lương. Có thể nói, điệp từ ấy là từ để gợi tả lên nỗi lòng của Kiều, cũng là mở ra những bức tranh tâm trạng của nàng, cũng là dự báo về những giông tố cuộc đời phía trước của nàng.

Phải nói, để dựng lên bức tranh tâm trạng này, không một nhà thơ nào có thể làm tốt hơn Nguyễn Du. Những bức tranh thiên nhiên ấy hòa hợp một cách diệu kì với tâm trạng của một nàng Kiều đang trong bề đau khổ. Đặc biệt là điệp từ “buồn trông”. Cái cách ông thể hiện sắc thái của thiên nhiên, của tâm trạng con người thật khiến người ta thán phục. Nguyễn Du quả thật là một nhà thơ với bút pháp miêu tả nội tâm con người sâu sắc với độc đáo nhất.

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 21

Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm văn chương đắt giá của thời đại, được xem là kinh điển trong văn học Việt Nam. Vẻ đẹp của nó không chỉ nằm ở giá trị nội dung sâu sắc, bao gồm hai nhánh lớn là giá trị nhân đạo: ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến, tấm lòng thương cảm, cảm thông sâu sắc cho số phận của họ dưới sự chèn ép bất công; và giá trị hiện thực khi phơi bày những sự thối nát, giả dối, lạc hậu của một chế độ phong kiến hà khắc khiến những con người nhỏ bé, không có tiếng nói phải chịu nhiều bất hạnh, đớn đau.

Bên cạnh đó Truyện Kiều có giá trị và được yêu thích cho đến tận ngày hôm nay còn bởi những giá trị nghệ thuật độc đáo dựa trên ngòi bút tài hoa của đại thi hào Nguyễn Du. Cứ mỗi một trích đoạn người ta lại nhìn ra nét đặc sắc nghệ thuật đáng lưu ý, khiến cho cuộc đời Thúy Kiều, nỗi đau của nàng càng trở nên thấm thía, dễ đồng cảm. Tiêu biểu trong 8 câu thơ cuối của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, ta cũng thấy cả một hệ thống nghệ thuật đáng lưu tâm và tìm hiểu.

“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa rơi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Trước hết dễ nhận nhất khi đọc cả tám câu thơ chính là sự xuất hiện của nghệ thuật điệp từ, điệp cấu trúc ở tất cả những câu lục “buồn trông…”, sự lặp lại đến 4 lần của cụm từ này đã mang đến cho độc giả những hình dung chung về tâm trạng của nàng Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích ấy là một tâm trạng buồn tủi, bế tắc và cô độc vô cùng. Tất cả những gì nàng có thể làm ấy là hướng ánh mắt sầu thảm của mình vào cảnh vật chung quanh để bộc lộ cảm xúc đau đớn, bất lực.

Đặc biệt sự lặp lại liên hoàn, chậm rãi của điệp từ này còn tựa như những đợt sóng sầu não trong lòng người thiếu nữ liên tục dập dềnh, trùng điệp và kéo dài mênh mông, vô tận khiến người ta khó nhìn thấu được sự dài rộng và điểm tận cùng của nó. Đó là một sự bất định đầy tội nghiệp và đớn đau của cô gái mười mấy tuổi xuân.

Nét đặc sắc thứ hai nằm ở sự sắp xếp tầm nhìn của Thúy Kiều, nếu đọc và cảm nhận thật kỹ càng ta cũng dễ dàng nhận ra rằng, bản thân nàng có cái nhìn đầu tiên thật xa xăm bắt đầu từ cửa bể, ngóng những cánh buồm “xa xa”, thấp thoáng mờ mịt, sau đó dần dà thu hẹp khoảng cách không gian Kiều đã nhìn trực tiếp vào hoàn cảnh của mình ấy là sự cảm nhận tiếng sóng ầm ầm, vây quanh ghế ngồi.

Ta có thể xem đó là sự nhận thức chậm rãi của Thúy Kiều về nỗi đau thân phận cũng như những dự cảm của nàng về tương lai đầy chông gai phía trước của mình. Trong khi đó “cánh buồm xa xa” là một tương lai mịt mờ, còn “tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi” lại là những bất hạnh, khổ sở bản thân nàng đang phải gánh chịu, Nguyễn Du đã để Thúy Kiều cảm nhận rất rõ số phận khốn đốn của mình. Từ đó làm tăng giá trị biểu cảm, làm cho nhân vật Thúy Kiều có sức hút hơn bao giờ hết.

Bên cạnh tầm nhìn, thì Nguyễn Du cũng còn tinh tế sắp xếp các chi tiết khác như màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động, nỗi buồn tiến triển từ man mác, nhẹ nhàng đến lo âu, kinh sợ. Tất cả những điều ấy đều chỉ nằm ở một mục đích chung nhất chính là khiến cho độc giả hiểu rõ và thấm thía hơn tâm trạng của Thúy Kiều, những chuyển biến tinh tế trong tâm hồn non trẻ của người con gái, cũng như những suy tư, ý thức của nàng trước cuộc đời, số phận nhiều trái ngang của mình.

Việc xây dựng một nhân vật có sự nhận thức từ từ và chậm rãi như vậy rất thích hợp với tính cách và sự thông minh của Thúy Kiều, người ta sẽ cảm nhận rõ hơn được những vẻ đẹp trong tâm hồn nàng, dĩ nhiên nàng sẽ không tự nhiên mà sợ hãi, hoảng hốt, mà nó phải qua một quá trình tự ý thức hợp lý. Cách viết này khiến cho thơ của Nguyễn Du hay và nhân vật trở nên hàm súc, gần gũi hơn hẳn.

Một đặc sắc nghệ thuật nữa không thể không kể đến đó chính là cách Nguyễn Du sử dụng nhiều từ láy toàn bộ hoặc láy âm, vần trong đoạn thơ. Các từ “xa xa”, “xanh xanh”, “rầu rầu”, “thấp thoáng”, “man mác”, đều mang đến một cảm nhận chung ấy là nỗi buồn rất mờ mịt, xa xăm, lan tràn và trầm lắng đang tỏa ra trong từ tâm hồn của nhân vật trữ tình rồi phủ những cảnh vật chung quanh như một thứ rượu nhẹ, phải từ từ mới thấy mà thấm.

Tất cả đều mang một sắc thái tủi hổ, chán chường, nhàn nhạt, thiếu đi cái sức sống sinh động, thay vào đó người ta chỉ thấy một cảm xúc khó tả khiến người ta khó mà vui vẻ, gượng dậy, một sự sự tàn phai, héo úa chậm rãi. Tâm trạng của Thúy Kiều lúc đó chính là vậy, nỗi buồn của nàng không phải kiểu gay gắt, mạnh mẽ mà nó rất thấm thía, nhẹ nhàng, man mác, một nỗi buồn liễu yếu đào tơ đến tội nghiệp.

Cuối cùng, trọng tâm tâm nhất chính là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc trưng cho ngòi bút Nguyễn Du. Với hai câu thơ “Buồn trông cửa bể chiều hôm/Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”, tại sao Thúy Kiều lại có cái nhìn xa xăm thế, tại sao Kiều không nhìn thấy một cảnh vật khác như núi non, hoàng hôn mà lại thấy thuyền. Có thể trả lời rằng bản thân nàng đang có một nỗi nhớ da diết với quê hương, gia đình và cả tình yêu chết yểu của mình, nàng có khao khát tha thiết được thoát khỏi nơi này, nhưng không thể rời khỏi.

Thế nên buộc lòng Kiều phải gửi những ước mơ những nỗi niềm ấy và cánh buồm đang thấp thoáng, nhờ sự truân chuyển của nó mang về với những người mà nàng hằng tâm niệm, cũng như mang theo một nửa hồn nàng.

Với cặp câu tiếp “Buồn trông ngọn nước mới sa/Hoa trôi man mác biết là về đâu”, câu này lại càng lộ rõ cái ý tứ của Nguyễn Du, Thúy Kiều rõ ràng là một bông hoa tuyệt sắc, nhưng tiếc rằng nàng thiếu đi cái phúc phần được sống bình yên mà lại phải trở thành bông hoa nhẹ bẫng, trôi dạt giữa dòng đời, sống cuộc đời tủi hổm bấp bênh chưa biết sẽ dạt về phương nao. Đó chính là ý thức của Kiều về thân phận đớn đau của mình, một kiếp hồng nhan bạc mệnh đầy xót xo, trách gì nước chảy, hoa trôi.

Trong hai câu “Buồn trông nội cỏ rầu rầu/Chân mây mặt đất một màu xanh xanh” người ta dễ dàng đoán định ra một không gian buồn tẻ, chán ngắt, dẫu rằng rộng lớn đấy nhưng lại đơn sắc, dẫn đến cảm giác ngột ngạt, tù túng cho nhân vật trữ tình, từ đó mang đến sự cô đơn, lẻ loi, trơ trọi của người thiếu nữ trước cái sự lạnh lùng của sắc xanh cây cỏ, sắc xanh trời đất, không một thức gì thân thuộc ấm áp.

Trong hai câu thơ cuối cùng “Buồn trông gió cuốn mặt duềnh/Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”, tức là đã đi sâu hẳn vào nội cảm của nàng Thúy, chính bản thân nàng cảm nhận được “gió cuốn”, “tiếng sóng”, tất cả đều biểu trưng cho những sóng gió cuộc đời mà nàng đã chịu và sắp phải gánh chịu trong tương lai.

Từ đó người ta nhận ra được sự hoảng hốt, sợ hãi của Thúy Kiều trước những biến động của thiên nhiên, nàng trở nên ý thức ngày một rõ ràng hơn không chỉ là nỗi đau thân phận mà còn là cả những biến cố, những đau đớn khó mà tưởng tượng được sẽ xảy ra trong tương lai của mình. Từ đó nỗi buồn, tủi nhục của nàng lại càng thêm sâu sắc thấm thía, hình ảnh Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích đầy khốn khổ, bế tắc, cô đơn lại càng ấn tượng trong lòng độc giả, dễ khiến người ta thương cảm và cảm thông vô cùng.

Như vậy chỉ trong 8 câu thơ ngắn ngủi mà mà chúng ta đã có thể nhận ra được nhiều những bút pháp nghệ thuật đặc sắc được vận dụng xen kẽ, dày đặc và hợp lỹ bên cạnh thể thơ lục bát truyền thống. Khiến cho tổng thể bài thơ trở nên mềm mại, uyển chuyển, hợp lý, tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều trong cảnh bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích được khai thác rất tinh tế, khéo léo, khiến độc giả dễ dàng tiếp nhận và đồng cảm sâu sắc với nỗi buồn tủi, nỗi đớn đau cho một kiếp người bạc mệnh mang tiếng hồng nhan thuở xưa.

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 22

Trong “Truyện Kiều ” của Nguyễn Du, đoạn nói về tâm trạng của Thuý Kiều ở lầu Ngưng Bích vẫn được người đọc xưa nay coi là một trong những đoạn thơ tuyệt vời về nghệ thuật tả cảnh và tả tình. Thế nhưng cái hay của cả đoạn thơ như ngưng đọng lại trong những câu thơ cuối cùng, ở bốn bức tranh:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”

Tám câu thơ trên là cảnh nhưng thực sự là tình, Nguyễn Du tả cảnh nhưng thực sự là tả tình. Bốn bức tranh đều được nhà thơ khởi đầu bằng hai tiếng “buồn trông” nghĩa là nỗi buồn đã sẵn tự trong lòng trước khi nhìn vào cảnh và ngắm cảnh cùng với nỗi buồn ấy, vừa ngấm vừa buồn, càng ngắm càng buồn, càng buồn càng ngắm. Nói như thế thật là hợp lí, thật đúng với tâm trạng Thuý Kiều lúc này. Vì sao vậy? Vì nỗi buồn của Kiều là nỗi buồn lớn, không phải là nỗi buồn thoáng qua vì một duyên cớ chốc lát, mà là nỗi buồn đeo đẳng suốt cả đời người.

Quả thật, trong suốt phần đầu của “Truyện Kiều” chưa bao giờ Kiều buồn như lúc này, bởi chưa bao giờ Kiều kịp có lúc để nhìn vào chuyện buồn của mình, ngẫm cho kĩ, thấm cho sâu về chuyện buồn ấy.

Xa Kim Trọng, phải bán mình chuộc cha, Kiều chỉ kịp đau đớn, nhưng gia biến nặng nề, nỗi đau của cha, nỗi đau của mẹ, nỗi buồn của các em, những điều ấy đòi hỏi Kiều phải vững, tạm quên mình đi để giải quyết việc nhà cho trọn đạo một người con, một người chị, phải rời gia đình, cùng Mã Giám Sinh ra đi, trọng nỗi buồn vì không vẹn tình với Kim Trọng, Kiều có niềm an ủi đã cứu được gia đình.

Vừa đến Lâm Tri, bước vào nhà mụ Tú Bà, chưa kịp hồi sức sau một chặng đường dài “Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh”, Kiều đã hoảng hốt vì quang cảnh nhà mụ, Kiều đã gặp ngay một trận “tam bành” của con mụ buôn thịt người ác độc ấy. Có lẽ Kiều đã đau, đã nhục, đã căm hờn, nhưng chưa kịp buồn.

Bây giờ mới thực sự buồn. Ta hình dung Kiều ngồi một mình trên lầu Ngưng Bích (thực chất là lầu rước khách của mụ Tú), bốn bề là mênh mông vắng lặng. Cảnh ấy dội vào lòng Kiều, xui nàng nghĩ về thân phận của mình. Nỗi buồn mỗi lúc một thấm thía.

Nàng buồn vì nhớ tới Kim Trọng, người mới cùng nàng thề bồi tha thiết mà nay thì vĩnh viễn cách xa. Nàng buồn vì nỗi xa cha mẹ, từ này mỗi ngày một già yếu mà không có nàng để hôm sớm đỡ đần chăm sóc. Nỗi buồn thật là vời vợi mênh mông, giờ đã đọng thành khối trong lòng Kiều. Nếu ban đầu nỗi buồn còn từ cảnh một dội vào lòng thì lúc này nỗi buồn lại chính từ lòng buồn. Với hai tiếng “buồn trông” Nguyễn Du sao mà hiểu lòng người sâu sắc quá vậy! Kiều trông gì?

Đây là bức tranh thứ nhất:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?”

Trông về “cửa bể” mà lại “cửa bể chiều hôm” Lúc ấy mặt trời sắp tắt, chỉ còn để lại những ánh sáng thoi thóp cuối cùng trên mặt nước. Nhìn về cửa bể tức là còn nhìn thấy cả một dải bể đang mất hút đi ở cuối chân trời. Phía ấy không có gì cả ngoài một trống vắng mênh mông, một bầu trời đang dần tối. Thế mà trên cái nền trống vắng lại nổi lên hình ảnh “thuyền ai”.

“Thuyền ai” tức là chỉ có một chiếc thuyền, chứ không phải cảnh đoàn thuyền đông đúc tấp nập từ biển trở về để gợi lên một điều vui vẻ. Con thuyền gần như mất hút cuối chân trời, vì Kiều chỉ nhìn thấy cánh buồm của nó, mà cánh buồm thì lại cũng chỉ “thấp thoáng”Thấp thoáng”, hai âm “th” gợi một cảm giác lặp lại, với hai âm “áp” và “oáng” một âm tắc, một âm vang – diễn tả hình ảnh cánh buồm mờ mờ tỏ tỏ, chợt hiện rồi chợt ẩn, nhấp nhô trên sóng biển, như mơ hổ, như ảo ảnh ở cuối biển Xa xa.

“Thuyền ai …” thuyền ai đó, thuyền ai thế nhỉ? Thuyền đang đi về nơi quê nhà thân yêu của ta chăng? Hay thuyền đang đi về nơi vô định, cũng cô đơn, cũng lưu lạc giang hồ như chính ta? Tâm sự này đã buồn, trông vào cảnh ấy, sao có thể không thấm thía nỗi buồn hơn.

Như để tìm một chút lãng quên, Kiều ngoảnh mặt nhìn sang hướng khác. Thì đây:

“Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”

Trước mắt Kiều là một ngọn nước từ trên thác cao đang đổ xuống. Mới từ lòng suối chảy trôi khỏi đầu ngọn thác, ôi thôi, thế là tan tác đời trong trẻo với êm đềm của nước. Bây giờ là lúc bắt đầu của dập vùi, cuộn xoáy, sôi trào, xô đập, ngầu đục cát bùn. Kinh hãi thay cái phút từ trên mỏm đá cao sa xuống thác! Cảnh ngọn nước đã buồn, mà nhìn đến chân ngọn nước thì: hoa trôi man mác … Giá nhà thơ viết “tan tác” thì cũng đành đi một nhẽ, cho nó tan vỡ đi, chìm lấp đi, những cánh hoa mỏng manh kia!

Nhưng không, hoa rụng xuống dòng nước và bập bềnh trôi đi, bị đưa qua đẩy lại, rồi lại trôi đi, lặng lẽ, buồn bã, để đến một nơi nào không làm sao có thể biết được. Ngọn nước mới sa ấy, cánh hoa trôi ấy, có khác chi cuộc đời Kiều! Chính Kiều cũng là một ngọn nước vừa mới đi qua lòng suối êm đềm và vừa mới sa xuống giữa ngọn xoáy dập vùi. Chính Kiều cũng là đoá hoa đang man mác trôi đi, đơn độc và mỏng manh trên một dòng nước vừa dài vừa rộng với bao nhiêu đe doạ chưa thể nào hình dung ra hết.

Lòng đã buồn, cảnh lại buồn quá. Thôi, hãy đưa mắt trông đi nơi khác.

“Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.”

Lại một cảnh mênh mông hoang vắng: một đồng cỏ phẳng lặng kéo mãi đến cuối tầm nhìn, không một bóng cây, không một dòng sông, không một gò núi, không một mái nhà để phá vỡ bớt cái đơn điệu chán nản ấy đi. Chỉ có cỏ, cỏ và cỏ. Mà cỏ thì cũng có tươi tốt gì đâu! Từ “dầu dầu” không chỉ gợi lên ý “rầu rầu” buồn bã, mà còn cho ta hình dung thấy những ngọn cỏ lưa thưa ủ ê như đang dần héo hắt đi, đang mất dần sức sống. Đây không phải là đồng cỏ xuân đầy sức sống và niềm vui khi Kiều đi dự hội thanh minh:

“Cỏ non xanh rợn chân trời … “

Đây là đồng cỏ cuối mùa, cũng đang buồn bã như chính lòng người ngấm cảnh. Thế mà cái đồng cỏ ấy, cái màu cỏ ủ ê ấy lại kéo dài ra vô tận, tiếp cả với nền trời, thành một màu duy nhất: “xanh xanh”. Nếu Nguyễn Du viết:

“Chân mây mặt đất một màu xanh tươi”

Thì hẳn nàng Kiều đã tìm được ở đó một niềm an ủi, đôi chút lãng quên. Nhưng “xanh xanh” thì chưa hẳn là xanh, chỉ cố vẻ xanh thôi, một màu xanh nhợt nhạt, xa xôi, làm gợi lên một niềm ngao ngán. Và có lẽ cái màu “xanh xanh” ấy là cái màu của tâm trạng được nhìn từ đôi mắt đẫm ướt khổ đau.

Thế là Thuý Kiều đã ngoảnh nhìn hết ba hướng. Nàng chỉ còn một hướng cuối cùng. May ra có chút đổi thay chăng?

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Hóa ra cái buồn của ba cảnh trước tuy buồn mà chưa thực là buồn. Ba cảnh trên buồn đến thế còn là nhẹ quá. Cảnh này mới thực là buồn. Ba bức tranh trên chỉ là những bước chuẩn bị cho cảnh buồn cuối cùng này. Một vũng biển ăn sâu vào đất liền, ngoài kia là biển lớn. Gió biển hun hút chạy vào duềnh, gió cuốn ào ào khiến mặt biển nổi đầy sóng lớn, trắng xoá một màu. Sóng vỗ “ầm ầm” chứ không phải ” ầm” như những ngày ít gió; sóng gào thét cuồng nộ, đập vào bờ, xô đập nhau, lớp sóng này chưa tan đã ào lên lớp sóng khác, liên tục, bất tận.

Tiếng sóng lớn lắm, không chỉ vang ầm trên biển mà vang đi rất xa, vang khắp bốn bể. Kiều tưởng như mình không còn ngồi trên lầu Ngưng Bích nữa, mà ngồi đâu chính giữa duềnh biển mênh mông ấy, bốn bên nàng là sóng vỗ. Mấy từ “Ầm ầm tiếng sóng” nghe đã dữ dội bên tai nàng, dâng lên gào thét trong tâm hồn nàng, vây bủa lấy nàng.

Nếu trong ba bức tranh trên, giữa người và ngoại cảnh còn là hai đối tượng phân biệt, đâu là chủ, đâu là khách, thì đến bức tranh này, con người đã nhập vào ngoại cảnh; ngoại cảnh trùm phủ lấy con người, nỗi buồn thực đã đi đến mức cùng tột của cao trào. Lúc này, con người sẵn sàng tan đi cùng với ngoại cảnh, sẩn sàng làm bất cứ việc liều lĩnh nào để hoặc thoát khỏi nỗi buồn ghê gớm ấy, hoặc có thể chết đi cũng không cần. Chính tâm trạng này đã dọn đường cho việc Kiều gặp Sở Khanh, liều lĩnh theo y rồi bị lừa gạt.

Bốn bức tranh của Nguyễn Du thật ra thì không lạ lùng. Nhưng thật là lạ lùng cách của Nguyễn Du diễn tả những bức tranh ấy trong sự hoa hợp với hoàn cảnh và tâm trạng của Thuý Kiều. Bởi Nguyễn Du rất tinh tế khi nhìn cảnh, rất sâu sắc về tình người, nhưng còn bởi điều này nữa: Nguyễn Du rất tài tình trong ngôn ngữ.

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 23

Truyện Kiều đã từ mấy trăm năm qua trở thành một phần giá trị tinh thần không thể thiếu được của dân tộc ta. Ở bất kì góc độ nào, đây luôn là một viên ngọc quý trong kho tàng văn học dân tộc.

Để tạo ra được một kiệt tác như vậy, điều quan trọng nhất mà Nguyễn Du đã thể hiện được là tấm lòng nhân đạo cao cả và tài năng bậc thầy về nghệ thuật. Một trong những phương diện nghệ thuật thể hiện rất rõ tài năng của Nguyễn Du đó là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” tài năng này được thấy rõ hơn cả, nhất là ở 8 câu thơ cuối được mở ra bằng “buồn trông”.

Không chịu nghe lời Tú Bà vào chốn thanh lâu, Kiều bị bắt giam lỏng ở lầu Ngưng Bích cao, xa xôi, bốn bề đẹp nhưng hoang vắng. Ngày nào nàng cũng đau khổ nhớ về gia đình và người yêu. Trong nỗi niềm đằng đẵng bao ngày, nàng nhìn ra phía xa nơi cửa bể vào lúc chiều hôm và thấy thấp thoáng cánh buồm nơi xa. Trong khói sóng hoàng hôn gợi buồn gợi mê, ai biết con thuyền kia là thực hay là ảo, mọi thứ mờ ảo và xa xôi đến mức chỉ có cánh buồm hiện lên. Ở đó có thể là một con thuyền thực nhưng cũng có thể chỉ là con thuyền trong nỗi mong mỏi giải thoát của Kiều. Nàng đang ước ao, mong chờ một con thuyền từ phương xa có thể tới đây, chở nàng về với gia đình thân yêu. Nhưng rồi càng mong lại càng tủi thân, con thuyền kia chỉ là ảo mộng, mà dù có là thực đi nữa lại khiến cho ai kia càng xót xa khi con thuyền cập bến còn mình vẫn còn chơi vơi. Nàng nhớ nhà, rồi nàng buồn. Từ hình ảnh nơi biển cả mông mênh rộng lớn gợi nỗi cô đơn, nàng trông ra đến ngọn nước mới sa, ngọn nước đã đục ngầu vì từng trận thác đổ xuống tung bọt lên trắng xóa.

Và ngay trên dòng nước ấy, có những cánh hoa mỏng manh đang trôi trong vô định, cứ dập dềnh chực chìm chực nổi. Phải chăng, Kiều đang thấy thân phận mình giống với đóa hoa tội nghiệp kia, cứ trên dòng đời trôi mãi trong sự vùi dập dày vò của bao nhiêu con sóng cuộc đời. Cánh hoa ở giữa dòng ấy rỗi sẽ trôi về đâu giống như số phận nàng hiện tại rồi sẽ đi về đâu. Câu hỏi tu từ đã bật lên một sự lo lắng cho một tương lai của một số phận mỏng manh vô định hình. Từ sự lo lắng này, tâm trạng của Kiều lại càng tiếp tục rơi vào sự vô định mông lung không biết đi đâu về đâu. Dường như đến đây, mọi cảnh vật trước mắt Kiều đã bị nhòe đi bởi một màn nước mắt, đến nội cỏ vô tri cũng trở nên rầu rĩ bởi tâm trạng con người không thể nhìn nó bằng con mắt khác.

Khung cảnh mênh mông đến rợn ngợp giờ đây trở nên càng mênh mông hơn khi mà từ chân mây đến mặt đất như không còn ranh giới, màu xanh ở đây không còn là màu xanh tươi của sự sống như ngày xuân xưa kia mà là một màu xanh đơn điệu, một bức tranh một màu không có chút sức sống giống y như cuộc sống lúc này của Kiều. Nhưng mọi thứ vẫn còn ở một mức tâm trạng buồn lo nhưng đến câu cặp lục bát cuối cùng. Từ những cảm xúc buồn, lo lắng, đến đây, ta thấy Kiều như rùng mình sợ hãi. Những cơn gió cuốn những cơn sóng ngoài biển tạo những âm thanh to như cơn bão khiến cho con người phải hãi hùng. Từ tượng thanh “ầm ầm” đặt ở đầu câu như nhấn mạnh sự bất ngờ hoảng hốt của Kiều nơi lầu cao khi con sóng lạnh lùng dữ dội xô vào chân lầu khiến người trên phải sợ hãi.

Đây có lẽ là sự dự đoán về một tương lai không mấy êm đềm sẽ đến với Kiều, và ngay sau đấy, sóng to gió lớn sẽ đổ lên cuộc đời Kiều làm cho nàng phải đau đớn, sợ hãi mà chao đảo. Bốn cặp lục bát mở đầu bằng “buồn trông” tạo nên một đoạn điệp khúc có nhạc tính tăng dần mức độ. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, hình ảnh được chọn từ mờ ảo, mông lung đến rõ ràng cụ thể, tâm trạng nhân vật trữ tình từ buồn, lo đến sợ hãi hoảng hốt. Nguyễn Du đã thật tài tình trong việc miêu tả rõ nét tâm trạng Thúy Kiều trong những ngày tháng dài bị giam nơi lầu Ngưng Bích, những ngày tháng mở đầu cho quãng thời gian mười lăm năm lưu lạc của Kiều. Kiều lúc này, càng buồn thì càng trông, càng trông thì càng buồn, chính Nguyễn Du đã hiểu được điều này và bộc lộ sự cảm thông từ ngòi bút.

Bốn cặp lục bát ngắn gọn mà chứa đựng được tài năng và tấm lòng nhân đạo bao la của đại thi hào Nguyễn Du. Đọc đến những dòng thơ ấy, người đọc không khỏi xót thương trước số phận Thúy Kiều đồng thời trân trọng biết bao tài năng cùng tấm lòng của thi sĩ họ Nguyễn.

Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 24

Nhắc tới truyện thơ Nôm bác học, ngoài những tác phẩm nổi tiếng của một thời vang bóng ở thế kỉ XVIII – XIX như: Nhị độ mai, Sơ kính tân trang, Lục Vân Tiên… thì chúng ta không thể không nhắc tới “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Có thể nói, với tác phẩm “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã đưa thể loại truyện thơ Nôm bác học lên một tầm cao mới, đạt tới trình độ mẫu mực, bậc thầy về nghệ thuật, góp phần hoàn thiện và làm giàu đẹp, phong phú hơn ngôn ngữ của dân tộc.

Và đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” chính là một mình chứng tiêu biểu cho bút pháp “tả cảnh ngụ tình” độc đáo của nhà thơ. Đây cũng là đoạn mở đầu chuỗi cuộc đời mười lăm năm lưu lạc truân chuyên của Kiều. Mộng Liên Đường chủ nhân trong lời đề tựa “Truyện Kiều” đã nhận xét: “Những lời văn tả ra hình như có máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thắm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột”.

Khi đọc tám câu thơ cuối của đoạn trích với tâm trạng đau buồn, lo âu của Kiều qua cách nhìn cảnh vật, những câu thơ như thấm vào hồn người đọc, khiến trong lòng người đọc dâng lên niềm xót xa, ngậm ngùi:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Điệp ngữ “buồn trông” được lặp đi lặp lại bốn lần. Đây là điệp ngữ liên hoàn và đồng thời cũng là điệp khúc của tâm trạng. Kiều buồn nên Kiều mới trông cảnh vật, khác với đoạn trước, Kiều trông mới thấy buồn. Ở đây, vì buồn nên trông, mà càng trông thì Kiều lại càng buồn. Nỗi buồn cứ thế điệp đi điệp lại dâng lên thành lớp lớp sóng trào, cứ cuộn xoáy trong tâm khảm của Kiều mà trở thành gánh nặng tâm tư.

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Chiều hôm là khoảng thời gian của buổi chiều hoàng hôn, khi mà mặt trời đã dần dần ngả về tây, bóng tối bắt đầu xâm lấn. Xa xa là hình ảnh của một chiếc thuyền nhỏ bé, cô đơn thoát ẩn, thoát hiện thấp thoáng trên cửa biển; một cánh hoa đang trôi bất định trên dòng nước mà không biết đi về đâu.

Hình ảnh chiếc thuyền, cánh hoa được đặt trong thế tương phản đối lập với vũ trụ không cùng của trời đất mênh mang càng tô đậm hơn sự nhỏ bé, đơn độc, đáng thương và tội nghiệp. Đây là hình ảnh ẩn dụ cho thân phận của Kiều lênh đênh, chìm nổi giữa dòng đời mà không biết trôi dạt về đâu. Và đứng trước một không gian bao la của trời đất, của buổi chiều hoàng hôn sắp tắt, nỗi nhớ nhà, nhớ người thân đến như một lẽ tất yếu trong lòng Kiều.

Nhưng trong tình cảnh “bốn bề góc bể trơ vơ” thì Kiều biết bao giờ mới được sum họp, đoàn viên cùng với gia đình, người yêu. Vì thế câu hỏi tu từ cứ réo rắc, khắc khoải trong lòng của Kiều, dấy lên niềm khao khát được trở về nhà, trở về quê hương nơi chôn rau cắt rốn của mình.

Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Ngước mắt trông về phía xa của cửa biển Kiều chỉ càng cảm thấy rộng trống, cơ đơn, buồn tủi. Kiều quay trở về nhìn xuống mặt đất quanh mình để tìm kiếm sự sống của cảnh vật xung quanh thì lại chỉ thấy những đám cỏ xanh héo úa, lụi tàn. Hình ảnh “nội cỏ rầu rầu” là một hình ảnh nhân hóa, biểu hiện tâm trạng của con người. Lòng người buồn nên nhìn đâu cũng thấy buồn; nỗi buồn của Kiều như thấm vào cảnh vật khiến cho cảnh vật cũng nhuốm màu tâm trạng.

Trong văn học từ xưa tới nay, màu sắc xanh thường khiến chúng ta nghĩ tới màu của sự sống, của sự sinh sôi bất diệt. Nhưng cũng có trường hợp, màu xanh có khi trở thành màu sắc của bi kịch con người. Bài thơ “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn đã diễn tả nỗi nhớ của người chinh phụ đối với người chồng của mình nơi biên ải qua màu xanh ngắt của cỏ lá:

“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiết ai sầu hơn ai?”

Như vậy, màu xanh ngắt, xanh xanh của cỏ lá đã trở thành màu của sự xa cách, sự li biệt và nhạt nhòa. Nay từ “xanh xanh” lại xuất hiện trong câu thơ của Nguyễn Du nên màu sắc ấy biểu trưng cho sự nhạt nhòa, sự chán nản, vô vọng của Kiều trước một khung cảnh thiếu vắng sự sống, cô đơn, và tẻ nhạt.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Nếu như những bức tranh thiên nhiên bên trên đều được tái hiện trong trạng thái tĩnh thì khép lại bài thơ, bức tranh thiên nhiên được miêu tả trong trạng thái động. Đó là âm thanh dữ dội của gió, của sóng; gió làm cho mặt biển tung lên những con sóng ồ ạt đập vào bờ mà phát ra tiếng kêu. Nhưng quan trọng, tiếng sóng ấy không đơn thuần là những con sóng thực ở ngoài biển khơi mà đó còn là con sóng lòng của tâm trạng.

Diệp khúc “buồn trông” ở những câu thơ trên kết đọng, tích tụ rồi dồn đẩy xuống câu thơ cuối khiến cho nỗi buồn ngày càng trở nên chồng chất như lớp lớp sóng trào. Đồng thời, tiếng sóng “ầm ầm” dữ dội ấy cũng chính hình ảnh ẩn dụ cho cuộc đời phong ba bão táp đã và đang đổ ập xuống đời Kiều, đổ ập xuống đôi vai gầy yếu của một cô gái trẻ đáng thương và tội nghiệp. Vì thế lúc này Kiều không chỉ buồn mà còn lo lắng, sợ hãi như đang rơi vào vực thẳm một cách bất lực.

Trong tám câu thơ cuối, Nguyễn Du đã sử dụng thật tài tình bút pháp “tả cảnh ngụ tình” của văn học cổ điển để diễn tả tâm trạng “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” của Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Mỗi câu thơ là một bức tranh thực cảnh cũng chính là thực tình của một con người mang trong mình nỗi buồn đau chồng chất.

Đó là nỗi đau đớn, xót xa, lo lắng và khắc khoải của một kiếp má đào, trôi nổi, vô định, mong manh và bế tắc không biết đi về nơi đâu. Vì thế, dù nàng “Thông minh vốn sẵn tính trời” nhưng đang đứng trước sự tuyệt vọng, yếu đuối của bản thân, Kiều đã bị Sở Khanh lừa gạt để rồi dấn thân vào một cuộc đời đầy sóng gió, truân chuyên “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”.

Trên đây là nội dung bài học Phân tích 8 câu cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích hay nhất (24 bài mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập

5/5 - (21 bình chọn)


Nguyễn Thanh Tùng

Trường THCS Bình Chánh với mục tiêu chung là tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh có thể phát triển khả năng và đạt được thành công trong quá trình học tập. Chúng tôi cam kết xây dựng một không gian học tập đầy thách thức, sáng tạo và linh hoạt, nơi mà học sinh được khuyến khích khám phá, rèn luyện kỹ năng và trở thành những người học suốt đời.

Bài viết liên quan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button