Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ lớp 12 ngắn gọn bao gồm dàn ý chi tiết cùng 9 bài mẫu hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp từ các bài văn đạt điểm cao trên toàn quốc. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các bạn tham khảo để từ đó hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình
Đề bài: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
Dàn ý Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ lớp 12
Dàn ý Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Số 1
a. Mở bài
Bạn đang xem: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ ngắn gọn, hay nhất (9 Mẫu)
– Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm:
- Tô Hoài là một trong những cây đại thụ của nền văn học Việt Nam hiện đại với hơn 70 năm cầm bút với một gia tài văn học đồ sộ để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả nhiều thế hệ.
- Vợ chồng A Phủ là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952 kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo là Mị và A Phủ.
– Dẫn dắt vấn đề nghị luận: Thông qua cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ, “Vợ chồng A Phủ” đã thể hiện những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc thể hiện góc nhìn tinh tế và nhạy bén, cũng như tấm lòng của nhà văn hướng về con người và cuộc đời.
b. Thân bài
* Luận điểm 1: Khái quát về giá trị hiện thực
– Giá trị hiện thực là bức tranh đời sống hiện thực được nhà văn phản ánh trong tác phẩm của mình, tuỳ vào ý đồ sáng tạo mà hiện tượng đó có thể đồng nhất với thực tại cuộc sống hoặc có sự khúc xạ ở những mức độ khác nhau.
*Luận điểm 2: Nêu và phân tích giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ.
– Bức tranh đời sống thống khổ, bị bóc lột của người nông dân miền núi trước cách mạng tháng Tám
*Nhân vật Mị:
– Trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra vì món nợ truyền đời truyền kiếp của cha mẹ
– Gọi là con dâu nhưng lại là kiếp con dâu gạt nợ, làm việc quần quật không được nghỉ ngơi
– Nơi ở chỉ là một căn buồng nhỏ kín mít, có duy nhất một “chiếc cửa sổ một lỗ vuông mờ mờ trăng trắng”
– Bị đày đọa về tinh thần, bị đối xử như con ở
– Bị đem đi cúng trình ma rồi nên không dám bỏ trốn
=> Cuộc sống không khác gì địa ngục, bị áp bức, bóc lột, bị tha hóa, thay đổi, trở thành nô lệ, tê liệt cảm xúc, như một cái xác không hồn.
*Nhân vật A Phủ
– Trở thành con ở, bị đọa đày về thân xác, làm hết việc này đến việc khác, đều là những việc vô cùng nguy hiểm.
– Vì vô ý làm mất bò mà bị chửi là quân ăn cướp, bị trói, đào hố chôn cọc. -> Sự vô lí của giai cấp thống trị.
– Chế độ phong kiến miền núi tàn bạo độc ác:
Đám cha con thống lí Pá Tra, A Sử và đám tay sai của chúng:
- Cho dân vay nặng lãi, cúng trình ma để hù dọa người dân, mỗi năm lãi càng thêm nhiều. Dẫu đánh A Sử có lí do chính đáng nhưng người sai vẫn là A Phủ, phải chịu hình phạt nặng nề và xử kiện một cách oan uổng.
- A Phủ bị nhà thống lí khiêng mang về, trói và ném giữa nhà không khác gì đối xử với một con vật.
- Hình ảnh phiên tòa: Suốt đêm chỉ nghe thấy tiếng mắng chửi, hình ảnh hút thuốc phiện, không được thanh minh giải thích, bị quy chụp cho cái mũ tội lỗi.
- Cảnh hút thuốc phiện, hành hạ A Phủ, trói, đánh đập Mị… của bố con thống lí
– Những phong tục tập quán, hủ tục của người miền núi vùng Tây Bắc: cúng trình ma,…
c, Kết bài
– Khái quát giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
– Cảm nhận của em.
Dàn ý Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Số 2
a. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nội dung cần phân tích.
b. Thân bài:
* Bức tranh về cuộc sống bị áp bức, chà đạp tàn bạo của những người nông dân thấp cổ bé họng:
– Mị và A Phủ là những nạn nhân đáng thương của chế độ phong kiến miền núi, bị chà đạp, áp bức, tước đoạt tự do.
– Bi kịch của Mị:
- Làm con dâu gán nợ, để tận hiếu với cha, đau đớn đến độ muốn chọn cái chết bằng nắm lá ngón, Mị cũng không thể toại nguyện.
- Chai lì hết mọi xúc cảm và khao khát tự do, biến thành một con người lầm lũi như con rùa trong xó cửa.
- Đời sống tinh thần Mị cũng phải gánh chịu nhiều giày vò phải sống với người mình không yêu là A Sử, bị đánh đập và đối xử tàn nhẫn, dã man.
- Cuộc sống của Mị bị vây trong một căn buồng tối có duy nhất một ô cửa bé bằng bàn tay mà “lúc nào cũng thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”.
=> Tuyệt vọng nghĩ rồi cô sẽ sống ở căn phòng tối tăm này cho đến chết thì thôi, chứ không còn một mối thoát nào khác.
– A Phủ:
- Chỉ vì một cuộc ẩu đả với A Sử mà cuối cùng A Phủ bị phạt vạ oan ức một số tiền lớn.
- Phải vĩnh viễn chôn chân tại nhà kẻ thống trị, làm lụng như trâu, như ngựa, sống cuộc đời của một nô lệ để trả món nợ bất công.
– Cha của Mị:
- Một người nông dân nghèo, vay tiền nhà thống lý để cưới vợ, làm lụng quanh năm suốt tháng để trả nợ, năm nào cũng trả một nương ngô, ấy vậy mà đến khi Mị đã lớn, người vợ đã chết, món nợ ấy vẫn còn.
- Phải trả giá cả bằng hạnh phúc của chính con cái mình.
* Tố cáo, vạch trần bộ mặt tàn bạo, gian ác của bọn cường quyền phong kiến miền núi:
– Mị:
- Sự tàn bạo ấy thể hiện ở việc Mị bị bắt cướp về nhà thống lý cúng trình ma mà không được sự ưng thuận của cô.
- Mị muốn đi chơi, A Sử trở về túm tóc Mị rồi trói đứng Mị ở cái cột trong căn buồng tối, rồi bỏ đi chơi tiếp.
- Khi Mị tận tâm chăm sóc cho chồng, chỉ vì mệt quá nên thiếp đi, ấy thế mà A Sử đã thẳng chân đạp Mị ngã dúi dụi.
– A Phủ:
- Vụ việc ẩu đả giữa A Sử và A Phủ đã trở thành cái cớ để chúng biến A Phủ thành một nô lệ trong nhàn quan, để có thể ra sức bóc lột.
- Một đám xử kiện, thế nhưng người ta chỉ thấy khói thuốc phiện ngập tràn, cùng với một loạt những lời định tội, tính tiền hệt những con buồn, cuối cùng khép A Phủ vào món nợ 100 bạc trắng.
- Trói đứng A Phủ giữa sân để anh tự sinh tự diệt chỉ vì anh làm mất 1 con bò.
c. Kết bài:
- Nêu cảm nhận chung.
9 Bài mẫu Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ lớp 12 hay nhất đạt điểm 9, 10
Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 1
Tô Hoài là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn với bút lực dồi dào. Không chỉ nổi tiếng với tác phẩm viết cho thiếu nhi mà các tác phẩm của ông còn mang đậm nét văn hóa, lối sống, nếp cảm nếp nghĩ của đồng bào dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc. Tiểu biểu là tác phẩm: “Vợ chồng A Phủ”. Trong tác phẩm, người đọc thấy rõ được giá trị hiện thực sâu sắc mang dấu ấn thời đại
Trước tiên, tác phẩm đã tố cáo tội ác của giai cấp thống trị. Trong truyện giai cấp cầm quyền ở Hồng Ngài chính là nhà thống lí Pá Tra. Gia đình thống lí lợi dụng cường quyền và thần quyền để áp bức những người dân lao động nghèo khổ. Tiêu biểu là Mị và A Phủ.
Mị vốn là một cô gái dân tộc xinh đẹp và tràn đầy sức sống. Nhưng hoàn cảnh đưa đẩy khiến cô gái ấy trở thành con dâu gạt nợ của nhà Thống lí Pá Tra. Món nợ của bố Mị khi cưới mẹ Mị. Đây là món nợ truyền kiếp đối với người người lao động nghèo, nó chẳng khác gì một thứ tội: “tội tổ tông”. Đối với bọn phong kiến, đây là hình thức cho vay nặng lãi đẩy người lao động nghèo vào tình trạng bị bần cùng hóa. Gia đình thống lí lợi dụng hủ tục của miền núi (tục cướp vợ) để bắt cóc Mị. Bản thân cô Mị đang hồi hộp đêm hò hẹn đầu tiên, trong lòng đang ngập tràn hạnh phúc thì rơi xuống đáy sâu của nỗi bất hạnh. Bọn chúng còn lợi dụng tục “cúng trình ma” để hoàn chỉnh việc biến một người con gái xinh đẹp, có tài thổi sáo, hiếu thảo, chăm chỉ, tự trọng và nhất là yêu tự do, khát khao tình yêu trở thành một nô lệ. Thông qua đó, tác giả gián tiếp tố cáo sức mạnh của cường quyền và thần quyền đang đè nặng lên cuộc sống của nhân dân đồng bào miền núi.
Không chỉ có Mị, A Phủ cũng là một chàng trai bị rơi vào hoàn cảnh bất hạnh không kém. A Phủ được giới thiệu là một người mồ côi, một thân một mình, bị bán xuống đồng tháp, trốn trở lại đồng cao rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Từ nhỏ, A Phủ đã gan bướng, dũng cảm. Chàng trai lao động giỏi, không ngại những việc nặng nhọc, nguy hiểm, là niềm mơ ước của bao cô gái. Tuy vậy, A Phủ vẫn đi chơi ngày tết, mơ ước tìm bạn kết đôi. Cho thấy đây là một chàng trai khao khát hạnh phúc và tình yêu. A Phủ như đứa con, như cánh chim của núi rừng Tây Bắc. Nhân vật A Phủ bị rơi vào hoàn cảnh bất hạnh qua vụ xử kiện vô lí của gia đình nhà thống lí Pá Tra. Từ vụ xử kiện này, A Phủ từ một chàng trai tự do yêu đời trở thành một nô lệ tàn đời mãn kiếp cho nhà thống lí. Nguyên nhân cũng chính vì A Phủ dám cả gan đánh A Sử. Bản án trong phiên xử kiện này: A Phủ ban đầu bị buộc tội chết rồi lại được tha. Với thống lí Pá Tra, A Phủ sống để làm việc trả nợ (nộp vạ 100 đồng bạc trắng). Chàng trai yêu tự do ngày nào bị biến thành con nợ truyền kiếp. Tuy sự việc khác nhau nhưng cách thức bị bó buộc và hành hạ về thể xác và tinh thần của hai nhân vật vốn không liên quan là Mị và A Phủ đều giống nhau. Đó là cách bọn cầm quyền, thống trị ở các địa phương đày đọa người dân trước khi được Cách mạng giải phóng. A Phủ bị bắt làm các công việc nặng nhọc nguy hiểm, trở thành nô lệ không công do món nợ không biết đến ngày nào mới trả hết. A Phủ cũng không dám nghĩ đến việc trốn do quyền lực khủng khiếp của nhà thống lí Pá Tra. Dù làm việc vất vả, khổ cực nhưng chỉ cần một sai lầm cũng khiến A Phủ phải chịu tội. Tai họa ập đến với A Phủ khi lỡ để hổ ăn mất một con bò. A Phủ bị trói vào cọc. Tính mạng của con người bị rẻ rúng chưa bằng một con vật. Nhà thống lí mất một con bò, nhưng A Phủ lại phải trả giá bằng mạng sống của mình. Đó là một hành động dã man, mất nhân tính của bọn thống trị, coi thường mạng sống của người lao động chân chính.
Chính Mị Và A Phủ đều nghĩ rằng bản thân mình phải làm nô lệ, người ở cả đời cho nhà thống lí. Những suy nghĩ đó cũng bị chính sự tàn nhẫn, bất công của nhà thống lí dập tắt. Chúng sẵn sàng bắt trói, mặc kệ mạng sống của người lao động chỉ vì họ phạm lỗi. A Phủ làm mất một con bò và Mị muốn đi chơi.Trong đêm A Phủ bị trói, khi thấy A Phủ khóc. Giọt nước mắt của A Phủ đã khơi dậy niềm yêu thương và khao khát sống của Mị. Mị nhớ lại cảnh mình cũng bị trói. Mị nghĩ đến sự tàn ác của nhà thống lí với những người vô tội. Vì thế, Mị quyết định cởi trói cho A Phủ và quyết tâm chạy trốn khỏi “địa ngục trần gian”. Mị cởi trói cho A Phủ, cứu thoát A Phủ cũng là cứu thoát chính mình. Người dân lao động chẳng còn cách nào khác là tự giải thoát cho chính mình. Con đường họ đến với Cách mạng là tất yếu.
Qua tác phẩm, người đọc thấy được giá trị hiện thực sâu sắc được thể hiện qua tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài, càng thêm hiểu rõ cuộc sống cùng khổ của người dân lao động miền núi trước Cách mạng tháng 8 do sự thống trị tàn ác của giai cấp cầm quyền.
Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 2
Trong nền văn học hiện thực Việt Nam, ngoài những cái tên nổi tiếng như Nam Cao, Kim Lân, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,… khi viết về đề tài người nông dân và trí thức cũ ở vùng đồng bằng phía bắc với những đắng cay, đau đớn tột cùng về số phận con người dưới chế thực dân nửa phong kiến. Thì Tô Hoài cũng là một trong những tác giả để lại nhiều dấu ấn với những tác phẩm phản ánh rất rõ đời sống của nhân dân miền núi phía Bắc, đặc biệt là người phụ nữ dưới sự áp bức chà đạp của cả phong kiến cường quyền và thần quyền. Trong đó Vợ chồng A Phủ là tác phẩm nổi tiếng nhất của Tô Hoài khi nói về đề tài này, ở đó không chỉ nêu ra được những giá trị hiện thực khi phản ánh bộ mặt thối nát của xã hội lúc bấy giờ, mà còn ẩn chứa những giá trị nhân đạo sâu sắc, thương cảm xót xa cho từng số phận bi kịch của con người dưới ách cường quyền.
Trước hết nói về giá trị hiện thực, ở truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là bức tranh về cuộc sống bị áp bức, chà đạp tàn bạo của những người nông dân thấp cổ bé họng, giống như Mị và A Phủ. Ở họ hội tụ đầy đủ những yếu tố của một con người xứng đáng có được hạnh phúc, ví như bản thân Mị là một cô gái xinh đẹp, chăm chỉ, hiếu thuận, có tài thổi sáo, thổi lá, đồng thời cũng có một tình yêu đẹp. Còn A Phủ tuy là một chàng trai có số phận bất hạnh, nhưng anh lại là người có ý chí, chăm chỉ lao động, trở thành niềm mơ ước của nhiều cô gái ở Hồng Ngài. Ấy thế mà hai con người ấy một người chỉ vì món nợ truyền kiếp của cha, một người chỉ vì việc tranh chấp đánh nhau với nhà quan mà phải trở thành nô lệ, trở thành những công cụ làm việc biết nói, gần như vĩnh viễn chôn vùi cuộc đời tại nơi cửa quan, chịu đựng biết bao đắng cay tủi nhục.
Bi kịch của Mị xuất phát từ món nợ truyền kiếp của cha mẹ, cuối cùng cô phải chấp nhận làm con dâu gán nợ, để tận hiếu với cha, đau đớn đến độ muốn chọn cái chết bằng nắm lá ngón, Mị cũng không thể toại nguyện. Cuối cùng một cô gái đương phơi phới sức xuân, trở thành một người đàn bà lúc nào mặt cũng buồn rười rượi, quanh năm suốt tháng làm lụng, quên cả việc phải nói phải cười. Chai lì hết mọi xúc cảm và khao khát tự do, biến thành một con người lầm lũi như con rùa trong xó cửa, khổ đến mức độ “ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”, rồi thì cô còn tự ý thức được rằng “Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Không chỉ chịu đày đọa về thể xác mà ngay cả đời sống tinh thần Mị cũng phải gánh chịu nhiều giày vò. Cô bị ép gả cho người mình không yêu là A Sử, chồng Mị luôn cấm đoán, đánh đập và đối xử với Mị một cách tàn nhẫn, cuộc sống của Mị bị vây trong một con buồng tối có duy nhất một ô cửa bé bằng bàn tay mà “lúc nào cũng thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Đó là một cuộc đời cầm tù chung thân, Mị đã tuyệt vọng nghĩ rồi cô sẽ sống ở căn phòng tối tăm này cho đến chết thì thôi, chứ không còn một mối thoát nào khác. Sự chèn ép, đàn áp ấy đã khiến Mị trở nên trơ lì như gỗ đá, không còn một chút tha thiết gì về cuộc đời, làm tê liệt hết những sự phản kháng, tê liệt cả tuổi trẻ và tàn hoại một con người vốn xứng đáng nhận về hạnh phúc cho mình.
Bên cạnh Mị, A Phủ cũng là một nhân vật phải gánh chịu sự chà đạp, chèn ép đầy bất công và đáng căm hận từ bè lũ thống trị nhà thống lý Pá Tra. Chỉ vì một cuộc ẩu đả với A Sử mà cuối cùng A Phủ bị phạt vạ một số tiền mà không biết được rằng đến hết đời này của A Phủ, rồi đến đời con đời cháu của anh có thể trả xong hay không. Như vậy chỉ từ một chuyện nhỏ, A Phủ đã phải vĩnh viễn chôn chân tại nhà kẻ thống trị, làm lụng như trâu, như ngựa, sống cuộc đời của một nô lệ để trả món nợ bất công.
Một nhân vật nữa dù chỉ xuất hiện thoáng qua, thế nhưng ông cũng là một nạn nhân phải chịu sự áp bức của cường quyền ấy là cha của Mị. Một người nông dân nghèo, vay tiền nhà thống lý để cưới vợ, làm lụng quanh năm suốt tháng để trả nợ, năm nào cũng trả một nương ngô, ấy vậy mà đến khi Mị đã lớn, người vợ đã chết, món nợ ấy vẫn còn. Chẳng có món nợ nào lại dai dẳng đến thế, chỉ có một điều là kẻ cầm quyền đã lợi dụng quyền lực của mình để bắt ép người nông dân, những người thấp cổ bé họng phải trả những món nợ không tưởng, cuối cùng phải trả giá cả bằng hạnh phúc của chính con cái mình. Đó là sự bóc lột, chèn ép đến tột cùng mà bè lũ phong kiến miền núi đã áp đặt lên những người lao động nhỏ bé, không có quyền được lên tiếng, cốt để thu về những món lợi vô nhân đạo.
Giá trị hiện thực thứ hai trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ ấy chính là sự tố cáo, vạch trần bộ mặt tàn bạo, gian ác của bọn cường quyền phong kiến miền núi. Sự tàn bạo ấy thể hiện ở việc Mị bị bắt cướp về nhà thống lý cúng trình ma mà không được sự ưng thuận của cô, cho đến việc cuộc đời của Mị và những người phụ nữ trong ngôi nhà ấy quanh năm suốt tháng chỉ biết làm lụng, bị bóc lột đến tận cùng như trâu ngựa, thậm chí còn không bằng. Ấn tượng nhất là chi tiết Mị muốn đi chơi, ngay lúc đó A Sử trở về nó không nói không rằng đã túm tóc Mị rồi trói đứng Mị ở cái cột trong căn buồng tối, rồi bỏ đi chơi tiếp. Thật không dám nghĩ nếu như không phải vì A Sử bị thương, cần người đắp thuốc thì có lẽ Mị dã bị trói đến chết mà không ai hay biết, bởi lẽ trong ngôi nhà này đã từng có một người đàn bà phải chịu chết trói như vậy. Rồi ngay cả khi Mị tận tâm chăm sóc cho chồng, chỉ vì mệt quá nên thiếp đi, ấy thế mà A Sử đã thẳng chân đạp Mị ngã dúi dụi, có thể nói là độc ác và lạnh lùng đến vô cùng. Ở câu chuyện của nhân vật A Phủ sự tàn ác, bất nhân của bè lũ phong kiến miền núi lại càng được thể hiện rõ. Vụ việc ẩu đả giữa A Sử và A Phủ đã trở thành cái cớ, để chúng biến A Phủ thành một nô lệ trong nhàn quan, để có thể ra sức bóc lột. Một đám xử kiện, thế nhưng người ta chỉ thấy khói thuốc phiện ngập tràn, cùng với một loạt những lời định tội, tính tiền hệt những con buồn, cuối cùng khép A Phủ vào món nợ 100 bạc trắng, một số tiền mà không biết hết đời ở đợ của A Phủ đã trả hết hay chưa. Nhưng bi kịch chưa dừng lại ở đó, trong một lần chăn bò, A Phủ lỡ để hổ vồ mất một con, và phải chịu bị trói đứng giữa sân, trong trời đông giá rét, chịu đói, chịu lạnh, mà có khi đôi ba hôm nữa sẽ phải chịu chết, một cái chết đầy oan ức. Như vậy chúng đã coi sinh mạng của A Phủ còn chẳng bằng một con bò bị mất, thật độc ác và bất công đến tột cùng, đến một người vốn ẩn nhẫn và cam chịu như Mị cũng không thể chịu nổi mà căm hận, xót thương cho cuộc đời của A Phủ.
Về giá trị nhân đạo, Vợ chồng A Phủ trước tiên là hướng tới việc cảm thông, thương cảm cho số phận những người nông dân phải chịu đàn áp, bất công như Mị và A Phủ, thông qua đó tố cáo, lên án mạnh mẽ chế độ cường quyền và thần quyền gian ác đã chèn ép, chà đạp, bóc lột không chỉ là sức lao động mà còn cả quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của họ. Bên cạnh đó là sự thấu hiểu, nhìn nhận được những phẩm chất, vẻ đẹp tâm hồn đáng quý ngự trị trong những người nông dân bị đàn áp. Ở Mị là sự xinh đẹp, chăm chỉ làm lụng, hiếu thảo với cha, tài năng thổi sáo, thổi lá, cùng với những khát khao, ước vọng được sống một cuộc đời tự do, hạnh phúc tha thiết. Cùng với đó là tinh thần phản kháng mạnh mẽ, ẩn sâu tiềm tàng bên trong lớp vỏ chai lì, vô cảm, dù trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn, đau đớn đến nhường nào, nó vẫn chưa từng bị giết chết, hay bị lãng quên, chỉ là được Mị đem giấu đi thật kỹ, chờ ngày bùng nổ. Một vẻ đẹp tâm hồn đáng quý nữa ở nhân vật Mị ấy là tấm lòng thấu hiểu, đồng cảm cho những người cùng cảnh ngộ. Trong khi thấy A Phủ bị trói đứng đến chết, lòng Mị đã dấy lên sự phẫn nộ, căm tức, ý thức được sự bất công trong xã hội, cuối cùng dẫn đến hành động quyết liệt, dũng cảm là cắt dây cởi trói cho A Phủ, còn bản thân nàng nguyện hy sinh. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở đó thì giá trị nhân đạo của tác phẩm vẫn chưa đạt độ chín, chi tiết đắt giá nhất thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc của tác phẩm ấy là cảnh Mị tự giải thoát cho chính mình, một người đàn bà đã sống cuộc đời lầm lũi suốt mấy năm trời ở nhà thống lý, đến chết cũng chẳng màng tới nữa, ấy vậy mà nay lại vùng lên bỏ trốn, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự chuyển biến ở tâm hồn của Mị, càng khẳng định sức sống tiềm tàng mạnh mẽ và niềm khao khát tự do đến cháy bỏng của cô, mà dùng bất cứ giá nào Mị cũng chịu đánh đổi để có được nó.
Ở A Phủ, ngoài những vẻ đẹp ngoại hình, sự chăm chỉ cần mẫn, dám xông pha, thì một trong những chi tiết ấn tượng nhất về nhân vật này ấy là giọt nước mắt đêm đông, lúc anh bị trói đứng. Có thể nói rằng cuộc đời A Phủ chưa từng khuất phục, dù là lúc bị phạt vạ, phải đi ở đợ, nhưng anh vẫn luôn nỗ lực hết mình. Chỉ đến khi bị trói đứng vì một con bò, A Phủ mới bắt đầu thấy tuyệt vọng, thấy đắng cay tột cùng, giọt nước mắt ấy là sự xót xa, nuối tiếc cho một cuộc đời còn đang dang dở phía trước, là sự đau đớn khi khao khát được sống, được tự do đang dần lụi tàn trước mắt. Điều đó chứng tỏ bản thân A Phủ có một niềm khao khát sự sống và tự do chẳng kém gì Mị, anh muốn sống, muốn được hạnh phúc, thế nhưng phong kiến cường quyền và thần quyền đã dùng sợi dây trói định cắt đứt tất cả. Khóc không phải là yếu đuối mà là sự ý thức thân phận đớn đau, cũng là sự căm hận, uất ức trước những bất công mà A Phủ phải gánh chịu. Một điểm nữa để thấy được vẻ đẹp của A Phủ ấy là cảnh khi Mị vừa cắt dây trói, người đàn ông chịu đói chịu rét suốt mấy ngày đã khuỵu xuống, thế nhưng ngay lập tức dùng hết sức bình sinh để vừa chạy vừa lăn xuống triền đồi tẩu thoát, không do dự. Đó là khao khát sống, khao khát tự do mãnh liệt là sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, dù chỉ còn chút hơi sức cuối cùng cũng không bao giờ từ bỏ, quyết nắm lấy từng cơ hội mong manh để tự giải thoát cho bản thân mình của nhân vật.
Như vậy với những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, Vợ chồng A Phủ xứng đáng là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nền văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn sau cách mạng tháng tám. Nó không chỉ tập trung phản ánh, tố cáo bộ mặt thối nát, tàn ác của xã hội mà còn tập trung vào vẻ đẹp trong tâm hồn của con người, đồng thời khơi gợi, mở ra cho họ những lối thoát mới, cổ vũ người nông dân chịu áp bức mạnh mẽ đứng lên để tự giải phóng bản thân, đấu tranh đòi lại quyền bình đẳng, công bằng trong xã hội, manh nha cho phong trào làm cách mạng của đồng bào ở miền núi phía Bắc.
Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 3
Điều thôi thúc Tô Hoài viết truyện Vợ Chồng A Phủ là món nợ tình cảm với đồng bào Tây Bắc. Sau khi cùng bộ đội vào giải phòng Tây Bắc (1952), nhà văn có thời gian dài sinh sống cùng với họ. Đồng cảm và thấu hiệu nỗi đau khổ tủi nhục của người lao động dưới ách thống trị của phong kiến thực dân, trân trọng những đức tính phẩm chất cao quý và vui mừng khi cách mạng đến với họ nên nhà văn kể về cuộc đời Mị và A Phủ với tình cảm đặc biệt. Vì thế, qua nhân vật Mị truyện thể hiện giá trị hiện thực vừa thấm đẫm tinh thần nhân đạo.
Mở trang truyện là người đọc chứng kiến cảnh đời bi thương của nhân vật Mị : Lúc nào cũng thấy Mị ngồi quay sợi bên tảng đá cạnh tàu ngựa, lúc nào cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Nhà văn đã tả chân dung, tâm trạng để khắc họa số phận. Mị ngồi đấy mà cuộc đời như bị thắt chặt trong kiếp ngựa trâu và luôn mang trong lòng nỗi đau buồn thầm lặng dai dẳng, triền miên. Nỗi buồn đông cứng như tảng đá vô tri và đè nặng lên đôi vai, lên cuộc đời Mị. Tác giả đã thể hiện nỗi buồn của Mị với giọng văn ngậm ngùi và chiều sâu cảm thông, san sẻ.
Vì sao Mị lại xuất hiện đơn độc, lầm lũi giữa cảnh giàu sang tấp nập của nhà thống lí ? Hỏi ra mới biết cô ấy không phải là con thống lí mà là đứa con dâu gạt nợ. Vì món nợ từ ngày cưới mà bố mẹ không trả nổi nên Mị bị bắt về nhà Pá Tra làm vợ A Sử để trừ nợ. Đây là thủ đoạn cho vay nặng lãi của bọn phong kiến thống trị, là cách bóc lột sức lao động của người nghèo và chúng đã hãm người nông dân trong sự lệ thuộc suốt đời. Chúng đã lợi dụng tập quán của người Mèo : đời cha không trả hết nợ thì đến đời con, đời cháu. Bắt Mị về là cha con Pá Tra liền cúng ma nhà nó. Vĩnh viễn Mị là người của nhà thống lí, là đứa ở trừ nợ suốt đời, là có thể chết rủ ở xó nhà này mà không thể hi vọng vào sự giải thoát. Pá Tra đã lợi dụng sự mê tín dị đoan của người Mèo để giam hãm Mị, để tăng sức mạnh và vươn xa hơn bàn tay tội ác. Bọn thống trị độc ác đã tước đi quyền sống tự do của Mị, cướp mất tình yêu, tuổi trẻ và hạnh phúc của Mị.
Hành tháng trời, đêm nào Mị cũng khóc. Thân thể của Mị như muốn tan theo dòng nước mắt đau buồn tủi nhục ấy. Mị đã nghĩ đến cái chết như là phương cách giải thoát. Nhưng vì bố mà Mị cam chịu kiếp sống đọa đày. Mị làm việc như cái máy, bị vắt kiệt sức ra để trừ nợ. Tác giả so sánh Mị khổ ơn con trâu con ngựa nhà thống lí. Mị như cái xác không hồn. Mị sống trong căn buồng kín mít không ánh sáng, chăng hương người, chỉ có cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Không gian ấy co biết đời Mị sẽ héo dần trong tăm tối, nô lệ, trong kiếp sống ngục tù. Không biết gì tế giới xung quanh mình, Mị dần dần tê dại về cảm giác và tê liệt về ý thức, khác gì một đóa hoa tàn. Nếu đem so sánh với đoạn đời tươi đẹp hồn nhiên khi còn ở nhà với bố mẹ thì hiện trạng kia gợi biết bao niềm xót thương trong lòng nhà văn và độc giả. Và chi tiết ấy cũng mang ý nghĩa tố cáo tội ác bọn thống trị đã vùi dập biết bao thân phận. Chúng đọa đày, áp chế mặt tinh thần đến mức làm tê liệt ý thức phản kháng.
Không chỉ là nạn nhân của đồng tiền, của thần linh ma quái, của ách thống trị, Mị còn là nạn nhân của thói độc ác vũ phu, nam quyền. Không thích Mị đi chơi Xuân, A Sử chỉ hỏi một câu : « Mày muốn đi chơi à ? », rồi trói đứng Mị và cột nhà, quấn cả tóc Mị vào cột, Mị bị đối xử tàn tệ chẳng khác một con vật. Hành động của A Sử lạnh lùng như dã thú. Nó bị A Phủ trừng trị, Mị phải vào rừng hái thuốc về thoa suốt đêm. Quá mệ nằm thiếp đi một lúc, nó liền đạp chân vào mặt Mị. Có những đêm, Mị ngồi hơ lửa bên bếp, A Sử đi chơi về buồn tay đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Thân phận một con người nhưng bị đối xử tàn tệ như súc vật bởi thói độc ác, hống hách của bọn thống trị, nhà giàu. Cái đau đớn nhất của Mị không phải là thể xác bị hành hạ mà bị xúc phạm nhân phẩm, bị chà đạp giá trị con người. Tác giả vừa tố cáo vừa bộc lộ niềm đồng cảm, đau xót vô hạn.
Thể hiện mạng đời đau khổ tăm tối của Mị, tác phẩm đã khái quát hóa hiện thực đau khổ, tủi nhục bị bóc lột của người lao động miền núi, qua đó tố cáo tội ác bọn phong kiến thống trị. Đồng thời đành cho người lao động tình cảm nhân đạo cao quý : niềm đồng cảm sẻ chia, thương xót.
Giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được thể hiện qua thái độ ca ngợi những phẩm chất cao đẹp của Mị.
Khi còn ở nhà với bố mẹ, Mị sống rất hồn nhiên và vui vẻ. Nhưng khi nghe tin Pá Tra muốn bắt Mị về làm con dâu gạt nợ, Mị nói với bố : con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương, ngô trả nợ cho bố, bố đừng bán con cho bọn nhà giàu. Lời nói ấy chứng tỏ Mị là người giàu lòng tự trọng, có ý thức về nhân phẩm, danh dự và tự do. Tâm hồn Mị trong sáng, hồn nhiên, cao khiết như đóa hoa giữa gió núi mây ngàn. Khi bị bắt về nhà thống lí, sống trong cảnh trâu ngựa, đêm nào Mị cũng khóc và Mị uất ức vùng lên bằng cách hái lá ngón ăn để tự vẫn. Dù ý định không thành vì chữ hiếu nhưng hành vi ấy biểu hiện tính cách mạnh mẽ, tinh thần chống đối lại số phận. Đó chính là lúc sức sống tiềm tàng trong Mị đã trội dẫy. Từ bỏ ý định tự vẫn vì bố cho thấy Mị là cô con gái hiếu thảo và tràn đầy tinh thần hi sinh.
Vẻ đẹp của Mị còn được thể hiện qua lòng ham sống, khát vọng sống tự do, tâm hồn giàu sức sống. Kể từ ngày bố mất, Mị cũng không còn nghĩ đến cái chết, cô đã chôn vùi đời mình trong khổ đau, quên lãng. Thế nhưng lòng ham sống vẫn còn le lói. Đến khi mùa xuân về thì ngọn lửa ham sống chợt bừng lên. Tiếng sáo gọi bạn tình đêm xuân đã đánh thức tâm hồn Mị, lòng Mị cảm thấy bồi hồi xao xuyến, thiết tha muốn sống lại như những đêm xuân ngày xưa cũ. Mị ngồi nhẩm thầm hát theo tiếng sáo với những bản tình ca ngày trước. Mị lén lấy rượu uống, uống ừng ực từng bát, uống như nuốt hận, uống để quên đi những cay đắng, tủi nhục. Trong khi ấy, tiếng sáo ngoài đường, từ phía đời tự do cứ lửng lơ, mời gọi giục giã. Mị thấy lòng phơi phới trẻ lại. Mị muốn đi chơi. Sức sống bấy nay bị đè nén nay bật trào dậy thành khát vọng tự do mạnh mẽ. Nhưng vẻ đẹp tâm hồn đầy sức sống và khát vọng sống tự do ấy bị hủy hoại bởi sự độc ác của A Sử.
Thế nhưng sức sống ấy lại bật dậy lần nữa trong hành động cứu A Phủ. A Phủ là đứa ở gạt nợ của nhà thống lí. Đi chăn bò, sơ ý để hổ ăn mất bò nên bị Pá Tra bắt trói đứng vào cột nhà và bỏ đói gần chết. Bỗng đêm khuya hôm ấy, Mị đang sưởi lửa thì ngọn lửa bếp bỗng bùng sáng lên. Nhờ đó mà Mị nhìn thấy dòng nước mắt tuyệt vọng của con người bất hạnh ấy. Vừa xót thương người cùng cảnh ngộ vừa căm thù thống lí Pá Tra nên Mị dám đứng dậy cắt dây trói cứu A Phủ. Khi A Phủ thoát rồi, Mị đứng lặng trong bóng tối và nỗi sợ hãi bị chết bỗng dưng ập về nên Mị đã vùng bỏ chạy theo A Phủ. Thế là ngẫu nhiên Mị được thôi thúc từ lòng ham sống, lòng khao khát tự do và biểu hiện tính cách ngoan cường. Hành động của Mị thật mạnh mẽ vì cô dám đứng lên chống đối lại số phận, chống lại thế lực bạo quyền và cả thế lực thần quyền : vì Mị đã hết sợ ma nhà thống lí rồi. Hành động giải phóng của Mị dù tự phát nhưng phù hợp với quy luật tình cảm, quy luật xã hội và thể hiện đúng quy luật phát triển của tính cách. Đó chính là lúc sức sống nội tại đã bùng lên một cách mạnh mẽ nên đã có một kết quả rực rỡ. Nó khép lại quãng đời nô lệ tăm tối ở Hồng Ngài, mở ra một cuộc đời tự do và ánh sáng ở Phiềng Sa. Hành động cứu người của Mị không chỉ thể hiện vẻ đẹp tính cách mạnh mẽ, khát vọng sống, lòng ham sống mà còn là biểu hiện của tình tương thân tương ái.
Như vậy, nhờ sức sống tiềm tàng, tính cách mạnh mẽ, lòng ham sống mà những người lao động miền núi có khả năng đứng lên để tự giải phóng. Họ biết tự cứu đời mình trước khi tìm đến với Cách mạng. Do đó, qua tình tiết này, truyện còn phản ánh một hiện thực đời sống là khả năng tự đứng lên giải phóng cuộc đời của người dân miền núi. Đây là cơ sở tốt để sau này gặp lại cán bộ A Châu họ nhanh chóng được giác ngộ cách mạng.
Mị không chỉ điển hình cho mảng đời tăm tối, nô lệ mà còn là hiện thân cho những phẩm chất cao đẹp của người lao động miền núi mà nhà văn ca ngợi : siêng năng, chăm chỉ trong lao động ; giàu tình nghĩa, đức hi sinh trong lối sống, quan hệ ; tâm hồn trong sáng, giàu sức sống, tiềm tàng khả năng phản kháng chống áp bức… Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật rất đặc sắc : đoạn tả Mị nghe tiếng sáo đêm xuân… Suy tính của Mị trước khi cắt dây trói cứu A Phủ… Thành công nghệ thuật này cũng biểu hiện niềm đồng cảm thương yêu nhân vật của nhà văn Tô Hoài.
Qua nhân vật Mị, Tô Hoài đã khái quát được hiện thực về cảnh đời đau khổ, tụi nhục của người lao động miền núi bởi tội ác của bọn phong kiến ôm chân thực dân. Truyện còn là bức tranh chân thực về nếp sống, phong tục tập quán vùng cao Tây Bắc. Truyện còn lay độn tình cảm người đọc bởi giá trị nhân đạo sâu sắc : niềm đồng cảm thương yêu kiếp người bất hạnh, trân trọng bao phẩm chất đáng quý của họ và kịch liệt lên án thói độc ác của bọn phong kiến thống trị.
Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 4
Tô Hoài là một nhà văn thiên về phản ánh những sự thật của cuộc sống đời thường trong những trang viết bình dị, tinh tế và đầy chất thơ. Ông có vốn hiểu biết phong phú và sâu sắc về cuộc sống, đặc biệt là đối với những phong tục tập quán độc đáo của nhiều vùng đất khác nhau, có sự gần gũi, gắn bó với cuộc sống và con người miền núi khiến những đề tài miền núi trở thành mảng sáng tác quan trọng và có giá trị của Tô Hoài. Ông còn được mệnh danh là nhà văn của thiếu nhi với những tác phẩm với giọng văn tự nhiên, dễ hiểu như Dế Mèn phiêu lưu ký. Với khả năng xây dựng hình tượng nhân vật điển hình cùng lối viết chân thực, “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm mang giá trị hiện thực sâu sắc, đả kích và lên án sự bất công trong xã hội phân chia tầng lớp đã vùi dập con người đến tận cùng của khổ đau.
Giá trị hiện thực là những điều diễn ra trong cuộc sống, được tác giả nhìn thấy và đưa vào tác phẩm một cách tinh tế tạo nên ý nghĩa phản ánh hiện thực của một thời kì, một chế độ trên nhiều góc độ khác nhau. Đây là yếu tố cốt lõi của một tác phẩm văn học, nhất là văn học hiện thực, là bức tranh phác họa cuộc sống một cách kĩ lưỡng nhằm nêu bật lên được những đặc điểm điển hình của một thời kì, giai cấp nào đó. Giá trị hiện thực của các tác phẩm văn học phần lớn đều mang tiếng nói chung của đại đa số quần chúng đương thời, là bản cáo trạng đối với những thói hư tật xấu và là tiếng lòng thổn thức của những người thấp cổ bé họng, không có tiếng nói trong xã hội bấy giờ.
Đối với truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài đã tự mình thâm nhập vào cuộc sống của người dân Tây Bắc để thấm nhuần được suy nghĩ, cảm nhận xuất phát từ tấm lòng lương thiện của người dân nơi đây. Từ đó, ông thấu hiểu được nỗi đớn đau, tủi nhục ngày đêm day dứt. Thông qua ngòi bút và vốn hiểu biết của mình, tác giả Tô Hoài đã xây dựng cốt truyện với các nhân vật như một bức tranh sự thật, nói lên cuộc sống bi kịch của người dân lao động cần cù nơi đây cũng như vạch trần bộ mặt tàn ác của bọn cầm quyền. Truyện ngắn kể về số phận của nhân vật Mị, một cô gái xinh đẹp, hiền lành, chăm chỉ, hiếu thảo với bố mẹ nhưng bị bắt làm “con dâu gạt nợ” cho nhà thống lý Pá Tra vì món nợ bố mẹ để lại. Ở đó, cô làm việc quần quật cả ngày lẫn đêm, bị bòn rút hết sức sống và sự phản kháng, tưởng chừng như không có một lối nào thoát ra, và rồi cô gặp được A Phủ, là nạn nhân của nhà thống lý. Chứng kiến một số phận đau khổ giống mình, Mị như được tiếp thêm sức mạnh, dám đứng lên bỏ trốn cùng A Phủ đến sống ở một nơi khác, nơi mà họ được sống như là một con người thực thụ.
Giá trị hiện thực của truyện ngắn được gột tả qua cuộc sống bi kịch của người dân lao động miền núi, điển hình là hình tượng nhân vật Mị và A Phủ. Khi nói đến nhân vật Mị, Tô Hoài chỉ giới thiệu tên, còn tuổi tác không hề nói đến, chỉ vỏn vẹn “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Người ta nói: nhà Pá Tra làm thống lý, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải con gái thống lý: cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lý.” Nét mặt buồn rười rượi của Mị như là lời tố cáo chân thực nhất về tội ác của cha con nhà thống lý đã đè nặng lên một kiếp người. Điều đó không chỉ gợi cho tác giả niềm đau xót đối với nhân vật mà còn là sự phẫn nộ, căm ghét đối với những kẻ ác chỉ biết lấy sức lao động của người khác để kiếm tiền.
Cuộc sống của Mị ở nhà thống lý là điển hình, khái quát toàn bộ khó khăn, khổ đau mà nhân dân lao động miền Bắc phải chịu trước Cách mạng tháng Tám. Tác giả đã mượn nhân vật Mị để làm nổi bật lên hiện thực cay đắng, tủi nhục của những người dân hiền lành, chất phác phải chịu đựng. Khi bị bắt về làm con dâu gạt nợ, Mị từ một cô gái xinh đẹp trở thành “con rùa nuôi trong xó cửa”, lúc nào cũng cúi mặt, “mặt buồn rười rượi” lầm lũi, không nói năng gì. Chúng coi cô là công cụ lao động để làm giàu, “mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế. Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Một trong những chi tiết làm nổi bật lên chất hiện thực của tác phẩm chính là cảnh Mị bị trói ở cột nhà khi bị A Sử bắt được lúc Mị chuẩn bị đi chơi. Thực tế ta có thể thấy được rằng Mị là một cô gái còn trẻ trung xinh đẹp, dồi dào sức sống thì việc đi chơi trong đêm tình mùa xuân là điều hiển nhiên. Nhưng tia hi vọng đó cũng đã bị dập tắt khi cô bị người chồng của mình trói đứng vào cột nhà bằng sợi mây một cách tàn bạo. “Mị không nói. A Sử cũng không hỏi thêm. A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong, A Sử thắt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi phẩy tay tắt đèn, đi ra khép cửa buồng lại.”, “Cả đêm Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức”, “Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau đứt từng mảnh thịt.”. Tô Hoài không trực tiếp lên án xã hội cổ hủ lạc hậu, bất nhân, coi người như cỏ rác, nhưng thông qua hình ảnh của Mị, mọi đường nét thực tại đều được khắc họa một cách chân thực, rõ ràng. Hiện thực về cuộc sống lao động khổ đau, hiện thực về thân phận mòn mỏi, hiện thực về cái ác đang ngày ngày hiện hữu, tất cả đều được tác giả khai thác và phơi bày trước ánh sáng.
Khi xây dựng hình tượng nhân vật A Phủ, Tô Hoài muốn phản ánh hiện thực về cuộc sống những người lao động tuy xuất thân thấp kém, không có địa vị nhưng rất chịu thương chịu khó. A Phủ từ nhỏ đã mồ côi cha mẹ, phải đi làm thuê cho nhà này sang nhà khác, mùa này sang mùa khác. Đến làm thuê cho nhà thống lý Pá Tra, khi anh làm mất một con bò, Pá Tra trói đứng anh vào cột, chờ khi có người mang hổ về mới tha cho. Bị trói đứng mấy ngày trời, không ăn, không uống, chịu rét, A Phủ kiệt sức, tưởng chừng như đã chết đến nơi. Từ một chàng trai khỏe mạnh, lạc quan, yêu đời, A Phủ trở thành con trâu cày không công cho nhà thống lý. Phải sống trong xã hội thối nát ấy, con người không còn có quyền sống như một con người nữa, tất cả đều bị phụ thuộc vào kẻ có quyền, có tiền. Số phận của những người dân lao động khu vực Tây Bắc trước Cách mạng tháng Tám là chuỗi ngày tháng đau thương, nơi con người bị vắt kiệt sức lao động.
Nhân vật Mị và A Phủ chính là hiện thân của kiếp đời nô lệ dưới chế độ phong kiến được nhà văn Tô Hoài xây dựng từ những chất liệu hiện thực gần gũi nhất, thẳng thắn nhất. Qua hai nhân vật, tác giả gián tiếp khắc họa cuộc sống và số phận của người dân lao động trước Cách mạng, là tiếng nói mang tính tố cáo, lên án những kẻ lợi dụng chức quyền đã vùi dập con người, đứng trên lập trường của nhân dân, bảo vệ người dân lao động, tố cáo tội ác của quân thù và bọn bất lương. Qua tác phẩm, Tô Hoài cũng gửi gắm sự nâng niu, trân trọng đến nhân vật của mình hay chính là những người dân vùng núi phía Bắc, tìm kiếm sự lay động trong lòng độc giả khi chứng kiến những khó khăn, gian khổ mà nhân vật phải trải qua.
Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 5
Tô Hoài trước 1945 nổi tiếng với tiểu thuyết “Dế mèn phiêu lưu ký”. Đi theo Cách mạng rồi đi kháng chiến chống Pháp, Tô Hoài hoạt động ở vùng rừng núi Tây Bắc. Kết quả rực rỡ của chuyến đi thực tế dài ngày đó là tập “Truyện Tây Bắc” ra đời, được giải nhất giải thưởng Hội Văn Nghệ Việt Nam 1954 – 1955. “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm hay nhất trong trong truyện “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài. Truyện đã diễn tả quá trình giác ngộ và vùng dậy chống phong kiến và đế quốc của các dân tộc Tây Bắc dưới sự lãnh đạo vủa Đảng. “Vợ chồng A Phủ” cũng là kết quả của một quá trình chuyển biến đến độ chín muồi của tư tưởng và tình cảm nhà văn. Tình cảm của tác giả đã quyện lẫn với tình cảm của dân tộc anh em một cách chan hòa tự nhiên, đó là tấm lòng biết ơn, thủy chung, tình nghĩa đối với các vùng du kích đã tiếp tế che chở cho cán bộ, bộ đội hoạt động ở vùng địch hậu Tây Bắc.
“Vợ chồng A Phủ” tố cáo sâu sắc tội ác của bọn phong kiến miền núi Tây Bắc đối với các dân tộc vùng cao. Tác phẩm đã nói lên một cách đau xót nỗi thống khổ bao đời của các dân tộc anh em ở Tây Bắc dưới ách đô hộ của thực dân Pháp và bè lũ tay sai là quan lang, quan châu, phìa (Thái), tạo (Mường), thống lí (H’Mông). Dưới chế độ thống trị tàn bạo man rợ của bọn thống lí, quan bang, những người đi ở trừ nợ như A Phủ, làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí như Mị là những “kiếp trâu ngựa”, khốn khổ, nhục nhã ê chề. Thật ra những kiếp người như Mị, như A Phủ là những kẻ nô lệ ở vùng cao. Bọn thống lí là một thứ “vua” ở vùng cao, chúng có quyền sinh quyền sát đối với người dân Tây Bắc.
Chúng có quyền bắt bớ, đánh đập, bắt làm nô lệ, gả bán, thậm chí có thể giết người một cách dã man (trong truyện có nhắc đến một người con gái bị trói đứng rồi chết và A Phủ thì suýt chết). Chỉ trong một truyện ngắn mà tác giả đã mô tả được bức tranh toàn cảnh về giai cấp thống trị Tây Bắc, giá trị hiện thực của tác phẩm thật là sâu sắc. Mị là một cô gái đẹp (tả gián tiếp ví như những đêm tình mùa xuân, con trai đến đứng nhẵn đầu buồng Mị…), tài hoa (biết thổi khèn, thổi sáo, thổi lá cũng hay như thổi khèn) và giàu tình cảm. Vẻ đẹp của Mị gợi nhớ Kiều. Sinh ra trong một gia đình nghèo, Mị bị A Sử, con trai thống lí cướp về làm vợ để trừ nợ. Mị là vợ của A Sử nhưng thực ra chỉ là một người đầy tớ, một nô lệ của gia đình thống lí. Mị lặng lẽ như một con rùa trong xó cửa, quanh năm chỉ biết vùi đầu vào những công việc lao động nặng nhọc “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp… Bao giờ cũng thế, suốt đời suốt năm như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào làm việc cả đêm, cả ngày”. Ngày tết, A Sử trói Mị trong buồng tối rồi rủ bạn đi chơi. Tô Hoài, qua nhân vật Mị còn phản ánh những tập tục man rợ của các dân tọc vùng cao. Người đàn bà khi bị cướp về trình ma thì vô hình người đàn bà (mà Mị là điển hình) đã trói cả đời mình vào nhà ấy. Nếu chẳng may chồng chết thì người ấy phải làm vợ người khác trong nhà, có khi là một người anh chồng già lụ khụ, có khi là một người em chồng còn ở tuổi trẻ con, và nếu chồng lại chết, lại vẫn phải ở với một người đàn ông khác vẫn trong nhà ấy… Phải suốt đời ở trong nhà ấy, Mị chết dần chết mòn ở trong nhà của thống lí. Ngoài những lúc còng lưng làm việc như con trâu, con ngựa thì Mị lại bị nhốt trong cái buồng kín mít chỉ được nhìn ra ngoài qua một cái
“lỗ vuông bàng bàn tay, lúc nào trông ra cũng thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”
A Phủ là chàng trai H’Mông nghèo khỏe mạnh, chạy nhanh như ngựa, săn bò tót rất giỏi. Con gái trong bản rất thích A Phủ, “đứa nào lấy được A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà”. A Phủ cũng là một thanh niên yêu tự do. Ngày Tết, A Phủ rủ bạn đi chơi đánh pao, A Sử đến phá đám bị A Phủ đánh. Thống lí Pá tra bắt A Phủ đánh đập, hành hạ, phạt vạ một trăm đồng bạc trắng. A Phủ phải ở cho thống lí trừ nợ. Thế là trong nhà thống lí có thêm một con người bất hạnh nữa làm nô lệ. Mị thì làm tôi tớ trong nhà, còn A Phủ thì làm tôi tớ ngoài rừng. “Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. A Phủ một mình ngoài rừng, trên núi cao đốt nương chăn bò, săn bò tót… Chẳng may một lần động rừng, hổ xuống ăn mất một con bò. Thống lí đã bắt A Phủ trói đứng suốt ngày đêm ngoài trời. Đó thể nói cha con thống lí Pá Tra và bọn tay chân như lí dịch, quan lang, xéo phải… là những điển hình cho giai cấp thống trị tàn bạo, man rợ của vùng cao Tây Bắc. Mị và A Phủ – Hai số phận bi thảm là hiện thân của thứ nô lệ của chế độ phong kiến man rợ ở Tây Bác. Nhưng Tô Hoài không dừng lại ở việc phản ánh bản chất tàn bạo, dã man của giai cấp thống trị Tây Bắc, nhà văn còn đi sâu vào bản chất của cuộc sống của dân tộc vùng cao, phản ánh sức sống mãnh liệt của các dân tộc Tây Bắc và sự vùng dậy chiến thắng của các dân tộc Tây Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Mị bị trói buộc, bị chà đạp nặng nề, nhưng trong sự câm lặng của Mị tiềm tàng một sự sống mãnh liệt. Ngày Tết, Mị cũng muốn đi chơi, nhưng bị A Sử trói vào cột nhà, quấn tóc vào cột. “Cả đêm Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu toả. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa”. Sự đàn áp tàn bạo ấy cũng không thể nào dập tắt được sức sống của tuổi xuân, không thể nào dập tắt được ngọn lửa của tình yêu. Đau khổ ê chề như thế, nhưng chỉ nhìn thấy A Phủ bị trói là Mị lại động lòng, thương. “Trời ơi, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi…Người kia việc gì phải chết thế”. Đấy là biểu hiện của sự nổi lạon trong lòng, Còn đây là hành vi nổi loạn của Mị: Nàng đã cắt dây trói cho A Phủ cũng chính là nàng tự cắt dây trói vô hình trói nàng vào gia đình thống lí Pá Tra. Rồi cả hai cũng lao chạy xuống dốc núi. Mị đã tự giải thoát khỏi ách áp bức nô lệ của chế độ phong kiến tàn bạo, dã man. Sức sống tiềm tàng trong con người Mị đã trỗi dậy. Tuổi trẻ, sức xuân, tình yêu đã chiến thắng bạo tàn. Khi sắc xuân đã đầy ắp trong vườn thì một bông hạnh chìa ra ngoài tường nở là điều tất nhiên:
“Xuân sắc mãn viên quan bất trú
Nhất chi hồng hạnh xuất tường lai”
(Du viên bất trị – Chơi vườn không được vào)
Mị và A Phủ đã đi mệt một tháng đường rừng. Họ đến Phiềng Sa và đã thành vợ chồng – vợ chồng A Phủ. Họ tự dựng nhà dựng cửa làm ăn sinh sống ở Phiềng Sa. Họ mơ ước có một gia đình hạnh phúc. Nhưng giặc Pháp lại tràn đến Phiềng Sa. Gia đình A Phủ bị cướp bóc. A Phủ bị giặc Pháp bắt hành hạ. Nhưng A Phủ vẫn chưa hiểu được vì sao anh lại bị giặc Pháp bắt, anh lại “thù cán bộ” vì thằng Tây bảo anh nuôi cán bộ nên mới bắt lợn của anh, đánh đập anh, cắt tóc anh. Được A Châu giác ngộ, vợ chồng A Phủ đã tham gia đội du kích chống Pháp ở Phiềng Sa. Vợ chồng A Phủ đã từ đấu tranh tự phát vươn lên tự giác. A Phu trở thành đội trưởng đội du kích Phiềng Sa. Mị đã giúp việc đắc lực cho A Phủ. từ đấu tranh giải thoát áp bức phong kiến, đến tham gia kháng chiến chống Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng, đó cũng là hiện thực sâu sắc của quá trình phát triển các dân tộc Tây Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
“Vợ chồng A Phủ” có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm đã phản ánh trung thực quá trình giác ngộ và vùng dậy của Mị và A Phủ, qua đó phản ánh được sự trưởng thành của các dân tộc Tây Bắc dưới ánh sáng của Đảng. Đồng thời tác phẩm cũng phản ánh được chính sách nhân đạo của Đảng đối với các dân tộc anh em là giải phóng người lao động bị áp bức, bóc lột, giải phóng mọi sức sống đang bị các thế lực thống trị kìm hãm, trói buộc. Chính vì có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc mà truyện “Vợ chồng A Phủ” có sức hấp dẫn và có giá trị bền lâu.
Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 6
Tô Hoài là một trong những cây bút lão luyện của làng văn học Việt Nam với sự nghiệp văn chương đồ sộ bao gồm nhiều thể loại phong phú, độc đáo. Được mệnh danh là “Nhà văn của thiếu nhi”, giọng văn của Tô Hoài luôn mang phong vị tự nhiên, hồn hậu, ngôn ngữ trong sáng, dễ hiểu, dễ cảm. Tác phẩm nổi bật nhất của ông sau Cách mạng Tháng 8 phải kể đến “Vợ chồng A Phủ”, một kiệt tác văn chương được thai nghén và hoàn thiện trong chuyến đi thực tế lên vùng Tây Bắc của tác giả. Với khả năng xây dựng hình tượng nhân vật điển hình cùng lối viết chân thực, “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm mang giá trị hiện thực sâu sắc, đả kích và lên án sự bất công trong xã hội phân chia giai tầng đã vùi dập con người đến tận cùng khổ đau, đồng thời bêu riếu bọn cường hào, thống lý tàn ác, phơi bày những thế lực đen tối tồn tại ở khu vực vùng núi phía Bắc trước Cách mạng.
Giá trị hiện thực là những điều diễn ra trong cuộc sống, được tác giả khéo léo lồng ghép vào tác phẩm tạo nên ý nghĩa phản ánh hiện thực của một thời kì, một chế độ trên nhiều phương diện, góc nhìn khác nhau. Đây là yếu tố cốt lõi của một tác phẩm văn học, nhất là văn học hiện thực, là bức họa cuộc sống được sàng lọc một cách kĩ lưỡng nhằm nêu bật lên được những đặc điểm điển hình của một thời kì, giai cấp. Phần lớn giá trị hiện thực của các tác phẩm văn học đều mang tiếng nói chung của đại đa số quần chúng đương thời, là bản cáo trạng đối với những thói hư tật xấu và là tiếng lòng thổn thức của những người thấp cổ bé họng, không có tiếng nói trong xã hội.
Với “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã tự mình thâm nhập vào cuộc sống của những người lao động Tây Bắc để có thể thấm nhuần được suy nghĩ, cảm nhận xuất phát từ tấm lòng thiện lương của con người nơi đây. Từ đó, ông thấu hiểu được nỗi đau đớn, tủi cực đang ngày đêm day dứt, trăn trở, thông qua ngòi bút và vốn hiểu biết, Tô Hoài đã xây dựng một cốt truyện cùng các tuyến nhân vật Mị, A Phủ,… như một bức tranh sự thật, nói lên cuộc sống bi kịch của nhân dân lao động cần cù, chăm chỉ, bóc trần bộ mặt hèn ác, xấu xa của những kẻ có chức quyền trong xã hội.
Đoạn trích kể về số phận nghiệt ngã của nhân vật Mị, một cô gái hiền lành, chăm chỉ nhưng không may lại mang thân phận “món đồ gạt nợ”, bị gả vào nhà thống lý Pá Tra do món nợ truyền đời từ cha mẹ để lại. Tại đây, cô phải làm việc quần quật, bị bòn rút hết tất cả sự sống và sức phản kháng, tưởng chừng như không có con đường giải thoát nào. Rồi cô gặp được A Phủ, một nạn nhân của cha con thống lý Pá Tra. Chứng kiến số phận khổ đau giống mình, Mị như được tiếp thêm nguồn sức mạnh, dám đứng lên chống lại số phận, cùng A Phủ bỏ trốn, tìm đến một cuộc sống, nơi mà họ có thể sống như một con người thực thụ.
Giá trị hiện thực của “Vợ chồng A Phủ” được lột tả qua cuộc sống bi kịch của người lao động vùng Tây Bắc, điển hình là hai hình tượng nhân vật Mị và A Phủ. Giới thiệu nhân vật Mị, Tô Hoài không chọn cách kể về tên tuổi, quê quán, hay thậm chí một câu tả dáng hình cũng chẳng được xuất hiện, chỉ vỏn vẹn: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Người ta nói: nhà Pá Tra làm thống lý, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải con gái thống lý: cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lý.” Đoạn văn mở đầu để lại cho người đọc một nỗi ám ảnh về kiếp người mòn, một số phận đau thương dai dẳng không dứt. Nét mặt buồn rười rượi của Mị chính là lời tố cáo chân thực nhất về tội ác của cha con thống lý Pá Tra đã đè nặng lên cả một kiếp người, không chỉ khiến độc giả đau xót, mà còn khơi gợi sự căm tức, phẫn nộ, cảm thông với nhân vật.
Cuộc sống giữa địa ngục trần gian của Mị được coi là điển hình, khái quát toàn bộ những khó khăn, khổ đau mà nhân dân lao động khu vực miền núi phía Bắc trước Cách mạng. Tô Hoài mượn hình ảnh của Mị để nêu bật được lên chất hiện thực về cuộc đời đắng cay, tủi nhục của những người dân hiền lành, chất phác phải chịu đựng. Bị bắt về làm dâu cho nhà giàu, cuộc đời của Mị từ một cô gái xinh đẹp, hay lam hay làm thành một “con rùa nuôi trong xó cửa”, lúc nào cũng cúi mặt, “mặt buồn rười rượi” lầm lũi, không nói năng gì. Chúng coi cô là công cụ lao động để làm giàu, “mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế. Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Số phận của Mị thậm chí còn không bằng con trâu, con ngựa trong nhà thống lý. Hơn nữa, cô Mị còn bị bóc lột tinh thần đến mức mất đi sức phản kháng vốn tiềm tàng trong những số phận bất hạnh. Cô bị trói, bị đánh tưởng đến chết trong đêm Tết ở Hồng Ngài. Từ một cô gái dám uống rượu để quên đi sầu khổ, dám chuẩn bị đi chơi trong đêm tình mùa xuân, giờ đây chỉ còn lại là cái xác không hồn, quanh năm làm lụng, không bao giờ dám nghĩ đến việc bỏ trốn hay tìm cách thoát ra khỏi số phận bi phẫn của mình. Để nói về cuộc đời của Mị, Tô Hoài viết: “Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn nghĩ đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử. ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi.”. Người ta thấy trèo lên những cảm thương sâu sắc ở nhân vật, rõ ràng là một người con gái đang tuổi xuân phơi phới như thế, nhưng lại chỉ quẩn quanh suy nghĩ mình là con trâu, con ngựa, câm lặng cam chịu làm bạn với cái khổ đau. Còn đâu cô Mị dám trốn nhà Pá Tra về gặp bố mẹ, còn đâu những tia hy vọng nhen nhóm, ăn lá ngón để giải thoát cho số phận, và còn đâu những cuộc chơi đêm tình mùa xuân sôi động, náo nhiệt, những câu hát văng vẳng tìm bạn “tao không có con gái con trai, tao đi tìm người yêu”. Cuộc sống của Mị gói gọn trong bốn bức tường, chỉ chừa ra cái ô cửa sổ nhỏ bằng bàn tay. Tưởng như tuổi xuân và cả cuộc đời Mị sẽ mãi mãi ở ngoài bốn bức tường ấy, chẳng khác nào bị giam lỏng cả một đời người ở chốn ngục tù trần gian.
Một trong những chi tiết độc đáo nhất tác phẩm mang tính hiện thực sâu sắc là cảnh cô Mị bị trói cả đêm ở cột nhà khi A Sử nhìn thấy Mị đang chuẩn bị đi chơi. Đặt vào bối cảnh thực tế, Mị là một cô gái trẻ trung, dồi dào sức sống. Niềm khao khát được đi tìm bạn bè, đi chơi trong đêm tình mùa xuân là lẽ hiển nhiên, nhưng, tất cả những tia hy vọng đó của Mị đã lập tức bị dập tắt khi cô bị chính người chồng của mình trói đứng vào cột nhà bằng sợi mây một cách tàn bạo. Cái đau khổ lên đến tột cùng, ngay đến những ước muốn nhỏ nhoi và đơn giản nhất, Mị cũng không thể thực hiện được. “Mị không nói. A Sử cũng không hỏi thêm. A Sử bước lại, nắm Mỵ, lấy thắt lưng trói hai tay Mỹ. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mỵ xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, Mỵ không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong, A Sử thắt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi phẩy tay tắt đèn, đi ra khép cửa buồng lại.”, “Cả đêm Mỵ phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức”, “Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau đứt từng mảnh thịt.”. Cái đau thể xác có thể diễn tả, nhưng nỗi đau tinh thần như từng vết roi hằn lên tâm hồn Mị. Cô gái tội nghiệp đến đáng thương ấy, chỉ vì muốn đi chơi như bao người khác mà bị hành hạ dã man, bị trói đứng trong đêm tối cô quạnh. Người đọc bỗng đặt ra câu hỏi rằng, liệu còn biết bao nhiêu mảnh đời bất hạnh như thế nữa vẫn còn đang tồn tại, biết bao cô con gái sa chân vào làm dâu nhà quan to, tưởng được sống hạnh phúc, đủ đầy, cuối cùng lại trở thành kiếp trâu ngựa tủi hờn, nhục nhã. Tô Hoài không trực tiếp lên án xã hội cổ hủ lạc hậu, bất nhân, coi người như cỏ rác, nhưng thông qua hình ảnh của Mị, mọi đường nét thực tại đều được khắc họa một cách chân thực, rõ ràng. Hiện thực về cuộc sống lao động khổ đau, hiện thực về thân phận mòn mỏi, hiện thực về cái ác đang ngày ngày hiện hữu, tất cả đều được tác giả khai thác và phơi bày trước ánh sáng.
Xây dựng hình tượng nhân vật A Phủ, tác giả muốn phản ánh hiện thực về cuộc sống của người dân lao động tuy xuất thân thấp kém, cuộc đời lam lũ vất vả nhưng lại chịu thương chịu khó, sức khỏe dồi dào, không may số phận lại rơi vào tay cha con nhà thống lý độc ác. Cái khổ đau của A Phủ được thể hiện qua những trắc trở trên đường đời, “Bố mẹ đẻ A Phủ ở Hàng Bài. Năm xưa, làng Hắng Bìa phải một trận bệnh đậu mùa, nhiều trẻ con, cả người lớn chết, có nơi chết cả nhà. Còn sót lại một mình A Phủ. Có người làng đói bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. A Phủ mới mười một tuổi, nhưng A Phủ gan bướng, không chịu ở cánh đồng thấp. A Phủ trốn lên núi, lưu lạc đến Hồng Ngài. Đi làm cho nhà người, lần nữa mùa này sang mùa khác.”, khi anh bị trói mang về nhà Pá Tra, bị đánh đập tàn bạo bởi bọn trai làng. Bọn chúng bắt sống anh về như bắt một con vật, đánh đập anh tàn bạo đến nỗi “môi và đuôi mắt dập chảy máu”. Đỉnh điểm là khi anh làm mất một con bò, Pá Tra trói đứng anh vào cột, chờ đến khi có người mang hổ về mới tha cho anh. Bị trói đứng mấy ngày trời, không ăn, không uống, chịu rét, A Phủ kiệt sức tưởng như chết đi đến nơi. Từ hình ảnh một chàng trai khỏe mạnh, tràn đầy niềm lạc quan, yêu đời, A Phủ trở thành con trâu cày không công cho nhà thống lý. Sống trong xã hội thối nát, mục ruỗng ấy, con người không còn có quyền sống như một con người, tất cả đều bị phụ thuộc vào kẻ có quyền, có tiền. Sự thật về số phận của những người dân lao động khu vực Tây Bắc trước Cách mạng Tháng tám là chuỗi những ngày tháng đau thương, nơi con người bị vắt kiệt sức lao động, nơi cái ác ngự trị và tính mạng người dân chỉ giống như con vật nuôi trong nhà.
Mị và A Phủ là hiện thân của kiếp đời nô lệ dưới chế độ phong kiến, được Tô Hoài xây dựng từ những chất liệu hiện thực gần gũi nhất, thẳng thắn nhất. Qua hai nhân vật, tác giả gián tiếp khắc họa cuộc sống và số phận của người dân lao động trước Cách mạng, là tiếng nói mang tính tố cáo, lên án những kẻ lợi dụng chức quyền đã vùi dập con người, đứng trên lập trường của nhân dân, bảo vệ người dân lao động, tố cáo tội ác của quân thù và bọn bất lương.
Giá trị hiện thực còn được tác giá khai thác sắc bén nhằm phơi bày những kẻ lợi dụng chức quyền, những thế lực đen tối ở miền núi phía Bắc trước Cách mạng nhằm vùi dập, chà đạp con người. Hình tượng cha con nhà thống lý Pá Tra, bọn xéo phải, thống quán chính là hiện thân của tội ác áp bức, bóc lột, coi số phận con người rẻ mạt như trâu ngựa, mặc sức bóc lột, hành hạ. Đặt trong hoàn cảnh đặc trưng của khu vực miền núi xa xôi, hẻo lánh, dân trí thấp, tư tưởng cổ hủ, lạc hậu và những hủ tục truyền đời, thực dân Pháp đã sử dụng bọn quan lại như tay sai nhằm kìm kẹp nhân dân lao động dưới ách thống trị, bóc lột. Chúng tiếp tay cho chính dân ta hãm hại lẫn nhau vì miếng ăn, vì quyền lực, kẻ có quyền được mặc sức nhũng nhiễu, thu bạc thu vàng, lại được cho muối, cho thuốc phiện về bán nhằm tư lợi cá nhân. Chính điều này đã làm cho mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội ta ngày một rõ ràng, nhóm lên lòng căm thù đối với bọn quan liêu đốn mạt, bê tha. Một trong những đoạn văn miêu tả chân thực nhất của tác phẩm phải kể đến cảnh A Phủ bị trói, bị đánh phạt vạ. Bị chịu đòn từ các trai làng, anh chỉ biết đứng im, không dám nhúc nhích hay chống trả vì mang tội đánh con trai thống lý. Cái tàn ác thể hiện ở chỗ, tên A Sử gây sự đánh nhau, nhưng khi bị đánh lại được bênh vực, được cha đi tìm kẻ đã đánh con trai mình về hành hạ, trong khi A Phủ, vì không có cha mẹ, vì thân phận hèn kém lại phải chịu đòn, chịu phạt. “A Phủ quỳ chịu tội ở xó nhà, không được dự tiệc phút ấy.”, “A Phủ ra quỳ giữa nhà. Lập tức, bọn trai làng xô đến, trước nhất, chắp tay lạy lia lịa lên thống lý rồi quay lại đánh A Phủ. A Phủ quỳ chịu đòn, chỉ im như cái tượng đá… Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Người đánh, người quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kẻ, chửi, lại hút. Khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn qua các lỗ cửa sổ. Rồi Pá Tra lại ngóc cổ lên, vuốt tóc, gọi A Phủ… Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút.”, “A Phủ lê hai cái đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù. A Phủ cúi sờ lên đồng bạc trên tráp, trong khi Pá Tra đốt hương, lầm rầm khấn gọi ma về nhận mặt người vay nợ. Pá Tra khấn xong, A Phủ cũng nhặt xong bạc, nhưng chỉ nhặt làm phép lên như thế rồi lại để ngay xuống mặt tráp. Rồi Pá Tra lại trút cả bạc vào trong tráp.”. Tất cả những chi tiết ấy thể hiện sự tàn bạo, coi người như rơm rác của bọn quan lại, dã man xuống tay đánh đập trong khi bọn chúng thảnh thơi hút thuốc, chửi bới, thóa mạ. Thật không thể tưởng tượng được lại tồn tại một xã hội thối rữa, nơi nhân phẩm con người không bằng một con vật, kẻ phạm tội lại là quan tòa, người vô tội lại trở thành con nợ mạt kiếp, bị đánh đập tàn ác. Phải chăng, đây chính là những góc khuất đã được thế lực đen tối dung túng để bọn quan liêu mặc sức tung hoành, nhũng nhiễu, bóc lột dân chúng, bợ đỡ bọn Tây nhằm trục lợi, vơ vét của cải.
Tội ác của cha con thống lý Pá Tra thật không kể xiết, chúng không thương xót một ai, không chừa cả những số phận yếu đuối, không có khả năng chống cự. Thân phận gạt nợ của Mị cũng bắt nguồn từ món nợ giữa bố của thống lý Pá Tra và bố mẹ Mị “Ngày xưa bố Mị lấy mẹ Mị không đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lý, bố của thống lý Pá Tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng về già mà cũng chưa xong nợ. Người vợ chết, cũng chưa trả hết nợ.” món nợ truyền đời từ bố mẹ sang con cháu đã cho thấy sự bóc lột của kẻ nắm quyền, không một sự thương xót với người già, trẻ nhỏ hay cả những gia đình bần hàn, cơ cực. Cái duy nhất bọn chúng quan tâm là lợi ích, tiền của. Dường như, tình người không hề tồn tại với cha con thống lý Pá Tra. Cuộc đời Mị từ lúc bị lừa bắt về làm dâu, sống lặng lẽ “như một con rùa nuôi trong xó cửa”, làm việc quần quật “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì nhặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp…”, đến khi bị hành hạ cực khổ, bị trói, bị đánh,… giống như một bản án buộc tội thế lực quan lại độc ác, vô nhân tính, là bản cáo trạng chân thực nhất về tội ác của cha con thống lý Pá Tra đã đè nặng lên cả một kiếp người, không chỉ khiến độc giả đau xót, mà còn khơi gợi sự căm tức, phẫn nộ, cảm thông với nhân vật.
Tô Hoài không phê phán một cách trực tiếp, nhưng chính từ những hành động của thống lý Pá Tra đối với A Phủ và Mị, bị đẩy vào số phận con sâu cái kiến, người đọc đã nhận ra được bộ mặt bóc lột, lên án gay gắt chế độ quan lại trong xã hội thực dân nửa phong kiến khu vực miền núi Tây Bắc đã khiến biết bao con người khỏe mạnh, chịu thương chịu khó trở thành tay sai cho chế độ bóc lột bạo tàn. Giá trị hiện thực của tác phẩm là phơi bày được bộ mặt xấu xa của chế độ phong kiến lỗi thời, đốn mạt, nơi những kẻ ác nghiệt nắm mọi quyền sinh quyền sát trong tay, nơi kiếp người bị rẻ rúng, không bằng con trâu, con ngựa.
Tô Hoài đã xuất sắc trong việc tái hiện lại bức tranh hiện thực về số phận những con người khốn khổ nơi vùng núi cao, đồng thời lên án, vạch mặt những thế lực đen tối đã vùi dập, chà đạp con người. Bằng nghệ thuật miêu tả đặc sắc, xây dựng tâm lý nhân vật qua hành động, cử chỉ và sự tiến bộ trong suy nghĩ của nhân vật, tác giả không chỉ khiến cho người đọc hình dung một cách rõ ràng về những góc khuất trong xã hội xưa mà còn thể hiện sự thương cảm, xót xa với những người dân lao động vô tội. Xét cho cùng, văn học chính là hiện thực được phản ánh một cách chắt lọc, mục đích của văn học là khơi gợi sự đồng cảm nơi độc giả. Trên phương diện ấy, Tô Hoài đã hoàn thành một cách trọn vẹn với tư cách một người quan sát, một nhà truyền đạt, là sợi dây kết nối giữa bạn đọc và những con người họ chưa từng một lần gặp gỡ.
Giá trị hiện thực của “Vợ chồng A Phủ” là hiện thực cuộc sống của những người dân Tây Bắc, cần cù, chăm chỉ, chân phương nhưng bất hạnh, khổ cực. Qua hai hình tượng nhân vật điển hình, tác giả đã khái quát toàn bộ không gian xã hội thực dân nửa phong kiến nơi vùng cao, đồng thời lên án mạnh mẽ, phơi bày bộ mặt tàn bạo và các thế lực đen tối đã tồn tại và chèn ép con người đến bước đường cùng. Qua tác phẩm, Tô Hoài cũng gửi gắm sự nâng niu, trân trọng đến nhân vật của mình hay chính là những người dân vùng núi phía Bắc, tìm kiếm sự lay động trong lòng độc giả khi chứng kiến những khó khăn, gian khổ mà nhân vật phải trải qua.
Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 7
Thật vậy, văn chương được khơi từ cuộc sống, từ những hiện thực tươi đẹp nhất hay thậm chí là phũ phàng nhất. Mà điều ấy, chỉ khi được trái tim của nhà văn thấy được, hiểu được và truyền đạt qua văn chương thì ta mới thấy các giá trị riêng biệt ấy, thấy một xã hội, con người qua đấy ra sao. Trong hằng hà các tác phẩm ấy, ta phải nói đến Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, các sáng tác của ông thường diễn tả các sự thật đời thường, với vốn từ vựng phong phú, lối trần thuật hóm hỉnh các tác phẩm của nhà văn mang đến cho người đọc một dấu ấn riêng biệt. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc, một thành quả nghệ thuật từ chuyến đi thực tế của nhà văn. Tác phẩm tố cáo sự khắc nghiệt, bộ mặt tàn ác của chế độ phong kiến miền núi qua nhân vật Mị và A Phủ.
Mị, một cô gái xinh đẹp như bông hoa nở giữa núi rừng Tây Bắc, cô gái có tài thổi sáo. Cái vẻ đẹp mà “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Ấy vậy mà cái món nợ của nhà Mị, từ lúc “bố Mị lấy mẹ Mị không có đủ tiền cưới” phải đi vay nhà thống lí Pá Tra, đến nay khi mẹ Mị mất mà vẫn chưa trả hết. Cái món nợ ấy đã biến Mị trả thành “con dâu gạt nợ”. Món nợ đã biến cô gái yêu đời khi nào trở thành con người vô cảm với cái chết, không màng đến mọi thứ xung quanh. Cái đêm trở về từ nhà bố Mị, Mị đã không còn ý định ăn lá ngón tự tử nữa. Mị phải sống, phải trả nợ thay cho bố, “Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa”. Cái món nợ từ đời này đến đời khác hay chính cường quyền và những hủ tục không cho phép Mị chết. Nó bắt Mị phải sống để làm việc cho nó. Đến nỗi, “ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi”, “Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”. “Mỗi ngày Mị lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay… Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra đến bao giờ chết thì thôi”. Tô Hoài dường như mượn sự im lặng, lầm lũi để nói lên cái tàn ác của cường quyền. Chúng không cho người ta có cơ hội sống tự do, một cuộc sống mà đáng nhẽ ra Mị có thể tự mình chọn lựa. Mị có thể “làm nương ngô giả nợ thay cho bố”, ấy vậy mà cũng bắt đi mất, đem về cúng trình ma rồi trở thành con người không sợ chết nữa. Cứ thế mà sống, không còn cảm xúc, cũng không định ăn lá ngón tự tử. Cuộc đời Mị coi như dấu chấm hết từ khi mang danh “con dâu gạt nợ”. Tuy thế,nhưng khi Mị nhận thức lại về cuộc sống,Mị muốn được đi chơi. “Mị còn trẻ.Mị muốn đi chơi. Mị với tay lấy cái váy hóa vắt ở phía trong vách” đốt ngọn đèn dầu thắp sáng căn phòng, hay còn thắp lại cuộc sống của chính cô. Ấy vậy mà “chúng nó thật độc ác”, A Sử trói Mị lại, nó “quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa”. Cổ tay, hay cơ thể Mị bị dây trói chặt, “đau đứt từng mảnh thịt”. Mị nhớ tới sống phận của người đàn bà cũng bị trói thế này. Bị trói tới chết, Mị sợ mình cũng thế, Mị muốn được sống, muốn nghe tiếng sáo khi mùa xuân về. Nhưng “đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng”. Tô Hoài đã lên án mạnh mẽ thế lực thống trị đã vùi dập, chà đạp lên quyền sống của họ.
Ngay cả A Phủ cũng biến thành nô lệ, cũng bị bọn người nhà thống lí Pá Tra áp bức. A Phủ, chàng thanh niên khỏe mạnh, bản lĩnh và được “con gái trong làng nhiều người mê”. “Đứa nào được A Phủ cũng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Ao ước thì thế thôi, mơ ước một gia đình hạnh phúc A Phủ cũng có. Nhưng nào dễ dàng đến vậy, “phép rượu cũng chẳng to hơn phép làng, còn tục lệ cưới xin”. Cái thần quyền ấy đã kìm hãm ước mơ một con người, huống chi A Phủ còn không có bố mẹ, không có tài sản, không ruộng vườn trong tay. Sự túng quẫn ấy, sự nghèo khó đã bị bọn cường quyền nắm thóp. Thống lí Pá Tra gán cho A Phủ tội đánh con quan, phải chịu phạt một trăm bạc trắng. “Mày không có trăm bạc thì tao cho mày vay để mày ở nợ”. Trong cái đêm đầy khói thuốc của “tiệc hút” nhà thống lí, cái đêm sau khi “khấn gọi ma về nhận mặt người vay nợ” đã chính thức biến A Phủ thành người ở trừ nợ nhà thống lí. Một thân một mình bôn ba, rong ruổi ngoài gò rừng, đốt rừng cày nương, săn bò tót…” tất thảy A Phủ phải làm để trả cho xong món nợ đó. Nếu không “đời mày, đời con,đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Vậy thì còn gì tự do, còn đâu mơ ước một mái ấm hạnh phúc trong tình cảnh éo le thế này. Chỉ vì mất con bò vào con hổ rừng đang đói. A Phủ bị trói lại như cách chúng trói Mị, đến khi nào bắn được hổ mới tha. “Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Dòng nước mắt bất lực khi đối diện với cái chết. Sự cô đơn trên con đường đi tìm sự sống của A Phủ. Hay còn là của một xã hội lúc bấy giờ. Họ muốn sống, muốn được tự do. Tô Hoài cảm nhận được điều đó, ông đã có mặt trong từng thời khắc của nhân vật. Sự giải thoát của Mị đối với A Phủ cũng là sự giải thoát của nhà văn đối với họ, là sự cảm thương sâu sắc, sự căm phẫn đến tột cùng dành cho chế độ thần quyền, cường quyền lúc bấy giờ.
Tóm lại, với sự am hiểu về phong tục, tập quán của vùng miền khác nhau, vốn từ vựng phong phú, Tô Hoài đã tạo nên tác phẩm đầy sức sống, có giá trị hiện thực cao, thấm đượm màu sắc và phong vị dân tộc. Qua đó truyền tải về khát vọng sống của người dân lao động vùng cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức. Đó chính là giá trị hiện thực của truyện ngắn thông qua nhân vật vợ chồng A Phủ.
Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 8
Một tác phẩm có giá trị là thông qua việc phơi bày chân thực về cuộc sống, số phận của con người, tác phẩm đã lên án, tố cáo các thế lực chà đạp lên quyền sống của con người, đồng cảm với ước mơ, khát vọng chính đáng của con người, trân trọng phẩm chất tốt đẹp của con người và mở ra hướng giải quyết cho con người thoát khỏi tình cảnh hiện tại. Những tác phẩm có giá trị hiện thực thể hiện góc nhìn tinh tế và nhạy bén, cũng như tấm lòng của nhà văn hướng về con người và cuộc đời. Thông qua cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ, cuộc sống của con người miền núi hiện lên thê thảm, nhưng điều đáng quý trong họ là dù có lúc bị bóc lột, chà đạp thì lòng yêu đời và khát vọng sống vẫn âm ỉ sục sôi, chỉ chờ cơ hội là bùng phát mãnh liệt.
Bức tranh hiện thực trong “Vợ chồng A Phủ” trước hết là bức tranh về cuộc đời tăm tối của người nông dân miền núi khi cách mạng chưa giải phóng. A Phủ và Mị hiện lên thân phận những con người đầy tủi nhục. Họ đều là nạn nhân bi thảm của cái nghèo truyền kiếp, của những món nợ truyền kiếp.
Thông qua câu chuyện cuộc đời cặp vợ chồng người Mèo này. Tô Hoài nêu lên vấn đề số phận nam nữ, thanh niên Mèo nói riêng và đồng bào dân tộc nói chung dưới sự áp bức bóc lột của bọn thực dân phong kiến và con đường đến với cách mạng của họ . Bên cạnh đó , tác giả đặt vấn đề cần giải phóng phụ nữ và những chủ trương chính sách của Đảng trong việc giúp đỡ các dân tộc anh em. Những nội dung nói trên đã làm nên giá trị hiện thực của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ.
Qua cuộc đời đau khổ của Mị và A Phủ, Tô Hoài đã lên tiếng tố cáo những tội ác của bọn thực dân phong kiến đối với những người dân vùng núi Tây Bắc . Nhân dân miền núi nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung phải chịu cảnh một cổ hai tròng. Dưới thời thực dân Pháp.
Thống lí là người đứng đầu bộ máy chính quyền ở các bản làng vùng dân tộc. Giàu có, lại dựa vào thế lực của Tây, cha con thống lí Pá Tra tha hồ tác oai tác quái ức hiếp dân lành. Đó là hiện trạng phổ biến xảy ra ở nước ta trước Cách mạng. Bằng chính sách cho vay nặng lãi , chúng bóc lột người dân đến tận xương tủy. Mị và A Phủ là nạn nhân trực tiếp của chính sách ấy. Chỉ vì món tiền cưới cha mẹ mà Mị đã phải bán mình làm dâu nhưng thân phận Mị không khác nào kẻ tôi đòi, làm việc không công đến suốt đời. Cái địa ngục khủng khiếp ấy đã biến Mị từ một cô gái trẻ trung, vui tươi, xinh đẹp, yêu đời thành “ con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa”, thành “ con trâu con ngựa trong chuồng; chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Đối lập hoàn toàn với cuộc sống giàu sang phú quý ở nhà thống lí- mà tác giả đã tố cáo được tạo nên do việc “ ăn của dân nhiều, đồn tây lại cho muối về bán”- với “ nhiều ruộng, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng” là hình ảnh Mị “ ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa , cạnh tàu ngựa “ và “ lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, Mị cũng cúi mặt , mặt buồn rười rượi”. Cường quyền và thần quyền nhà thống lí Pá Tra đã giết chết cô gái ấy cả thể xác lẫn tâm hồn. Mị cùng bao cô gái đáng thương khác trong nhà thống lí – như người chị dâu chưa già mà lưng đã còng vì quanh năm phải đeo thồ nặng quá , còn Mị- phải làm việc cực nhọc suốt đêm ngày để phục dịch cho cha con thống lí ăn chơi quanh năm suốt tháng. Cuộc sống câm lặng nhẫn nhục đã làm Mị chai sạn đi, trở thành cái xác không hồn vật vờ, thành một nữ cô chỉ biết làm việc không ngơi tay, thành kẻ hầu hạ cho chồng mình mà lúc nào cũng có thể bị đánh đập một cách tàn nhẫn không thương tiếc. Ý thức về cuộc sống trong Mị giờ đây đã bị xóa sạch.
Với cô không còn quá khứ, hiện tại, tương lai, chỉ còn ô cửa sổ bé tí nhờ nhờ thứ ánh sáng thảm hại không biết ngày hay đêm, chỉ còn ánh lửa leo lét làm bạn giữa đêm đông dài giá lạnh. Rồi cái mong ước bình dị được đi chơi tết của Mị cũng bị A Sử phũ phàng dập tắt khi nó vừa mới bừng lên. Trong khi A Sử đi chơi và bắt bao nhiêu cô gái đẹp về làm vợ, Mị không dám nói gì. Dù là vợ A Sử , Mị vẫn bị hắn trói dã man vào cột nhà khi cô vừa nảy ra ý muốn đi chơi Tết như bao phụ nữ đã có chồng khác. Thân phận con người , đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội thực dân phong kiến ngày ấy bị coi rẻ quá mức. Người phụ nữ chỉ biết cúi đầu cam chịu. Quyền bình đẳng nam nữ chỉ là một khao khát không bao giờ trở thành hiện thực.
Bên cạnh cô Mị sống như đã chết ấy là A Phủ. Cũng vì món nợ vô lí suốt đời không thể trả nổi mà A Phủ phải bước chân vào nhà thống lí. Cũng chỉ vì yêu lẽ phải, dũng cảm đánh lại con nhà giàu để bảo vệ công lí mà A Phủ bị bắt phạt vạ một cách bất công. Anh bị bắt, bị đánh đập tàn ác : “ Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Xong một lượt đánh, kẻ, chửi, lại hút…Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút…”.Mạng người bị coi rẻ; pháp luật, công lí thuộc về tay kẻ có tiền, có thế lực. Cha con thống lí đã tự cho mình các quyền sinh sát, mặc nhiên ức hiếp , sát hại dân làng. Cũng như Mị, A Phủ trở thành cái máy làm việc trong nhà thống lí : “ Đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót,bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một mình rong ruổi ngoài gò, ngoài rừng”. Người ở đợ trừ nợ cho nhà thống lí thì cũng như con trâu, con ngựa vô tri trong chuồng. Thống lí đã dùng việc cho vay nặng lãi để ràng buộc cuộc đời người nông dân, biến họ thành nô lệ, đời đời kiếp kiếp. Thống lí Pá Tra đã tuyên bố: “ Đời mày, đời con, đời cháu mày, tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ tao mới thôi”. Cha con thống lí thản nhiên mặc sức hưởng lạc trên mồ hôi công sức người khác. Rồi do nguyên nhân khách quan gặp cơn đói rừng, hổ ăn mất một con bò- đó là chuyện hoàn toàn ở miền núi và A Phủ có khả năng chuộc lại lỗi lầm vậy mà A Phủ vẫn đành phải chấp nhận tự lấy dây, lấy cọc cho thống lí trói mình vào cọc một cách nhục nhã để thế mạng cho con bò bị mất. Số phận đau khổ nghiệt ngã của Mị và A Phủ cũng là số phận của đồng bào Tây Bắc trước cách mạng nói riêng và người nông dân Việt Nam nói chung.
Tức nước vỡ bờ, Mị cởi trói cho A Phủ và cùng A Phủ chạy trốn. Lòng nhân đạo, niềm khao khát cuộc sống tự do, sự căm thù sâu sắc cha con thống lí đã làm nên sức mạnh diệu kì ở Mị. Nhưng tất cả những điều đó là khởi phát từ bản tính hướng thiện tự nhiên của con người. Mị làm như vậy vì cô không còn cách nào khác, cô không đành lòng nhìn một con người bằng xương bằng thịt chết thê thảm trước mắt mình một cách vô lí. Điều này hoàn toàn phù hợp với bản chất của cô: nhân hậu , trong sáng, yêu đời. Hành động của cô mang tính tự phát. Thế nhưng, Mị và A Phủ sẽ trốn đi đâu, làm gì? Hay là họ lại sẽ rơi vào tay một thống lí Pá Tra khác, lại tiếp tục cảnh nô lệ cùng cực? Tô Hoài đã mở đường cho họ: đến với Đảng, đi theo cách mạng. Đó mới là con đường để họ tự đứng lên giải phóng mình , tháo bỏ ách xiềng xích nô lệ. Đảng đã không quên những dân tộc anh em, những người dân miền núi chất phác, trung thực, còn đang chịu cảnh áp bức. Đó cũng là chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng ta trong thời kì ấy. Ở Phiềng Sa, A Phủ đã gặp A Châu , người cán bộ cách mạng đã đến hoạt động ở vùng rừng núi hẻo lánh xa xôi của Tây Bắc . A Phủ và Mị đã được A Châu giác ngộ, họ hiểu rõ hơn bản chất của bọn thực dân phong kiến và nhận thức được con đường duy nhất đúng đắn là mình phải theo cách mạng để thoát khỏi cái nghèo, thoát khỏi kiếp nô lệ: tự mình phải đứng lên lật đổ ách thực dân phong kiến , tiêu diệt những kẻ như cha con thống lí Pá Tra thì mới có cuộc sống hạnh phúc, tự do lâu bền thực sự. Đảng đã chỉ đường cho họ và A Phủ đã trở thành tiểu đội trưởng đội du kích. Mị và A Phủ tự nguyện đứng lên bảo vệ quê hương, bản làng, đánh Tây và xóa bỏ chế độ phong kiến. Con đường đấu tranh của đôi thanh niên Mèo dũng cảm ấy đã chuyển từ tự phát sang tự giác. Giờ đây họ đã ý thức được hành động của mình, quyết tâm đi theo lí tưởng của Đảng. Sự chuyển biến về nhận thức, tư tưởng của Mị, và A Phủ tiêu biểu cho sự chuyển biến tư tưởng của đồng bào dân tộc khi được Đảng tuyên truyền giác ngộ.
Tóm lại, Vợ chồng A Phủ đã cho người đọc thấy được một cách chân thực, sinh động về cuộc sống và con người ở vùng cao Tổ quốc. Tác giả đã lên án những thế lực phong kiến miền núi, thế lực thực dân xâm lược, thông cảm sâu sắc với số phận của người nông dân miền núi đồng thời khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của họ. Và tác phẩm sống mãi với thời gian là nhờ có ngòi bút hiện thực sắc sảo và tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn khi viết về đồng bào Tây Bắc giàu tình nghĩa, thuỷ chung với cách mạng.
Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 9
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đem đến cho văn nghệ sĩ nước ta một cuộc tái sinh nhiệm màu. Các nhà văn, nhà thơ đã đứng lên dưới ngọn cờ cách mạng, với ý thức công dân sâu sắc, tích cực sáng tác phục vụ xã hội mới. Tô Hoài là một trong những nhà văn hiện thực sớm đến với cuộc sống lớn của nhân dân. Trong kháng chiến chống Pháp, ông đã cùng bộ đội tham gia chiến dịch Tây Bắc giải phóng đồng bào ở ba tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hoàng Liên Sơn. Trước mắt Tô Hoài bây giờ là một thế giới mới với những phong cảnh mới, con người mới, vấn đề xã hội mới. Ngòi bút của ông vươn ra khỏi làng Nghĩa Đô bé nhỏ để hướng đến miêu tả, tái hiện một vùng đất hết sức phong phú và cũng hết sức kì lạ của đất nước: vùng Tây Bắc. Và cũng như nhiều nhà văn, nhà thơ khác, Tô Hoài đã trăn trở “nhận đường” và rèn luyện cho mình một thế giới quan và nhân sinh mới, xác định một phương pháp sáng tác mới phù hợp với thời đại. Kết quả của những chuyến đi và niềm trăn trở nhận đường ấy là tác phẩm Truyện Tây Bắc gồm ba truyện Cứu đất cứu Mường, Mường giơn và Vợ chồng A Phủ. Truyện Tây Bắc chứa đựng giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo thông qua việc miêu tả cuộc đời và số phận của hai nhân vật trung tâm là Mị và A Phủ.
Trong Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài kể về cuộc đời đầy gian truân và đau khổ của hai vợ chồng người Mèo là Mị và A Phủ. Họ vốn là những người nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra; Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ, A Phủ vì dám đánh bại con trai nhà thống lí nên cũng phải làm người ở để đền tội với chủ.
Trong cảnh ngộ tối tăm ấy, họ đã gặp gỡ, đồng cảm và giúp nhau thoát khỏi nhà Pá Tra tìm đến vùng Phiềng Sa. Tại đây họ đã trở thành vợ chồng. Giữa lúc bọn lính Pháp đến đánh phá và cướp bóc ở Phiềng Sa, cán bộ của Đảng đã đến để giúp đồng bào các dân tộc tự bảo vệ cuộc sống của mình. Mị và A Phủ gặp A Châu, một cán bộ của Đảng, kết làm anh em rồi thành đội viên du kích. Nhớ lại thời điểm sáng tác Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài viết: “Câu chuyện Vợ chồng A Phủ của tôi đã xây dựng được bằng mắt thấy tai nghe và cảm nghĩ về những con người và sự việc ấy trong cuộc chiến đấu giải phóng quê hương của các dân tộc thiểu số anh em ở biên giới Tây Bắc của đất nước”. Qua câu nói đó, chúng tôi đã nhận thấy giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm đã được nhà văn Tô Hoài xây dựng một cách có ý thức.
Giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ thể hiện trước hết ở việc trình bày chân thực cuộc sống đau thương, tăm tối đầy bi kịch của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách phong kiến nặng nề và sự bóc lột của thực dân Pháp. Giá trị hiện thực của tác phẩm còn gắn liền với sự tố cáo, vạch trần tội ác của bọn phong kiến (thống lí, thổ li, lang đạo) ở vùng cao.
Hình tượng nhân vật Mị là tượng trưng cho cái đẹp bị vùi dập. Cô gái trẻ xinh đẹp như một bông hoa của núi rừng đó bị A Sử cướp về làm dâu. Trong ngôi nhà giống như một tù ngục đó, Mị suốt ngày “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, số phận của Mị chẳng khác nào số phận của kiếp ngựa trâu vì giá trị của con người không được xem trọng, con người chỉ như một cái máy để làm việc. Thậm chí, Tô Hoài viết ‘‘con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc cả đêm lẫn ngày”. Lẽ ra trong cuộc sống bình thường những người con gái như Mị phải được vui chơi, đi dự hội hè, tìm thấy tình yêu và hạnh phúc cho mình. Nhưng ngược lại, đến ngày Tết, A Sử lại đi chơi với bạn trai, còn Mị thì bị trói đứng trong buồng tối.
Cùng chung nghịch cảnh với Mị là A Phủ, nhân vật trung tâm thứ hai của truyện. Nếu Mị là hình tượng tượng trưng cho cái đẹp bị vùi dập thì A Phủ tượng trưng cho sự sống, sức lao động và lòng khao khát tự do của con người bị kìm hãm. A Phủ chạy nhanh như con ngựa, biết đúc lưỡi cày, lưỡi cuốc, cày bừa rất giỏi và săn bò tót rất thành thạo. Lẽ ra con người đó phải được tự do giữa núi rừng để phát huy sức mạnh của mình. Nhưng chỉ vì A Phù bất bình phản ứng, đánh lại A Sử, kẻ đã phá vỡ cuộc vui ngày Tết, mà A Phủ đã bị bắt về làm kẻ nô lệ trong nhà thống lí, ở đây anh phải đi đốt rừng, săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa quanh năm. Một lần để cho hổ ăn thịt mất một con bò mà A Phủ bị thống lí trói đứng suốt mấy ngày trong góc nhà. Hình tượng A Phủ thể hiện một cuộc sống bị trói buộc, tượng trưng cho sức lao động bị bóc lột và đè nén.
Giá trị hiện thực của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ không chỉ bộc lộ qua việc trình bày chân thực cuộc sống đầy bi kịch của nhân dân miền núi Tây Bắc nói chung, đồng bào dân tộc H’Mông nói riêng mà còn thể hiện qua việc khắc họa những bộ mặt tàn bạo của cha con thống lí Pá Tra và A Sử của bọn lí dịch, quan lại, thống quản. Đây là nguyên nhân trực tiếp gây nên nỗi khổ của những người dân thấp cổ, bé miệng như Mị và A Phủ. Bộ mặt tàn bạo của chúng không chỉ hiện ra qua những hành động đánh đập dã man đối với kẻ ăn người ở trong nhà mà còn qua những lời nguyền rủa rất thâm hiểm: “đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Có lẽ đó không chỉ là lời nguyền rủa của một hai cá nhân mà còn là lời nguyền rủa của cả một chế độ xã hội. Bao giờ còn chế độ xã hội đó thì vẫn còn những kẻ ác như Pá Tra và những nạn nhân của hắn như Mị và A Phủ.
Xã hội phong kiến Việt Nam vốn đã lạc hậu, nói về nguyên nhân của những bi kịch mà người dân miền núi phải chịu đựng, Tô Hoài cho rằng đứng đằng sau thế lực phong kiến tại chỗ là bóng dáng của quân đội xâm lược phương Tây tràn đến. Trong bức tranh hiện thực của tác phẩm Vợ chồng A Phủ hình ảnh giặc Pháp hiện lên như là chỗ dựa, là thế lực mà bọn phong kiến vùng cao sẵn sàng cấu kết để duy trì ách thống trị của chúng. Người dân Tây Bắc chỉ có thể sống được một cuộc đời ấm no, hạnh phúc khi này chấm dứt được cả hai thế lực trên đây. Vấn đề áp bức giai cấp gắn liền với vấn đề áp bức dân tộc là một nét căn bản tạo nên giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ.
Gắn liền với giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ là giá trị nhân đạo xuất phát từ cái nhìn, tấm lòng, tình thương yêu, nỗi xúc động, của nhà văn Tô Hoài trước số phận cùa Mị và A Phủ trong truyện ngắn này. Nhà văn bày tỏ sự thông cảm với nỗi đau khổ của người phụ nữ bị gả bán như một thứ hàng hóa. Chỗ nào nhà văn miêu tả nỗi đau của Mị là ở chỗ đó ngòi bút của ông cũng run lên vì xúc động. Tô Hoài viết: “Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài thì chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng”. Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: “Đời trước ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba ngày, rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi. Nhờ thế Mị sợ quá, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói xiết lại, đau đứt từng mảnh thịt”. Đọc đến đây ta nhớ lại câu thơ của Nguyễn Du: “Đau đớn thay phận đàn bà”.
Đó là nỗi đau của thân xác, còn nỗi đau tinh thần? Trong hoàn cảnh bị trói buộc Mị nghĩ rằng minh đành ngồi trong một nhà tù chật hẹp nhìn qua một lỗ vuông mà trông đợi cho đến bao giờ chết mới thôi. Dù vậy, khát vọng làm người hạnh phúc không bao giờ lụi tàn trong lòng Mị. Nghe tiếng sáo thổi trong rừng, Mị tha thiết nhớ lại những ngày xuân tươi đẹp của mình và tràn trề một lòng ham sống. Ngòi bút nhân đạo của Tô Hoài đã không dửng dưng với khát vọng đó của Mị.
Giá trị nhân đạo của Vợ chồng A Phủ còn có thể tìm thấy qua việc nhà văn tái hiện quá trình thức tỉnh cách mạng của những người bị áp bức. Như trên đã nói, trong tác phẩm này, chủ đề giải phóng dân tộc gắn liền với chủ đề giải phóng giai cấp nông dân và giải phóng phụ nữ. Mị và A Phủ gặp nhau trong một hoàn cảnh thật éo le, họ là những số phận đang đứng bên bờ vực thẳm. Hai nhân vật ấy đã kháng cự lại cái chết, kháng cự lại số phận để giữ lại cuộc sống. Trong bước đường cùng quẫn, vẻ đẹp của Mị lại hiện ra không chỉ bằng mặt mà cả trong tâm hồn. Điều đó bộc lộ rõ nhất qua thái độ của Mị đối với A Phủ: một thái độ vị tha, cùng gánh chịu khổ đau. Tình yêu của họ đã đến từ việc chia sẻ số phận chung đó. Chính Tô Hoài cũng nhận xét: “Cái biểu hiện cởi trói cho A Phủ chỉ xảy ra trong khoảnh khắc nhưng khoảnh khắc có ý nghĩa quyết định và tồn tại đời đời”. Mị cởi trói cho A Phủ rồi tìm đến khu du kích của làng H’Mông hẻo lánh vùng Phiềng Sa. Được A Châu giác ngộ, họ tham gia đội du kích chống Pháp, trở thành những người tự tin vào sức mạnh của mình. Vợ chồng A Phủ đã từng đấu tranh tự phát vươn đến đấu tranh tự giác, từ những phản ứng có tính chất bản năng đến sự phản kháng có ý thức, nhất là khi nhận ra được nguyên nhân đau khổ của mình và lòng dạ của kẻ thù. Có thể nói, qua hình tượng Mị và A Phủ, Tô Hoài đã xây dựng được những nhân vật có tính cách biến đổi theo quá trình của cách mạng.
Giá trị Vợ chồng A Phủ không tách rời với đường lối cách mạng và chính sách dân tộc Đảng Cộng sản là giải phóng những người lao động bị áp bức bóc lột, giải phóng mọi sức sống và vẻ đẹp bị các thế lực đen tối kìm hãm, trói buộc.
Tác phẩm Vợ chồng A Phủ là một bước tiến trong việc nhận thức, khám phá hiện thực kháng chiến, đồng thời cũng là một bước tiến trong việc thể hiện chủ nghĩa nhân đạo theo nhân sinh quan cách mạng. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó được hòa quyện trong một chất thơ trong sáng, màu sắc dân tộc đậm đà và văn phong giàu tính tạo hình. Với Vợ chồng A Phủ nói riêng, Truyện Tây Bắc nói chung, Tô Hoài đã góp phần đổi mới về đề tài miền núi, thực sự bước vào văn học với những hình ảnh phong phú, tươi đẹp và chân thực. Vợ chồng A Phủ tiên báo những thành tựu tương lai trong sáng tác về đề tài miền núi của một lớp nhà văn sung sức xuất hiện sau Cách mạng tháng tháng Tám như: Nguyễn Ngọc, Nông Quốc Chấn, Ma Văn Kháng, Vi Hồng…
*****
Trên đây là 9 bài mẫu Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ lớp 12 ngắn gọn hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình với điểm số cao nhất.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học tập
- Cảm nhận của anh (chị) về vùng đất và con người miền cực nam của Tổ quốc qua truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh Hạ lớp 12 (9 Mẫu)
- Anh (chị) hãy bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra” lớp 12 (10 Mẫu)
- Buy-phông, nhà văn Pháp nổi tiếng, có viết: “Phong cách chính là người”. Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? lớp 12 (12 Mẫu)
- Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên lớp 12 (7 Mẫu)
- Viết bài văn trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận, theo chủ đề: một tác phẩm văn học mới ra đời và đáng được nhiều người quan tâm bàn luận lớp 12
- Viết bài văn nghị luận trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận khác nhau lớp 12 (3 Mẫu)