Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc lớp 12 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 16 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.
Đề bài: Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc
Dàn ý Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc chi tiết
Dàn ý Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc- Mẫu 1
1. Mở bài:
Bạn đang xem: Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc chọn lọc hay nhất (16 bài mẫu)
– Giới thiệu tác giả Tố Hữu, tác phẩm “Việt Bắc và khổ 7 bài thơ.
2. Thân bài:
a. Hai câu đầu: Khái quát nỗi nhớ:
– Mở đầu là lời của người đi nói với người ở, là lời ướm hỏi thường thấy trong những khúc ca đối đáp: “Mình về mình có nhớ ta/ Ta về ta nhớ những hoa cùng người”.
– Cách xưng hô thân thiết “mình-ta” cùng câu hỏi “Mình về mình có nhớ ta”: mang âm điệu tha thiết ngọt ngào như của đôi lứa yêu nhau.
– “Hoa”: hình ảnh ẩn dụ cho thiên nhiên Việt Bắc, thiên nhiên tôn lên vẻ đẹp của con người.
b. Tám câu tiếp: Bức tranh thiên nhiên và con người Việt Bắc.
– Bức tranh mùa đông:
+ Nền xanh mênh mông của núi rừng Tây Bắc được điểm xuyết những chấm “hoa chuối đỏ tươi”.
→ Bức tranh mùa đông rừng Việt Bắc được tạo nên bằng vài nét chấm phá nhưng đẹp, thơ mộng, tươi tắn.
+ Hình ảnh của con người thoáng hiện qua ánh “dao gài thắt lưng”.
→ Đặt con người trên đỉnh đèo cao, giữa “nắng cháy” và núi rừng hùng vĩ: tôn lên tầm vóc của con người.
– Bức tranh ngày xuân:
+ Cả núi rừng Việt Bắc rộng lớn được bao phủ với màu trắng của “hoa mơ”.
→ Đây là loài hoa đặc trưng, là sắc xuân riêng của đất trời Việt Bắc.
- Hình ảnh người lao động “đan nón” hiện lên rất bình dị, đời thường.
- Động từ “chuốt”: gợi ra hình ảnh của một người đang cẩn thận, tỷ mẩn vuốt từng sợi giang trong niềm say mê lao động và đôi bàn tay tài hoa.
– Bức tranh ngày hè:
Bức tranh thiên nhiên ngày hè sống động cả về âm thanh “ve kêu” và màu sắc “rừng phách đổ vàng”.
Hình ảnh con người hiện lên giữa thiên nhiên là hình ảnh của “cô em hái măng”.
– Bức tranh đêm trăng mùa thu:
Động từ “rọi”: gợi ra hình ảnh của ánh trăng đang xuyên qua tầng tầng lớp lớp những tán lá cây giữa không gian tĩnh mịch của núi rừng.
“Ánh trăng hoà bình”: không khí êm ả, yên bình của rừng Việt Bắc trong mùa thu hòa bình đầu tiên của đất nước.
→ Rừng Việt Bắc dưới ánh trăng đẹp lộng lẫy, huyền ảo, hoang sơ.
+ Hình ảnh con người hiện ra qua âm thanh của tiếng hát: “Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”.
c. Đánh giá chung về nội dung, nghệ thuật:
– Nội dung:
- Bức tranh thiên nhiên bốn mùa của núi rừng Việt Bắc đẹp phong phú, đa dạng.
- Đồng hiện với thiên nhiên là con người với tầm vóc lớn lao, đức tính cần cù trong lao động và sự ân nghĩa thuỷ chung.
– Nghệ thuật:
- Lối thơ trữ tình chính trị với giọng thơ ngọt ngào tha thiết.
- Thể thơ lục bát, ngôn từ giản dị, cách xưng hô mình – ta quen thuộc, những lời ướm hỏi thường thấy trong những khúc ca đối đáp.
- Chất liệu dân gian với lối vẽ tranh tứ bình, cách vẽ thường thấy trong hội họa phương Đông.
3. Kết bài:
– Khẳng định giá trị của đoạn thơ, bài thơ.
Dàn ý Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc- Mẫu 2
I. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm
– Giới thiệu đoạn trích
II. Thân bài:
* Hai câu đầu: Khái quát nỗi nhớ.
– Hoa và người là những gì đẹp nhất của núi rừng Việt Bắc.“Hoa” là cách nói của nghệ thuật tượng trưng cho thiên nhiên và cũng là một bộ phận của thiên nhiên.
– Trong nỗi nhớ của người về, hoa và người là hai hình ảnh đồng hiện, soi chiếu vào nhau. Hoa là hình ảnh đẹp nhất của thiên nhiên; người là sản phẩm kỳ diệu tuyệt vời của tạo hoá. Vì vậy, khi nhớ người thì hiện lên bong hoa, khi nhớ hoa thì hiện lên bóng người ngụ ý ngợi ca vẻ đẹp người ở lại.
* Tám câu sau: Một bức tranh thiên nhiên Việt Bắc phong phú, rực rỡ, tươi thắm tượng trưng cho vẻ đẹp của bốn mùa:
– Trước hết, bức tranh mùa đông với “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”:
– Mùa đông xuất hiện bằng màu một gam màu lạnh- nền xanh mênh mông tĩnh lặng của rừng già gợi ra một xứ sở êm đềm, lặng lẽ, xa vắng…Trên cái nền màu lạnh ấy lại nổi lên một gam màu nóng của “hoa chuối đỏ tươi” ( ở đây có thể liên tưởng: màu đỏ của hoa chuối gợi ra ý nghĩa tượng trưng cho màu đỏ của cách mạng mới được nhen nhóm, như xua đi cái lạnh ngàn năm của núi rừng mùa đông ).
– Tiếp theo,bức tranh mùa xuân với “Mơ nở trắng rừng” – một mùa xuân tràn ngập màu trắng của hoa mơ gợi sự dịu dàng, tinh khiết, thanh bạch, mộng mơ của tạo vật.Hai tiếng “trắng rừng” như làm cho khắp núi rừng bừng sáng hẳn lên.Đây là hình ảnh giàu tính hiện thực nhưng thấp thoáng ý nghĩa tượng trưng: nó như gợi lên nét đẹp trong sáng trong tâm hồn của con người Việt Bắc. Có thể nói, màu trắng của hoa mơ là màu sắc đặc trưng của núi rừng Việt Bắc.
– Bức tranh mùa hè hiện lên trong nỗi nhớ người đi không chỉ có màu sắc, đường nét, ánh sáng mà còn có cả âm thanh ngân vang của tiếng ve gọi hè:”ve kêu rừng phách…” . Ve kêu gọi hè, hè về là rừng phách chuyển màu .Sống ở Việt Bắc, con người thường hay có cảm xúc bâng khuâng trước những hình ảnh kỳ lạ của rừng phách: trong những ngày cuối xuân, nụ hoa vẫn náu kín trong những kẽ lá. Khi tiếng ve cất lên thì chúng nhất loạt trổ hoa vàng. Cách dùng từ “đổ”khá tinh tế, nhấn mạnh sự mau lẹ đột ngột của quá trình chuyển đổi của cây lá, nó diễn tả sức mạnh của những trận mưa hoa vàng khi gió thổi, ve kêu gọi hè.
– Bộ bức tranh bốn mùa kết thúc bằng bức tranh thu: đêm thu có ánh trăng rọi qua vòm lá tạo thành khung cảnh huyền ảo. Cảnh tượng này thích hợp với việc bộc lộ tâm tư thầm kín dành cho bộc lộ tâm tư thầm kín dành cho thời điểm kết thúc những cuộc hát giao duyên . Câu thơ gợi không khí thanh bình,yên ả, báo hiệu sự bắt đầu cuộc sống yên vui. Câu thơ cũng gợi sự hoà hợp giữa thiên nhiên ( rừng thu) với vũ trụ ( trăng) với cuộc sống thanh bình yên vui trong sự hoà hợp của những tấm lòng nhân ái giữa người đi và người ở lại.
* Hình ảnh con người Việt Bắc:
– Bên cạnh nỗi nhớ thiên nhiên là nỗi nhớ con người Việt Bắc. Con người là hình ảnh luôn được đan cài, xen kẽ, hoà hợp với thiên nhiên. Sau mỗi câu lục nói về hoa là đến câu bát nói về người . Con người gắn bó khăng khít với thiên nhiên làm cho thiên nhiên bớt vẻ hoang sơ và thêm có hồn. Giữa thiên nhiên gợi cảm, con người hiện lên thật bình dị, đáng yêu và luôn gắn bó với lao động:
– Hình ảnh con người trong mùa đông hiện lên với một dáng vẻ, tư thế hiên ngang trong lao động “ dao gài thắt lưng”; mùa xuân lại gắn với bàn tay dịu dàng, cần mẫn của các cô gái “chuốt từng sợi giang” ( hình ảnh giống như cảnh phim quay chậm, không chỉ giúp người đọc thấy rõ đường nét, hình khối, động tác của người lao động mà còn thấy cả ý nghĩ đắn đo, thận trọng, tỉ mỉ trong từng công việc).
– Hình ảnh “Cô gái hái măng một mình” trong mùa hạ vừa gợi sự cần cù, chăm chỉ, kiên nhần lại vừa gợi cái không gian bao la, mênh mông của núi rừng Việt Bắc.
– Nhớ người Việt Bắc, người về còn nhớ cả “ tiếng hát ân tình thuỷ chung” . Đó là tâm hồn, là tình cảm của những con người miệt mài, chăm chỉ với công việc, lặng lẽ cưu mang trong mình những rung động, cảm xúc trước đất trời, trước cuộc đời.
III. Kết bài:
– Khái quát vấn đề.
16 bài mẫu Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc hay nhất
Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc- Mẫu 1
Trong những tác phẩm tiêu biểu của Tố Hữu, Việt Bắc là bài thơ chiếm được nhiều tình cảm hơn cả. Bài thơ gồm 18 khổ thơ. Mỗi khổ thơ đều chan chứa ân tình quân dân Việt Bắc và các chiến sĩ Cách mạng. Trong đó, khổ 7 để lại nhiều xúc cảm về tình cảm con người chân thành và bức tranh thiên nhiên Việt Bắc sâu sắc hơn cả.
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”.
Hai câu đầu đoạn thơ thể hiện nỗi nhớ da diết của người ở và người đi.
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Nơi núi rừng Việt Bắc, thì hoa và người là những gì đẹp nhất nơi đây. Có thể thế thấy, nhà thơ Tố Hữu đã sử dụng cách nói nghệ thuật tượng trưng “hoa” để đại diện cho cả thiên nhiên tươi đẹp của vùng núi Tây Bắc. Nhắc đến hoa là chúng ta có thể cảm nhận được sức sống tươi mới cùng những màu sắc rực rỡ đầy sức sống của đất trời. Đọc hai câu thơ, chúng ta có thể thấy rõ, với những người về xuôi, trong nỗi nhớ của họ, hoa và người nơi đây là những hình ảnh cùng xuất hiện, cùng nhau soi chiếu không tách rời. Nếu như hoa là tổng hòa vẻ đẹp kỳ diệu của thiên nhiên thì còn người là sản phẩm tuyệt diệu của tạo hóa. Bởi thế, khi người về thấy nhớ những hoa cùng người, thì không chỉ nói về nỗi nhớ đơn thuần mà còn thể hiện ý ca ngợi vẻ đẹp cả tâm hồn lẫn dáng vẻ của người ở lại.
Tám câu thơ tiếp theo độc giả không chỉ cảm nhận rõ nỗi nhớ niềm thương của người ở và người về mà còn thấy hiện lên một bức tranh thiên nhiên bốn mùa của chiến khu Việt Bắc vô cùng đẹp đẽ, rực rỡ, căng tràn sức sống.
Đầu tiên là vẻ đẹp bức tranh mùa đông của Việt Bắc với “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi/ Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Đọc hai câu thơ lên, chúng ta có thể mới đầu, bức tranh xuất hiện với một gam màu lạnh. Đó là màu xanh tĩnh mịch, mênh mông của những cánh rừng già. Khơi gợi cảm giác một xứ sở bình yên, xa vắng nhưng êm đềm. Tuy nhiên, đúng lúc đó lại xuất hiện một gam màu nóng đó chính là màu đỏ tươi của hoa chuối. Màu đỏ đó làm nổi bật lên sức sống, của toàn bộ cảnh rừng xa vắng đó. Thông qua nét chấm phá này, nhà thơ Tố Hữu muốn gửi gắm thông điệp về màu đỏ của cách mạng. Dường như màu đỏ là màu chiến thắng của Cách mạng đã nhen nhóm, và xua đi cái lạnh thâm sâu của núi rừng trong mùa đông lạnh lẽo.
Tiếp đến là hai câu thơ nói vẽ nên bức tranh mùa xuân tươi đẹp với
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.”
Chỉ với hình ảnh mơ nở trắng rừng, nhưng nhà thơ Tố Hữu đã mở ra cho độc giả một không gian núi rừng Tây Bắc vào mùa xuân thật đầy sức sống. Hoa mơ là loài hoa đặc trưng của núi rừng nơi đây. Với màu trắng tinh khôi, dịu dàng và mơ mộng của hoa mơ là làm sáng bừng cả bức tranh, cả khu rừng. Có thể nói, đây cũng là hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng. Khơi gợi lên vẻ đẹp trong sáng, vô tư hồn hậu trong tâm hồn của con người vùng núi Tây Bắc.
Đi qua mùa xuân, chúng ta tiếp tục ngắm bức tranh tươi đẹp của mùa hè. Bức tranh thiên nhiên mùa hè của Việt Bắc hiện lên trong tâm thức, nỗi nhớ của người đi không chỉ là ánh sáng, đường nét hay ánh sáng, mà còn có cả âm thanh vang vọng của tiếng ve gọi hè: “Ve kêu rừng phách đổ vàng/ Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Ở Việt Bắc, con người cảm nhận rất rõ khi hè về, bởi khi đó, rừng phách cũng chuyển màu. Nếu khi mùa xuân vẫn còn, nụ hoa vẫn còn dấu kín trong những kẽ lá nhưng chỉ khi tiếng ve vừa cất lên, thì các hoa đã nhất loạt trổ vàng. Ở đây, tác giả sử dụng từ “đổ” khá tinh tế và độc đáo. Nó diễn tả sự đột ngột và mau lẹ trong quá trình thay đổi của núi rừng chỉ sau khi gió thổi, ve kêu giống như một trận mưa hoa vàng vậy.
Cuối cùng, bức tranh bốn mùa của thiên nhiên Việt Bắc được kết thúc bằng hình ảnh đêm thu có ánh trăng rọi qua vòm lá.
“Rừng thu trăng rọi hòa bình”.
Một hình ảnh thật thanh bình và huyền ảo. Đó là khung cảnh khơi gợi sự lãng mạn, phù hợp để bộc lộ những tâm tư tình cảm như những khúc ca giao duyên ân tình. Câu thơ báo hiệu một cuộc sống yên vui, hòa bình. Qua đó, tác giả cũng bộc lộ cảm nhận về sự hòa hợp thanh bình giữa thiên nhiên, vũ trụ với những tình cảm chân thành giữa người ở và người đi.
Có thể thấy, trong mỗi bức tranh thiên nhiên của vùng núi Việt Bắc, tác giả luôn có kèm theo và đan xen hài hòa hình ảnh của con người. Có thể thấy, con người gắn bó rất khăng khít với thiên nhiên, khiến cho núi rừng giảm bớt đi sự hoang sơ, xa vắng. Giữa thiên nhiên tươi đẹp ấy, cong người được khắc hoạt thật dễ thương, bình dị, hồn hậu, luôn yêu lao động hăng say.
Trong bức tranh mùa đông, con người hiện lên với tư thế hiên ngang, vững mạnh trong lao động “dao gài thắt lưng”. Trong khi đó, ở bức tranh mùa xuân, hình ảnh con người Việt Bắc lại được miêu tả qua sự dịu dàng, cần mẫn của các cô gái dân tộc đang “chuốt từng sợi giang”. Hình ảnh cô gái đang làm được khắc họa rõ nét đậm đà như một thước phim quay chậm, giúp độc giả cảm nhận rõ rệt đường nét, hình khối, động tác tỉ mỉ của người lao động.
Tiếp đến, trong bức tranh mùa hè, con người được thể hiện của hình ảnh “Cô gái hái măng một mình”. Qua đây, độc giả có thể thấy sự chăm chỉ, cần mẫn và kiên nhẫn của con người Việt Bắc. Giữa núi rừng mênh mông ấy, con người vẫn chăm chỉ, tỉ mỉ làm việc.
Nhớ về người Việt Bắc, người về xuôi không chỉ nhớ về hình ảnh chăm chỉ làm việc, vẻ đẹp của sự hăng say lao động mà còn cả “tiếng hát ân tình thuỷ chung”. Tiếng hát ân tình, là tiếng nói của tâm hồn, là tiếng lòng son sắc của người dân Việt Bắc dành cho các chiến sĩ Cách mạng. Chỉ có gắn bó với nhau trong những gian khổ, đau thương, con người ta mới có thể cảm nhận hết được sự chân thành của tình người.
Qua quá trình phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7 của nhà thơ Tố Hữu, chúng ta có thể cảm nhận rõ nỗi nhớ da diết của người về xuôi là những chiến sĩ Cách mạng dành cho người dân Việt Bắc. 15 năm ăn ở nơi đây, khiến cho thiên nhiên lẫn con người Việt Bắc đã in sâu trong tâm trí và trái tim của người các chiến sĩ. Mỗi âm thanh, mỗi hình ảnh, mỗi khoảnh khắc, mỗi dáng vẻ đều để lại cho người về những niềm thương nỗi nhớ tha thiết. Với thể thơ lục bát, bài thơ Việt Bắc đã đi vào lòng người như một bài ca đi cùng năm tháng, ca ngợi tình quân dân trong những năm kháng chiến gian khó.
Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc- Mẫu 2
Tố Hữu được coi là lá cờ đầu trong thơ ca Cách mạng. Thơ của ông vừa mang chất lãng mạn, trữ tình, vừa chứa đựng yếu tố chính trị, đặc biệt là tính dân tộc rất đậm đà. Bài thơ Việt Bắc là tác phẩm rất hay của ông, ra đời nhân một sự kiện chính trị đó là khi chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, các cơ quan Chính phủ đã chuyển từ Việt Bắc về lại Hà Nội. Bài thơ Việt Bắc là những hồi tưởng về những kỉ niệm kháng chiến của quân và dân ta trên chiến khu Việt Bắc. Khổ thơ thứ 7 của bài thơ đã cho chúng ta thấy rõ được nỗi nhớ chiến khu da diết của người đi.
Nếu như bài thơ Việt Bắc được mở đầu bằng khung cảnh chia ly cùng tiếng hát đối đáp của kẻ đi người ở thì ở khổ thơ này chúng ta có thể thấy được nỗi nhớ chiến khu với cảnh và người Việt Bắc trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa một vẻ đẹp nhưng đều mang đậm đặc trưng của Việt Bắc.
Mở đầu đoạn thơ là ướm hỏi của người đi với người ở lại mà ta vẫn thường thấy trong những khúc ca đối đáp giao duyên:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”.
Vẫn là cách xưng hô thân thiết “mình – ta” cùng câu hỏi “ta về mình có nhớ ta” khiến lời thơ mang âm điệu thật ngọt ngào. Ta nghe như đó là giọng điệu tâm tình tha thiết mặn nồng của lứa đôi yêu nhau. Đối với nhà thơ, tình cảm quân dân cũng đằm thắm, mặn mà như tình yêu đôi lứa vậy! Người ra đi không chỉ nhớ thương “người” ở lại mà trong nỗi nhớ đó còn có cả “hoa” song hành cùng người. “Hoa” là hình ảnh ẩn dụ cho vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc. Thiên nhiên bốn mùa làm nền để tôn lên vẻ đẹp của con người nơi đây.
Bức tranh Việt Bắc bốn mùa xuân, hạ, thu, đông được nhà thơ Tố Hữu dựng lại bằng bốn bức tranh tứ bình, với lối vẽ truyền thống trong hội hoạ cổ phương Đông. Mở đầu bức tranh bốn mùa là khung cảnh của mùa đông rừng Việt Bắc với màu xanh mênh mông của đại ngàn điểm xuyết thêm những chấm “hoa chuối đỏ tươi”:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng cháy dao gài thắt lưng”
Chỉ với một vài đường nét chấm phá, thế nhưng Tố Hữu đã mở ra bức tranh mùa đông thật sống động với đường nét đẹp hài hòa, màu sắc tươi sáng, đẹp thơ mộng, dịu dàng. Những “bông hoa chuối đỏ tươi” giữa cánh rừng già như những đốm lửa sáng sưởi ấm rừng đông đại ngàn. Bức tranh đông rừng Việt Bắc đẹp hùng vĩ, nhưng cũng không kém phần thơ mộng, ấm áp. Trên nền cảnh của đại ngàn là hình ảnh của con người thấp thoáng hiện ra trên “đèo cao”, dưới ánh nắng cháy bỏng và bóng dáng “dao gài thắt lưng”. “Dao gài thắt lưng” là đặc trưng đi rừng của những người dân Việt Bắc. Trong nắng chiều đang “cháy”, ánh dao ấy lóe lên giữa thiên nhiên để ta nhận ra có con người đang hiện diện giữa màu xanh thăm thẳm của cánh rừng. Đặt con người nơi “đèo cao” giữa “nắng cháy” và khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, Tố Hữu đã tôn lên tầm vóc của con người, lớn lao, mạnh mẽ ngang tầm cùng thiên nhiên, vũ trụ. Đó cũng là tầm vóc của những con người trên chiến khu cách mạng trong thời đại anh hùng.
Bức tranh thứ hai là hình ảnh của mùa xuân hiện lên trên đất chiến khu, cả Việt Bắc được thay một màu áo mới:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Cảnh âm u của rừng đại ngàn trời đông nay được thay bằng màu “mơ nở trắng rừng”. Cả không gian rộng lớn mênh mông của chiến khu Việt Bắc được khoác lên mình màu trắng của “hoa mơ”. Việt Bắc đẹp thơ mộng, lộng lẫy, tinh khôi và tràn trề sức sống của mùa xuân phơi phới. Nếu như miền Bắc có hoa đào hồng thắm, miền Nam có mai vàng rực rỡ thì Tố Hữu đã tinh tế khi nhận ra màu trắng của hoa mơ chính là màu sắc đặc trưng cho mùa xuân ở xứ sở này. Trong nỗi nhớ hướng về Việt Bắc của người đi, hình ảnh con người Việt Bắc vẫn giữ vị trí trung tâm của bức tranh. Hình ảnh của một người “đan nón” bình dị, đời thường hiện lên thật rõ ràng qua lời thơ của Tố Hữu. Động từ “chuốt” đã làm hiện lên hình ảnh của một con người đang cẩn mẫn, tỉ mẩn, cẩn thận vót từng “sợi giang” mảnh mai với niềm say mê lao động và bàn tay khéo léo tài hoa.
Bước sang bức tranh về cảnh ngày hè trên chiến khu Việt Bắc:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Mùa hè Việt Bắc cả không gian tràn ngập tiếng ve kêu. Đây là thứ âm thanh đặc trưng quen thuộc báo hiệu cho mùa hè đã sang. Ta cũng đã từng thấy tiếng ve kêu trong thơ của Nguyễn Trãi từ thế kỉ 15: “Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương” nhưng sắc hạ của Việt Bắc vẫn mang những nét rất riêng của mình, đó là hình ảnh của “rừng phách đổ vàng”. Phách là loài cây thân gỗ, thường mọc thành rừng và là đặc trưng của chiến khu Việt Bắc. Khi mùa đến, những cây phách sẽ nở ra những bông hoa vàng chói dưới ánh mặt trời. Cả Việt Bắc khi ấy được bao phủ bởi màu vàng lộng lẫy của hoa phách khiến cho mùa hè ở nơi đây thật rực rỡ, rạng ngời. Động từ “đổ” được Tố Hữu tinh tế sử dụng để miêu tả khung cảnh của cả rừng phách đột ngột đồng loạt trổ hoa vàng. Sắc hạ của đất chiến khu không chỉ náo nức bởi âm thanh và còn rực rỡ màu vàng sống động!
Trong nỗi nhớ của mình, nhà thơ đã làm đồng hiện của hình ảnh của thiên nhiên và con người:
“Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Cách gọi “em gái” là cách gọi thân thương, trìu mến của nhà thơ với những người con gái nơi đất chiến khu. Bởi với ông, Việt Bắc không chỉ là nơi chiến khu cách mạng mà còn là một đại gia đình gắn bó, thân thiết, yêu thương. Động từ “hái” được Tố Hữu đặt trong câu gợi ra cử chỉ vô cùng nhẹ nhàng, dịu dàng, thanh thoát của một người con gái duyên dáng đang đi kiếm tìm những búp măng non. Đặt cô gái đi “hái măng một mình” giữa đại ngàn Việt Bắc đã tôn lên vẻ chịu thương, chịu khó, nét cần cù trong lao động của con người nơi đất chiến khu. Đồng thời nó còn khiến cho cảnh rừng Việt Bắc trở nên thơ mộng, sống động, tràn trề sinh khí của sự sống con người.
Khép lại khổ thơ là hình ảnh của đêm trăng rừng Việt Bắc:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
Ta đã từng bắt gặp hình ảnh của một đêm trăng khác trên chiến khu Việt Bắc của Hồ Chí Minh “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Thế nhưng khi đọc thơ Tố Hữu, ta không khỏi ngạc nhiên trước vẻ đẹp của đêm trăng trên chiến khu thêm một lần nữa. Chỉ với một từ “rọi” bình dị, quen thuộc nhưng nhà thơ đã thâu tóm được hết vẻ đẹp mang đặc trưng của rừng Việt Bắc. Giữa không gian tịch mịch của núi rừng đại ngàn trong đêm, ánh trăng từ trên cao rớt xuống, xuyên qua tầng tầng lớp lớp những tán lá cây khiến cho thiên nhiên Việt Bắc vừa đẹp thơ mộng lại hư ảo diệu kì. Ánh trăng ấy chứa đựng sự huyền bí ngàn đời hoang sơ của núi rừng Việt Bắc. Nó còn gợi lên không khí yên bình của đêm rừng Việt Bắc của mùa thu hòa bình đầu tiên của đất nước khi chiến khu Việt Bắc không còn âm vang tiếng súng rền.
Trên nền cảnh của thiên nhiên, con người Việt Bắc hiện ra qua âm thanh tiếng hát văng vẳng giữa núi rừng đêm tĩnh mịch. Tiếng hát ấy làm xao động cả không gian yên tĩnh của núi rừng, thổi vào đó luồng hơi thở của sự sống khiến núi rừng nơi đây trở nên thơ mộng hơn, ấm áp hơn và tràn đầy sinh khí hơn. Nghe tiếng hát nhưng ta còn thấy được cả nỗi lòng của người đang hát với những “ân tình thuỷ chung”. Điều đó cho thấy sự gắn bó thân thiết bằng cả trái tim, bằng sự đồng điệu tâm hồn giữa người nghe và người hát. Tình cảm đó là sự gắn bó, là tình cảm của quân và dân, tình cảm của những người dân Việt Bắc với cách mạng trong suốt 15 năm gian khổ cùng nhau.
Đại từ “ai” thường được sử dụng rất nhiều trong các khúc ca giao duyên. Tố Hữu kế thừa truyền thống của thơ ca dân tộc, điều đó tạo nên phong vị dân gian, tinh thần dân tộc rất đậm đà trong thơ Tố Hữu. Tình cảm quân dân ở nơi chiến khu này cũng từ đó mà gần gũi, gắn bó như tình yêu đôi lứa.
Đoạn thơ thứ 7 trong tác phẩm Việt Bắc đã cho ta thấy được bức tranh thiên nhiên đẹp rực rỡ và đa dạng, mỗi mùa một vẻ của chiến khu Việt Bắc. Đồng hiện cùng thiên nhiên là hình ảnh của con người Việt Bắc cần cù, chịu khó, với đôi bàn tay tài hoa và tấm lòng thuỷ chung nghĩa tình. Đoạn thơ cũng ghi lại những đặc trưng riêng trong phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu. Đó là lối thơ trữ tình chính trị với giọng thơ ngọt ngào, da diết. Đặc biệt ta còn thấy tính dân tộc rất đậm đà được thể hiện qua thể thơ lục bát truyền thống, ngôn từ mộc mạc, giản dị, cách xưng hô mình – ta, những lời ướm hỏi trong những khúc ca đối đáp. Ngoài ra, ta còn thấy Tố Hữu huy động cả chất liệu văn hoá dân gian với lối vẽ tranh tứ bình, cách vẽ chấm phá thường thấy trong hội họa phương Đông.
Thông qua đoạn thơ thứ bảy của bài thơ Việt Bắc, ta thấy được bức tranh thiên nhiên và con người đất chiến khu đẹp lộng lẫy. Việt Bắc là khúc hùng ca, tình ca về cách mạng, về kháng chiến, về quân và dân ta. Nó còn nhắc nhở chúng ta về sự thuỷ chung ân nghĩa của cách mạng, của con người Việt Nam.
Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc- Mẫu 3
Nhận định về thơ Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi đã từng nói “Trọn đời Tố Hữu là một chiến sĩ cách mạng lần thơ và là nhà thơ của cách mạng”. Nếu âm hưởng bao trùm những khúc tình ca của người ở lại và người ra đi là ngọt ngào, thiết tha, sâu lắng như ru vỗ hồn người vào nhịp thở đều đặn của những kỷ niệm, thì đến với khúc hùng ca kháng chiến, những vần thơ lại mang một khí thế hào hùng, mãnh liệt. Đoạn thơ thứ 7 tuy chỉ với 3 cặp thơ lục bát nhưng cũng đã để lại rất nhiều dấu ấn trong trái tim bạn đọc.
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng”.
Đoạn thơ khắc hoạ cuộc sống chiến đấu nơi Việt Bắc mang lại âm hưởng mạnh mẽ, sôi nổi, hào hùng. Hình tượng “Đất nước đứng lên”, “Rũ bùn đứng dậy sáng loà” như sống dậy trong mỗi câu thơ. Một lần nữa thiên nhiên và con người kết hợp tạo thành sức mạnh phi thường chiến thắng thực dân xâm lược.
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng”
Làm sao mà ta có thể lãng quên cái cảnh săn lùng càn quét của thực dân Pháp như một bầy chó săn khát máu, chúng dẫm đạp lên xương máu của ông cha ta, tắm nhân dân ta trong những bể máu và tiếng thương khóc vọng ngàn đời,… những tội ác đã bị vạch trần trong biết bao tiếng thở ai oán, căm hờn:
“Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang”.
(Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm)
Trước âm mưu và dã tâm của kẻ thù, Việt Bắc đánh giặc được miêu tả một cách khái quát, kỳ vĩ. Ở đó, thiên nhiên và con người hòa quyện tạo nên sức mạnh to lớn, ngăn chặn vây hãm quân thù.
“Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây”
Núi rừng vốn là những sự vật vô tri, vô giác, nhưng khi giặc đến càn quét, đàn áp dân ta, thì núi rừng Việt Bắc vươn mình trở thành chiến sĩ anh dũng, quả cảm sát cánh cùng những người kháng chiến, che chở bảo vệ họ. Biện pháp nhân hóa thường có trong thơ, nhất là trong ca dao được Tố Hữu vận dụng một cách nhuần nhuyễn tự nhiên và sáng tạo “Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”. Nó tạo nên một thế đứng, một thế tiến công, nhất là một thứ lưới trời đặt kẻ thù vào tử địa. Dãy núi trùng điệp dàn trải như thành lũy kiên cố bất khả xâm phạm. Trong 4 câu thơ, chữ “rừng” và “núi” được lặp đi lặp lại đến năm lần, nó rải kín câu thơ, rải kín đất Việt Bắc tạo lên thế hiểm của trường thành của lũy thép vây bọc quân thù, như vươn lên thách thức bất cứ kẻ xâm lăng nào dám tiến lại gần.
Cùng với cái vươn vai của núi rừng, mạch thơ trùng điệp áp đảo:
“Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng”
Hình ảnh miêu tả “mênh mông bốn mặt” gợi lên cái không gian hùng vĩ, bao la của núi rừng Việt Bắc. Tố Hữu vận dụng khéo léo thủ pháp đối lập, cả không gian rộng lớn như thế, đất trời, thiên nhiên lại chỉ “chung một lòng”. Cả núi rừng và con người như đang đập chung một nhịp đập. Tất cả đều đang hướng về chiến khu, dồn về cuộc chiến, hướng về sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc thân yêu. Câu thơ vọng vang âm hưởng hào hùng, hào sảng và đầy tự hào về sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Đây không chỉ là một cuộc đấu tranh chính nghĩa hợp ý trời, vừa lòng dân mà còn là cuộc chiến mà cả dân tộc, cả quê hương một lòng, chung sức chiến đấu. Từ một đội quân chỉ có 34 người xuất phát từ gốc đa Tân Trào năm nào, dưới sự chỉ huy của đồng chia Võ Nguyên Giáp, hôm nay chúng ta đã có được một đội quân hùng mạnh liên tiếp gặt hái được những chiến công chói lọi. Chính sức mạnh ấy đã mang đến chiến thắng Điện Biên Phủ năm xưa “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, khiến cho cả thế giới phải ngả mũ bái phục một dân tộc nhỏ bé mà quật cường, trong gian khó lại có một sức mạnh phi thường.
Chỉ qua 6 câu thơ, Tố Hữu đã viết nên một bản hùng ca thời chiến, khẳng định sức mạnh to lớn của dân tộc ta, khẳng định truyền thống ngàn đời “đoàn kết và yêu nước nồng nàn” của biết bao người con đất Việt. Đoạn thơ nói riêng và cả Việt Bắc nói chung sẽ mãi là những áng thơ có sức sống lâu bền trong trái tim bao thế hệ bạn đọc.
Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc- Mẫu 4
Tố Hữu (1920-2002) được đánh giá là lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Ông để lại một sự nghiệp văn chương phong phú, giàu giá trị và một phong cách nghệ thuật độc đáo mang tính trữ tình-chính trị sâu sắc, đậm đà tính dân tộc. Rất tiêu biểu cho những tìm tòi sáng tạo không ngừng của nhà thơ là bài thơ Việt Bắc. Có thể nói, tinh hoa của tác phẩm lắng đọng trong mười câu thơ diễn tả nỗi nhớ của người về xuôi với cảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc:
Ta về mình có nhớ ta,
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh, dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào tháng 10-1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, các cơ quan trung ương Đảng và chính phủ từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong số những cán bộ kháng chiến từng sống gắn bó nhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt chiến khu để về xuôi. Bài thơ như được viết trong buổi chia tay lưu luyến đó.
Hoàn cảnh sáng tác tạo nên một sắc thái tâm trạng đặc biệt, đầy xúc động bâng khuâng. Tố Hữu đã vận dụng thành công thể thơ lục bát truyền thống, sử dụng sáng tạo cặp đại từ nhân xưng mình-ta, lối đối đáp quen thuộc của ca dao, giọng thơ tâm tình ngọt ngào, lời thơ đậm sắc thái dân gian để mở ra bao nỗi niềm nhớ thương, bao kỉ niệm về một thời kháng chiến gian khổ mà anh hùng. Qua đó nghĩa tình gắn bó thắm thiết thuỷ chung của những người kháng chiến với nhân dân, với Việt Bắc, với đất nước được bộc lộ một cách thấm thía, chân thành, cảm động.
Phần đầu của bài thơ, dưới hình thức đối đáp giữa mình và ta, đã tập trung khắc hoạ một khung cảnh tiễn đưa đầy thương nhớ, bịn rịn, bồn chồn, lưu luyến của kẻ ở người đi. Qua lời đối đáp ân tình, cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật đẹp.
Và có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ Việt Bắc là ấn tượng không phai về những người dân hoà quyện với thiên nhiên, núi rừng tươi đẹp:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi tu từ, nhưng hỏi chỉ là cái cớ để bộc lộ chiều sâu tình cảm. Điệp từ “ta” và “nhớ” khẳng định, nhấn mạnh nỗi nhớ da diết của người về thủ đô. Phép liệt kê ” những hoa cùng người” nêu lên đối tượng của nỗi nhớ. Đó là những gì tươi đẹp nhất của chiến khu. Hoa là kết tinh hương sắc của thiên nhiên con người là kết tinh vẻ đẹp của đời sống xã hội. Xét cho cùng, người cũng là một loại hoa của đất. Hoa và người đặt cạnh nhau càng tôn tạo vẻ đẹp cho nhau, làm sáng lên cả không gian núi rừng Việt Bắc trùng điệp.
Những câu thơ tiếp theo tập trung tái hiện cụ thể, chân thực vẻ đẹp bốn mùa của chiến khu. Cảnh và người hoà quyện, đan xen vào nhau, cứ câu thơ lục tả cảnh thì câu thơ bát tả người. Mỗi mùa lại có một vẻ đẹp riêng tạo thành một bức tranh tứ bình tràn ngập ánh sáng, màu sắc, đường nét, âm thanh vui tươi, ấm áp.
Mở đầu cho bức tranh tứ bình là khung cảnh mùa đông:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Nhớ về mùa đông Việt Bắc, nhà thơ không nhớ về cái giá rét âm u mà lại nhớ tới những ngày nắng đẹp rực rỡ. Biện pháp tiểu đối ” rừng xanh” với “hoa chuối đỏ tươi” đã tái hiện một không gian rừng núi mênh mông, bạt ngàn màu xanh tươi của cây cỏ, ẩn hiện trong sắc xanh sống động đó là những bông chuối rừng ngời ngời sắc đỏ như những ngọn đuốc. Hai gam màu ấm nóng kết hợp với nhau tạo cảm giác vui tươi, làm ấm cả không gian, tạo ám ảnh trong tâm hồn con người. Trong núi rừng ấy không chỉ có những bông chuối đỏ tươi mà còn có những con người vượt lên không gian, xuất hiện trên đỉnh đèo cao ở tư thế đầy kiêu hãnh, xuất hiện trong ánh sáng lấp lánh của mặt trời phản chiếu vào chiếc dao đi rừng gài ngang lưng. Hình bóng con người lồng lộng trong không gian, giữa núi và nắng, giữa trời và rừng xanh chính là kết tinh vẻ đẹp của núi rừng, là điểm nhấn của núi rừng.
Hai câu thơ tiếp khắc hoạ cảnh mùa xuân:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Hai động từ “nở trắng” đặt cạnh nhau vừa diễn tả bước đi của mùa xuân vừa nhấn mạnh vào màu sắc của Việt Bắc ngày xuân. Mùa xuân đến đem theo sức sống mới, làm cho từng cây, từng cây mơ nở hoa trắng rồi dần dần làm cho cả núi rừng tràn ngập sắc hoa trắng tinh khiết, dịu dàng, thơ mộng. Màu trắng của hoa mơ lấn át các màu sắc khác làm cả khu rừng như tỏa sáng, khiến cho lòng người không khỏi xao xuyến, bâng khuâng, nhung nhớ. Và nhà thơ đã nhớ đến những người đan nón. Hành động chuốt từng sợi giang là biểu hiện của sự cần mẫn, khéo léo, tài hoa trong tâm hồn, tính cách người dân Việt Bắc. Họ nhẫn nại, tỉ mỉ trong từng cử chỉ để tạo ra những sản phẩm đẹp cho đời. Câu thơ chứa đựng một thái độ trìu mến, thân thương, trân trọng những người lao động của nhà thơ Tố Hữu.
Tiếp đến, mùa hè chiến khu hiện lên trong âm thanh và màu sắc không thể nào quên:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Qua cách miêu tả của nhà thơ, tiếng ve râm ran như khúc nhạc rộn rã không chỉ làm cho núi rừng vang động mà còn làm cho màu sắc cây lá biến đổi. Động từ “đổ vàng” đã diễn tả tài tình sự thay màu đột ngột của rừng phách. Khi tiếng ve vang lên báo hiệu hè đến, cả rừng phách xanh tươi bỗng khai nở muôn nghìn cánh hoa màu vàng óng ả như được trộn bằng mật ong và nắng rừng ngọt ngào. Trong dàn nhạc và thảm hoa ấy, nhà thơ nhớ đến một người em gái. Cô sơn nữ một mình trong núi rừng không gợi ấn tượng buồn hiu hắt mà lại mang vẻ đẹp khỏe khoắn vì cô hiện lên trong tư thế lao động vất vả, giản dị nhưng cũng rất thơ mộng, vui vẻ.
Nhớ về mùa thu, nhà thơ không thể nào quên ánh trăng:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
Câu thơ mở ra một không gian tràn ngập ánh trăng thanh bình soi chiếu khắp núi rừng chiến khu. Ánh trăng ấy không chỉ mang vẻ đẹp tự nhiên mà nó còn gắn với niềm xúc động của những con người từng trải qua bao năm khốc liệt, gian khổ của chiến tranh. Trong khu rừng thấm đẫm ánh vàng ấy bỗng ngân nga lên tiếng hát ân tình làm rạo rực lòng người.Tiếng hát bộc lộ lòng người, bộc lộ tâm hồn thuỷ chung, tình nghĩa của con người Việt Bắc cũng chính là tấm lòng của người về xuôi với chiến khu. Thế nên dường như ánh trăng cũng ngời sáng hơn và tiếng hát cũng du dương và vang xa hơn.
Như vậy, nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi đã khắc sâu thiên nhiên núi rừng Việt Bắc với vẻ đẹp vừa hiện thực vừa thơ mộng, thi vị, riêng biệt, độc đáo, khác hẳn những miền quê khác của Tổ quốc. Gắn liền với cảnh là những con người lao động bình dị nhưng chính họ đã góp phần to lớn tạo nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chỉ những người gắn bó sâu nặng, coi Việt Bắc là quê hương thân thiết mới có những xúc cảm, ấn tượng và nỗi nhớ da diết như thế.
Nỗi nhớ Việt Bắc còn được tác giả khắc sâu và mở rộng trong những đoạn thơ sau của tác phẩm. Theo dòng hoài niệm, Việt Bắc trong kháng chiến hiện lên vừa gian khổ vừa hào hùng với niềm tin vào Đảng, vào Bác Hồ vĩ đại, với cảm hứng ngợi ca đất nước sâu sắc.
Đoạn thơ ngắn 10 dòng trên mang âm điệu ngọt ngào, từ ngữ trong sáng giản dị giàu sức gợi, in đậm phong cách thơ Tố Hữu đã bộc lộ sự gắn bó sâu sắc của nhà thơ với Việt Bắc. Qua nỗi nhớ, niềm trân trọng tha thiết của nhà thơ, cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật gần gũi, chân thực mà thơ mộng, trữ tình. Thông qua tình cảm riêng của mình, Tố Hữu đã nói lên tình cảm của cả một thế hệ với quê hương đất nước, đã ngợi ca tình nghĩa thuỷ chung ân tình của nhân dân ta.
Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc- Mẫu 5
“Ôi! Nỗi nhớ, có bao giờ thế!”. Nỗi nhớ đi qua thời gian, vượt qua không gian. Nỗi nhớ thấm sâu lòng người… Và nỗi nhớ ấy cứ ray rứt, da diết trong tầm hồn người chiến sĩ cách mạng miền xuôi khi xa rồi Việt Bắc thân yêu – nơi đã từng nuôi nấng mình trong những ngày kháng chiến gian lao…
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai – tiếng hát ân tình thủy chung.
Trong cùng một đoạn thơ ngắn nhưng từ “nhớ” đã được lặp lại năm lần. Nỗi nhớ xuyên suốt từ câu đầu đến câu cuối đoạn. Hai dòng đầu là lời khơi gợi, “nhắc khéo”: mình có nhớ ta không? Riêng ta, ta vẫn nhớ! Cách xưng hô gợi vẻ thân mật, tình cảm đậm đà tha thiết. Ta với mình tuy hai mà một, tuy một mà hai.
Người ra đi nhớ những gì? Việc Bắc có gì để mà nhớ, để mà thương? Câu thơ đã trình bày rất rõ?
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Núi rừng, phong cảnh Việt Bắc được ví như “hoa”. Nó tươi thắm, rực rỡ và “thơm mát”. Trong bức tranh thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên giản dị, chân chất, mộc mạc mà cao đẹp vô cùng! Con người và thiên nhiên lồng vào nhau, gắn kết với nhau tạo nên cái phong thái riêng của Việt Bắc.
Bốn mùa đất nước đi qua trong những câu thơ ngắn gọn bằng các hình ảnh, chi tiết chắt lọc, đặc trưng. Mỗi mùa mang một hương vị độc đáo riêng.
Mùa đông, rừng biếc xanh, điểm lên những bông hoa chuối “đỏ tươi” và ánh nắng vàng rực rỡ. Xuân đến, cả khu rừng bừng sáng bởi màu trắng của hoa mơ. Hè sang, có ve kêu và có “rừng phách đổ vàng”. Và khi thu về, thiên nhiên được thắp sáng bởi màu vàng dìu dịu của ánh trăng. Đoạn thơ tràn ngập những màu sắc chói lọi, rực rỡ: xanh, đỏ, vàng, trắng… Những màu sắc ấy đập mạnh vào giác quan của người đọc. Tiếp xúc với những câu thơ của Tố Hữu, ta như được chiêm ngưỡng một bức tranh sinh động. Trong đó, những gam màu được sử dụng một cách hài hòa tự nhiên càng tô thêm vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc.
Thời gian vận hành nhịp nhàng trong những dòng thơ. Nó bước những bước rắn rỏi, vững chắc khiến ta chẳng thể thấy phút giao mùa. Thiên nhiên Việt Bắc còn được mô tả theo chiều dọc thời gian. Buổi sáng hoa “mơ nở trắng rừng”, trưa nắng vàng rực rỡ và khi đêm về, trăng rọi bàng bạc khắp nơi… Núi rừng Việt Bắc như một sinh thế đang biến đổi trong từng khoảnh khắc…
Và cái phong cảnh tuyệt vời, đáng yêu ấy càng trở nên hài hòa nắng ấm, sinh động hẳn lên khi xuất hiện hình ảnh của con người. Con người đang lồng vào thiên nhiên, như một đóa hoa đẹp nhất, có hương thơm ngào ngạt nhất. Mỗi câu thơ tả cảnh đi cặp với một câu thơ tả người. Cảnh và người đan xen vào nhau một cách hài hòa. Đây là những con người lao động, gắn bó, hăng say với công việc. Kẻ “dao gài thắt lưng”, người “đan nón”, “cô em gái hái măng một mình” và tiếng hát ân tình của ai đó vang lên giữa đêm rừng núi xôn xao… Hình ảnh con người làm nét đẹp của thiên nhiên thêm rực rỡ. Chính họ đã gợi nên nỗi nhớ da diết cho người ra đi. Đọc đoạn thơ, ta có cảm nhận những vẻ đẹp bình dị mà trong sáng của tâm hồn người Việt Bắc. Ở đó họ đối xử với nhau bằng tình nghĩa mặn mà, chân thật, bằng sự thủy chung “trước sau như một”. Họ đã nuôi chiến sĩ, nuôi cách mạng, nuôi cuộc kháng chiến của dân tộc… Những con người Việt Bắc tuy bình dị nhưng thật anh hùng.
Khơi gợi hình ảnh thiên nhiên và con người nơi đây, Tố Hữu đã thể hiện một tình cảm tha thiết, ân tình sâu nặng và nỗi nhớ thương sâu sắc. Ta với mình, mình với ta đã từng:
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Đã từng san sẻ những ngọt bùi, gian nan vất vả như thế! Ta, mình làm sao có thể quên nhau được. Tình cảm mến thương ấy đã ăn sâu vào tâm hồn kẻ ở, người đi. Vì thế, khi ra đi, nhớ là nỗi niềm khắc đậm sâu trong tâm khảm, tình cảm của tác giả.
Giọng thơ lục bát nhẹ nhàng mà sâu lắng. Cả khổ thơ ôm chứa niềm lạc quan, vui sống và tin tưởng vào cuộc sống. Nó mang âm điệu trữ tình, thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người tha thiết và tấm lòng yêu nước thiết tha của Tố Hữu. Cuối đoạn thơ vang lên tiếng hát ngọt ngào khơi gợi bao kỉ niệm. Kỉ niệm ấy theo mãi dấu chân người đi và quấn quýt bên lòng kẻ ở lại…
Những câu thơ của Tố Hữu có tính khái quát cao so với toàn bài. Lời thơ giản dị mà trong sáng thể hiện niềm rung động thật sự trước vẻ đẹp của núi rừng và con người Việt Bắc. Nỗi nhớ trong thơ của Tố Hữu đã đi vào tâm hồn người đọc, như khúc dân ca ngọt ngào để lại trong lòng ta những tình cảm sâu lắng, dịu dàng
Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc- Mẫu 6
Kể về những thành tựu xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp xâm lược, có lẽ chúng ta không thể nào không nhắc đến Việt Bắc của Tố Hữu. Đây là một bài thơ mang đậm màu sắc dân tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu. Thông qua đó, thể hiện niềm nhớ thương tha thiết và tình cảm sắt son, đằm thắm của nhân dân Việt Bắc với cách mạng, với Đảng, với Bác Hồ, đồng thời cũng thể hiện tình cảm của người cán bộ kháng chiến với thiên nhiên, núi rừng và con người Việt Bắc. Đoạn thơ gồm năm câu lục bát nhắc lại những cảnh thân thiết và tươi đẹp nhất về cánh và người Việt Bắc trong hồi ức của người cán bộ cách mạng miền xuôi, ở đây chính là nhà thơ.
“Ta về, mình có nhớ ta
…
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Hai câu thơ mở đầu đã mang cảm xúc chung cho toàn đoạn. “Ta” là người ra đi mà cũng là chính tác giả. Ở đây đoạn thơ kết cấu theo lối đối đáp thông thường trong dân ca truyền thống. Do đó, đây chính là lời nói ngọt ngào của người ra đi với người ở lại để liên tưởng đây là một thiếu nữ địa phương. Và câu hỏi tu từ này là cái cớ bày tỏ tình yêu của một chàng trai miền đồng bằng với cô gái miền cao.
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
“Hoa và người” thực là nỗi nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Ở đây, thiên nhiên hòa điệu với con người, giữa chúng ngoài mối quan hệ tương hỗ còn có mối tương sinh lẫn nhau. Việt Bắc sinh ra con người và con người làm nóng ấm quê hương Việt Bắc.
Tiếp theo, tám dòng lục bát còn lại như là một bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người nơi đây. Với bốn dòng lục, nhà thơ đã miêu tả phong cảnh núi rừng qua bốn mùa, mỗi mùa là một bức tranh thiên nhiên có nét đẹp riêng biệt. Qua đây, ta thấy chỉ riêng đoạn thơ này đã thấm đậm tính chất dân gian.
Đầu tiên là bức tranh tả cảnh và khơi gợi cho chúng ta tình cảm mến thương của mùa đông Việt Bắc. Tại sao lại là mùa đông? Vì đây là hồi ức của tác giả trong giờ phút chia tay. Chúng ta còn nhớ, vào một đêm mùa đông 1946, Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân kháng chiến. Đặc biệt ở Hà Nội, những người lính cảm tử sau hai tháng giam chân địch trong thành phố đã bí mật vượt sông Hồng để lên căn cứ cách mạng Việt Bắc. Sự kiện này, đến tận bây giờ vẫn sống mãi bởi một khúc hát quen thuộc:
Đêm cái đêm rét quá chân cầu
Anh, anh đã hẹn ngày mai trở lại
Sông, sông Hồng bên bờ hát mãi
Tỏ niềm tin khúc khải hoàn ca.
Lưu Trọng Lư trong Một mùa đông đã từng viết:
Đôi mắt em lặng buồn,
Nhìn tôi mà không nói.
Tình đôi ta vời vợi,
Có nói cũng vô cùng
Trời hết một mùa đông
Không một lần đã nói…
Thế mà, ở chốn núi rừng heo hút này đột ngột bừng lên màu đỏ tươi của hoa chuối rừng như những bó đuốc thắp lên sáng rực. Vẻ đẹp nên thơ và rực rỡ của Việt Bắc vào mùa đông gợi cho người đọc những rung động sâu xa. Thông qua bức tranh, ta thấy dù mùa đông lạnh giá nhưng sự sống núi rừng vẫn cứ như tuôn trào, cảm giác đem đến cho lòng người sự ấm áp lại.
Thiên nhiên đáng yêu như thế, còn con người thì sao? Ta xét tiếp câu hát:
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Thời gian được xác định bởi yếu tố “ngày xuân”. Chính ấn tượng thời gian này tạo sự vận động, sinh sôi nảy nở. Không gian ở đây như là cổ tích. Mới vừa rồi màu xanh bạt ngàn điểm hoa chuối đỏ, bây giờ nở bung ra những rừng mơ trắng muốt thoảng hương thơm. Cái màu trắng dìu dịu tinh khiết ấy phủ lên cả cánh rừng, gợi lên trong lòng ta một cảm giác thơ mộng bâng khuâng. Ngoài ra màu trắng của hoa mơ gợi cho người ta cái thanh thoát hơn, đem lại cho lòng người sự thanh thản, thảnh thơi. Câu thơ làm cho ta thấy dường như màu xanh đã bị lấn lướt. Mùa xuân ở đây không tưng bừng như mùa xuân của Xuân Diệu mà nó đến một cách lặng lẽ, âm thầm nhưng không kém niềm vui.
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Mùa xuân miêu tả trong câu thơ rất đặc trưng cho mùa xuân Việt Bắc. Sợi giang là sản phẩm của Việt Bắc. Do vậy, người lao động đó là người Việt Bắc chứ không phải là người miền xuôi. Nhìn thấy được từng sợi giang, tức là con người được nhìn ở tầm gần.
Thế rồi, khoảnh khắc của mùa xuân cũng qua mau, con người tiếp tục sống cuộc sống của họ.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Bức tranh gợi sự chú ý cho người đọc bằng thị giác, lẫn thính giác. Đầu tiên, cái độc đáo ở đây chính là âm thanh, âm thanh mùa hạ, tiếng “ve kêu”. Câu thơ tạo ra hình ảnh nhân hóa. Con ve là loài vật, vậy mà nó biết kêu, biết gọi, nó xui khiến rừng phách “đổ vàng’’. Chúng ta nên dành một ít thời gian để tìm hiểu cái rừng phách kỳ lạ này. Phách là một loài cây thân gỗ ở rừng Việt Bắc, nở hoa vàng vào đầu mùa hạ. Tiếng ve kêu râm ran đây đó báo hiệu mùa hạ, nhưng lúc này đã là cuối hạ. Lá cây bắt đầu chuyển sang màu vàng, cả rừng phách thay áo mới, chiếc áo vàng óng ánh dưới ánh nắng mặt trời. Cảnh thiên nhiên đẹp và rực rỡ thêm lại càng lãng mạn hơn, vì trong cánh rừng bạt ngàn ấy có thêm bóng dáng của một sơn nữ “hái măng một mình”. Đọc tới đây khiến ta liên tưởng đến một hình ảnh tương tự trong thơ Nguyễn Bính, nhà thơ của đồng quê trong phong trào Thơ mới.
Thơ thẩn đường chiều một khách thơ
Say nhìn ra rặng núi xanh lơ
Khí trời lặng lẽ và trong trẻo
Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ.
Đây là khổ thơ thứ nhất trong bài thơ cô hái mơ. Ta thấy có sự giống nhau rất ngẫu nhiên: cũng là rừng núi và cô gái đang làm việc. Chỉ có điều ở đây là “hái mơ” chứ không phải “hái măng”. Từ “hái” ở đây dường như không thể thay thế bằng một động từ khác như bẻ, đốn… vì chỉ có nó mới phù hợp với nét dịu dàng, uyển chuyển, mềm mại của cô gái mà thôi. Ta hãy thử tưởng tượng bức tranh mùa hạ như thế này đẹp biết bao! Cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ như thế lại khảm chạm thêm vào hình ảnh một người thiếu nữ nhẹ nhàng làm việc. Quả thật bức tranh vừa đẹp vừa có hồn. Rõ ràng thiên nhiên và con người đã hòa quyện vào nhau, tô điểm cho nhau.
Cuối cùng đoạn thơ kết thúc bằng hình ảnh mùa thu cũng không kém phần đẹp đẽ:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Câu thơ đã xác định rõ, đây là mùa thu. Thiên nhiên mùa thu được miêu tả bằng ánh trăng. Việc sử dụng hình ảnh trăng thật ra cũng không có gì độc đáo và mới mẻ. Tuy nhiên, đặt vào hoàn cảnh Việt Bắc lúc bấy giờ, ta thấy được niềm mơ ước hòa bình của người cán bộ cũng như toàn dân Việt Bắc. Tất cả đều nói lên niềm tin tưởng chiến thắng sẽ đến với cách mạng, với đất nước.
Câu thơ thiếu cụ thể nên con người ở đây cũng thiếu cụ thể. Từ “ai” nhòa đi để tạo nền cho cả đoạn và cũng nhằm trả lời cho câu hỏi đầu tiên: “Mình về có nhớ ta chăng?”. Tuy hỏi thế nhưng trong lòng họ vẫn biết rằng con người ấy vẫn thủy chung, son sắt. Đây là lời đồng vọng trong tâm hồn của cả người đi và người ở lại.
Qua đây ta thấy bao trùm cả đoạn thơ là tình cảm nhớ thương tha thiết tiếp tục âm hưởng chung của nghệ thuật ca dao. Câu thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển, ý nọ gợi ý kia cứ trào lên dào dạt trong lòng người ra đi và người ở lại. Đặc biệt là qua cách xưng hô “mình” với “ta”. Ở đây điệp từ “nhớ” dùng để xoáy sâu vào cảm hứng chủ đạo là hồi ức. Bên cạnh đó, nhạc điệu dịu dàng trầm bổng khiến cả đoạn thơ mang âm hưởng bâng khuâng, êm êm như một khúc hát ru — khúc hát ru kỉ niệm. Có lẽ khúc hát ru này không của ai khác mà là của “ta” và cho người nhận là “mình”. Cả “ta” và “mình” đều cùng chung nỗi nhớ, cùng chung “tiếng hát ân tình” và ân tình sâu nặng ấy mãi còn lưu luyến vấn vương trong những tâm hồn chung thủy.
Có thể nói đây là đoạn thơ hay và có giá trị nhất trong bài Việt Bắc. Cảnh thiên nhiên và con người trong đoạn thơ được miêu tả hết sức tuyệt vời và tươi đẹp tràn ngập sức sống. Và với giọng thơ ngọt ngào, tâm tình khiến đoạn thơ như một bản tình ca về lòng chung thủy, sắt son của người cách mạng đối với nhân dân, quê hương Việt Bắc.
Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc- Mẫu 7
Ân tình và chung thủy – đó là một nét đẹp trong rất nhiều nét đẹp của con người cách mạng. Nét đẹp ấy thể hiện trong nhiều tác phẩm văn học thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ta cũng bắt gặp nét đẹp ấy trong Việt Bắc của Tố Hữu. Tập trung, tiêu biểu nhất là ở đoạn thơ:
“Ta về mình có nhớ ta
…
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
Mười câu thơ trên là đoạn thơ thứ 7 của bài thơ Việt Bắc. Đó là bức tranh toàn cảnh và tiêu biểu của Việt Bắc qua bốn mùa trong năm. Bức tranh ấy rực rỡ, tươi tắn nhưng cũng bâng khuâng, man mác vì nó được lọc qua nỗi nhớ của người về xuôi. Nỗi nhớ được bộc lộ tha thiết trong buổi chia tay:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Hai lần “ta về” láy lại ở đầu câu – cùng một thời điểm chia tay, nhưng câu trên là hỏi người, câu dưới là giãi bày lòng mình. Cái giọng thơ tâm tình của Tố Hữu ở đây thật ngọt ngào dễ thương. Cuộc chia tay giữa người kháng chiến và người Việt Bắc, giữa miền ngược với miền xuôi đã trở thành một cuộc giã bạn đôi lứa (ta – mình). Nỗi nhớ về những ngày gian nan gắn bó với cảnh và người Việt Bắc cứ hiện dần trong tâm trí người đi. Cảnh vật, con người Việt Bắc, cái gì cũng đáng yêu, đáng nhớ. Nhớ trước nhất là hoa cùng người. Hoa và người hòa quyện trong nỗi nhớ. Nhớ hoa là nhớ tới cái đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, mà cái đẹp của Việt Bắc không thể tách rời với cái đẹp của những con người Việt Bắc đã từng cưu mang, gắn bó với người đi, với cách mạng, vẻ đẹp bức tranh Việt Bắc, trước tiên là vẻ đẹp của sự gắn bó giữa thiên nhiên và con người.
Bức tranh đó được diễn tả bằng những câu thơ êm ả, nhẹ nhàng. Có màu sắc tươi tắn rực rỡ, có ánh sáng lung linh chan hoà, có âm thanh vui tươi, đầm ấm. Cảnh và người hòa quyện vào nhau: bốn cặp lục bát tả bốn mùa, thì câu trên nhớ cảnh, câu dưới nhớ người. Mà cảnh nào, người nào được nhắc tới cũng đều có cái riêng để nhớ. Tất cả đã hiện lên trước mắt ta một bức tranh Việt Bắc tuyệt diệu, nên thơ qua nét bút chấm phá tài tình của tác giả.
Mỗi mùa được nhà thơ nhớ lại bằng một nét tiêu biểu nhất, với cách diễn tả tinh tế gợi cảm, Nhớ mùa đông Việt Bắc là nhớ tới “rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”. Giữa cái bạt ngàn của màu xanh, hiển hiện một màu sắc ấm nóng (tươi đỏ), bức tranh mùa đông của Việt Bắc đâu còn cái lạnh lẽo, hoang vu nữ. Xuân sang sắc màu lại đổi khác, tràn ngập sinh sôi một màu trắng tinh khiết, thơ mộng: “ngày xuân mở nở trắng rừng”. Cảnh này có gì đó giống như cảnh Bác về nước:
Ôi sáng xuân nay, Xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về… Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ…
(Theo chân Bác, Tố Hữu)
Bốn cặp lục bát sau Tố Hữu dùng để tả cảnh hè đến và cảnh mùa thu. Nếu như sắc màu chủ đạo của cảnh động là màu xanh điểm vào đó có sắc hoa tươi đỏ, của cảnh xuân là màu trắng hoa mơ, thì của mùa hè là màu vàng tươi đẹp của rừng phách: Ve kêu rừng phách đổ vàng. Đây là một câu thơ vào loại hay nhất của bài thơ Việt Bắc. Câu thơ sáu chữ mà thấy được sự chuyển đổi của cảnh sắc thiên nhiên. Câu thơ ấy rung lên một tiếng ve kêu không dứt trong màu vàng chói chang của rừng phách dưới nắng hạ. Cuối cùng, cảnh thu hiện ra với màu sắc dịu hiền của ánh trăng, màu của mơ ước về cuộc sống hoà bình giữa những ngày gian khổ. Cảnh nào cũng đẹp, mùa nào cũng đáng yêu và mỗi mùa là một bức tranh nên thơ, kỳ thú.
Bức tranh bốn mùa ấy còn ánh lên vẻ đẹp đằm thắm của con người Việt Bắc. Cảnh làm nền cho người và người gắn với cảnh, chúng quyện hoà vào nhau và tô điểm cho nhau. Dường như những cảnh ấy phải có những con người này và nhà thơ đã đưa vào bức tranh Việt Bắc những con người thật bình dị đáng yêu: hình ảnh người lên núi với lưỡi dao lấp lánh ánh nắng cạnh sườn, bàn tay “chuốt từng sợi giang” của người đan nón và “cô em gái hái măng một mình” giữa khúc nhạc ve ran và sắc vàng rừng phách. Cả tiếng hát ân tình nữa cũng làm cho rừng thu êm dịu và ánh trăng hoà bình toả sáng lung linh.
Không hiểu Việt Bắc sâu sắc, không yêu Việt Bắc nồng nàn và nhớ Việt Bắc tha thiết thì không thể dựng lên bức tranh quê hương cách mạng đẹp tuyệt diệu và ấm tình người đến thế. Nhưng để có bức tranh này, còn có quan điểm đúng đắn và cách nhìn tiến bộ của nhà thơ cách mạng. Khác với những cái nhìn sai lệch trước đây về miền núi và con người miền núi là nơi “ma thiêng nước độc” với những con người dữ tợn, kém văn minh,…) Tố Hữu đã có một cách nhìn đầy thông cảm, thương yêu và ưu ái với quê hương cách mạng. Bức tranh thơ này chính là bắt nguồn từ sự gắn bó chung thủy, từ lòng nhớ thương sâu nặng của nhà thơ đối với cảnh và người Việt Bắc.
Tình cảm nhớ thương tha thiết ấy là âm hưởng bao trùm cả đoạn thơ và nhịp điệu dịu dàng trầm bổng của thể thơ lục bát làm cho âm hưởng đó bâng khuâng, tha thiết. Kết cấu của bài thơ Việt Bắc là kết cấu đối đáp, có ta và mình, có người đi kẻ ở, nhưng thực ra đó chỉ là sự phân thân của một chủ thể trữ tình.
Khép lại đoạn thơ là tiếng hát ân tình, thuỷ chung của người chiến sĩ cách mạng miền xuôi, của đồng bào Việt Bắc. Tiếng hát ấy vang trong lòng người đi, luôn nhắc nhớ những ngày tháng nghĩa tình sắt son. Tiếng hát ấy là chiếc cầu nối giữa tấm lòng với tấm lòng, giữa quá khứ, hiện tại và cả tương lai.
Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc- Mẫu 8
Bài thơ “Việt Bắc” ra đời vào tháng 10 – 1954, rút trong tập “Việt Bắc” – tập thơ kháng chiến của Tố Hữu. Sau hơn ba ngàn ngày khói lửa, Hồ Chí Minh cùng đoàn quân chiến thắng tiến về thủ đô. Trong bối cảnh lịch sử hào hùng ấy. Tố Hữu đã sáng tác bài thơ này. Đây là một trong những đoạn thơ tiêu biểu nhất trong “Việt Bắc” thể hiện một cách tập trung vẻ đẹp giá trị tư tưởng và nghệ thuật của thơ Tố Hữu.
Bao trùm lên toàn bộ đoạn thơ là nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến đối với cảnh và người Việt Bắc. Nỗi nhớ tha thiết, bồi hồi thể hiện tình cảm thủy chung, nặng tình nặng nghĩa giữa “ta” với “mình”, giữa kẻ ở với người về, giữa người cán bộ kháng chiến với người dân Việt Bắc:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người,
… Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
… Nhớ cô em gái hái măng một mình
… Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.
Chữ “nhớ” như một luyến láy trong khúc ca tâm tình làm cho vần thơ lục bát trở nên ngọt ngào sâu lắng.
Trong 5 câu thơ của đoạn trích thì câu 2 mang ý nghĩa khái quát: “Ta về, mình có nhớ ta – Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”. Câu nào cũng có hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc, câu nào cũng có hình ảnh con người Việt Bắc.
Hình ảnh thiên nhiên trong đoạn thơ của Tố Hữu đẹp đẽ, tươi sáng, thơ mộng, đầy sức sống đến lạ thường. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã nhận xét: “Những câu thơ của Tố Hữu viết về thiên nhiên trong Việt Bắc có thể sánh với bất kỳ đoạn thơ miêu tả thiên nhiên nào trong văn học cổ điển”. Thiên nhiên trong thơ Tố Hữu đa dạng độc đáo. Bốn câu thơ là bức tranh bốn mùa trong một năm, mỗi mùa lại mang một sắc thái riêng biệt. Đoạn thơ làm ta liên tưởng đến bức tranh tứ bình trong “Truyện Kiều” qua ngòi bút thiên tài của thi hào Nguyễn Du:
“Sen tàn cúc lại nở hoa,
Sầu dài ngày ngắn, đông đà sang xuân”.
Với Tố Hữu, cảnh rừng Việt Bắc khi mùa đông đến là một màu xanh bạt ngàn, điểm tô, thắp sáng bởi “hoa chuối đỏ tươi”. Thơ nên họa đã làm hiện lên vẻ đẹp hoang sơ và tráng lệ của những cánh rừng Việt Bắc. Khi mùa xuân đến “mơ nở trắng rừng” một vẻ đẹp trong trắng, thanh khiết, tinh khôi gợi cảm giác thơ mộng và bâng khuâng – một sức sống bừng dậy “trắng rừng” làm đổi thay quang cảnh thiên nhiên chiến khu. Và mùa hè “ve kêu rừng phách đổ vàng”. Chỉ có Việt Bắc mới có rừng phách vàng rực trong mùa hè. Sự chuyển đổi của thời gian, sự chuyển vần từ xuân qua hè được thể hiện qua âm thanh tiếng ve, được diễn tả qua từ “đổ”. Câu thơ hay vì thời gian cũng mang màu sắc. Trước mắt người cán bộ kháng chiến là những rừng phách đang ngả dần sang màu vàng rực khi mùa hè đến trong âm thanh rộn rã tiếng ve ngân suốt đêm ngày. Chữ “đổ” là một nhãn tự làm ta nhớ đến câu thơ của Xuân Diệu trong bài “Thơ duyên”: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá. Thu đến nơi nơi động tiếng huyền”. Mùa thu chiến khu quên sao được “Rừng thu trăng rọi hòa bình”. Rừng cây, núi đá, khe suối, “bản khói cùng sương” càng đáng yêu hơn dưới vầng trăng xanh hòa bình dịu mát. Ta bồi hồi nhớ lại câu thơ trăng của Bác viết những năm đầu kháng chiến: “Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa” (Cảnh khuya).
Bức tranh thiên nhiên trong thơ Tố Hữu tươi sáng, gợi cảm, thơ mộng và đầy màu sắc thẩm mỹ. Mỗi câu thơ là một phiên cảnh với mảng màu và nét tài hoa. Màu xanh của rừng già, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu trắng của hoa mơ mùa xuân, màu vàng rực của rừng phách mùa hạ, màu xanh hòa bình dịu mát của ánh trăng thu. Nghệ thuật phối sắc tài tình của Tố Hữu trong miêu tả đã làm hiện lên bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, đầy sức sống như Bác Hồ đã viết:
“Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay”…
(Cảnh rừng Việt Bắc)
Thiên nhiên Việt Bắc còn đẹp trong sự hòa hợp gắn bó với con người đang sống và hoạt động. Vì vậy, thiên nhiên Việt Bắc không hoang vu buồn tẻ mà trái lại, nó tràn đầy sức sống – sức sống mãnh liệt của một đất nước đang kháng chiến. Con người được nói tới trong đoạn thơ này rất đẹp và hữu tình. Trước hết là con người xuất hiện trong khung cảnh lao động, trong sự hòa hợp và chan hòa với thiên nhiên.
“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng” – là một trong những câu thơ đặc sắc của đoạn thơ. Câu thơ được coi là sự phát hiện độc đáo của Tố Hữu mang màu sắc “rất Việt Bắc” như cách nói của Xuân Diệu. Đồng bào Việt Bắc lúc đi rừng thăm rẫy, làm nương đều gài dao ở thắt lưng. Trên tầm cao của đèo, ánh sáng mặt trời chiếu vào những con dao ấy, tạo nên sự phản quang rực rỡ, lấp lánh. Chỉ một câu thơ thôi mà người đọc có thể cảm nhận được hình ảnh mạnh mẽ, hào hùng của con người Việt Bắc trong tư thế lao động, làm chủ thiên nhiên, trong tư thế vận động đi lên phía trước. Phải có một tâm hồn thi sĩ tinh tế, sự quan sát sắc sảo mới viết được những câu thơ hay như vậy. Con người kháng chiến mang tầm vóc thời đại là người sản xuất hay người chiến sĩ đều mang tư thế hào hùng:
“Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”.
(Lên Tây Bắc)
Nhớ “mơ nở trắng rừng” trong những ngày xuân cũng là sự bồi hồi “nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”. Tác giả viết về con người Việt Bắc trong một khung cảnh cụ thể, một công việc cụ thể. Từ “chuốt” trong câu thơ là trau chuốt, làm bóng lên, làm đẹp thêm lên. Chữ “từng” (từng sợi giang) gợi tả đức tính cần mẫn, cách làm tỉ mỉ và chịu khó. Có khéo tay mới “chuốt từng sợi giang” mỏng và bóng để đan thành những chiếc nón xinh xắn, một trong những vật phẩm mỹ nghệ thủ công đặc trưng của Việt Bắc. Con người cần cù và tài hoa ấy thật đáng “nhớ” vì như Nguyễn Đình Thi đã từng ca ngợi: “Tay người như có phép tiên – Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ”. Thế là cùng với chiếc nón bài thơ của xứ Huế được nói đến trong dân ca, ta biết thêm chiếc nón đan bằng sợi giang của Việt Bắc qua bài thơ Tố Hữu.
Câu thơ “Nhớ cô em gái hái măng một mình” là câu thơ hay ở vần điệu. Sự hiệp vần: “gái – gái” (vần lưng) và cách sử dụng phụ âm “m” liên tiếp của các từ “măng – một – mình” tạo cho câu thơ đa thanh, mang tính nhạc hấp dẫn. Cô gái Việt Bắc trẻ trung, xinh tươi, lạc quan yêu đời, đi hái măng giữa rừng vầu rừng nứa một mình trong khúc nhạc rừng, tuy chỉ có “một mình” mà chẳng cảm thấy lẻ loi cô đơn. Con người ấy đang làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. Giữa một không gian nghệ thuật đầy màu sắc và âm thanh của suối rừng, cô gái Việt Bắc xuất hiện thật hồn nhiên và đáng yêu lạ! Câu kết của đoạn thơ: “Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” nói lên vẻ đẹp tâm hồn người Việt Bắc. “Ai” là đại từ phiếm chỉ gợi lên bao hoài niệm, bâng khuâng nghĩa tình thủy chung. Tiếng hát ân tình thủy chung giữa “ta” với “ai” được thử thách trong cay đắng ngọt bùi, trong máu lửa, “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” nên không bao giờ có thể quên được.
Đoạn thơ của Tố Hữu viết về thiên nhiên và con người Việt Bắc là đoạn thơ tràn đầy tình cảm nhớ nhung và thương mến với bao niềm tự hào đối với Việt Bắc “Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa”, và chiến khu bất khả xâm phạm “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”. Có thể nói, Tố Hữu không chỉ ca ngợi Việt Bắc mà còn viết nên những vần thơ đẹp nhất ca ngợi đất nước và con người Việt Nam trong lửa đạn.
Đoạn thơ thấm đẫm tình người. Nỗi nhớ thiết tha đã thấm sâu vào cảnh vật, vào lòng người – kẻ ở người về. Vần thơ lục bát với âm điệu ngọt ngào, bồi hồi như câu hát giao duyên “mình – ta” thuở nào. Chữ “nhớ” được điệp lại nhiều lần diễn tả tình thương nỗi nhớ vơi đầy dào dạt…
“Việt Bắc” là một trong những bài thơ lục bát hay nhất của Tố Hữu. Đoạn thơ trên tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của “Việt Bắc”. Ngòi bút nghệ thuật mang tính kế thừa và sáng tạo độc đáo, từ âm điệu trữ tình ca dao đến tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Cảnh và người đều đẹp và đáng yêu mang sức sống và khí thế của thời đại mới. Cấu trúc đoạn thơ mang vẻ đẹp tứ bình cổ điển, chặt chẽ, cân xứng, hài hòa cho ta nhiều ấn tượng và cảm xúc thẩm mĩ. Thơ là tấm lòng, tiếng lòng. Đoạn thơ trên đây là tấm lòng, tiếng lòng của người cán bộ kháng chiến đối với Việt Bắc “thủ đô gió ngàn”.
Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc- Mẫu 9
Lịch sử dân tộc không ít những trang viết bằng thơ. Một trong những trang viết tiêu biểu ấy là thơ Tố Hữu – một nhà thơ lớn của thơ ca cách mạng Việt Nam. Ta bắt gặp trong thơ Tố Hữu chặng đường cách mạng của dân tộc. Các sự kiện, các dấu mốc của lịch sử Việt Nam suốt hơn nửa thế kỷ từ khi Đảng ra đời đến sau chiến thắng mùa xuân 1975 được ông ghi lại trong những vần thơ trữ tình cách mạng tha thiết. Việt Bắc là một trong số đó. Bài thơ ghi lại sự kiện Đảng và Nhà nước chuẩn bị rời Việt Bắc về Hà Nội sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Trong bài thơ của mình, Tố Hữu đã thể hiện những tình cảm tha thiết của người đi – kẻ ở, thể hiện những cảm nhận sâu sắc của tác giả về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Điều này được thể hiện rõ nét qua đoạn thơ:
Ta về mình có nhớ ta,
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
Đoạn thơ là một bức tranh Việt Bắc qua bốn mùa và hàm chứa một nỗi nhớ nhung da diết cũng như biểu lộ tấm lòng chung thủy của tác giả nói riêng cũng như người cán bộ nói chung đối với Việt Bắc.
Hai câu đầu của đoạn thơ là lời hỏi và kể của người ra đi, muốn biết lòng người ở lại như thế nào và tự bộc lộ tấm lòng mình. Tám câu tiếp theo vẽ nên thiên nhiên Việt Bắc đầy thơ mộng và con người Việt Bắc đầy thân thương qua lời của người đi. Đầu tiên mùa đông xuất hiện với những bông chuối đỏ rực trên nền rừng xanh thẫm của những buổi hoàng hôn và hình ảnh con người lao động vui tươi. Tiếp đến là mùa xuân rực rỡ màu trắng của mơ và hình ảnh người đan nón. Rồi mùa hạ đến đầy màu vàng của rừng phách và đầy âm thanh của tiếng ve. Con người lại xuất hiện dưới hình ảnh cô gái một mình đang hái măng. Kết thúc là rừng thu ngập ánh trăng và không gian ngập tiếng hát. Cứ mỗi câu thơ tả thiên nhiên lại có một câu thơ tả con người, con người hòa quyện trong thiên nhiên nhưng không chìm trong thiên nhiên và luôn ở tư thế lao động, chủ động, thiên nhiên là nền nâng con người, tô điểm cho con người.
Có thể nói đây là một đoạn thơ với nhiều nghệ thuật tinh tế, tình cảm chân thực, xứng đáng là đoạn thơ hay nhất trong bài Việt Bắc. Ngay từ câu mở đầu, lời của người đi đã có một sức truyền cảm đặc biệt nhờ tính mộc mạc chân thực của nó. Câu thơ chỉ như một câu nói bình thường nhưng lại rất chân thành làm người đối diện xúc động. Nó đơn giản song lại da diết, thể hiện được sự mong mỏi của người đặt câu hỏi muốn biết tình cảm người kia dành cho mình cũng như một ước mong: hãy nhớ tôi nhé! Như muốn chứng tỏ tình cảm của mình người đặt câu hỏi lại kể hàng loạt những kỉ niệm về cảnh, về người:
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Cái đẹp của câu thơ là hình ảnh hoa cùng người, bởi chăng con người cũng là một bông hoa trong vườn hoa sự sống. Hình ảnh tạo nên nét hài hoà giữa thiên nhiên và con người, hoa và người tôn vẻ đẹp của nhau. Bốn câu lục bát sau tả bức tranh bốn mùa với những hình ảnh, màu sắc tươi tắn và âm thanh rộn ràng. Dù là mùa đông hay mùa hạ, mùa xuân hay mùa thu, tất cả đều có màu tươi vui. Màu đỏ của hoa chuối làm cho mùa đông bớt lạnh. Màu trắng của hoa mơ và màu vàng của rừng phách càng tô thêm vẻ rực rỡ của thiên nhiên một sự êm ả, thơ mộng và cảm giác thanh bình cho lòng người. Tất cả những đường nét đó vẽ nên bức tranh tứ bình đặc sắc bởi lời thơ mềm mại. Song nếu chỉ là bức tranh thì chưa đủ bởi thiếu âm thanh thiên nhiên Việt Bắc: Ta về, ta nhớ những hoa cùng người, không thiếu âm thanh, còn có tiếng ve kêu mùa hạ và tiếng hát của con người. Tác giả chọn tiếng ve là một sự lựa chọn hợp lý và mang tính tiêu biểu. Bởi ở Việt Nam, nói đến tiếng ve là người ta nghĩ ngay đến mùa hè. Tiếng ve rả rích tuy bình thường nhưng là một biểu tượng bằng âm thanh cho mùa hạ với màu vàng rất riêng của Việt Bắc tạo nên một sự kết hợp nghe – nhìn đặc biệt làm cho bức tranh mùa hạ vừa có nét riêng của Việt Bắc vừa có nét chung của đất nước. Phải chăng dụng ý của tác giả là để từ đó, dù mai sau có ở đâu, khi nghe tiếng ve kêu, ai cũng có thể liên tưởng và nhớ lại Việt Bắc? Vậy là thiên nhiên Việt Bắc, chỉ qua vài câu thơ đã được miêu tả đầy đủ và mang tính cách riêng độc đáo với hình ảnh và âm thanh chọn lọc khéo léo.
Trên nền thiên nhiên tuyệt đẹp đó, con người hiện ra trong tư thế chủ động và đầy sức sống. Bốn câu bát nói về con người cũng rất tinh tế và tình cảm. Tác giả chọn lọc phác họa những hình ảnh con người lao động thấp thoáng nhưng đủ sức gợi. Đó là hình ảnh người đi rẫy, đan nón, hái măng, hay kín đáo hơn một tiếng hát khi lao động hay trong một đêm sinh hoạt văn nghệ. Hình ảnh nắng ánh dao gài thắt lưng rất đặc trưng khoẻ khoắn và vui tươi. “Nắng” như tiếp thêm sự sống động cho con người chứ không mang vẻ gay gắt. Khi nhớ về hình ảnh người đan nón, tác giả gián tiếp bày tỏ lòng biết ơn đối với những đóng góp của Việt Bắc cho kháng chiến. Một cách bày tỏ kín đáo và tế nhị! Kí ức về cô em gái hái măng rất tình cảm bởi cách sử dụng từ “cô em gái” một cách trìu mến. Hơn nữa cảnh thiên nhiên thật rực rỡ, tươi đẹp, đầy âm thanh và màu sắc sống động. Cuối cùng, kỉ niệm về tiếng hát gây cho người đối thoại của nhân vật trữ tình xưng “ta” cũng như cả người đọc sự xúc động thật sự. Bởi tiếng hát xuất phát từ tâm hồn và tiếng hát “ân tình thuỷ chung” theo người đi là một kỷ niệm, một tình cảm êm dịu và lâu dài. Tiếng hát ấy phải chăng cũng chính là tâm hồn của tác giả.
Tố Hữu có biệt tài chọn lọc hình ảnh và phối hợp ánh sáng rất độc đáo. Ông có một tâm hồn nhạy cảm và có khả năng truyền cảm xúc của mình cho người khác. Chẳng hạn như chỉ với hai câu thơ:
Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn.
Tâm hồn Tố Hữu say mê và mạnh mẽ nhưng cũng rất sâu lắng và thủy chung. Với Tố Hữu, chính trị là một nguồn thơ thực sự, ông say mê sống với lý tưởng cách mạng và với niềm tin chân thật, ông muốn mang lí tưởng đó đến cho mọi người, ông thực hiện điều đó bằng tài năng thi ca của mình. Một điều đáng tiếc là những tập thơ sau này của ông như Ra trận, Máu và hoa có phần trở nên khô khan, đôi khi mang nặng tính triết lý và giáo huấn. Tuy nhiên, đoạn thơ vừa được phân tích ở trên là một bằng chứng hùng hồn cho tài năng sáng tạo của ông. Với tôi, đoạn thơ thực sự là một điểm son trong những sáng tác của Tố Hữu mang đậm tính dân tộc và cảm xúc chân thực.
Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc- Mẫu 10
“Việt Bắc” – bài thơ lục bát mang tầm vóc một trường ca dài 150 câu thơ, cảm xúc dâng lên mênh mông dào dạt. Bài thơ ra đời vào tháng 10 năm 1054, ngày giải phóng Thủ đô Hà Nội. Qua bài thơ, Tố Hữu nói lên một cách thiết tha mặn nồng mối tình Việt Bắc, mối tình cách mạng và kháng chiến.
Đoạn thơ 10 câu dưới đây trích từ câu 43 đến câu 52 trong bài thơ “Việt Bắc” nói lên bao nỗi nhớ vô cùng thắm thiết thủy chung đối với Việt Bắc:
“Ta về mình có nhớ ta,
…
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.
Hai câu thơ đầu là lời hỏi – đáp của “ta”, của người cán bộ kháng chiến về xuôi, ta hỏi mình “có nhớ ta”. Dù về xuôi, dù xa cách nhưng lòng ta vẫn gắn bó thiết tha với Việt Bắc: “Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”. Chữ “ta”, chữ “nhớ” được điệp lại thể hiện một tấm lòng thủy chung son sắt. Nỗi nhớ ấy hướng về “những hoa cùng người”, hướng về thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và con người Việt Bắc thân yêu:
“Ta về, mình có nhớ ta,
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”.
Hai chữ “mình – ta” xuất hiện ở tần số cao trong bài thơ, cũng như ở trong hai câu thơ này đã thể hiện một cách rất đẹp tình cảm lứa đôi hòa quyện trong mối tình Việt Bắc, đồng thời làm cho giọng thơ trở nên thiết tha bồi hồi như tiếng hát giao duyên thuở nào. Đó là sắc điệu trữ tình và tính dân tộc trong thơ Tố Hữu.
Tám câu thơ tiếp theo, mỗi cặp lục bát nói lên một nỗi nhớ cụ thể về một cảnh sắc, một con người cụ thể trong 4 mùa đông, xuân, hè, thu.
Nhớ mùa đông nhớ màu “xanh” của núi rừng Việt Bắc, nhớ màu “đỏ tươi” của hoa chuối như những ngọn lửa thắp sáng rừng xanh. Nhớ người đi nương đi rẫy “dao gài thắt lưng” trong tư thế mạnh mẽ hào hùng đứng trên đèo cao “nắng ánh…”. Con dao của người đi nương rẫy phản quang “nắng ánh” rất gợi cảm:
“Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
Màu “xanh” của rừng, màu “đỏ tươi” của hoa chuối, màu sáng lấp lánh của “nắng ánh” từ con dao; màu sắc ấy hòa hợp với nhau, làm nổi bật sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của thiên nhiên Việt Bắc, của con người Việt Bắc đang làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời trong kháng chiến. Tố Hữu đã có một cái nhìn phát hiện về sức mạnh tinh thần làm chủ tập thể của nhân dân ta do cách mạng và kháng chiến mang lại. Người lao động sản xuất thì hào hùng đứng trên “đèo cao” ngập nắng và lộng gió. Đoàn dân công đi chiến dịch thì “bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”. Người chiến sĩ ra trận mang theo sức mạnh vô địch của thời đại mới:
“Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”.
(“Lên Tây Bắc”)
Nhớ ngày xuân Việt Bắc là nhớ hoa mơ “nở trắng rừng”. Chữ “trắng” là tính từ chỉ màu sắc được chuyển từ loại thành bổ ngữ “nở trắng rừng”, gợi lên một thế giới hoa mơ bao phủ khắp mọi cánh rừng Việt Bắc màu trắng thanh khiết mênh mông và bao la. Cách dùng từ tài hoa của Tố Hữu gợi nhớ trong lòng ta câu thơ của Nguyễn Du tả một nét xuân thơ mộng, trinh bạch trong “Truyện Kiều”:
“Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”.
Nhớ “mơ nở trắng rừng”, nhớ người thợ thủ công đan nón “chuốt từng sợi giang”. “Chuốt” nghĩa là làm bóng lên những sợi giang mỏng mảnh. Có khéo léo, kiên nhẫn, tỉ mỉ mới có thể “chuốt từng sợi giang” để đan thành những chiếc nón, chiếc mũ phục vụ kháng chiến, để anh bộ đội đi chiến dịch có “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Người đan nón được nhà thơ nói đến tiêu biểu cho vẻ đẹp tài hoa, tính sáng tạo của đồng bào Việt Bắc. Mùa xuân Việt Bắc thật đáng nhớ:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng,
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.
Nhớ về Việt Bắc là nhớ mùa hè với tiếng ve kêu làm nên khúc nhạc rừng, là nhớ màu vàng của rừng phách, là nhớ cô thiếu nữ đi “hái măng một mình” giữa rừng vầu, rừng nứa, rừng trúc:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng,
Nhớ cô em gái hái măng một mình”.
Một chữ “đổ” tài tình. Tiếng ve kêu như trút xuống “đổ” xuống thúc giục ngày hè trôi nhanh, làm cho rừng phách thêm vàng. Xuân Diệu cũng có câu thơ sử dụng chữ “đổ” chuyển cảm giác tương tự: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá…” (Thơ duyên – 1938). Câu thơ “Nhớ cô em gái hái măng một mình” là câu thơ đặc sắc, giàu vần điệu, thanh điệu. Có vần lưng: “gái” vần với “gái”. Có điệp âm qua các phụ âm “m”: “măng – một – mình”. Đây là những vần thơ nên họa nên nhạc, tạo nên một không gian nghệ thuật đẹp và vui, đầy màu sắc âm thanh. “Cô em gái hái măng một mình” vẫn không cảm thấy lẻ loi, vì cô đang lao động giữa nhạc rừng, hái măng để góp phần “nuôi quân” phục vụ kháng chiến. Cô gái hái măng là một nét trẻ trung, yêu đời trong thơ Tố Hữu.
Nhớ mùa hè rồi nhớ mùa thu Việt Bắc, nhớ khôn nguôi, nhớ trăng ngàn, nhớ tiếng hát:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình,
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.
Trăng xưa “vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân”. Trăng Việt Bắc trong thơ Bác Hồ là “trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Người cán bộ kháng chiến về xuôi nhớ vầng trăng Việt Bắc giữa rừng thu, trăng “rọi” qua tán lá rừng xanh, trăng thanh mát rượi màu “hòa bình” nên thơ. “Ai” là đại từ nhân xưng phiếm chỉ, “nhớ ai” là nhớ về tất cả, về mọi người dân Việt Bắc giàu tình nghĩa thủy chung, đã hi sinh quên mình cho cách mạng và kháng chiến.
Đoạn thơ trên đây dào dạt tình thương mến. Nỗi thiết tha bồi hồi như thấm sâu vào cảnh vật và lòng người, kẻ ở người về, mình nhớ ta, ta nhớ mình. Tình cảm ấy vô cùng sâu nặng biết bao ân tình thủy chung. Năm tháng sẽ qua đi, những tiếng hát ân tình thủy chung ấy mãi mãi như một dấu son đỏ thắm in đậm trong lòng người.
Đoạn thơ mang vẻ đẹp một bức tranh tứ bình đặc sắc, đậm đà phong cách dân tộc. Mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là mùa đông năm 1946, đến mùa thu tháng 10 – 1954, thủ đô Hà Nội được giải phóng – Tố Hữu cũng thể hiện nỗi nhớ Việt Bắc qua bốn mùa: đông – xuân – hè – thu, theo dòng chảy lịch sử. Mỗi mùa có một nét đẹp riêng dạt dào sức sống: màu xanh của rừng, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu trắng của hoa mơ, màu vàng của rừng phách, màu trắng xanh hòa bình. Thiên nhiên Việt Bắc trong thơ Tố Hữu rất hữu tình, mang vẻ đẹp cổ điển. Con người được nói đến không phải là ngư, tiều, canh, mục mà là người đi nương đi rẫy, là người đan nón, là cô em gái hái măng, là những ai đang hát ân tình thủy chung. Tất cả đều thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của đồng bào Việt Bắc: cần cù, làm chủ thiên nhiên và làm chủ cuộc đời trong lao động, kiên nhẫn, khéo léo, tài hoa, trẻ trung lạc quan yêu đời, ân tình thủy chung với cách mạng và kháng chiến.
Một giọng thơ ngọt ngào, tha thiết bồi hồi cứ quyện lấy tâm hồn người đọc. Nỗi nhớ được nói đến trong “Việt Bắc” cũng như trong đoạn thơ này cho thấy một nét đẹp trong phong cách thơ Tố Hữu: chất trữ tình công dân và tính dân tộc, màu sắc cổ điển và tính thời đại được kết hợp một cách hài hòa.
Hình tượng đẹp, phong phú, gợi cảm. Một không gian nghệ thuật đầy sức sống, với những đường nét, âm thanh, màu sắc, ánh sáng, cấu trúc cân xứng hài hòa, để lại trong tâm hồn ta một ấn tượng sâu sắc như Bác Hồ đã viết: “Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay…”.
Thơ đích thực “là ảnh, là nhân ảnh…, từ một cái hữu hình nó thức dậy được những vô hình bao la” (Nguyễn Tuân). Đoạn thơ trên đây gợi lên trong lòng ta tình mến yêu Việt Bắc, tự hào về đất nước và con người Việt Nam. Đoạn thơ “nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp”, để ta thương, ta nhớ về mối tình Việt Bắc, mối tình kháng chiến.
Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc- Mẫu 11
Nền văn học Việt Nam đã ghi danh nhiều tác giả với những cống hiến quan trọng. Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau lại có những dấu mốc văn học khác nhau. Trong đó, không thể không nhắc đến tác giả Tố Hữu – một nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt Nam, với hình ảnh người lính anh dũng cùng tình cảm gắn bó sâu nặng với đồng bào Việt Bắc, ông đã mang đến cho bạn đọc một góc nhìn khác vô cùng trữ tình về người chiến sĩ trong thời chiến thông qua bài thơ Việt Bắc. Nổi bật trong bài thơ là những hồi ức của người ra đi về bức tranh tứ bình Việt Bắc:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
Mười câu thơ là hình ảnh đan xen giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc trong tâm trí của người ra đi. Mở đầu, người ra đi khẳng định tình cảm của mình dành cho những người ở lại:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta”, câu thơ thứ hai là tự trả lời. Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”, mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của Hoa cùng Người. Ở đây, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Còn con người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và Người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ.
Sau khi khẳng định nỗi nhớ của mình dành cho thiên nhiên và con người Việt Bắc, người ra đi cụ thể hóa nỗi nhớ ấy qua từng mùa trong năm, mở đầu là mùa đông:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu “đỏ tươi” – gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy. Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn. Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Kết thúc mùa đông, mùa xuân hiện ra với vẻ tinh khôi:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng: “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. “Trắng rừng” được viết theo phép đảo ngữ và từ “trắng” được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động “chuốt từng sợi giang”. Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ “chuốt” và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.
Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn bao giờ hết:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ mạnh “đổ” diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu thương chịu khó của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.
Khép lại bức tranh tứ bình là mùa thu thanh bình, êm ả:
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát “ân tình thủy chung” gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.
Cả đoạn trích như một bản nhạc nhịp nhàng, tha thiết được hòa tấu bởi là khúc tình ca và khúc trường ca về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về những con người kháng chiến anh hùng. Thông qua khúc nhạc đẹp đẽ, hào hùng ấy nhà thơ đã bộc lộ được những tình cảm tha thiết, sâu đậm của mình dành cho vùng núi rừng Việt Bắc, ngợi ca tình đồng chí, nghĩa tình đồng bào. Qua đó, tác giả cũng nhắn nhủ đến người đọc đừng quên những trang sử hào hùng của dân tộc, những trang sử thấm đẫm máu và nước mắt, cũng là những trang sử thấm đượm tình cách mạng, lòng yêu nước sâu sắc.
Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc- Mẫu 12
Việt Bắc là một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu. Lời thơ như khúc hát ân tình tha thiết về Việt Bắc, quê hương của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ở đó, bên cạnh cách những bức tranh hùng tráng, đậm chất sử thi về cuộc sống đời thường gần gũi, thân thiết được bao bọc bởi thiên nhiên vô cùng tươi đẹp:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Đây là bức tranh được dệt bằng ngôn từ nghệ thuật toàn bích, có sự hòa quyện giữa cảnh và người, giữa cuộc đời thực với tấm lòng của nhà thơ 1 cách mạng.
Mười câu thơ trên nằm trong trường đoạn gồm 62 câu thơ diễn tả tâm tư tình cảm của người cán bộ sắp sửa rời Việt Bắc, nơi mình đã 15 năm gắn bó với bao tình cảm máu thịt. Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi:
Ta về, mình có nhớ ta.
Nhưng thực ra, hỏi chỉ để mà hỏi, hỏi để tạo thêm cái cớ để giải bày nỗi lòng của mình:
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Câu thơ có nhịp điệu êm ái nhờ những điệp từ tạo và các thanh bằng B (6/8) như một lời ru, một câu hát không chỉ diễn tả tâm trạng tha thiết của nhân vật trữ tình. Đây còn là lời ngợi ca về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Trong ngôn ngữ Việt, hoa còn có ý nghĩa biểu trưng về thiên nhiên, về những gì tươi đẹp. Đặt hoa bên cạnh người là sự tôn vinh về thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Vả lại hoa và người hòa quyện, gắn bó với nhau. Nói tới thiên nhiên không thể không nói đến con người và ngược lại, những con người ấy đã ở trong một thiên nhiên đẹp gần gũi.
Bốn câu thơ lục bát còn lại là một bức tranh liên hoàn về con người và thiên nhiên Việt Bắc. Nhiều người gọi đây là bộ tứ bình(xuân, hạ, thu, đông). Nhà thơ kế thừa nghệ thuật hội họa cổ truyền của dân tộc trong khi miêu tả thiên nhiên. Mỗi một câu thơ khắc hòa một bức tranh cụ thể nhưng cũng có thể ghép lại thành một bộ liên hoàn.
Bức tranh thứ nhất:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Câu thơ mở ra một không gian rộng lớn. Trên cái nền xanh bạt ngàn của rừng, nổi bật lên hình ảnh những bông hoa chuối đỏ tươi. Nghệ thuật điểm xuyết trong thơ cổ (Cỏ non xanh rợn chân trời – cành lê trắng điểm một vài bông hoa – Nguyễn Du) tỏ ra rất hữu hiệu. Giữa bạt ngàn xanh của núi rừng Việt Bắc, màu đỏ của hoa chuối bỗng gợi lên sự ấm áp, có sức lan tỏa. Vì thế, thiên nhiên hùng vĩ ấy không xa lạ; trái lại, gần gũi, thân thiết với con người:
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Cũng là cách điểm xuyết những hình ảnh điểm nổi rõ hơn cảnh. Hơn nữa, cách điểm xuyết ấy rất độc đáo: càng chọn điểm nhỏ nhất thì sức gợi càng lớn hơn. Vì thế, câu thơ có sự nhấp nháy (nắng ánh) của hình ảnh và cảnh vật vốn tĩnh lặng, thậm chí tịch mịch, bỗng có sức sống, sự chuyền động- Thơ ca là nghệ thuật của thời gian. Với những nghệ sĩ tài hoa đó, việc tạo dựng nên những lớp thời gian chồng lấp và không gian không bất động, bất biến mà ngang sức sống nhờ sự tái sinh của những lớp ngôn từ. Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi, Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng là một câu thơ như thế.
Bức tranh thứ hai:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Khác bức. tranh thứ nhất, bức tranh thơ thứ hai mở đầu có sự định vị về thời gian (Ngày xuân). Nhưng tự thân thời gian ấy cũng đã mở ra không gian:
Ngày xuân mở nở trắng rừng.
Cách điệp âm (mơ / nở; trắng / rừng) cùng với hình ảnh của hoa mơ (màu trắng) tạo ra một không gian vừa rộng lớn, vừa có sự rộn ràng, náo nức của thiên nhiên. Nếu ở bức tranh thơ thứ nhất, nghệ thuật miêu tả của tác giả ở điểm xuyết, tìm hình ảnh gợi, sắc màu sáng (hoa đỏ, nắng ánh để diễn tả sự chuyển động của cảnh vật thì ở đây, nhà thơ lại hướng cái nhìn vào sự bao quát điệp trùng để tìm cái rạo rực (tiềm ẩn) của thiên nhiên.
Trên cái nền không gian rộng lớn và náo nức ấy, nhà thơ hướng mắt nhìn về một hoạt động có vẻ tỉ mỉ:
Người đan nón chuốt từng sợi giang.
Nhiều người nói câu thơ ca ngợi “dáng diệu cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa” trong “công việc thầm lặng” của người Việt Bắc. Có người nói “dưới ánh sáng của rừng mơ mùa xuân, hình ảnh cô gái Việt Bắc hiện lên thanh mảnh, dịu dàng”. Câu thơ có hình ảnh ấy. Con người Việt Bắc trong hoài niệm của Tố Hữu là như thế. Nhưng đó là hình ảnh thực. Trong chuồi hoài niệm của tác giả, hình ảnh kia chỉ là một điểm gợi nhớ. Câu thơ gợi lên cách cảm, cách nhìn của tác giả hơn là tả thực. Đó là hình ảnh đặc trưng của sinh hoạt đời thường ở Việt Bắc. Với nhiều người, nó có thể nhỏ nhật, không đáng nhớ. Với một nhà thơ ân tình như Tố Hữu, đó lại là hình ảnh khắc ghi trong tâm khảm.
Bức tranh thứ ba:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Câu thơ mở đầu bằng âm thanh (ve kêu), nhưng cũng là cách định vị bằng thời gian (mùa hè). Dòng thơ vừa có âm thanh rộn ràng, vừa có màu sắc đặc trưng của rừng Việt Bắc. Âm thanh và màu sắc ấy tạo nên cảnh tưng bừng của thiên nhiên. Nếu nói thiên nhiên cũng có đời sống riêng của nó thì đây quả thực là ngày hội của cảnh vật. Vì vậy, trong “ngày hội” ây hình ảnh cô em gái hái măng một mình không lẻ loi mà góp phần tạo nên bức tranh thơ hoàn chỉnh:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Như đã nói, hoa và người Việt Bắc trong thơ Tố Hữu hòa quyện, cùng tôn vinh lẫn nhau. Trong hoài niệm này, tác giả dùng bút lực của mình để ca ngợi, tôn vinh sự hài hòa đó. Và chính sự hài hòa đó đã tạo nên chất thơ. Vì thế, không nên suy diễn, giàu chất tượng trứng với những nét sinh hoạt, lao động của cuộc sống thực.
Bức tranh thứ tư:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Câu thơ có kiểu mở đầu bằng sự định vị cả không gian lẫn thời gian (rừng thu). Đến đây, ta chú ý các kiểu định vị ở những câu thơ trên:
Rừng xanh => không gian.
Ngày xuân => thời gian
Ve kêu => âm thanh (thời gian)
Ứng với mỗi câu thơ và cách định vị trên là một mùa của thiên nhiên (mùa đông, mùa xuân, mùa hạ). Câu thơ này cũng là bức tranh về một mùa của thiên nhiên (mùa thu). Nhưng có lẽ vì đó là bức tranh cuối của bộ tứ bình và là tiếng hát cuối của một trường đoạn hoài niệm nên hình ảnh tất thảy đều trở nên tượng trưng, âm hưởng cũng bao quát hơn:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Không gian mênh mông chẳng khác gì cảnh thu huyền ảo của thơ mới:
Nai cao gót lẫn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nghìn thu mới về.
(Huy Cận)
Trời thu nhuộm ánh tà dương
Gió thu trong quãng canh trường nỉ non.
Trăng thu soi bóng cô thôn,
Hỏi người lữ thứ mộng hồn về đâu?
(Hằng Phương)
Rừng thu Việt Bắc trong thơ Tố Hữu mênh mông nhưng không lạnh lẽo. “Trăng rọi hòa bình” vừa mang ý nghĩa ánh trăng của cuộc đời ân tình ấy, lại vừa mang ý nghĩa cuộc sống có sự soi rọi ấm áp của niềm tin, tự do. Và, trong cuộc sống ấm áp ấy, có biết bao nhiêu nghĩa tình sâu nặng.
Thơ Tố Hữu là khúc hát của tự do, của ân tình cách mạng. Bản thân cuộc đời ân tình ấy, đối với nhà thơ, luôn là bài ca sâu nặng. Vì thế, nhà thơ không chỉ cảm, nghĩ về cuộc đời mà cất tiếng ca ngợi. Tiếng hát ân tình thuỷ chung trong bài thơ Việt Bắc là tiếng hát như thế.
Bộ tứ bình bằng thơ về cảnh và người Việt Bắc được dệt dưới ánh sáng của hoài niệm da diết. Thông thường, người ta chỉ nhớ những gì mang ấn tượng nhất của quá khứ và thời gian càng lùi xa thì ấn tượng ấy càng trở nên tươi đẹp, huyền ảo hơn. Hàng loạt điệp từ nhớ (5 từ) trong một thơ như là sự nối dài của lòng hoài niệm không dứt.
Việt Bắc là bài thơ hay của Tố Hữu. Ở đó, nhà thơ thể hiện sự tài hoa của mình trên nhiều phương diện của nghệ thuật sáng tạo thi ca. Sự tài hoa ấy được dẫn dắt của một điệu tâm hồn đầy tình nghĩa của nhà thơ. Đoạn thơ trên là một trong những đoạn thơ hay nhất của bài thơ Việt Bắc bởi kết tinh một nghệ thuật thơ ca vừa giàu tính dân tộc, vừa mang tính hiện đại trong một điệu tâm hồn say đắm.
Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc- Mẫu 13
Tố Hữu luôn viết về lí tưởng, về lẽ sống, lòng trung thành với cách mạng, là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu nhất của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông là người có tấm lòng yêu dân, yêu nước sâu sắc, vì vậy các sáng tác của ông rất gần gũi với nhân dân. Bài thơ Việt Bắc là một bức tranh trữ tình mà hoành tráng, bao quát cả một không gian toàn bộ Việt Bắc là một bài thơ dài, không phải đoạn nào viết cũng đều tay. Nhưng có những đoạn quả thật là đặc sắc mà ở đó người đọc thấy được vẻ đẹp của ngòi bút Tố Hữu.
Đoạn thơ tả cảnh thiên nhiên hay nhất trong toàn thể bài thơ. Tác giả chỉ dùng 10 câu, tập trung nói đến một chủ đề, nhưng nó đã đạt đến sự toàn bích. Đoạn thơ này có thể chia làm hai phần: phần đầu gồm hai câu đầu và phần còn lại. Phần đầu nó như lời mở đầu đưa đẩy trong cuộc hát giao duyên. Trong đó người con trai (người về xuôi) vừa ướm hỏi lòng người ở lại, vừa khẳng định tình cảm trong lòng mình. Phần sau gồm 8 câu chia thành 4 cặp lục bát.
Trong mỗi câu thơ tác giả đã có sự kết hợp giữa hoa và người. Nó là một bức tranh tứ bình diễn tả họa và người ở Việt Bắc trong bốn mùa bằng những nét đặc trưng nhất của miền này. Có thể nói, cảnh sắc thiên nhiên Việt Bắc tuy được mô tả rải rác trong cả bài thơ nhưng dường như nó được kết tinh vào đoạn này một cách hàm súc, cô đúc nhất.
Mỗi một câu thơ như một lời đối đáp thân tình của cặp đôi trai gái, lời thơ ngọt ngào tha thiết, đi vào lòng người:
“Ta về mình có nhớ ta”
Lời đối đáp nghe thật thắm thiết, quyến luyến của đôi trai gái, nhưng với cách xưng hô ta – mình, mình – ta, khiến cho tình cảm của hai người lại trở nên bình dị, vô tư. Cũng nhờ cách xưng hô này, đôi trai gái lại có điều kiện thoải mái để bày tỏ tình cảm của mình. Ta vẫn chẳng biết mình có nhớ ta không, nhưng ngay cả khi mình không nhớ ta thì ta vẫn cứ nhớ mình. Mà nỗi nhớ mới duyên dáng và tế nhị làm sao:
“Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Người ra về lưu luyến với Việt Bắc không chỉ có cảnh đẹp mà còn cả con người tình nghĩa nơi đây. Trong nỗi nhớ của người đi, hai hình ảnh này là đồng hiện, soi chiếu vào nhau. Hoa là thứ đẹp nhất của thiên nhiên, còn người ta lại là “hoa của đất”. Vì vậy, hễ nhớ đến người thi hiện bóng hoa, hễ nhớ về hoa thì hiện hình người. Hoa và người không thể tách rời. Mà nói với một người con gái, lại nói “hoa cùng người” thì đó chẳng phải là một lời đánh giá kín đáo hay sao?
Hình ảnh đẹp và được tác giả nhắc đến là hình ảnh hết sức bình dị, diễn ra ở mọi nơi trên đất trời Việt Bắc:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Một màu xanh man mác, dấu hiệu của cuộc sống tươi đẹp, tràn trề nhựa sống đang bao trùm không gian, đất trời vùng Việt Bắc. Đó là một màu xanh mênh mông, trầm tĩnh của rừng già. Nó gợi ra hình ảnh một xứ sở êm đềm, lặng lẽ, yên tĩnh. Nhưng trên cái nền xanh ấy, chúng ta nhìn thấy hình ảnh hoa chuối rừng bập bùng cháy như những bó đuốc. Ai đã biết hoa chuối nở, sẽ thấy rằng tuy tác giả viết hai chữ “đỏ tươi” nhưng cũng đủ gợi cho chúng ta biết hoa chuối đã làm sáng lên một góc rừng. Thế là hoa chuối làm cho cảnh rừng trở nên sống động hơn. Đồng thời hình ảnh hoa chuối lại được tô điểm thêm những tia nắng ở câu thứ hai càng làm cho không khí vốn trầm mặc ở nơi này lại trở nên tươi sáng và linh động. Trên nền cảnh ấy, hình ảnh con người xuất hiện:
”Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Đó là hình ảnh những con người lao động của núi rừng Việt Bắc. Họ đang bước lên đèo với một tinh thần lao động miệt mài, không quản khó nhọc. Thiên nhiên cũng như hòa cùng vào niềm vui với những người lao động. Người đứng trên đỉnh đèo cao, ánh nắng chiếu vào lưỡi dao trên thắt lưng, lóe sáng. Nó gợi được một tư thế vững chãi, tự tin của người làm chủ núi rừng. Tố Hữu thường mô tả con người trong những tư thế ấy. Trong bài Lên Tây Bắc tác giả có viết:
“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”.
Trong đoạn thơ trên nhà thơ không vẽ kĩ mà chỉ chấm phá vài nét song cũng đủ cho ta hình dung khá rõ nét về hình tượng. Vậy là, tương ứng với một cảnh hoa là một dáng điệu người, mỗi dáng điệu toát lên một phẩm chất của người Việt Bắc.
Mùa xuân ở Việt Bắc thì đẹp lắm, làm say đắm lòng người. Nhưng đi vào thơ ca Tố Hữu thì vẽ đẹp ấy thật đời thường, nhưng không phải ai cũng có thể nhận ra vẻ đẹp ấy.
“Ngày xuân hoa nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Một màu trắng tinh khiết của hoa mơ đã bao trùm khắp núi rừng Việt Bắc. Hai chữ “trắng rừng” khiển cảnh rừng bừng sáng. Phải nói rằng đây là một hình ảnh có sức ám ảnh lớn đối với hồn thơ Tố Hữu. Việt Bắc trong nỗi nhớ của Tố Hữu dường như không thể thiếu được sắc hoa này. Về sau, trong bài Theo chân Bác, Tố Hữu viết:
“Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về. Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”
Giữa một không gian bao la tươi đẹp ấy là hình ảnh những người lao động cần cù, đáng quý. Hai chữ “chuốt từng” gợi ra được dáng điệu cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa. Không gì người đan nón kia gửi vào từng sợi giang nỗi niềm gì, ước mơ gì?
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Bức tranh thiên nhiên tác giả nói đến không chỉ thấy màu sắc, đường nét và ánh sáng, mà chúng ta còn nghe thấy được âm thanh của rừng, đó là tiếng nhạc ve. Nhạc ve làm cho không khí trở nên xao động. Phải nói rằng trong các bức tranh ở đây thì Việt Bắc mùa hè là đặc sắc hơn cả. Trong câu thơ, chúng ta thấy dường như có một có một phản ứng dây chuyền chạy từ đầu đến cuối câu thơ. Ve kêu gọi hè đến, hè đến làm cho những rừng phách ngả sang màu vàng. Ai đã lên Việt Bắc, dễ thấy hình ảnh kỳ lạ của những cánh rừng phách vẫn là màu xanh, nụ hoa vẫn náu kín trong những kẽ lá. Nhưng khi những tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên thì chúng đồng loạt trổ hoa vàng. Chỉ có một vài ba ngày mà những rừng phách đã lênh láng sắc vàng. Chữ “đổ” là một chữ tinh tế. Nó nhấn mạnh khía cạnh mau lẹ trong việc biến đổi màu sắc, đồng thời diễn tả những trận mưa hoa vàng rừng phách mỗi khi có một luồng gió ào qua. Rõ ràng, gam màu đến đây đã thay đổi hẳn, sắc trắng đã nhường chỗ hẳn cho sắc vàng. Dường như âm thanh đã làm biến đổi thay màu sắc. Trên nền cảnh ấy xuất hiện một hình ảnh lao động đầy kiên nhẫn của một cô gái Việt Bắc: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hình ảnh này làm toát lên dáng điệu chịu thương, chịu khó, hay lam hay làm, giàu đức hi sinh. Bao bọc lên hình ảnh này dường như chúng ta thấy sự cảm thương kín đáo của người viết.
Ngày ở Việt Bắc đã đẹp, đêm trăng mới tĩnh mịch, thơ mộng làm sao. Bức tranh vẽ ra những ánh trăng rọi qua vòm lá tạo thành một khung cảnh huyền ảo:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình”.
Tác giả đã tái hiện lên cảnh đêm trăng trên núi rừng Việt Bắc, của những đêm hòa bình, không có bóng giặc, tạo cho dân làng cuộc sống yên bình. Đây đúng là khung cảnh hữu tình dành cho những cuộc hát giao duyên. Cho nên nó cũng là cảnh cuối cùng:
“Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Chữ “ai” là cách nói bóng gió, ám chỉ người đang hát cùng với mình, làm cho lời lẽ trở nên tình tứ hơn. Và qua tiếng hát chúng ta thấy được phẩm chất ân tình, chung thủy của người Việt Bắc.
Với những từ ngữ hết sức bình dị, lời thơ du dương Tố Hữu đã tái hiện lại những gì là đặc trưng nhất của quê hương cách mạng. Đó là tình yêu của tác giả với căn cứ quan trọng của cuộc cách mạng. Chính nơi thơ mộng này đã nuôi dưỡng và rèn luyện những người con của cách mạng, làm cho họ thấm nhuần lý tưởng cách mạng và thêm yêu đất nước quê hương, làm động lực để tiếp tục đứng lên chống lại bom đạn của kẻ thù.
Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc- Mẫu 14
Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cội nguồn của cách mạng, nhắc đến mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình – nơi đã in sâu bao kỷ niệm của một thời kỳ cách mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến khi chia xa, lòng ta sao khỏi xuyến xao bồi hồi.
Và cứ thế sợi nhớ, sợi thương cứ thế mà đan cài xoắn xuýt như tiếng gọi “Ta – mình” của đôi lứa yêu nhau. Đúng như lời thơ Chế Lan Viên từng viết “Khi ta ở đất chỉ là nơi ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. Vâng! Việt Bắc đã hóa tâm hồn dào dạt nghĩa yêu thương trong thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng nhạc ngân nga, với cảnh với người ăm ắp những kỉ niệm ân tình có bao giờ quên được.
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, thơ ông diễn tả những tình cảm cách mạng thật nhẹ nhàng mà cũng thật đậm sâu. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được viết vào tháng 10/1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và cán bộ kháng chiến từ giã “Thủ đô gió ngàn” về với “Thủ đô Hoa vàng nắng Ba Đình”.
Cả bài thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui tươi hào hùng. Nhưng có lẽ để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong bài ca Việt Bắc có lẽ là đoạn thơ về bức tranh tứ bình với bốn mùa xuân – hạ – thu – đông.
Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta”, câu thơ thứ hai là tự trả lời, điệp từ “ta” lặp lại bốn lần cùng với âm “a” là âm mở khiến câu thơ mang âm hưởng ngân xa, tha thiết nồng nàn. Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”, mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của Hoa cùng Người. Ở đây, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc.
Còn con người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và Người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại câu sáu dành cho nhớ hoa, nhớ cảnh, câu tám dành cho nhớ người. Cảnh và Người trong mỗi câu lại có những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp dẫn.
Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của những ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Nhưng đến với Việt Bắc trong thơ Tố Hữu thì thật lạ. Mùa đông bỗng ấm áp lạ thường:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại.
Cái màu “đỏ tươi” – gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:
“Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương”
Từ liên tưởng ấy ta thấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng.
Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng chiến “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng” . Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn.Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh.
Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất – “đèo cao”. Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do “Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là của chúng ta”. Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi: Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Đông qua, xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt bắc cũng vậy:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng: “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. “Trắng rừng” được viết theo phép đảo ngữ và từ “trắng” được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Động từ “nở” làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống.
Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:
“Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”
Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động “chuốt từng sợi giang”. Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ “chuốt” và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.
Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn bao giờ hết:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ “đổ” là động từ mạnh, diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm, nên lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh.
Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.
Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.
Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung linh dịu mát:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng từng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:
“Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận liên khu báo về”
Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng. Vâng! Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát “ân tình thủy chung” gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.
Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.
Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc- Mẫu 15
Tố Hữu là một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt Nam nói chung và trong mảng văn học cách mạng nói riêng, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng chiến. Ở Tố Hữu có sự thống nhất hài hòa giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ.
Chính vì vậy có thể nói rằng, qua các tác phẩm của ông, ta không chỉ thấy được thế giới tâm hồn tình cảm, thấy được phong cách nghệ thuật độc đáo của ngòi bút thơ Tố Hữu mà qua đó dường như nhà văn đã phản ánh một cách rõ nét nhất những dấu mốc lịch sử quan trọng xuyên suốt quá trình kháng chiến bảo vệ nền độc lập dân tộc, người đọc vì thế mà có thể thấy được trọn vẹn những trang sử vẻ vang của đất nước như những thước phim quay chậm. Cùng phân tích bài thơ Việt Bắc bạn sẽ rõ.
Bài thơ được sáng tác vào tháng mười năm 1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc – thủ đô gió ngàn của dân tộc trở về Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong những cán bộ kháng chiến từng sống và gắn bó với người dân và thiên nhiên Việt Bắc, nay trở về chia tay đầy ngậm ngùi và lưu luyến, nhà thơ xúc động viết nên bài thơ này.
Bài thơ được viết theo thể lục bát, thể thơ truyền thống của dân tộc mang âm hưởng nhẹ nhàng uyển chuyển thấm đẫm chất trữ tình của những câu ca dao. Trong cảm xúc lắng đọng ngậm ngùi của buổi chia li, việc sử dụng thể thơ này để biểu đạt tình cảm và hồi tưởng lại những kỉ niệm gắn bó với núi rừng Việt Bắc, người dân Việt Bắc là hoàn toàn hợp lí.
Tác giả mở đầu bài thơ bằng một loạt những câu hỏi tu từ:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ suối nhìn sông nhớ nguồn.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai?
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái mái đình cây đa?
Những kỉ niệm đó giờ đây chỉ còn là những kỉ niệm trong dòng kí ức… chầm chậm trôi… Những câu hỏi cứ nối tiếp nhau xuất hiện làm nên một điệp khúc thấm đẫm tâm trạng của nhân vật trữ tình. Cũng chính qua những dòng thơ này mà khung cảnh núi rừng Việt bắc đại ngàn hiện ra rõ nét nhất. Đó là núi non hùng vĩ, những con sông, những cơn mưa ào ạt đổ về nguồn mây mù khói tỏa…
Nhưng giữa bức tranh đó nổi bật nhất chính là cuộc sống sinh hoạt và chiến đấu hết sức gian lao, khổ cực nhưng vô cùng gắn bó, đoàn kết, thắm tình nghĩa như những người con cùng chung một dòng máu giữa cán bộ kháng chiến và nhân dân Việt Bắc. Cuộc sống chiến đấu tuy vất vả và khó khăn nhưng nhờ có sự ủng hộ và nâng đỡ tinh thần của những con người chân chất nơi núi rừng đại ngàn đó nên tất cả đã trở thành những kỉ niệm đẹp đẽ không thể nào quên trong trái tim của hai phía.
Chân bước đi mà lòng còn ở lại…trái tim gắn bó hơn mười năm giờ đây một phần đã thuộc về đất, về người, về núi rừng nơi đây giờ phải chia xa làm sao cho nỡ. Người chiến sĩ bước đi trong ngậm ngùi thương nhớ. Những câu hỏi của đồng bào Việt Bắc không chỉ thể hiện được sự lưu luyến nuối tiếc mà còn như muốn khắc sâu hơn nữa những ngày tháng kỉ niệm đó.
Cách xưng hô “mình – ta” cũng là cách xưng hô rất gần gũi thân mật thể hiện sự gắn bó máu thịt giữa quân và dân, chính vì vậy mà lời thơ như lời tâm tình thủ thỉ, giọng thơ mang âm hưởng nhẹ nhàng mà đằm thắm thiết tha. Hình ảnh áo chàm trong câu thơ: “Áo chàm đưa buổi phân li…” là hình ảnh hoán dụ chỉ đồng bào Việt Bắc đang bịn rịn trong chia li. Bàn tay đan chặt bàn tay, người đi kẻ ở, họ không biết nói gì ngoài việc trao cho nhau những cái nắm tay nồng ấm. Cái bắt tay này ta cũng đã từng gặp trong thơ của Chính Hữu:
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay…
Đúng, họ không có gì trao cho nhau giữa trời khuya lạnh giá ngoài tình đồng chí đồng đội keo sơn gắn bó. Cái bắt tay giản đơn thôi nhưng đã giúp người chiến sĩ vượt qua những khó khăn thiếu thốn của buổi đầu kháng chiến. Ở đây cái nắm tay này diễn ra trong bối cảnh chia li, chính vì vậy nó có ý nghĩa như một minh chứng cho tình cảm nồng thắm quân dân.
Trước tình cảm tha thiết cùng với sự bày tỏ nỗi nhớ nhung đặc biệt ấy, người chiến sĩ cũng dần trải lòng ra qua từng câu chữ:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi….
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…
Những kí ức như ào ạt dội về, mỗi kỉ niệm đều vô cùng rõ nét như mới diễn ra ngày hôm qua vậy. Người chiến sĩ đã khẳng định tấm lòng son sắt thủy chung, tình cảm dạt dào và nghĩa tình sâu nặng như nguồn nước trong mát đổ về bản làng.
Người chiến sĩ còn nhớ đến vầng trăng tròn đầy sau những rặng núi xa sau bản, nhớ những vạt nắng vàng như màu mật đổ xuống những cánh đồng ruộng bậc thang ngào ngạt mùi lúa chín, nhớ những sáng tinh sương mịt mù trong mây và khói tỏa, nhớ từng dòng suối cánh rừng… Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc lại một lần nữa hiện lên qua từng câu thơ hết sức hùng vĩ thơ mộng khiến cho ai đi xa mà chẳng nhớ về.
Anh còn thấy xao xuyến bồi hồi khi nhớ lại hương vị của củ sắn lùi, bắt cơm sẻ nửa tuy bình dị nhưng nồng thắm nghĩa tình. Hình ảnh người mẹ địu con lên rẫy làm việc là hình ảnh tiêu biểu cho phong trào nuôi quân của hậu phương nơi núi rừng Việt Bắc. Nhớ những lớp học i tờ, nhớ khúc hát ca vang rừng núi của đoàn dân quân…
Những kỉ niệm ấy quả thực vô cùng đẹp đẽ và đã trở thành một phần máu thịt của anh. Chẳng cần những lời nói chia tay lưu luyến nhưng qua việc tái hiện lại một loạt các câu hỏi như thế ta cũng đủ thấy được tình cảm sâu đậm, sự gắn bó tha thiết giữa những người cán bộ và người dân.
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Chỉ qua một vài câu thơ mà nhà thơ đã tái hiện lại một cách chân thực và rõ nét nhất thiên nhiên Việt Bắc qua bốn mùa xuân hạ thu đông nhưng nhà thơ lại chọn miêu tả mùa đông trước phải chăng là những cán bộ chiến sĩ đến vào mùa đông và cũng ra đi vào mùa đông, mùa đông là mùa của gặp gỡ và chia phôi cho nên nó khắc sâu vào trong lòng người nhất. Mùa đông – mùa của những cánh rừng bạt ngàn màu xanh tươi mát, của những bông hoa chuối đỏ tươi.
Con người hiện lên trong bức tranh thơ mộng đó đang trong tư thế sẵn sàng chinh phục tự nhiên: “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Đông qua xuân về, bức tranh Việt Bắc lại khoác lên mình màu áo mới. Đó chính là sắc trắng tinh khiết của hoa mơ, con người trong lao động hết sức cần cù miệt mài.
Thu về là những cánh rừng trắng xóa màu hoa mơ chuyển sang màu hổ phách cùng tiếng ve kêu như thúc giục lòng người. Hình ảnh người con gái Việt Nam hái măng một mình cũng thật thơ mộng làm sao. Kết thúc bức tranh bốn mùa là ánh trăng hòa bình cùng với những câu hát say đắm thủy chung.
Có thể nói rằng chỉ qua một vài câu thơ nhưng dòng chảy cuộc sống như đang ngưng tụ lại trên từng câu chữ. Con người và thiên nhiên Việt Bắc như là trung tâm trong bức tranh bốn mùa đó. Những nàng tiên đại diện cho sắc màu bốn mùa như đang lướt nhẹ trên những câu chữ vậy.
Đoạn thơ trên để lại trong lòng người đọc những dư vị khó phai. Có được thành công như vậy trước hết là phải kể đến những nét đặc sắc về nghệ thuật. Tác phẩm mang tính dân tộc được thể hiện khá rõ xuyên suốt bài thơ.
Thể thơ lục bát – một thể thơ quen thuộc trong dân gian được nhà thơ sử dụng hết sức thành công, âm hưởng nhẹ nhàng tinh tế in sâu vào tâm trí mỗi người. Chất văn xuôi cũng được đưa vào trong thơ và được vận dụng sáng tạo linh hoạt, những hình ảnh so sánh, những cách nói ví von cũng góp phần tạo nên giọng điệu của bài thơ.
Bài thơ Việt Bắc đưa người đọc ngược dòng thời gian để tìm về với những nét đẹp trong tâm hồn người quân dân: vẻ đẹp của tấm lòng thủy chung son sắt, vẻ đẹp của sự đoàn kết gắn bó, rộng hơn nữa đó chính là ý thức trách nhiệm đối với Tổ quốc với nhân dân. Cũng từ đó mà ta thấy được tài năng và khả năng giao cảm tinh tế với cái đẹp của thiên nhiên, của con người Việt Bắc của Tố Hữu. Để làm được điều đó Tố Hữu đã trải qua một thời gian dài sống và gắn bó với người dân, với thiên nhiên núi rừng Việt Bắc.
Bài Việt Bắc của Tố Hữu cùng với những bài thơ khác cùng thời, cùng đề tài như Đồng chí của Chính Hữu, Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật, đã góp phần rất lớn vào trong chủ đề thơ ca cách mạng không những có tác dụng cổ vũ động viên tinh thần người chiến sĩ mà còn như những tấm gương phản chiếu về một thời đại vẻ vang của dân tộc, để cho thế hệ sau mãi tự hào từ đó mà càng thấy được
Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc- Mẫu 16
Tố Hữu một nhà thơ xếp thứ hai sau Hồ Chí Minh về thơ ca cách mạng. Chàng thi sĩ ngày nào vẫn còn bâng khuâng đi kiếm lẽ yêu đời với ước nguyện sống sao cho có ích thì nay đã được giác ngộ cách mạng và trở thành một nhà thơ- chiến sĩ xuất sắc trên cả hai lĩnh vực thơ ca và chiến đấu trên mặt trận. Bài thơ Việt Bắc được viết để nói về sự kiện thắng lợi Điện Biên Phủ của nhân dân ta. Chiến sĩ bộ đội phải chia tay với đồng bào Việt Bắc để trở về Hà Nội. Bấy nhiêu thời gian sinh sống và sinh hoạt cùng nhau tình quân dân gắn kết khiến cho cuộc chia ly bịn rịn. Đặc biệt trong bài thơ đoạn thơ “Ta về mình có nhớ ta/…./ Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” là đoạn thơ vừa tả cảnh vừa ca ngợi vẻ đẹp của người dân Việt Bắc. Đây là bức tranh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt bốn mùa nơi Việt Bắc yêu dấu.
Bức tranh thiên nhiên ấy mở đầu bằng mùa đông. Không phải tự nhiên nhà thơ lại chọn mùa đông mở đầu cho bức tranh ấy, theo lẽ thường thì xuân hạ thu rồi mới đến đông. Thế nhưng ở đây nhà thơ chọn mùa đông trước vì đây chính là khoảng thời gian mà người cách mạng đến với Việt Bắc:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Người cách mạng tự hỏi khi mình về liệu người dân Việt Bắc có nhớ đến mình không. Cách xưng hô mình ta được nhà thơ kế thừa từ trong ca dao dân ca thể hiện sự thân thiết, gần gũi. Người cách mạng trở về xuôi sẽ nhớ cả cảnh và người Việt Bắc. Bức tranh thiên nhiên mùa đông được tô điểm bằng hình ảnh của những bông hoa chuối rừng. Trên nền rừng xanh ngát những bông chuối màu đỏ tươi nở rộ như tô thắm cả một cánh rừng. Nói đến mùa đông người ta thường nghĩ đến những khung cảnh ảm đạm, lạnh lẽo, cây lá rụng cành lìa gốc mà rơi vậy mà ở xưa Việt Bắc này màu sắc lại tươi đẹp đến thế. Trên nền cảnh tươi sáng ấy con người xuất hiện với hình ảnh lao động. Trên đèo cao ánh nắng ban chiếu vào con dao gài ở thắt lưng người Việt Bắc khiến cho con dao sáng lên. Đèo cao đấy, con người nhỏ bé thật đấy nhưng con người vẫn cao hơn đèo. Ở đây ta có thể thấy sự làm chủ thiên nhiên, sự chủ động của người Việt Bắc.
Tiếp theo là bức tranh mùa xuân, nơi Việt Bắc thân yêu của nhà thơ những cảnh vật mùa xuân hiện lên là hoa mơ trắng và người đan nón:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ ai đan nón chuốt từng sợi giang”
Việt Bắc mùa xuân đến hoa mơ trắng nở rộ khắp cánh rừng, nó mang đến cho thiên nhiên một cảnh đẹp nền nã, dịu dàng. Những cánh trắng hoa mơ trước ánh nắng nhẹ nhàng của mùa xuân trở nên tinh khiết và trong trắng làm sao. Người chiến sĩ cách mạng trước cảnh đẹp nên thơ ấy lại nhớ đến hình ảnh người Việt Bắc chăm chỉ kiên trì chuốt từng sợi giang đan nón. Ở đây ta thấy được vẻ đẹp chăm chỉ, bền bỉ và kiến trì của con người Việt Bắc.
Mùa xuân qua đi mùa hạ lại về, hoa mơ được thay thế bằng rừng phách, màu trắng được thay thế bằng màu vàng – màu đặc trưng của mùa hạ. Đặc biệt trong cảnh ngày hè ấy không thể thiếu âm thanh của những dàn đồng ca mùa hạ là tiếng của những chú ve:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ con em gái hái măng một mình”
Nhà thơ sử dụng thật đắt, thật hay từ “đổ”, nối tiếp câu thơ tả cảnh mùa xuân, mùa hè hiện ra như đổ màu vàng thay thế cho cánh rừng hoa mơ trắng. Cánh rừng ấy đang ngả mình đón mùa hè với màu sắc khác biệt, rực rỡ hơn. Người chiến sĩ nhớ người con gái Việt Bắc hái măng một mình. Hai từ “một mình” cho ta thấy sự nguy hiểm luôn dình dập bên cạnh cô gái nhưng đồng thời cũng cho thấy được sự gan góc, dũng cảm của người em gái Việt Bắc.
Cuối cùng là bức tranh mùa thu, bức tranh ấy hiện lên với những hình ảnh của ánh trăng và tiếng hát của người thủy chung:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Mùa thu là mùa của ánh trăng, nếu trước đây Hồ Chí Minh từng viết:
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.
Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
Thì nay Tố Hữu đã được “Rừng thu trăng rọi hòa bình”. Trước đây Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ của đất nước còn lo nỗi nước nhà trước ánh trăng đẹp thì giờ đây ánh trăng nơi Việt Bắc đã là ánh trăng của hòa bình. Ánh trăng ấy mang ánh sáng của niềm tin yêu cuộc sống,của sự ấm no yên bình. Người Việt Bắc hiện lên với những tiếng hát tình nghĩa thủy chúng. Người chiến sĩ và người Việt Bắc có thể tạm thời phải chia li nhưng nhưng trong lòng cả hai bên vẫn luôn nhớ về nhau với những kỉ niệm đẹp.
Có thể nói nhà thơ Tố Hữu đã rất thành công khi vẽ lên một bức tranh thiên nhiên bốn mùa nơi Việt Bắc núi cao, đèo lớn. Những hình ảnh thiên nhiên ấy gắn liền với hai từ Việt Bắc, con người nơi đây hiện lên với những nét đẹp tâm hồn và tính cách chăm chỉ, kiên trì, làm chủ, gan góc, tình nghĩa. Những đức tính ấy cũng góp phần làm nên chiến thắng cho dân tộc ngày hôm nay.
Trên đây là nội dung bài học Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc chọn lọc hay nhất (16 bài mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập
- Cảm nhận của em về 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc hay nhất (15 bài mẫu)
- Cảm nhận về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc hay nhất (16 bài mẫu)
- Cảm nhận của em về bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu chọn lọc hay nhất (10 bài mẫu)
- So sánh 2 bài thơ Việt Bắc và Từ ấy của Tố Hữu chọn lọc hay nhất (4 bài mẫu)
- Phân tích nỗi nhớ của người chiến sĩ Cách mạng trong bài thơ Việt Bắc hay nhất (5 bài mẫu)
- Phân tích hình tượng đất nước trong bài thơ Việt Bắc và Đất nước hay nhất
- Phân tích cách xưng hô mình ta trong bài thơ Việt Bắc chọn lọc hay nhất (11 bài mẫu)
- Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc chọn lọc hay nhất (25 bài mẫu)
- Cảm nhận của anh (chị) về vùng đất và con người miền cực nam của Tổ quốc qua truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh Hạ lớp 12 (9 Mẫu)
- Anh (chị) hãy bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra” lớp 12 (10 Mẫu)
- Buy-phông, nhà văn Pháp nổi tiếng, có viết: “Phong cách chính là người”. Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? lớp 12 (12 Mẫu)
- Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên lớp 12 (7 Mẫu)
- Viết bài văn trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận, theo chủ đề: một tác phẩm văn học mới ra đời và đáng được nhiều người quan tâm bàn luận lớp 12
- Viết bài văn nghị luận trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận khác nhau lớp 12 (3 Mẫu)