Phân tích cái tôi của Nguyễn Tuân trong đoạn trích Người lái đò Sông Đà lớp 12 ngắn gọn bao gồm dàn ý chi tiết cùng 9 bài mẫu hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp từ các bài văn đạt điểm cao trên toàn quốc. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các bạn tham khảo để từ đó hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình
Đề bài: Phân tích cái tôi của Nguyễn Tuân trong đoạn trích Người lái đò Sông Đà
Dàn ý Phân tích cái tôi của Nguyễn Tuân trong đoạn trích Người lái đò Sông Đà lớp 12
Dàn ý Phân tích cái tôi của Nguyễn Tuân trong đoạn trích Người lái đò Sông Đà – Số 1
1. Mở bài:
Bạn đang xem: Phân tích cái tôi của Nguyễn Tuân trong đoạn trích Người lái đò Sông Đà ngắn gọn, hay nhất (9 Mẫu)
– Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và cái tôi Nguyễn Tuân trong “Người lái đò sông Đà”.
2. Thân bài:
a. Trình bày khái quát về tác giả, tác phẩm:
– Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp. Phong cách sáng tác của ông nổi bật ở sự ngông ngạo, khác người, đó là sự phóng túng, tài hoa, uyên bác.
– “Người lái đò sông Đà” là kết quả của chuyến đi thực tế Nguyễn Tuân thu hoạch được khi đến với vùng Tây Bắc xa xôi.
– “Cái tôi” của Nguyễn Tuân là “cái tôi” tài hoa, uyên bác và có ý thức, trách nhiệm sẵn sàng góp một phần chiến công của mình trên mặt trận xây dựng chủ nghĩa xã hội.
b. Phân tích “cái tôi” tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân trong “Người lái đò sông Đà”:
– Cái “tôi” tài hoa, uyên bác thể hiện qua niềm say mê cái đẹp của Nguyễn Tuân trước vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, đất nước:
+ Sông Đà hung bạo, dữ dội ở cảnh thác đá và các trùng vi thạch trận.
+ Sông Đà thơ mộng trữ tình, đẹp như một người con gái khi được nhìn từ trên cao xuống.
+ Khi miêu tả sông Đà, tác giả đã vận dụng kiến thức của nhiều ngành nghề khoa học khác nhau khiến cho sông Đà có một cá tính riêng, một đời sống tâm hồn riêng.
– Cái “tôi” Nguyễn Tuân thể hiện qua việc phát hiện, ngợi ca vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ của con người lao động thông qua hình ảnh ông lái đò:
+ Ông lái đò có ngoại hình và tố chất đặc biệt.
+ Ông lái đò là người tài trí và rất mực dũng cảm trong cảnh vượt thác.
+ Ông lái đò là biểu tượng cho vẻ đẹp của con người lao động.
d. Đánh giá:
– Qua tác phẩm, ta thấy được Nguyễn Tuân là một nhà văn vừa có tâm lại vừa có tài, nhà văn đã khẳng định vẻ đẹp có ở khắp mọi nơi trên mặt đất chứ không phải chỉ có ở những con người kiệt xuất như trước cách mạng Tháng Tám.
3. Kết bài:
– Khái quát lại “cái tôi” Nguyễn Tuân trong “Người lái đò sông Đà”.
Dàn ý Phân tích cái tôi của Nguyễn Tuân trong đoạn trích Người lái đò Sông Đà – Số 2
1. Mở bài
- Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân, in trong tập Sông Đà, là thiên tuỳ bút tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.
- Sức hấp dẫn của bài tuỳ bút này chính là ở “tính chủ quan, tính trữ tình rất đậm, nhân vật chính là cái tôi của nhà văn”.
2. Thân bài
Là nhà văn có.phong cách nghệ thuật đặc sắc, văn chương Nguyễn Tuân hấp dẫn người đọc bởi “cái tôi” độc đáo, sự tài hoa, uyên bác, giác quan sắc nhọn, tinh tế, nghệ thuật sử dụng ngôn từ điêu luyện, giàu hình ảnh, cảm xúc. Sức hấp dẫn của ngòi bút Nguyễn Tuân trong bài tùy bút Người lái đò Sông Đà là ở sự độc đáo, sự giàu có về chữ nghĩa, sự công phu trong quan sát và lựa chọn ngôn từ. Tất cả đều mang đậm chất Nguyễn Tuân.
– “Cái tôi” tài hoa thể hiện ở những rung động, say mê của nhà văn trước vẻ đẹp hùng vĩ và mĩ lệ của thiên nhiên đất nước; ở sự phát hiện và ngợi ca phẩm chất tài hoa nghệ sĩ của những con người lao động; ở những trang văn đẹp như thơ, như nhạc, như hoạ. Nhà văn đã phát hiện và miêu tả sông Đà như một sinh thể sống, với tính cách hung bạo và trữ tình, để từ đó tấu lên một khúc tráng ca về con sông dũng mãnh trên chốn thượng nguồn; đồng thời ngân nga những thanh âm dịu dàng, trong trẻo, êm ái chốn hạ lưu. Từ đó, nhà văn đã tạc dựng hình ảnh người lái đò trong cuộc vượt thác đầy kịch tính và cũng thật ngoạn mục. Nguyễn Tuân tỏ ra hứng thú đặc biệt trong việc khám phá, thể hiện “chất vàng mười” trong tâm hồn con người Tây Bắc. Tất cả đã cho ta thấy ở Nguyễn Tuân một “cái tôi” tài hoa, tinh tế.
– “Cái tôi” uyên bác thể hiện ở cách nhìn và sự khám phá hiện thực có chiều sâu; ở sự vận dụng kiến thức sách vở và các tri thức của đời sống một cách đa dạng, phong phú;ở sự giàu có về chữ nghĩa. Các thuật ngữ chuyên môn của các ngành quân sự, điện ảnh, thể thao,… được huy động một cách hết sức linh hoạt nhằm diễn tả một cách chính xác và ấn tượng những cảm giác về đối tượng. Hình ảnh dòng sông Đà và người lái đò sông Đà đã được nhà văn miêu tả, tái hiện một cách ấn tượng từ nhiều góc nhìn, với những chi tiết điển hình, tiêu biểu; những liên tưởng, so sánh bất ngờ, thú vị. Tất cả đều cho thấy khả năng quan sát và sử dụng ngôn ngữ hết sức điêu luyện của Nguyễn Tuân.
– “Cái tôi” tài hoa và uyên bác chính là một cách thể hiện tình yêu quê hương đất nước, lòng yêu cái đẹp của người nghệ sĩ chân chính; đồng thời cũng cho thấy quan niệm của Nguyễn Tuân: viết văn là để khẳng định sự độc đáo của chính người cầm bút. Thổ tuỳ bút, với đặc điểm của một lối văn “độc tấu” (chữ dùng của Nguyễn Tuân) đã phát huy tối đa hiệu quả của nó trong việc bộc lộ “cái tôi” trữ tình của nhà văn.
3. Kết bài
- Khẳng định cái tài và cái tâm của người nghệ sĩ trong sáng tác văn chương.
- Nêu cảm nhận, ấn tượng riêng của cá nhân về “cái tôi” trữ tình Nguyễn Tuân trong tùy bút Người lái đò Sông Đà.
9 Bài mẫu Phân tích cái tôi của Nguyễn Tuân trong đoạn trích Người lái đò Sông Đà lớp 12 hay nhất đạt điểm 9, 10
Phân tích cái tôi của Nguyễn Tuân trong đoạn trích Người lái đò Sông Đà – Mẫu 1
Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của những người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp. Nguyễn Tuân là một nhà văn như thế. Ông quan niệm: “Văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật, và đã là nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo”.
Với tùy bút Người lái đò Sông Đà, ngòi bút Nguyễn Tuân như nở hoa trong sự hòa phối kì diệu giữa cái đẹp của ngôn từ với vẻ đẹp tuyệt mĩ của hình ảnh mang đến cho người đọc một hình dung mới mẻ, độc đáo trong chất vàng của thiên nhiên đồng thời là chất vàng mười đã qua thử lửa nơi tâm hồn con người Tây Bắc. Nguyễn Tuân – Một tác giả của nền văn học Việt Nam hiện đại với những thành tựu xuất sắc ở cả hai giai đoạn trước và sau năm 1945. Nguyễn Tuân là biểu hiện độc đáo, trọn vẹn về hình ảnh người nghệ sĩ: vừa rất tài hoa, vừa rất ngông. Tài hoa là cách thể hiện tài năng, sự am hiểu hơn người của mình. Từ người tử tù tài hoa đến một người lái đò bình thường bỗng trở thành người nghệ sĩ. Ngông là cách biểu hiện khinh bạc, khác đời, khác người.
Nguyễn Tuân là một nhà văn duy mĩ bởi ông quan niệm cuộc đời hành trình đi tìm cái đẹp và khẳng định cái đẹp. Con sông Đà trong tùy bút của Nguyễn Tuân hiện lên với những vẻ đẹp độc đáo, gây ấn tượng mạnh mẽ. Người tử tù không nhìn nhận ở phương diện tội ác mà nhìn nhận của sự tài hoa. Người lái đò không chỉ nhìn nhận ở phương diện nghề nghiệp mà được nhìn nhận trên phương diện của một chiến sĩ, một người nghệ sĩ trên sông Đà. Nguyễn Tuân có một kho từ vựng hết sức phong phú và khả năng sáng tạo từ mới. Với ông, viết văn mà hạn hẹp và thiếu thốn từ ngữ sẽ tạo ra loại văn “thấp khớp”, hời hợt, nông cạn.
Cái tôi của Nguyễn Tuân là cái tôi có cảm hứng mãnh liệt đối với những gì gây cảm giác mạnh, gây ấn tượng sâu đậm, độc đáo. Dữ dội phải tới mức khủng khiếp (con sông Đà hung bạo), đẹp phải tới mức tuyệt mĩ (con sông Đà thơ mộng, trữ tình), tài năng phải tới mức siêu phàm (hình tượng ông lái đò). Không chỉ vậy, cái tôi của ông còn là cái tôi giàu suy tư trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước. Thưởng ngoạn vẻ đẹp sông Đà, lòng tác giả dậy lên cảm giác liên tưởng về lịch sử: nhắc tới đời Lí, đời Trần, đời Lê. Trước vẻ đẹp hoang dại của dòng sông, nhà văn suy nghĩ về về tiếng còi tàu, về cuộc sống hiện đại. Trải lòng, hóa thân vào dòng sông để đắm tình non sông đất nước: Nhớ thương hòn đá thác, lắng nghe giọng nói êm êm của người xuôi, trôi những con đò mình nở chạy buồm vải.
Nguyễn Tuân tài hoa trong việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, câu văn. Uyên bác vận dụng tri thức của nhiều kiến thức về địa lí, lịch sử, văn hóa, điện ảnh để miêu tả sông Đà ngành văn hóa, nghệ thuật khác nhau để tiếp cận và miêu tả con sông Đà và người lái đò. Tri thức về võ thuật, quân sự, thể thao để miêu tả cuộc vượt thác của người lái đò như một trận thủy chiến. Tác phẩm Người lái đò Sông Đà không chỉ có giá trị văn học mà còn có những giá trị văn hóa khác.
Nguyễn Tuân là một cái tôi đầy bản lĩnh, đầy ngạo nghễ trong dòng văn học Việt Nam hiện đại. Bằng nỗ lực không ngừng để làm mới mình, Nguyễn Tuân đã khẳng định được một phong cách riêng độc đáo. Người xưa thường nói: “Văn cũng như người”, Nguyễn Tuân là con người thích cuộc sống tự do phóng khoáng thậm chí đôi lúc còn phóng túng. Ông ham mê du lịch, thích chủ nghĩa xê dịch, không chịu được những cái gì chung chung, bằng phẳng, nhợt nhạt. Một cá tính mạnh mẽ, không ưa sự gò bó, khuôn phép. Cho nên Nguyễn Tuân tìm đến với thể loại tuỳ bút, một thể văn tự do, phóng khoáng là một điều dễ hiểu. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cũng đã từng nhận xét: “Nguyễn Tuân là một nhà văn đứng hẳn ra một phái riêng cả về lối viết, tư tưởng”. Điều này thể hiện nhất quán trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông. Trong đó tùy bút “Người lái đò sông Đà” là một ví dụ mẫu mực cho phong cách đó.
Ai đã từng đọc Vang bóng một thời chắc cảm nhận được cái sắc sảo, lịch lãm, tài hoa của Nguyễn Tuân khi ông nói về thư pháp, về uống trà, chơi đèn trung thu của những nhà nho thuở trước mà lòng thêm thư thái, tự hào về bản sắc tốt đẹp của nền văn hóa Việt Nam được kết tinh trong tâm hồn dân tộc qua qua hàng nghìn năm lịch sử.
Đọc Người lái đò Sông Đà ta vui thú thấy Nguyễn Tuân đã để thơ vào sông nước. Ông đã khám phá sự vật – con sông Đà – ở phương diện thẩm mĩ, đã miêu tả, nhận diện con người – ông lái đò – ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Tả cảnh thì biến hóa trong bốn mùa, trong mọi thời gian. Nói về thác ghềnh thì đa thanh, phức điệu bằng tất cả cảm giác tinh tế, bằng những liên tưởng đầy góc cạnh với một kho từ vựng dồi dào, sáng tạo. Văn Nguyễn Tuân đúng là những giọt mật của con ong yêu hoa – cần mẫn, sáng tạo, đem thơm thảo dâng hết cho đời.
Phân tích cái tôi của Nguyễn Tuân trong đoạn trích Người lái đò Sông Đà – Mẫu 2
Trong diễn đàn văn học thời kì trước Cách mạng, giữa một loạt các tác phẩm nói về nỗi u uất vì cảnh nhân dân lầm than, nỗi buồn thất thế,… thì Nguyễn Tuân lại nổi tiếng vì những tác phẩm viết về vẻ đẹp “vang bóng một thời”. Ông đã viết về thú chơi cây cảnh, thưởng trà, đánh cờ của một nền văn minh xưa cũ, thể hiện niềm tiếc nuối trước những nghệ thuật của một thời đã qua, nay chỉ còn là âm vang nhỏ bé. Sau Cách mạng, tâm hồn Nguyễn Tuân đã trở nên vui tươi hơn. Các tác phẩm của ông chủ yếu viết về cuộc sống mới, con người của xã hội mới. Nổi bật trong số đó là tập bút kí “Sông Đà” và bài kí “Người lái đò sông Đà”.
Nguyễn Tuân là người theo chủ nghĩa xê dịch. Tập bút kí “Sông Đà” cũng được ông thực hiện trong chuyến đi Tây Bắc năm 1960. Trong hành trình của mình, ông đã tìm kiếm thứ “vàng mười” được cất giấu trong thiên nhiên và con người của vùng núi rừng Tây Bắc. Trong cuộc tìm kiếm của mình, Nguyễn Tuân đã vô tình gặp được người lái đò trên sông Đà. Ở người đàn ông đã 70 tuổi đó có thứ mà nhà văn đang tìm kiếm. Vậy nên, ông đã viết ra bài bút kí “Người lái đò sông Đà” để ca ngợi con người bình dị trong cuộc sống đời thường nhưng lại là người nghệ sĩ, là bậc thầy trong nghệ thuật chèo đò của mình. Tuy đó cũng chỉ là công việc bình thường nhưng người lái đò luôn yêu thích, đam mê với nó. Qua bài bút kí này, Nguyễn Tuân đã thể hiện được tài năng, cái tôi độc đáo đầy tài hoa, uyên bác.
Nhà văn Nguyễn Tuân được sinh ra trong gia đình nhà nho ở thời buổi xã hội phong kiến đang trên đà suy vi, nho học không được coi trọng. Tây học lên ngôi. Chính cái thời buổi Tây – Tàu lẫn lộn đã cho nhà văn thật nhiều trải nghiệm cùng vốn kiến thức đầy phong phú. Những tác phẩm của ông đều thể hiện rất rõ nét bác học, được vận dụng tri thức từ nhiều ngành khoa học, xã hội khác nhau để gợi liên tưởng, tưởng tượng rất độc đáo, mới mẻ, khác lạ mà ít nhà văn nào làm được.
Cái “tôi” tài hoa của Nguyễn Tuân được biểu hiện rất rõ trong bài kí “Người lái đò sông Đà”. Nhà văn đã quan sát rất tỉ mỉ dòng sông để miêu tả nó trong cả hai hình tượng: hung bạo, mạnh mẽ và trữ tình, thơ mộng. Trong mỗi tính cách, Nguyễn Tuân lại quan sát kĩ càng, tường tận, miêu tả tỉ mỉ từng đoạn, từng khúc sông một. Ông đã khám phá ra sông Đà với thác nước dữ dội, không biết bao nhiêu cơ man nào là đá dựng hai bên bờ sông, đá giữa lòng sông gây nguy hiểm cho người chèo đò. Đến khi dòng sông nhẹ nhàng trở lại, nhà văn nhìn nó trong dòng liên tưởng về lịch sử, địa lí. Rồi ông miêu tả về dòng sông gợi cảm, hai bên bờ sông đẹp như “nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Ông mong chờ về một đường tàu sắp được khởi công xây dựng qua đây. Đường tàu giúp cho giao thông thuận tiện hơn, con người giữa hai miền được kết nối lại với nhau, góp phần xây dựng đất nước. Ngoài ra, nhà văn còn thích thú, cảm phục trước hành trình vượt thác của ông lái đò. Ông lái đò chính là người mang phẩm chất được ví như thứ “vàng mười” mà Nguyễn Tuân tìm kiếm: gan dạ, dũng cảm, tài ba, yêu và gắn bó với nghề, là một người nghệ sĩ trong chính nghệ nghiệp của mình.
Ngoài “cái tôi” tài hoa ra thì “cái tôi” uyên bác cũng được thể hiện rất rõ trong bài kí. Nhà văn đã vận dụng sự hiểu biết của mình về nhiều ngành nghề khác nhau như điện ảnh, võ thuật, quân sự, thể thao,… để miêu tả sự dữ dội, hung bạo của sông Đà. Chúng giúp cho khung cảnh hai bên bờ, trận quyết chiến giữa ông lái đò và thác đá cũng được cụ thể hóa. Không những thế, tác giả còn đưa ra rất nhiều kiến thức lịch sử, địa lí, văn học về dòng sông vào trong bài kí. Điều này giúp cho Đà giang trở nên gần gũi hơn, được tiếp cận bạn đọc dưới nhiều góc độ hơn. Những liên tưởng, tưởng tượng trong bài cũng tô điểm thêm cho ngòi bút độc đáo của Nguyễn Tuân: “Ngồi trong khoang đò quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện” hay “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”,…
Có thể thấy được rằng, Nguyễn Tuân là một cái tên độc đáo, khác biệt giữa rất nhiều tác giả thời kì đó. Trong khi các nhà văn theo đuổi lối viết chiêm nghiệm, triết lí hoặc lối diễn đạt gần gũi với người đọc thì Nguyễn Tuân vẫn viết theo một phong cách rất riêng. Với cái “tôi” đầy tài hoa, uyên bác cùng chất “ngông” không thể giấu, mỗi lời văn mà ông viết ra đều rất cầu kì, mĩ lệ. Từ đó, người đọc có thể khẳng định được “cái tôi” của Nguyễn Tuân rất mới mẻ, không thể nhầm lẫn với bất kì nhà văn, nhà thơ nào.
Phân tích cái tôi của Nguyễn Tuân trong đoạn trích Người lái đò Sông Đà – Mẫu 3
Khát khao cống hiến cho nghệ thuật, khát khao đi tìm và thể hiện những cảm giác mạnh mẽ dữ dội, cộng với chất nghệ sĩ đã phóng túng, tự do đã thúc đẩy Nguyễn Tuân đến với sông Đà và bằng “nghệ thuật bậc thầy của ngôn từ”, ông đã sáng tạo nên hình tượng con sông Đà – một trong những kiệt tác của nghệ thuật văn xuôi. Văn học Việt Nam có thêm hình tượng một dòng sông, người yêu văn chương có thêm một tác phẩm để mà yêu dấu, trân trọng. Có lẽ hình tượng con sông Đà trong “Người lái đò sông Đà” là một trong những hình tượng thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
Tiếp xúc với văn chương của Nguyễn Tuân, ta bắt gặp ẩn tàng trong những trang văn là “cảm xúc mạnh, là hơi thở nồng” (Nguyễn Đăng Mạnh) của cái “tôi” trữ tình nghệ sĩ mang khát vọng cuồng nhiệt, muốn biến những trang văn thành những trang hoa lộng lẫy, yêu kiều vừa mê hoặc, vừa thách đố người đọc.
Trải suốt từ trang đầu đến trang cuối tác phẩm là hình ảnh dòng sông Đà được chụp lại ở nhiều chiều, nhiều góc độ khác nhau. Qua việc tìm hiểu dòng sông, người đọc được hiểu thêm về một con người, một nghệ sĩ “suốt đời đi tìm cái thật và cái đẹp” – nhà văn Nguyễn Tuân, bởi vì hình tượng con sông vĩ đại của vùng đất Tây Bắc xa xôi là sự thể hiện khá đầy đủ phong cách hay cái nhìn cuộc sông của nhà văn, ở đó, bạn đọc đã thấy một con người ưa sự độc đáo trong sự tài hoa – uyên bác; một cá tính mạnh mẽ luôn săn tìm những gì dữ dội. mãnh liệt; một thầy phù thủy ngôn từ, hình ảnh…
Dòng sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân bên cạnh vẻ dữ dội, hung bạo như “kẻ thù số một” của con người, cũng có lúc hiện lên rất bay bổng mơ màng, có nét trữ tình của một con người nồng nàn xúc cảm. Nếu có ai hỏi tôi về đoạn văn tâm đắc nhất tôi sẽ trả lời ngay rằng đó là đoạn văn miêu tả vẻ đẹp của dòng sông hiền hòa “con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình… cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Đoạn văn như một khúc nhạc nhẹ êm ái, lại như một bức tranh thủy mặc mang đến cho tâm hồn người đọc những rung động tinh vi, những xúc cảm nhẹ nhàng. Bằng tất cả tài năng và tâm huyết của mình, dòng sông dữ dội đã mờ phai, chỉ còn hình ảnh của dòng nước nhẹ nhàng, cũng có những rung động yêu thương “dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Dù được tái hiện dưới góc độ thiên nhiên nhưng Nguyễn Tuân đã thổi vào dòng sông Đà những cảm xúc tinh tế của một con người nghệ sĩ tài hoa. Nó cũng biết “dịu dàng”, cũng yêu thương, duyên dáng, cũng hồn nhiên, lặng lẽ… Nguyễn Tuân không chỉ nhìn dòng sông ấy như một con người, mà còn hơn thế, một con người có một tâm hồn nghệ sĩ. Chính vì vậy Nguyễn Tuân mới coi dòng sông Đà như một “cố nhân” (“nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”), trong nhiều tác phẩm, nhà văn họ Nguyễn đã thể hiện tình yêu với những con người tài hoa, những thiên nhiên mĩ lệ. Tùy bút “Sông Đà” là một tác phẩm như thế là sự kết hợp của tình yêu con người và tình yêu thiên nhiên tập trung trong hình ảnh dòng sông Đà. Từ xưa đến nay đã có ai có niềm vui “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, như nối lại chiêm bao đứt quãng” khi trông thấy dòng sông. Đó chính là vì Nguyễn Tuân đã nhìn dòng sông như một con người, và hơn thế, một con người tài hoa, một cố nhân lâu ngày gặp lại.
Tình yêu cuộc sống, lòng ham hiểu biết về con sông, cây cầu của non sông đất nước cũng như ý thích đi lại hoạt động…đã tạo cho mỗi trang viết của Nguyễn Tuân ngồn ngộn kiến thức, thể hiện một sự hiểu biết tường tận từng chi tiết được nói tới trong văn mình. Dòng sông Đà có thể được tái hiện rất trữ tình, thơ mộng nhưng cũng có lúc khúc Đà giang vĩ đại hiện lên chính xác trong từng con số. Nguyễn Tuân thoắt trở thành nhà địa lí khi đưa ta về với thượng nguồn sông Đà ở Cảnh Đông tỉnh Vân Nam sau đó chan hòa vào sông Hồng, chảy trên đất Việt 500 cây số trong tổng chiều dài 883 nghìn thước mét, khi kể ra rất chính xác, cụ thể về “những cái thác, những cái ga nước trên sông Đà từ Vạn Yên về xuôi”. Cũng có khi nhà văn trở thành một nhà điện ảnh, với ngôn ngữ của nghệ thuật thứ 7” những thước phim màu cũng xoay tít, cái máy lia ngược contre – pioneer lên cái mặt giếng mà thành giếng…”. Quả thật, khi miêu tả dòng sông Đà, Nguyễn Tuân đã đứng trong vai trò của nhiều nhà khoa học: một người chuyên nghiên cứu lịch sử biết dòng sông dưới thời Pháp thuộc có một “cái tên Tây lếu láo”; một nhà chính trị khi biết “châu Quỳnh Nhai được giải phóng trước tiên ở Tây Bắc”, trở thành “cơ sở bàn đạp ở Tây Bắc” xuyên vào lòng địch… Không chỉ thế Nguyễn Tuân còn huy động những hiểu biết về những môn nghệ thuật gần gũi với văn chương như hội họa (“con sông Đà tuôn dài…”); điêu khắc có chỗ vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”…), ở những lĩnh vực rất xa văn chương, Nguyễn Tuân cũng rất hiểu biết và sử dụng rất linh hoạt qua đó tái hiện Đà giang ở nhiều góc độ khác nhau. Nguyễn Tuân đã sử dụng cả kiến thức võ thuật để dựng một thạch trận dòng sông: kiến thức thể thao khi miêu tả cuộc chiến đấu “các luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”… Nhờ những hiểu biết này, sông Đà đã hiện lên thật sinh động cụ thể, thật dữ dội cứng cỏi của võ thuật thật bay bổng của hội họa, văn chương… Nguyễn Tuân đã vươn tới văn chương chuẩn mực: trữ tình, sâu lắng mà chính xác, khoa học… Trong quá trình làm sống dậy dòng sông Đà, Nguyễn Tuân không chỉ thể hiện mình là người biết, mà còn rất ham hiểu biết, say sưa khám phá những lĩnh vực mới mẻ trong cuộc sống. Trong Lịch sử văn học, có lẽ chẳng có ai đủ kì công như nhà văn đất Thăng Long khi mấy lần bay qua dòng sông Đà chỉ để hạ bút viết mấy câu: đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân hay trên sông Đà… vì mỗi độ thu về”.
Với lòng yêu say tiếng mẹ đẻ, sự hiểu biết sâu sắc về sự biến đổi từng từ ngữ. Nguyễn Tuân đã trở thành thầy phù thủy ngôn từ với hàng trăm phép biến hòa mà mỗi phép biến hóa có công dụng lạ lùng mặc dù trong cuộc đời, nhà văn chỉ thừa nhận ông là “người viết văn bằng tiếng Việt” chứ không phải “nhà văn” hay bất cứ một danh hiệu cao quý nào khác. Trong tùy bút “Sông Đà” – ông đã dùng hết tài năng, vốn từ ngữ của mình tung ra trang giấy để tái hiện sự hung bạo của dòng sông cũng như vẻ đẹp trữ tình của một nhân lâu ngày lặp lại”. Với sự hiểu biết rộng rãi của mình, Nguyễn Tuân đi dùng từ ngữ trong nhiều lĩnh vực để tái hiện được hết tất cả những góc độ khác nhau của dòng sông. Có ngôn ngữ của điện ảnh (“Contre – plongée”); có võ thuật (“đánh khuýp quật vu hồi”); có cả từ ngữ về ô tô (“sang số nhấn ga” Những từ ngữ này mang đặc trưng của mỗi lĩnh vực nhưng đều tập trung thể hiện dòng sông Đà. Với cách sử dụng từ ngữ như thế, nhà văn đã đưa nhiều lĩnh vực tưởng xa với văn chương trở nên gần gũi đã tập trung thể hiện hình tượng văn học.
Trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” ta còn gặp rất nhiều phép so sánh liên tưởng thú vị và bất ngờ. Để diễn tả cảm giác lạnh lẽo khi ngồi trong khoang đò qua một quãng sông, Nguyễn Tuân đã “cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái lầu nhà thứ mây nào vừa tắt phụt đèn điện”. Có phép so sánh nào độc đáo và hiệu quả đến thế không ? Có những khi Nguyễn Tuân đã lấy lửa để so sánh với nước “thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Hình ảnh so sánh cùng nhịp câu văn ngắn, dồn dập tạo cảm giác sóng gió đang cuồn cuộn dâng trào… Phép so sánh “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa tập trung thể hiện lòng trân trọng giá trị văn hóa truyền thống, thể hiện lòng yêu say thiên nhiên tươi đẹp, đồng thời thể hiện một cách cảm nhận cuộc sống tươi sáng, trong ngần như pha lê của người chiến sĩ văn hóa.
Phân tích cái tôi của Nguyễn Tuân trong đoạn trích Người lái đò Sông Đà – Mẫu 4
Nhắc đến Nguyễn Tuân ta nhớ đến bậc thầy của ngôn ngữ văn chương. Người ta cũng nghĩ ngay đến hiện thân của chủ nghĩa “xê dịch”. Ham cái gọi là “xê dịch” ông cũng thường viết về những cái gì không đứng yên: xe cộ, tàu thuyền, những con người có máu giang hồ, thích ngao du đây đó. Ông cũng thích tả những cái gì mãnh liệt, dữ dội: đèo cao, vực sâu, biển rộng, gió bão, thác dữ và cả cái đẹp tuyệt đỉnh, tuyệt vời, đẹp làm lí trí của con người như tê dại. Đi nhiều, ông cũng là người gần gũi với thiên nhiên, yêu thiên nhiên tha thiết đồng thời cũng khám phá nhiều vẻ đẹp, nét đặc biệt của núi sông, cây cỏ trên nhiều miền đất nước. Tập bút ký Sông Đà và bài ký “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm như thế.
Sông Đà quả là một con sông vừa đẹp tuyệt vời vừa cực kì hung dữ. Tác giả gọi là “hung bạo và trữ tình”’: hung bạo là ở những đoạn có thác dữ, có những quãng hẹp kẹp giữa hai thành vách núi cao, hay những hút nước khủng khiếp chết người… Ở đây, sông Đà có “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù của con người: hung hãn, nham hiểm, xảo quyệt, độc ác… Trữ tình là ở những đoạn xuôi chèo êm ả. Dòng sông như một “áng tóc trữ tình”, nước sông thay màu sắc theo mùa rất đẹp, phong cảnh nên thơ, những con thuyền đuôi én đáo… về phương diện này, sông Đà trở thành nỗi nhớ và người bạn thân của con người, một “cố nhân” (tức người bạn cũ).
“Người lái đò sông Đà” thì được tập trung mô tả trong cuộc vật lộn với nước sông Đà. Một quang cảnh thật dữ dội. Đây là những cảnh tượng kích thích mạnh giác quan nghệ sĩ của Nguyễn Tuân, cảm hứng được khơi dậy, nhà bèn tung ra cả một kho ngôn từ phong phú và đầy giá trị tạo hình của mình diễn tả cho được mọi sắc thái, mọi hình thù, mọi bộ mặt, mọi âm thanh, tình huống phức tạp, oái oăm nhất của trận chiến đấu giữa ông lái đò trí dũng tuyệt vời và thác nước sông Đà hung hãn, đầy mưu mô xảo quyệt. Chỉ nói riêng về âm thanh của con thác đã thấy rõ ngôn từ phong phú của Nguyễn Tuân tiếng nước thác lúc như “oán trách” lúc như “van xin” lúc như “khiêu khí “giọng gằn mà chế nhạo”, rồi “rống lên như tiếng một ngàn con trâu đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa”… Còn hình ảnh ông lái đò “cố nén vết thương, hai chân kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo sệch đi”, “ lên thác”, “nắm chặt lấy được cái bờm sóng”, “ghì cương”, “phóng nhanh”, miết một đường chèo”, “rảo bơi chèo lên”, “đè sân lên mà chặt đôi” con thác…
Một nét phong cách khác của Nguyễn Tuân là thường quan sát, khám phá sự vật ở phương diện mĩ thuật và con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, sông Đà quả là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”. Màu sắc sông Đà mùa xuân là “dòng xanh ngọc bích”, mùa thu thì “lừ lừ chín đỏ” có lúc lại lên cái “màu tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt hạ Dương Châu”…
Còn ông lái đò sông Đà thì trở thành một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật vượt thác ghềnh, đã nắm chắc được “binh pháp của thần sông thần đá”, thuộc lòng các luồng sinh luồng tử của các con thác dữ nên chủ động trong mọi huống, có thể lái con thuyền vun vút qua hàng trăm ghềnh đá ngổn ngang, hiểm hóc… Nguyễn Tuân gọi thế là “tay lái ra hoa”.
Nguyễn Tuân còn là một cây bút rất mực tài hoa, lịch lãm. Mô tả mội tượng nào đấy, ông không chỉ vận dụng những hiểu biết về nghệ thuật văn chương mà còn kết hợp thích đáng những lợi thế của kĩ thuật khác như: hội họa, điêu khắc, âm nhạc, sân khấu, vũ đạo, điện ảnh. Bài kí Người lái đò sông Đà là một bằng chứng rất tiêu biểu của nét phong cách trên.
Chẳng hạn ông tả một cái hút khủng khiếp của sông Đà bằng kĩ thuật phim ảnh: “Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vạnh rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà. từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cái cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu ống quay tít, cái máy lia ngược (…) lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây tràn bằng nước sông xanh ve một áng thủy linh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem”.
Ở bài ký sông Đà này, Nguyễn Tuân còn vận dụng cả những nghệ thuật, kĩ thuật rất ít khi thấy được vận dụng trong văn chương: nghệ thuật quân sự và võ thuật. Nào là cửa sinh cửa tử, đánh khuýp vu hồi, đánh du kích, phục kích, đánh giáp lá cà, nào là đòn tỉa, đòn âm, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng… Ngoài ra ông còn vận dụng những tri thức của nhiều bộ môn khoa học trong tác phẩm của mình – một vốn văn hóa phong phú lịch lãm hiếm thấy – làm cho những bài kí của ông có giá trị văn hóa cao. Bài kí Người lái đò sông Đà nhờ thế đã giúp người đọc hiểu được rất nhiều điều bổ ích về lịch sử, địa lý sông Đà, về lịch sử cách mạng xung quanh con sông này, về địa hình địa thế của nó, về những con thác đủ loại, về các tài nguyên đất nước vùng sông Đà, về những bài thơ của Nguyễn Quang Bích, của Tản Đà…, về con sông ở miền Tây Tổ quốc này.
Chúng ta đều biết rằng Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách độc đáo, tài sử dụng ngôn ngữ đến mức điêu luyện. Đọc “Người lái đò sông Đà” ta cảm nhận rõ thêm sự sắc sảo của giác quan người nghệ sĩ bậc thầy và kho từ vựng giàu giá trị tạo hình, lối văn rất mực tài hoa. Bởi thế bài ký vừa có giá trị văn học vừa đem đến cho người đọc những thông tin thú vị về sông Đà, con sông ở vùng Tây bắc Tổ quốc.
Phân tích cái tôi của Nguyễn Tuân trong đoạn trích Người lái đò Sông Đà – Mẫu 5
Mỗi một nhà văn đều được coi như một loài hoa quý tỏa ngát hương thơm đặc biệt trong cánh rừng đại ngàn văn học. Nhà văn Nguyễn Tuân cũng vậy, ông đã đem lại hương thơm ngào ngạt cho nền văn học Việt Nam qua tác phẩm “Người lái đò sông Đà” bằng một “cái tôi” cá nhân riêng biệt bởi tình yêu thiên nhiên.
Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời săn tìm cái đẹp. Phong cách sáng tác của ông nổi bật ở sự ngông ngạo, khác người đó là sự phóng túng, tài hoa, uyên bác. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là kết quả của chuyến đi thực tế Nguyễn Tuân thu hoạch được khi đến với vùng Tây Bắc xa xôi. Qua tác phẩm, nhà văn đã thể hiện một “cái tôi” riêng biệt đó là “cái tôi” tài hoa, uyên bác và có ý thức, trách nhiệm sẵn sàng góp một phần chiến công của mình trên mặt trận xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Mở đầu tác phẩm, ta bắt gặp hình ảnh con sông Đà cá tính, ngạo nghễ chảy về hướng Bắc khắc hẳn so với những con sông khác. Đây cũng chính là đối tượng chính để nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ nét chấm phá riêng biệt của ngòi bút tài hoa, uyên bác. Cái “tôi” tài hoa, uyên bác thể hiện qua niềm say mê cái đẹp của Nguyễn Tuân trước vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, đất nước. Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông Đà ở nhiều vẻ đẹp khác nhau. Hung bạo là tính cách nổi bật nhất của sông Đà, nhà văn đã sử dụng kĩ xảo ngôn từ vận dụng kiến thức của các ngành khoa học khác nhau để tạo sự cảm nhận mang tính mới mẻ về sông Đà. Tác giả miêu tả và cảm nhận hình ảnh sông Đà để người đọc thấy được sự hùng vĩ ghê rợn của dòng sông. Sông Đà hung bạo, dữ dội ở cảnh thác đá và các trùng vi thạch trận. Thông qua miêu tả sự hung hiểm của thác đá, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên sự hùng vĩ, hung bạo của sông Đà. Đá bờ sông dựng “vách thành” gợi độ cao lên đến tận cùng và độ hẹp đến mức tối đa khi con nai, con hổ cũng có thể nhảy vọt từ bờ bên này qua bờ bên kia. Tác giả miêu tả dòng sông như một con thủy quái đáng sợ ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng, quãng Tà Mường Vát tàn bạo đến ghê gớm. Với sự tài hoa và tinh anh, nhà văn Nguyễn Tuân đã phát lộ thành tiếng nói nghệ thuật ở những trận thủy chiến trên mặt trận sông Đà. Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, nhà văn đã đặt dòng sông ở trận chiến với ông lái đò, nhà văn đã miêu tả từ sự hùng vĩ đến đáng gờm của dòng sông khi chúng huy động cả đá, nước thác hỗ trợ nhau để hạ gục ông lái đò. Sang đến trùng vi thạch trận thứ hai khi cửa tử nhiều hơn cửa sinh thì nhà văn đã miêu tả dòng sông trong thế đối lập với sự đơn độc của ông lái đò để làm nổi bật sự tài hoa của ông lái đò khi vượt qua thác đá an toàn. Sự hung bạo của dòng sông chưa dừng lại ở đó, sang đến trùng vi thạch trận thứ ba thì cả bên phải, bên trái đều là luồng chết cả. Để biến sông Đà thành con thủy quái hung tợn, Nguyễn Tuân đã tả một cách chi tiết, tỉ mỉ, gây cảm giác mạnh. Sông Đà hiện lên trong trạng thái vận động dưới trí tưởng tượng phong phú và khả năng quan sát tinh tường của nhà văn.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân thì dòng sông không chỉ nổi bật ở vẻ đẹp hung bạo mà nó còn rất đỗi thơ mộng trữ tình bởi một cái tôi yêu thiên nhiên sâu sắc. Sông Đà đã làm nên nét đẹp riêng biệt của vùng núi Tây Bắc, “con sông tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình”. Nhà văn đã so sánh dòng sông như một người con gái để làm mềm đi văn bản và vô cùng phù hợp với tình cảm, trạng thái của con người Việt Nam. Sông Đà trở nên thơ mộng bởi màu sắc của nước sông còn thay đổi theo từng mùa. Sông Đà còn gợi cảm như là một cố nhân, nó ánh lên vẻ đẹp màu sắc Đường thi, nó giống như một người bạn cố tri để nhà văn gặp được một mảnh tâm hồn mình. Ta có thể cảm nhận được hình ảnh sông Đà được gợi ở nhiều góc độ, dưới sự quan sát tường tận, am hiểu chi tiết của nhà văn. Khi mô tả về sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân đã sử dụng tinh hoa trong ngòi bút của mình, vận dụng kiến thức của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau để khắc họa về một dòng sông mạnh mẽ, dữ dội nhưng rất đỗi thơ mộng, trữ tình.
Cái “tôi” Nguyễn Tuân còn thể hiện qua việc phát hiện, ngợi ca vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ của con người lao động thông qua hình ảnh ông lái đò. Ông lái đò là một trong những hình tượng nghệ thuật đẹp trong trang văn của Nguyễn Tuân sau cách mạng Tháng Tám. Ông lái đò là một nhân vật đặc biệt hiển hiện giữa núi rừng Tây Bắc, bình thường, giản dị nhưng có sức mạnh phi thường. Ông lái đò có ngoại hình và tố chất đặc biệt bởi những phác họa về cái tay “lêu nghêu”, cái chân “khuỳnh khuỳnh”, giọng nói thì “ào ào” như tiếng nước trước mặt ghềnh. Chính hoàn cảnh sóng nước hung bạo đã khiến cho ông lái đò có ngoại hình và tố chất như vậy. Trước sự hung bạo của thiên nhiên, ông lái đò là người tài trí và rất mực dũng cảm. Ông có hiểu biết tường tận về tính nết của dòng sông, về quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở. Ông đã chỉ huy các cuộc vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan bằng cái nhìn từng trải mà không thiếu đi những nét lãng mạn. Đó cũng chính là quan niệm của nhà văn Nguyễn Tuân về người anh hùng, người anh hùng có ngay giữa cuộc sống đời thường, hiện diện trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên. Bởi vậy, ông lái đò chính là biểu tượng cho vẻ đẹp của con người lao động. Nhà văn đã thu thập hình tượng làm nên một vẻ đẹp khái quát về người anh hùng chinh phục thiên nhiên, ông lái đò mang vẻ đẹp sử thi, đời thường và là một người nghệ sĩ trên sông nước. Ông lái đò chính là hiện diện của “cái tôi” có ý thức, trách nhiệm đối với đất nước.
Qua tác phẩm, ta thấy được Nguyễn Tuân là một nhà văn vừa có tâm lại vừa có tài, nhà văn đã khẳng định vẻ đẹp có ở khắp mọi nơi trên mặt đất chứ không phải chỉ có ở những con người kiệt xuất như trước cách mạng Tháng Tám. Bằng ngôn từ điêu luyện và sự am hiểu tường tận về thiên nhiên, nhà văn Nguyễn Tuân đã phác họa thành công vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc.
“Người lái đò sông Đà” chính là một tuyệt bút của “cái tôi” Nguyễn Tuân. Nhà văn đã khám phá ra vẻ đẹp ẩn chứa bên trong dòng sông hung bạo và bên trong của con người bình thường. Khép lại trang sách, ta vẫn thấy vang vọng trong suy nghĩ một dòng sông dữ dội nhưng rất đỗi thơ mộng trữ tình và một con người tài ba giữa cảnh thác lũ của “cái tôi” Nguyễn Tuân.
Phân tích cái tôi của Nguyễn Tuân trong đoạn trích Người lái đò Sông Đà – Mẫu 6
Nguyễn Tuân là một cây bút tài hoa, lịch lãm “thông kim bác cổ”. Những trang viết của ông đem đến cho người đọc rất nhiều kiến thức: văn hóa, hội họa, điêu khắc, điện ảnh, quân sự, võ thuật và cả những thông tin khoa học. Tùy bút Người lái đò sông Đà làm sống dậy cảm nhận của người đọc về sông Đà như nó vốn có. Bài tùy bút ngoài việc đem lại những rung cảm thẩm mĩ còn giúp người đọc hiểu nhiều điều bổ ích về lịch sử, địa lí, địa thể, đặc biệt là những con thác đủ loại, những tài nguyên của đất nước những bài thơ về sông Đà của Nguyễn Quang Bích, Tản Đà, thơ Đường…
Những trang miêu tả thạch trận thủy quái sông Đà và nghệ thuật vượt thác của ông lái đò có giá trị tạo hình cao giống như một cuốn phim quay cận cảnh. Vốn từ ngữ quân sự phong phú được sử dụng điêu luyện lại xen vào những từ ngữ cổ (vu hồi, giao chiến, thanh la, đòn tỉa…) tạo cho người đọc cảm tưởng trận thủy chiến đã diễn ra từ muôn xưa đến nay. Phong cách Nguyễn Tuân bộc lộ qua tùy bút Người lái đò sông Đà ở cách nhìn, cách miêu tả thiên nhiên. Nguyễn Tuân thích cái độc đáo duy nhất, thích tô đậm cái phi thường, thích gây cho người đọc cảm giác choáng ngợp. Điều đó đã khiến ông tìm đến sông Đà. Sự dữ dội mãnh liệt và cái tuyệt mĩ, thơ mộng của sông Đà đã thu hút nhà văn.
Ngòi bút Nguyễn Tuân được thỏa sức tung hoành trong môi trường yêu thích của mình khiến cho nhiều lúc dường như ông quên mất độc giả. Ông chỉ biết có sông Đà và chú tâm vào mỗi việc đem tài hoa của mình ra làm cho sông Đà dậy sóng, dậy đá. Sông Đà cũng vậy, dường như chỉ một mực quấn vào câu văn Nguyễn Tuân mà vùng vẫy, reo cười. Với lối viết riết riêng, sông Đà đã trở thành sông Đà – Nguyễn Tuân. Sông Đà được vẽ lên bằng ngòi bút biến hóa tài tình độc đáo. Sông Đà – dữ dội, sông Đà – anh hùng ca, sông Đà – nên thơ. Bản chất sông Đà là vậy. Tài năng của nhà văn đã làm cho bản chất ấy sắc nhọn thêm. Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, sông Đà không phải là một cảnh trí thiên nhiên vô tri giác mà là một sinh thể sống động, một nhân vật đầy sức sống, có cá tính, có tâm trạng khá phức tạp.
Tác giả gọi đó là tính cách vừa “hung bạo” vừa “trữ tình”. Sông Đà “hung bạo” là sông Đà hiểm trở, dữ dội, nguy hiểm đến chết người với những đoạn bờ sông dựng thành vách cao vút, những thác nước hung dữ, “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”, “sẵn sàng quật ngửa bụng những thuyền đi qua”, với những hút nước “sâu như lòng giếng, nước xoáy tít ằng ặc có thể lôi tuột những bè gỗ lớn xuống tận đáy và đánh cho tan xác”… Nguyễn Tuân đã dùng ngòi bút trăm màu để miêu tả hàng loạt những hình ảnh khác nhau vừa có tính trí tuệ vừa có tính tạo hình vượt xa những thủ pháp nhân hóa thông thường. Cái dữ dội của con sông Đà trở nên môi trường anh hùng ca hoàn toàn độc đáo. Sông Đà cũng là con sông đạt đến mức trữ tình tuyệt vời.
Dưới con mắt khám phá sự vật ở phương diện mĩ thuật, Nguyễn Tuân nhìn dòng sông Đà như một công trình nghệ thuật thiên thạo tạo tuyệt vời. Sông Đà như một “áng tóc trữ tình tuôn dài mà đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo”. Nguyễn Tuân nhìn dòng sông Đà và truyền cho độc giả nhìn nó qua làn mây mùa xuân, ánh nắng mùa thu, chăm chú theo dõi những biến đổi sắc màu của nó khi thì “xanh màu ngọc bích”, khi thì “lừ lừ chín đỏ”. Ông phát hiện ra sự phong phú của chất thơ ở vẻ đẹp sông Đà lúc như “nỗi niềm cổ tích”, lúc “lóe sáng ánh sáng tháng ba Đường thi”, lúc như “người tình nhân chưa quen biết”. Nguyễn Tuân luôn nhìn và miêu tả con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Nếu như trước Cách mạng, Nguyễn Tuân nhìn những con người tài hoa nghệ sĩ chỉ ở một số ít người thì sau Cách mạng, họ được ông nhìn thấy trên mọi lĩnh vực đời sống.
Những trang viết của nhà văn đem đến cho người đọc niềm tự hào, chúng ta không chỉ là con em của một dân tộc cần cù trong lao động, dũng cảm trong chiến đấu mà còn là con em của một dân tộc tài hoa – nghệ sĩ. Người lái đò dưới con mắt Nguyễn Tuân được xem như một nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác sông Đà. Tài nghệ của người lái đò là nắm chắc được quy luật của dòng nước sông Đà, thuộc lòng các luồng sinh, luồng tử của những con thác dữ. Người lái đò thực hiện nghề nghiệp của mình một cách tuyệt vời, đạt đến trình độ nghệ sĩ tinh vi, nghệ thuật cao cường, một tay lái “ra hoa”. Quy luật của thác nước sông Đà là một quy luật hết sức khắc nghiệt. Một chút thiếu chính xác, một tích tắc thiếu bình tĩnh, lóa mắt, lỡ tay là phải trả giá bằng sinh mạng của mình. Trong cuộc vượt thác, ông đò như một lão tướng dày dặn kinh nghiệm. Trận địa thủy chiến được bố trí sẵn với những cạm bẫy, với những vòng vây, hết vòng vây này đến vòng vây khác, mỗi vòng đều có những viên tướng đá nham hiểm, quái ác chờ sẵn.
Hình ảnh ông lái đò “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái”, mặt méo bệch đi mà vẫn “cưỡi lên con sóng, nắm chắc lấy bờm sóng ghì cương đè sấn lên và chặt đôi con thác” quả là một thiên anh hùng ca, là cả một pho nghệ thuật tuyệt vời. Phong cách Nguyễn Tuân còn được biểu hiện đặc sắc qua nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Có người nói: đọc văn Nguyễn Tuân như soi kính trăm màu. Nguyễn Tuân đi sâu tìm hiểu, khám phá sự vật, nắm bắt cho được cái cốt lõi, cái tinh túy, cái thần thái của nó rồi kết hợp với cảm xúc chủ quan, uyên bác giàu chất trí tuệ và chất trữ tình, diễn đạt, thể hiện dưới những hình thức ngôn ngữ sáng tạo độc đáo rất Nguyễn Tuân. Khi ông miêu tả, sự vật hiện lên với đầy đủ “khí chất” của nó thì văn mới hết “chất Nguyễn”. Ngược lại, văn ông càng bộc lộ hết “chất Nguyễn” thì sự vật càng nổi hình nổi nét, cựa quậy xôn xao.
Đọc một đoạn văn khá dài miêu tả cảnh sông Đà “bày thạch trận để đòi ăn chết cái thuyền” nhưng rồi phải thu sự chèo chống tài ba, dũng cảm của người lái đò, ta đâu chỉ thấy sông Đà “quẫy sóng” mà còn thấy câu văn “quẫy sóng” sảng khoái vô cùng. Biết bao thách thức trong cảnh này, thách thức với người lái đò và thách thức với cả nhà văn. Liệu nhà văn có đủ tài nghệ, đủ chữ nghĩa để bắt sông Đà hiện lên với tất cả sự bạo liệt của nói:? Liệu nhà văn có đủ tài nghệ miêu tả nghệ thuật siêu phàm của người lái đò trong cuộc vượt thác? Nguyễn Tuân đã vượt lên được thách thức ấy. “Thạch trận vừa bày xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đối phương. Hòn đá bệ vệ, oai phong, lẫm liệt. Một hòn trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì cứ tiến gần vào”.
Nguyễn Tuân đã lột tả được cái lì lợm, nham hiểm của những “viên tướng đá”, cái âm thanh hung bạo của tiếng thác và sự dữ dội của nước thác đá trong việc uy hiếp con người. Ông lái đò đã vượt qua được thác, văn Nguyễn Tuân cũng vượt qua được thách thức. Phải là một cây bút tài hoa như Nguyễn Tuân mới làm sống dậy được thác nước sông Đà và bộc lộ được một tay lái “ra hoa” trên những con thác hung dữ và bạo liệt. Với Nguyễn Tuân, ngôn ngữ nghệ thuật vừa là phương tiện vừa là cứu cánh của người nghệ sĩ. Qua bàn tay Nguyễn Tuân, tiếng Việt như một khối vuông ru bích biến hóa liên tục và dậy lên sắc màu nghệ thuật. Miêu tả âm thanh những thác nước sông Đà, Nguyễn Tuân thấy “tiếng thác nước lúc như than vãn oán trách”, lúc như “van xin”, lúc “khiêu khích chế nhạo”, lúc “rống lên như tiếng ngàn con trâu mộng”… Với Nguyễn Tuân, ngôn ngữ thực sự là một đối tượng thẩm mĩ không thể thiếu trong văn phẩm của mình. Ông sử dụng ngôn ngữ như một nghệ sĩ xiếc điêu luyện, thuần thục.
Nguyễn Tuân quả là một nghệ sĩ xiếc của ngôn từ. Đoạn miêu tả cuộc giao tranh giữa thác dữ với người lái đò là một đoạn tiêu biểu. Nguyễn Tuân say sưa hăm hở khoe hết sự tài hoa uyên bác và muốn dốc cả vốn từ vựng giàu có của mình để ganh đua với tạo vật. Nhà văn đã tạo cho con sông Đà tính cách của một loài thủy quái hung ác và nham hiểm. Ông dùng ngôn ngữ để dựng dậy và thổi sống những hòn đá vô tri vô giác, có hòn “bệ vệ oai phong”, có hòn “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm méo mó”, có hòn “trông nghiêng như hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”, có hòn “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”… Nguyễn Tuân đã ném vào cuộc giao tranh giữa người với thiên nhiên bao nhiêu chữ nghĩa góc cạnh, đem lại cho người đọc những liên tưởng độc đáo, chính xác.
Tác phẩm của Nguyễn Tuân thường gây cảm giác mãnh liệt, nâng cảm xúc của người đọc khi tiếp cận với sự vật được miêu tả để thưởng thức những cảnh trí hoặc dữ dội khủng khiếp hoặc thơ mộng, tuyệt mĩ, hoặc cái tài hoa phải đạt đến trình độ siêu phàm không gì sánh kịp. Phong cách Nguyễn Tuân vừa độc đáo vừa phong phú. Với Người lái đò sông Đà, phong cách nhà văn thể hiện rõ nhất ở sự sắc nhọn của giác quan nghệ sĩ đi với một kho chữ nghĩa giàu có và đầy màu sắc, góc cạnh. Bài tùy bút Người lái đò sông Đà cũng thể hiện một Nguyễn Tuân với vốn văn hóa phong phú, lịch lãm, một Nguyễn Tuân tài hoa với con mắt của nhiều ngành nghệ thuật.
Phong cách Nguyễn Tuân đã mang lại cho tác phẩm những giá trị độc đáo: vừa có giá trị văn học vừa có giá trị văn hóa vừa có giá trị thông tin, đồng thời giúp người đọc thêm yêu cảnh trí thiên nhiên đất nước, tự hào về những người lao động tài hoa và thêm quí, thêm yêu sự giàu đẹp của tiếng Việt.
Phân tích cái tôi của Nguyễn Tuân trong đoạn trích Người lái đò Sông Đà – Mẫu 7
Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ. Đối với ông, văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật, và đã là nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo. Đúng vậy! Với phong cách tự do phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân, Nguyễn Tuân đã tìm đến tùy bút như một điều tất yếu. Sức hấp dẫn của tùy bút xét đến cùng tùy thuộc vào cái tôi của người cầm bút có thực sự độc đáo, phong phú và tài hoa hay không. Điều ấy nói rằng không phải ai cũng trở thành bậc thầy như Nguyễn Tuân. Chỉ cần một văn phẩm “Người lái đò sông Đà” đã có thể tôn vinh Nguyễn Tuân là một cây tùy bút độc đáo, tài hoa, uyên bác.
Những năm tháng đến với Tây Bắc là ông đi tìm “thứ vàng mười đã được thử lửa”, “chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc” để hát ca về thiên nhiên đất nước, những con người đang ngày đêm thầm lặng trong gian lao vất vả để dựng xây cuộc sống mới ở vùng cao heo hút này.
Tập Tùy bút Sông Đà nói chung và Người lái đò sông Đà nói riêng là bức tranh sinh động về thiên nhiên và cuộc sống của người nơi đây, mang đậm cảm hứng lãng mạn trong sáng và thể hiện rất rõ phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân.
Nét độc đáo, tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân trước hết ở tiếp cận và khai thác đối tượng từ nhiều phương tiện thẩm mỹ, văn hóa. Mở đầu tác phẩm, dòng sông Đà được miêu tả như một công trình mỹ thuật tuyệt vời của hóa công. Con người lao động trên dòng sông thật giản dị, nghèo khó, cần cù nhưng được nhà văn xây dựng như một tài hoa, nghệ sĩ trí, dũng tuyệt vời trong nghề chèo đò vượt thác.
Sau mỗi chuyến đi hiểm nguy, gian lao nhưng ông vẫn bình thản. Mọi hiểm nguy xèo xèo như bọt nước tan trong trí nhớ. Sông Đà chỉ như một chiếc lá thu, và ông đến với nó như đến với một người bạn lắm chứng nhiều tật mà vẫn phải ăn đời ở kiếp. Lao động thật gian nan nhưng tâm hồn người lái đò cũng thật lãng mạn, quả là một nghệ sĩ tài hoa trong nghề chèo đò vượt thác.
Nguyễn Tuân không ưa cái nhìn bằng phẳng, nhợt nhạt, yên ổn. Ông là nhà văn của tính cách phi thường, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cách tuyệt mĩ, của gió, bão, núi cao rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội…Vì vậy ông soi chiếu đối tượng ở nhiều phương diện. mang đến cho người đọc lượng thông tin phong phú, chính xác và thú vị. sử dụng bút pháp của hội họa, âm nhạc, điện ảnh, điêu khắc huy động vốn kiến thức của nhiều lĩnh vực khác nhau như: địa lý, lịch sử, võ thuật, quân sự.
Ông xoay ngắm một dáng sông, dựng nó dậy như một cơ thể sống biết gào thét, lồng lộn trên từng hàng chữ thật kì thú. Và hình ảnh ông lái đò như một dũng tướng gan dạ, mưu trí, quyết liệt. Tay luôn giữ chặt mái chèo, chân kẹp chặt cuống lái, ông nhớ từng cử sinh để điều khiển chiếc thuyền.
Nguyễn Tuân dùng sức mạnh điêu luyện của ngôn ngữ truyền hồn sống vào từng khối đá linh động, biến chúng thành bầy thạch tinh hung hãn trong cuộc giao tranh với con người. Tả về thiên nhiên dữ dội, khủng khiếp cũng chỉ để tôn vinh sức mạnh, lòng quả cảm, sự kì vĩ của con người trong cuộc chinh phục thiên nhiên, đồng thời đem lại cho người đọc những cảm giác thẩm mỹ mới mẻ.
Người lái đò sông Đà đã đạt tới trình độ nghệ thuật bậc thầy về thể loại tùy bút, ở đó, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ một cái tôi độc đáo, tài hoa, uyên bác và phóng túng. Ông đã mang đến cho người đọc những trang văn thấm đẫm một vẻ đẹp tinh khôi mơn mởn, căng tràn nhựa sống của thiên nhiên. Vẻ đẹp ngôn ngữ trong trang văn như thôi miên người đọc vào mê cung của cảnh vật sông Đà đẹp đến mê hồn và những con người lao động bình dị trên sông nước.
Phân tích cái tôi của Nguyễn Tuân trong đoạn trích Người lái đò Sông Đà – Mẫu 8
Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa, đối với sự nghiệp văn chương ông có những nét đặc sắc tiêu biểu mà không phải người nghệ sĩ nào cũng có đó là những vẻ đẹp trong phong cách nghệ thuật nó riêng biệt và độc đáo tiêu biểu trong phong cách sáng tác của ông tiêu biểu nó thể hiện qua bài Người lái đò sông Đà.
Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa và cả đời của ông luôn phấn đấu để đi tìm những điểm riêng biệt và những cái đẹp trong phong cách nghệ thuật của mình. Trong bài tùy bút Người lái đò sông Đà ông đã thể hiện rõ được những điều đó, bởi đây là bài mà ông rất tâm huyết và ông đã dùng chính tài năng và phẩm hạnh của mình để sáng tác lên những tác phẩm đậm chất bi tráng này, dòng sông của người lái đò là dòng sông mà ông đã quan sát và ông có cái nhìn sâu sắc về nó, nó không chỉ là một dòng sông biểu hiện cho sức mạnh mẽ của con người mà đó là dòng sông của minh chứng lịch sử. Với tài năng nghệ thuật độc đáo riêng biệt ông đã tạo nên cho mình những sáng tác riêng và đó là những sáng tác cổ xưa và mang bao dấu ấn mạnh mẽ tác giả không chỉ dừng chân ở đây để có những quan sát thấu đáo mà ông đã dùng những cảm xúc thật của mình để viết lên bài thơ này.
Hình ảnh của người lái đò sông Đà đã được thể hiện rất sinh động qua phong cách nghệ thuật của ông, ông đã dùng những sáng tạo nghệ thuật đó để áp vào cho những con người ở nơi đây, hình ảnh về dòng sông của quê hương đất nước đã tạo nên những dấu ấn mạnh mẽ trong lòng tác giả, ông đang thể hiện những điều đó rất nổi bật trong cách sáng tác của chính mình. Hình ảnh về dòng sông của quê hương đã tạo cho ông cảm hứng để viết lên bài tùy bút hay như thế này. Tác giả có cách tạo ấn tượng rất đặc sắc qua cách giới thiệu về dòng sông nó đã tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ cho người nghe, tác giả không khỏi hình dung ra những chi tiết đặc sắc khác thể hiện trong tác phẩm này. Hình ảnh về dòng sông nó mang những tính cách của con người. Dòng sông cũng có lúc hung bạo và cũng có lúc trữ tình nó đã làm xoay chuyển mọi tính cách qua những hoàn cảnh khác nhau, hình ảnh về dòng sông cũng giống như về con người, tác giả đã miêu tả và quan sát dòng sông qua những tính cách điển hình và tiêu biểu đó. Trong bài tùy bút tác giả đã thể hiện hàng loạt những chi tiết thể hiện dòng sông hung bạo đó là có những vách đá ngăn thành chết lòng sông Đà như một cái yết hầu.
Và hàng loạt các chi tiết khác cũng thể hiện rõ điều đó dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn, các chi tiết như ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre đã thể hiện được hình ảnh về dòng sông quê hương đất nước. Tác giả đã dùng tài năng của mình để sáng tác lên những hình ảnh hay và sinh động như vậy, hình ảnh đó thật mang dại và chính với khả năng và tài năng của mình ông đã vẻ lên một hình ảnh về dòng sông với vẻ đẹp thật hùng vĩ, với cách so sánh sinh động đã tạo nên cho ông một bài tùy bút hay và nó để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Với cách so sánh hợp tình và hợp lý như vậy hình ảnh về dòng sông cũng đã thể hiện rất chi tiết và đặc sắc nó mang ấn tượng cho người đọc, bởi hàng loạt những hình ảnh tạo ấn tượng riêng biệt, hình ảnh về quê hương của chúng ta đã hiện lên những hình ảnh đẹp và ngày càng thu hút mạnh mẽ tầm quan sát của người đọc, những hình ảnh trên cũng đã mang cho người đọc những cái nhìn sâu rộng và nó trở thành một niềm tin sáng lóe trong cái nhìn của tác giả về chính sản phẩm mà ông đã tạo ra.
Ông là một người có những trí tưởng tượng cũng vô cùng phong phú, cũng có lúc ông đã sử dụng những hình ảnh kỹ thuật của điện ảnh của âm thanh hội họa để thể hiện được những chi tiết tiêu biểu qua tác phẩm này, ông cũng nhân hóa những hình ảnh của dòng sông để miêu tả và có thể cảm nhận được tính cách hung bạo của dòng sông đó, hình ảnh về dòng sông nó mang những dấu ấn mạnh mẽ trong cách sáng tác của tác giả, những thác gập ghềnh và nó mang cho chúng ta cái nhìn sâu sắc hơn về những hình ảnh đó, hình ảnh của dòng sông Đà đã được tác giả thể hiện sinh động và vô cùng ấn tượng cho người đọc, nó không chỉ mạnh mẽ trong đường khối mà nó cũng đã tạo nên những tính cách khác cho người đọc, hình ảnh của dòng sông đã tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ trong lòng tác giả bởi tính cách và những nét riêng biệt mạnh mẽ.
Những hình ảnh về một dòng sông hoang dại và hung dữ cũng đã được thể hiện sâu sắc trong nhà văn, ông đã dùng tài năng của mình để nói về những hình ảnh đó, cảm xúc của nhà văn cũng thật sâu sắc và sinh động khi ông nói về cảm xúc của chính mình và dòng sông đó đã mang lại. Và chúng ta nhìn thấy tài năng của tác giả được thể hiện mạnh mẽ trong đó, Nguyễn Tuân đã ca ngợi dòng sông này và nó hiện lên thật độc đáo và sinh động, tính cách của dòng sông đó là dòng sông trữ tình và yêu thương nó đã hiện hữu trong con người của tác giả. Hình ảnh của dòng sông hiền hòa cũng được tác giả thể hiện sâu sắc trong bài tùy bút này, dòng sông được tác giả miêu tả như người con gái có mái tóc dài, màu sắc cũng được thay đổi đặc sắc trong bài thơ, với những nét phong phú và đặc sắc của bài thơ tác giả đã thể hiện được những chi tiết đặc sắc và mang những dấu ấn mạnh mẽ trong lòng của tác giả.
Nghệ thuật xây dựng hình tượng người lái đò của Nguyễn Tuân đã điển hình và nó thể hiện những không khí hào hùng và man dại trong cái nhìn của nhà văn, Nguyễn Tuân là nhà văn đã biết tạo lên hình tượng của dòng sông qua những chi tiết thật và không khí hiện lên cùng man rợ và có những ấn tượng sâu sắc và vang nhộn. Hình ảnh về một dòng sông có những chi tiết rất đặc sắc và nó đúng với không khí và chi tiết mà tác giả đã và đang sử dụng ở đây. Với cái nhìn đầy thiện cảm và nó đã tạo nên những sâu sắc riêng trong con mắt nhìn của tác giả về cái nhìn và cách quan sát của tác giả cũng thật toàn diện nó mang những dấu ấn mạnh mẽ và trang nghiêm, những chi tiết tuyệt vời mà tác giả thể hiện trong tác phẩm này là tác giả đã miêu tả rõ ràng và chi tiết và hình tượng tiêu biểu của tác giả về những hình ảnh đó, hình ảnh về quê hương và với tình yêu quê hương thắm thiết đã tạo nên cho tác giả cái nhìn sâu sắc hơn, ông đã miêu tả dòng sông qua con mắt thấu đáo của mình.
Với tài năng và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ ông đã thể hiện rất nhiều những câu văn nhẹ nhàng và nó đã thể hiện một tình cảm đặc biệt của tác giả đối với dòng sông Đà, dưới ngòi bút thần của tác giả thì hình ảnh đó trở lên thật mỹ lệ và không có gì sánh bằng. Hình ảnh về thiên nhiên cũng được tác giả thể hiện sinh động và hình ảnh về người lái đò sông đà cũng được thể hiện rất chi tiết và đặc sắc nhà văn đã ví thiên nhiên Tây Bắc như một thứ vàng mười, và nó thật quý giá trong con mắt nhìn người và cách quan sát của tác giả về những chi tiết nổi bật đó.
Với tài năng và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của mình thì nó đã mang cho tác giả một cái nhìn toàn diện hơn về phong cách sáng tác của nhà văn, nhà văn không chỉ mang một vẻ đẹp của người nghệ sĩ tài hoa mà ông còn mang những vẻ đẹp của một người có cái nhìn đời sâu sắc.
Phân tích cái tôi của Nguyễn Tuân trong đoạn trích Người lái đò Sông Đà – Mẫu 9
Người lái đò Sông Đà trích trong tập tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân, sáng tác năm 1960. Đây là kết quả chuyến đi thực tế của tác giả ở Tây Bắc năm 1958. Phong cách, con người Tây Bắc đã đi vào trang sách với một niềm vui sống bao trùm lên tất cả, xen lẫn những cảm tưởng và xúc cảm trữ tình trước vẻ đẹp kì vĩ, lạ lùng của non sống Tây Bắc.
Tác phẩm lấy người lái đò làm nhân vật chủ thể của câu chuyện về Sông Đà nhưng thực chất là cảm nghĩ, nghe nhìn, quan sát, nghiền ngẫm và sáng tạo của Nguyễn Tuân. Mượn lời ông lái đò già nhưng chính là tác giả miêu tả con sống từ nhiều góc độ khác nhau, qua đó bộc lộ tâm tư tình cảm của mình đối với con sông đại diện cho thiên nhiên và con người Tây Bắc.
Với lối viết của Nguyễn Tuân, Sông Đà đã trở thành Sông Đà – Nguyễn Tuân. Đó là con sông có độ dày lịch sử, tạo ra những con người anh hùng của riêng nó. Sông Đà được vẽ nên bằng ngòi bút biến hóa tài tình, độc đáo, thể hiện sự gắn bó với đất nước đến mức sâu xa nhất của tâm hồn tác giả.
Sông Đà dữ, Sông Đà anh hùng ca, bản chất của Sông Đà là vậy. Tài ba của nhà văn càng làm cho bản chất ấy nổi bật lên. Sông Đà hung bạo ở những đoạn có thác dữ, những quãng lòng sông hẹp, bị kẹp giữa hai vách núi cao hay những chỗ có xoáy nước khủng khiếp, hút tất cả những gì sa vào đó và dìm xuống đáy sông.
Ở đoạn này có nhiều chi tiết chính xác, khoa học xen lẫn cảm xúc dạt dào tính trữ tình của tác giả. Sông Đà khi thì dữ dội, nguy hiểm trong cái hùng vĩ không ngờ: nào là chét lại thành cái yết hầu, nào là vách đá dựng đứng cao vút, đúng ngọ mới thấy mặt giời… mùa hè vẫn lạnh… Khi thì pha chút huyền thoại trong những nét nên thơ như con nai, con hổ vọt từ bờ này sang bờ kia, tưởng như lòng sông chỉ còn là dải yếm trong ca dao xưa.
Cái gì của Sông Đà cũng dữ. Cát, gió, đá, thác ghềnh, sóng nước phối hợp với nhau : Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió và gió cứ cuồn cuộn từng luồng. Chỉ nghe tiếng nước ở những quãng lắm thác cũng đã đủ ghê người. Tiếng reo của nước lúc nghe như là oán trách, rồi lại như là van xin, rồi lại là như khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo… Rồi bỗng dưng không biết chuyện gì mà nó rống lên như một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn. Hoặc có lúc nó reo như đun sôi lên một trăm độ muốn hất tung đi một cái thuyền đang phải đóng vai một cái nắp ấm một ấm nước sôi khổng lồ. Nhưng không đâu tiếng nước nghe lạ như ở những cái hút xoáy. Ở đó nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.
Tiếng nước đã ghê, sức nước còn đáng sợ gấp bội. Mặt sóng cũng có ổ gà như mặt đường kạn, đi vào ổ gà sống là thuyền bị giật xuống bị trồi lên. Thuyền đi vào luồng nước thì chết ngay, hoặc đi không trúng tim luồng thì cũng vẫn có thể là thập tử nhất sinh. Những quãng hiểm trở của Sông Đà mang diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một của con người: hung hãn, nham hiểm và xảo quyệt.
Sông Đà dữ quả là không sai với tiếng đồn. Cát, đá, nước, gió, sóng hùa nhau bẫy người vào chỗ chết. Nguyễn Tuân đã dùng ngòi bút trăm màu để miêu tả hàng loạt những hình ảnh khác nhau mà luôn luôn đắc sách, vừa có chất trí tuệ vừa có tính tạo hình, vượt xa những thủ pháp mà người ta quen gọi là nhân hóa, đi vào bản chất sâu xa nhất, độc đáo nhất của sự vật, tạo thành những trang viết biến hóa khôn lường. Do thế mà cái dữ dội của Sông Đà trở nên môi trường anh hùng ca vô cùng độc đáo.
Sông Đà dữ dội nhưng Sông Đà cũng rất trữ tình. Đó là ở những đoạn xuôi chèo êm ả. Nhìn từ máy bay xuống, Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.
Nước Sông Đà màu sắc thay đổi theo mùa: Mùa xuân dòng xanh ngọc bích,… mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ. Trên sông, những chiếc thuyền then đuôi én xuôi dòng, tạo cho sông vẻ thơ mộng riêng của nó. Là sông mà nó nói với con người bao điều. Nguyễn Tuân nhìn Sông Đà như nhìn một cố nhân, một người thân cũ lâu ngày gặp lại. Nhà văn say mê ngắm màu nắng giòn tan vàng như hổ phách trên sông mà chợt liên tưởng tới màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu” trong bài thơ Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng của thi hào Lý Bạch đời Đường bên Trung Quốc.
Bên trên là thái độ đối với Sông Đà, còn đây là tình cảm của tác giả đối với con người, sản phẩm của dòng sông ấy. Ông lái đò là sản phẩm của Sông Đà được tác giả tập trung mô tả trong cuộc vật lộn với thác nước Sông Đà. Cái dữ dội của Sông Đà đã có ông lái trị được. Hình ảnh ông lái đò: cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái, mặt méo bệch đi mà vẫn cưỡi lên con thác, nắm chặt lấy bờm sóng, ghì cương, đè sấn lên mà chặt đôi con thác… rất sinh động và ấn tượng.
Lên thác phải chống bằng sào. Trên vai người lái đò, đầu sào in vào một khoanh bầm, đó là hình ảnh thực. Tác giả bình thêm: Cái đồng tiền tụ máu cũng là cái hình ảnh quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng tặng cho người lái đò Sông Đà. Con người dũng cảm, thông minh đã chiến thắng được thiên nhiên dữ dội. Ở người lái đò này, có cái gì mà không in dấu con sông, không là sản phẩm của Sông Đà? Sông Đà đối với ông lái đò quả là một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm câu và những đoạn xuống dòng, ông lái đò đã trở thành một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật vượt thác ghềnh. Nguyễn Tuân gọi tài nghệ của ông là tay lái ra hoa.
Đọc văn Nguyễn Tuân, nhất là tùy bút, có người cho rằng như soi trong Ống kính trăm màu. Thực ra, ngòi bút tác giả không chỉ bảy màu mà trăm ngàn màu sắc. Nguyễn Tuân đi rất sâu vào bản chất của sự vật, sự việc, con người để tìm hiểu, khám phá và nắm bắt kì được cái cốt lõi, tinh túy, cái hồn của nó. Đồng thời có sự kết hợp giữa trình độ hiểu biết uyên bác, tác phong làm việc nhanh nhạy, tỉ mỉ, khoa học, giàu chất trí tuệ và cảm xúc đậm đà chất trữ tình được thể hiện dưới những hình thức ngôn ngữ sáng tạo rất độc đáo, rất Nguyễn Tuân, không thể lẫn với bất kì ai khác.
Tùy bút Sông Đà phần nào chứng tỏ bút lực già dặn cùng phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân – cây đại thụ của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
*****
Trên đây là 9 bài mẫu Phân tích cái tôi của Nguyễn Tuân trong đoạn trích Người lái đò Sông Đà lớp 12 ngắn gọn hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình với điểm số cao nhất.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học tập
- Cảm nhận của anh (chị) về vùng đất và con người miền cực nam của Tổ quốc qua truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh Hạ lớp 12 (9 Mẫu)
- Anh (chị) hãy bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra” lớp 12 (10 Mẫu)
- Buy-phông, nhà văn Pháp nổi tiếng, có viết: “Phong cách chính là người”. Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? lớp 12 (12 Mẫu)
- Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên lớp 12 (7 Mẫu)
- Viết bài văn trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận, theo chủ đề: một tác phẩm văn học mới ra đời và đáng được nhiều người quan tâm bàn luận lớp 12
- Viết bài văn nghị luận trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận khác nhau lớp 12 (3 Mẫu)