Học TậpLớp 12

Phân tích nỗi nhớ của người chiến sĩ Cách mạng trong bài thơ Việt Bắc hay nhất (5 bài mẫu)

Phân tích nỗi nhớ của người chiến sĩ Cách mạng trong bài thơ Việt Bắc lớp 12 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 5 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.

Đề bài: Phân tích nỗi nhớ của người chiến sĩ Cách mạng trong bài thơ Việt Bắc

Phân tích nỗi nhớ của người chiến sĩ Cách mạng trong bài thơ Việt Bắc
Phân tích nỗi nhớ của người chiến sĩ Cách mạng trong bài thơ Việt Bắc

Dàn ý Phân tích nỗi nhớ của người chiến sĩ Cách mạng trong bài thơ Việt Bắc chi tiết

1.1. Mở bài:

Bạn đang xem: Phân tích nỗi nhớ của người chiến sĩ Cách mạng trong bài thơ Việt Bắc hay nhất (5 bài mẫu)

Giới thiệu về tác giả Tố Hữu tác phẩm Việt Bắc.

Bài thơ là nỗi nhớ của người chiến sĩ Cách mạng

1.2. Thân bài:

– “Bài thơ “Việt Bắc” được chia thành hai phần riêng biệt. Phần đầu tiên miêu tả lại những kí ức của cuộc cách mạng và kháng chiến, trong khi phần sau tạo ra một cảnh tượng tươi sáng của đất nước khi hòa bình được lập lại và tôn vinh công ơn của Đảng và Bác Hồ đối với dân tộc. Trích đoạn thuộc phần đầu của bài thơ, mô tả chính những tình cảm cách mạng cao quý của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp và nỗi nhớ thiết tha đến Việt Bắc. Tác giả đã sử dụng phong cách ca dao và hát giao duyên của nam nữ trong các hội hè phổ biến tại miền Bắc Việt Nam với sự kết hợp của cặp từ “mình – ta”.

Mình về có nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười

Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo, ta đề bài thơ

Mình về mình có nhớ chăng
Ta về như lạt buộc khăn nhớ mình.

Ta về ta cũng nhớ mình
Nhớ yếm mình mặc, nhớ tình mình trao.

Hai mươi câu thơ đầu là lời trao gởi thắm thiết của người dân Việt Bắc đối với cán bộ cách mạng với câu hỏi tu từ và điệp kiểu câu:

– Mình về mình có nhớ ta?
– Mình về mình có nhớ không?
– Tiếng ai tha thiết bên cồn?
– Mình đi, có nhớ những ngày?

Hình ảnh mười lăm năm trước là một khung cảnh đặc biệt, gợi nhớ đến giai đoạn ban đầu thành lập lực lượng vũ trang, tiến tới khởi nghĩa để nhân dân đoạt lại quyền lực, đến cuối cùng là chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Quãng thời gian khó khăn đó, Việt Bắc đã vô cùng trân quý và tận tụy đối với cách mạng, vì thế câu “nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn” được sáng tác. Khi phải ra đi, con người không thể tránh khỏi những cảm xúc xao động và bối rối. Hai từ thay thế cho “bâng khuâng” và “bồn chồn” cùng xuất hiện trong đoạn thơ, cho thấy tâm trạng ấy được miêu tả rất sâu sắc.

Nhớ Việt Bắc cũng là nhớ tình nghĩa đồng bào:

Mình về, rừng núi nhớ ai

Mình đi, có nhớ những nhà

Mình về, còn nhớ núi non

Mình đi, mình có nhớ mình

– Đoạn sau là lời đáp tiếp của cán bộ cách mạng trước lúc chia tay. Tuy thiếu thốn nhưng cảnh và người Việt Bắc tình nghĩa chan hòa.

– Đoạn thơ tiếp theo la những khung cảnh quen thuộc với hình ảnh và âm thanh trong kháng chiến ở Việt Bắc. Đặc sắc nhất là bức tranh cảnh đẹp rừng núi Tây Bắc bốn mùa: Mùa xuân với hoa mai. Mùa hè với âm thanh ve kêu. Mùa thu với ánh trăng.

– Việt Bắc còn là đầu não của cuộc kháng chiến, là niềm tin của nhân dân về lãnh tụ: “Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi”

1.3. Kết bài:
Bài thơ là nỗi nhớ của tác giả về chiến khu Việt Bắc với những ngày tháng làm chiến đấu khó khăn, vất vả với hình ảnh con người gắn liền với từng địa danh ở Tây Bắc.

5 bài mẫu Phân tích nỗi nhớ của người chiến sĩ Cách mạng trong bài thơ Việt Bắc hay nhất

Phân tích nỗi nhớ của người chiến sĩ Cách mạng trong bài thơ Việt Bắc- Mẫu 1

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hòa bình lập lại, miền Bắc được giải phóng và tháng 10 năm 1945 các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ về chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử này, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc.

Việt Bắc gồm hai phần: phần đầu tái hiện những kỷ niệm cách mạng và kháng chiến; phần sau gợi viễn cảnh tươi sáng của đất nước khi hòa bình lập lại và ngợi ca công ơn của Đảng của bác Hồ với dân tộc. Đoạn trích thuộc phần đầu của bài thơ.

Nội dung chính diễn tả những tình cảm cách mạng cao quý của nhân dân ta trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tố Hữu đã dùng lối hát giao duyên đối đáp giữa nam và nữ trong các hội hè đình đám ở miền Bắc nước ta. Trong ca dao, cặp từ mình ta rất phổ biến:

Mình về có nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo, ta đề bài thơ
Mình về mình có nhớ chăng
Ta về như lạt buộc khăn nhớ mình.
Ta về ta cũng nhớ mình
Nhớ yếm mình mặc, nhớ tình mình trao.

Tố hữu thay vào nội dung tình yêu đôi lứa của dân ca bằng tình nghĩa cách mạng, tấm lòng son sắt thủy chung với Đảng, với nhân dân, qua cách nói cách xưng hô Mình – Ta. Tình cảm cao quý đó trở nên gần gũi, thắm thiết hơn:

– Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
– Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
– Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…

Nhân vật trữ tình trong bài thơ là người cán bộ cách mạng về xuôi. Họ là tượng trưng cho dân tộc kinh và người dân Việt Bắc, tượng trưng cho dân tộc miền ngược. Do đó tình cảm cách mạng ở đây còn là tình đoàn kết gắn bó giữa hai vùng miền xuôi- miền ngược, thể hiện chính sách dân tộc của Đảng ta và nhà nước ta.

Hai mươi câu thơ đầu là lời trao gửi ân tình thắm thiết của Việt Bắc đối với cán bộ cách mạng về xuôi. Một loạt câu hỏi tu từ và điệp kiểu câu:

Mình về mình có nhớ ta?
Mình về mình có nhớ không?
Tiếng ai tha thiết bên cồn?
Mình đi, có nhớ những ngày?

Tác giả gửi cho người đọc cảm nhận được tình cảm lưu luyến không muốn rời trong buổi chia tay người đi kẻ ở. Nhớ Việt Bắc là nhớ quê hương cách mạng, nhớ ngọn nguồn cách mạng, nơi để bao bọc những người cán bộ, chiến sĩ cách mạng trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến còn nhiều sóng gió:

– Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Hình ảnh mười lăm năm ấy là một hình ảnh cụ thể, nhắc nhở thời kỳ đầu thành lập lực lượng vũ trang, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, cho đến ngày kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Cả một thời gian dài gian khổ, đắng cay ấy, Việt Bắc đã ân tình, ơn nghĩa với cách mạng như thế, cho nên: nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.

Người ra đi làm sao tránh khỏi tâm trạng xao xuyến, bâng khuâng? Hai tính từ láy “bâng khuâng”, “bồn chồn” cùng hiện diện trong câu thơ đổi ý càng khắc họa đậm nét tâm trạng ấy:

Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

Niềm vui nỗi buồn của những tháng ngày cùng nhau vào sinh ra tử gửi lại miền đất. Nhưng sự ghi nhớ công ơn cưu mang của đồng bào Việt Bắc mãi mãi sẽ còn ở trong trái tim của người cách mạng khi về xuôi. Những câu hỏi của của người ở lại cũng là lời tự nhắc nhở mình của người đi:

Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Nhớ Việt Bắc còn là những kỷ niệm gian khổ, khó khăn trong thời kỳ kháng chiến. Câu thơ thơ liệt kê “mưa nguồn suối lũ” được nhấn mạnh thêm bằng từ ngữ, cùng “những mây cùng mù” để tạo một loạt, nhấn mạnh thêm ý gian khổ, vất vả của cuộc kháng chiến. Hình ảnh “miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai” có sức khái quát cao. Ý thơ nói lên tình đoàn kết chiến đấu, chia sẻ gian lao giữa hai vùng miền xuôi miền ngược là thấm thía, là sâu sắc, bền chặt.

Nhớ Việt Bắc cũng là nhớ tình nghĩa đồng bào. Bằng cách nói mộc mạc, diễn tả tình cảm kín đáo mà tha thiết, tác giả bộc lộ niềm thương nhớ nỗi nhớ của người ở lại:

Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

Trám bùi để rụng, măng mai để già là cách nói bình dị mà sâu sắc vô cùng. Trám và măng là đặc sản quen thuộc của Việt Bắc. Đặc sản ấy từng là nguồn thức ăn của nhân dân và bộ đội trong những ngày kháng chiến. Ngày nay, qua rồi thời kỳ đói khổ, khó khăn, nhắc nhở những sản phẩm này với tấm lòng thiết tha trìu mến đối với Việt Bắc; xem đó là kỷ niệm sâu sắc trong đời. Qua đó làm nổi bật tấm lòng son sắt, thủy chung của người miền ngược và người miền xuôi.

Đoạn sau là lời đáp tiếp theo tình nghĩa của cán bộ cách mạng trước lúc chia tay. Tố Hữu đã tái hiện thành công cảnh và người Việt Bắc bằng những chi tiết tiêu biểu nhất, đẹp đẽ nhất:

Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…

Tuy thiếu thốn, gian khổ nhưng cảnh và người Việt Bắc đẹp và tình nghĩa chan hòa. Tình nghĩa sâu đậm ấy thể hiện qua hình ảnh tượng trưng “chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” kết hợp với cách dùng từ cùng nghĩa chia sẻ. Cách dùng từ mượt mà diễn tả được mối tình cảm chia ngọt sẻ bùi giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Biết bao tình nghĩa sâu nặng trong “củ sắn”, “bát cơm”, “chăn sui” mà người cán bộ cách mạng đã chịu ơn Việt Bắc

Hình ảnh thơ được chọn lọc kỹ lưỡng khi nói về nỗi vất vả và hi sinh của con người Việt Bắc đối với cách mạng. Hình ảnh người mẹ nắng cháy lưng gợi cho người đọc liên tưởng đến sự tần tần chắt chiu, sự cần cù lao động của bà mẹ chiến sĩ Việt Nam trong kháng chiến đã đùm bọc,cưu mang chiến sĩ, cán bộ cách mạng. Đó là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, cái ân tình trong cuộc sống kháng chiến không thể phai nhòa trong ký ức của người về xuôi.

Đoạn thơ còn lại dựng lên những khung cảnh quen thuộc với những hình ảnh và âm thanh theo suất tiêu biểu cho sinh hoạt trong kháng chiến ở Việt Bắc. Câu thơ đối ý về nêu bật tinh thần lạc quan yêu đời của cán bộ, chiến sĩ cách mạng dù cuộc sống còn rất gian khổ, khó khăn:

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo

Âm thanh tiếng “mõ rừng chiều” và “chày đêm nện cối đều đều suối xa” là âm thanh đặc trưng của Việt Bắc, phản ánh sinh hoạt yên ả, bình dị nơi núi rừng, gợi nhớ một thời đã qua.

Đặc sắc nhất là đoạn thơ hồi ức về cảnh đẹp rừng núi Tây Bắc qua bốn mùa trong năm tươi xanh:

Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Một loạt từ chỉ màu sắc: xanh, đỏ tươi, trắng, vàng tạo một cảm giác tươi mát, vui mắt các bức tranh phong cảnh. Mùa xuân với hoa mai nở trắng rừng. Mùa hè với âm thanh ra kêu tạo thành một bạn học tới của rừng xanh. Mùa thu với ánh trăng hòa bình êm đềm trong sáng. Giữa cây cỏ thiên nhiên, con người Việt Bắc xuất hiện với sự hiền hòa, nhân hậu, trong tư thế lao động cần cù, tự tin. Hình ảnh “dao gài thắt lưng”, “đan nón chuốt từng sợi giang”, “hái măng một mình” mang sức sống mạnh mẽ, khiến bức tranh thiên nhiên trở nên sinh động và có ý nghĩa hơn.

Việt Bắc còn ghi lại những chiến công của bộ đội, nhân dân ta trong kháng chiến chống Pháp. Đoạn thơ toát lên vẻ đẹp hào hùng của dân quân ta:

Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Bằng những điệp từ điệp điệp, trùng trùng và từ ngữ láy phụ âm đầu rầm rập diễn tả được hào khí ngút trời của bộ đội, dân công trên đường ra mặt trận. Với lối nói thậm xưng, bước chân nát đá tác giả cũng muốn nhấn mạnh sự lớn dậy và kiên cường, bất khuất của bộ đội ta thời kì này. Họ bước đi trong ánh sáng của lý tưởng yêu nước và cách mạng dẫn đường. Họ đưa dân tộc bước đến tương lai tươi sáng. “Ánh sao đầu súng” là một hình ảnh tuyệt đẹp. Nó khiến ta nhớ đến hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong bài thơ đồng chí của Chính Hữu khi nói về người lính thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Cũng là ánh sáng ấy, nhưng giờ đây nó lớn mạnh và rực rỡ vô cùng.

Quê hương Việt Bắc còn là đầu não của cuộc kháng chiến toàn quốc, là niềm tin vững chắc của nhân dân về lãnh tụ:

Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà

Đoạn thơ nhấn mạnh uy tín của Bác, của Đảng đối với toàn dân, toàn quân trong thời kỳ kháng chiến gian khổ.

Việt Bắc là bài thơ thành công của Tố Hữu và của nền thơ cách mạng Việt Nam. Bằng thể thơ lục bát mang âm hưởng ngọt ngào, thiết tha của ca dao dân ca, Tố Hữu đã ghi lại những lời giao đối, những câu hỏi da diết, những tiếng vọng thủy chung của người đi kẻ ở trong một cuộc chia tay đầy lưu luyến. Từ lẽ sống và tình cảm lớn lao đến giọng điệu tâm tình ngọt ngào, từ những bút pháp nghệ thuật đậm đà tính dân tộc cho đến những thi liệu, thi tứ phảng phất âm hưởng của ca dao dân ca hết sức chân tình. Tình nghĩa của người cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng, kháng chiến, với Bác Hồ là những tình cảm cách mạng sâu sắc của thời đại mới. Những tình cảm ấy hòa nhập và tiếp nối mạch nguồn tình cảm yêu nước, đạo lí ân tình thủy chung vốn là truyền thống sâu bền của dân tộc.

Phân tích nỗi nhớ của người chiến sĩ Cách mạng trong bài thơ Việt Bắc- Mẫu 2

Bài thơ Việt Bắc là bài thơ được trích trong tập thơ Việt Bắc (1947 – 1954) của Tố Hữu. Tên bài thơ đã trở thành tên chung của cả tập thơ vì bài thơ đã thể hiện được những tình cảm tiêu biểu cho cả tập thơ. Bài thơ đã bộc lộ những tình cảm thiết tha, mặn nồng, gắn bó, thủy chung, son sắt của Việt Bắc đối với người cán bộ về xuôi và ngược lại người cán bộ cách mạng về xuôi cũng bộc lộ những tình cảm ấy đối với Việt Bắc trong buổi chia ly bằng sự khẳng định nỗi nhớ của mình đối với Việt Bắc.

Mở đầu bài thơ, Việt Bắc đã hỏi người cán bộ cách mạng về xuôi:

Mình về, mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Câu hỏi này của Việt Bắc có nghĩa là: Anh về anh có nhớ tôi không? Nhớ anh và tôi đã gắn bó thiết tha mặn nồng suốt mười lăm năm ở Việt Bắc không? Và sau đó là hàng loại câu hỏi của Việt Bắc cũng mang nội dung này:

Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son
Mình về còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh Việt Bắc cứ sợ người cán bộ cách mạng về xuôi quên mình nên cứ gợi lại những hình ảnh ở Việt Bắc, với bao hình ảnh thân thương đậm đà tình nghĩa. Việt Bắc vừa bộc lộ yêu thương vừa

khao khát được yêu thương, nên cứ hỏi: “Mình đi có nhớ…”, “mình về có nhớ… “Mình về còn nhớ…?”…

Để trả lời cho những câu hỏi này của Việt Bắc, người cán bộ cách mạng về xuôi đã khẳng định với Việt Bắc một điều thật chắc chắn rằng sẽ không bao giờ quên Việt Bắc, vẫn trước sau như một, không bao giờ thay đổi:

Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu

“Ta” với “mình” gắn bó, xoắn xuýt, quyện chặt vào nhau làm nồng ấm cả một mối tình. Lòng người cán bộ cách mạng về xuôi đã chan chứa bao nhiêu tình cảm với Việt Bắc. Câu thơ “nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” đã nói lên tất cả điều ấy.

Để làm nổi bật nỗi nhớ da diết của người cán bộ Cách mạng về xuôi đối với Việt Bắc nhà thơ đã sử dụng điệp từ “nhớ” lặp đi, lặp lại rất nhiều lần và đặc biệt là nhà thơ đã so sánh nỗi nhớ ấy như nỗi nhớ trong tình yêu “Nhớ gì như nhớ người yêu”. Đây là một sự so sánh thật độc đáo của Tố Hữu, bởi trong muôn ngàn nỗi nhớ của con người trong cuộc đời, có lẽ nỗi nhớ trong tình yêu là nỗi nhớ ray rứt nhất quay quắt nhất. Ông cha ta ngày trước cũng đã bộc lộ khá độc đáo tâm trạng này:

Đêm nằm lưng chẳng tới giường
Trông trời mau sáng ra đường gặp em

(Ca dao)

Hay:

Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than

(Ca dao)

Cho nên, ở đây nhà thơ chỉ có mượn nỗi nhớ trong tình yêu mới nói hết được nỗi nhớ của người cán bộ Cách mạng về xuôi đối với Việt Bắc. Hình ảnh cảnh vật ở Việt Bắc và con người Việt Bắc cứ sống dậy mãnh liệt trong tâm hồn kẻ ra đi. Nỗi nhớ Việt Bắc của người cán bộ cách mạng hiện lên trong từng màu sắc, từng hình ảnh của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Những hình ảnh này như hòa quyện vào nhau, cảnh Việt Bắc đẹp và con người Việt Bắc cũng đẹp.

Cảnh vật Việt Bắc và con người Việt Bắc hiện lên trong nỗi nhớ của người cán bộ qua bốn mùa. Mùa nào cũng đẹp, cũng nên thơ, cũng sinh động và dạt dào sức sống:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Hình ảnh Việt Bắc trong trí nhớ của người cán bộ về xuôi còn là một thiên nhiên hùng vĩ. Thiên nhiên ấy đã trở thành một nhân vật che chở cho bộ đội, đã vây lá quân thù, cùng nhân dân đánh giặc, trở thành một vùng chiến khu mênh mông:

Nhớ khi giặc đến, giặc lùng
Rừng cây, núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng

Càng nhớ Việt Bắc, người ra đi càng tự hào về Việt Bắc, bởi chính Việt Bắc là nơi ghi nhận những hình ảnh hào hùng của quân và dân ta trong thời kì kháng chiến chống Pháp:

Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Dấu chân nát đá muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên

Việt Bắc còn là nơi ghi dấu, mở ra nhiều chiến công của quân và dân ta, đem lại bao niềm vui chiến thắng của dân tộc ta:

Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng

Người ra đi nhớ Việt Bắc cũng chính là nhớ nơi ghi dấu bao hoạt động của Trung ương Đảng và Chính phủ:

Ai về ai có nhớ không
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Điều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động giao thông mở đường
Giữ đê phòng hạn thu lương
Gửi dao miền ngược thêm trường các khu

Người cán bộ cách mạng về xuôi nhớ Việt Bắc không những chỉ nhớ thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc mà còn nhớ những con người Việt Bắc chân chất, đậm đà tình nghĩa, cần cù trong lao động và rất thủy chung, son sắt.

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Nhớ Việt Bắc, người cán bộ về xuôi không thể nào quên hình ảnh của Bác Hồ trong những năm tháng Người sống nơi đây, bởi Người là ánh sáng, là niềm tin của cả dân tộc.

Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa

Tóm lại, nỗi nhớ của người cán bộ Cách mạng về xuôi qua nghệ thuật diễn đạt của nhà thơ đó là một nỗi nhớ ray rứt, quay quắt như nỗi nhớ trong tình yêu, một nỗi nhớ có nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều góc độ khác nhau. Nỗi nhớ ấy là cả một tấm lòng yêu thương, gắn bó, thủy chung, son sắt của người cán bộ cách mạng về xuôi đối với Việt Bắc. Mối quan hệ tình cảm thắm thiết này đã nói lên được những tình cảm cách mạng cao đẹp của con người Việt Nam.

Phân tích nỗi nhớ của người chiến sĩ Cách mạng trong bài thơ Việt Bắc- Mẫu 3

Qua những năm tháng đầy khó khăn của cuộc kháng chiến, đất nước Việt Nam đã bảo vệ thành công độc lập và tự do của mình. Trong suốt quá trình đó, nhiều người đã góp phần đóng góp cho cuộc chiến bằng cách viết thơ và văn. Tác phẩm văn học nổi tiếng như bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu đã được sáng tác, đó là một bài thơ đầy tình cảm được viết trong một bữa tiệc chia tay giữa người dân Việt Bắc và người cán bộ cách mạng.

Tác phẩm của Tố Hữu được sáng tác trong những thời điểm quan trọng trong lịch sử cách mạng của Việt Nam. Nhà thơ sinh ra ở làng Phù Lai, hiện nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Dù sinh ra trong một gia đình nghèo, Tố Hữu đã từng học và làm thơ từ khi còn rất nhỏ.

Tố Hữu đã được trao nhiều giải thưởng văn học danh giá, bao gồm giải nhất Giải Văn nghệ của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955 (với tập thơ Việt Bắc), giải thưởng Văn học ASEAN (1996) và giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (lần 1 năm 1996). Ông là một nhà thơ-chiến sĩ, viết thơ vì sự nghiệp của dân tộc và Đảng. Thơ văn của ông thể hiện sự cao lớn của cuộc đời, tình cảm và niềm vui của dân tộc và đất nước.

Trong bầu không khí chia tay đầy xúc động giữa người dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng, Tố Hữu tìm được cảm hứng để sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Tác phẩm này được viết vào tháng 12, đồng thời với sự kiện lịch sử của Trung ương Đảng và Chính phủ rời khỏi chiến khu để trở về Hà Nội. Trong bài thơ này, Tố Hữu không chỉ tập trung vào nhân vật chính của mình mà còn truyền tải thông điệp về sự gắn bó và tình cảm giữa các nhân vật, giữa miền đất hình chữ S và miền núi Việt Bắc, giữa cán bộ và nhân dân. Bài thơ Việt Bắc là tác phẩm đỉnh cao của Tố Hữu và đã đóng góp to lớn cho thơ ca thời kháng chiến chống Pháp.

Bài thơ của Tố Hữu không chỉ là một ca khúc tình ca mà còn là một bản anh hùng ca ca ngợi tình yêu quê hương, đất nước và truyền tải những giá trị đạo đức cao đẹp của dân tộc. Với tư tưởng cách mạng và tầm nhìn sâu sắc, Tố Hữu đã phản ánh rõ nét cuộc kháng chiến 15 năm của người chiến sĩ Việt Bắc và dự đoán được những thay đổi tư tưởng trong thời kỳ hòa bình.

Trong bài thơ, Tố Hữu đã miêu tả hình ảnh tuyệt đẹp của Việt Bắc và nhân vật tại đó. Tình yêu thiên nhiên và đất nước được truyền tải rõ ràng qua những câu thơ, đặc biệt là sự gắn bó chặt chẽ với núi rừng Việt Bắc qua những năm tháng đấu tranh của người dân. Đó là một mối quan hệ gắn bó mật thiết như ruột thịt.

Tác giả Tố Hữu trong bài thơ của mình đã dùng hình ảnh mộc mạc của Việt Bắc để thể hiện nỗi nhớ của một người cán bộ sắp rời khỏi miền đất này. Bức tranh Việt Bắc được tác giả miêu tả là thật sự tuyệt đẹp, với hình ảnh “Trăng trên đỉnh núi, nắng chiều”, cảnh làng quê mờ khói và những chiếc bếp hồng sáng trong đêm, cùng với “rừng tre, sông Thia, sông Đáy” và tiếng “cối giã cối đều đêm”. Tất cả những điều này tạo nên một vẻ đẹp bình dị, hoang sơ nhưng ấm áp, đầy yêu thương, đặc biệt là tấm lòng của con người nơi đây, khiến Tố Hữu nhớ mãi và thương mến vô cùng:

Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung:”

Tố Hữu đã vận dụng thành công thủ pháp đối đáp “ta” và “mình ”. “Ta về, ngươi có nhớ ta không? Ngươi trở về, có nhớ hoa cho ta?” Nỗi nhớ nhung không thể nào quên về nơi mà họ đã từng gắn bó, yêu thương với vô vàn kỉ niệm, với những con người đang sống và chiến đấu. Ấn tượng của tác giả về những con người ở Việt Bắc là họ cần cù, thủy chung trong tình cảm.

Điều đó nói lên sự phong phú, đa dạng của cảnh đẹp thiên nhiên Việt Bắc thay đổi theo từng mùa. Nó gắn bó mật thiết với những người dân chất phác làm ruộng, trồng khoai, trồng sắn… Tất cả đều góp sức mình tạo nên sức mạnh to lớn và phong trào kháng chiến thắng lợi.

Trong nỗi nhớ Việt Bắc của Tố Hữu hiện lên hình ảnh “những mái tranh xám, giàu tình cảm”, hình ảnh người mẹ “địu con ra đồng bẻ từng bắp ngô”:

“Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”

Tình đồng chí sâu nặng được thể hiện qua lời thơ mạnh mẽ tạo nên tình đồng chí gắn bó bền chặt với nhân dân. Qua bài thơ ta cũng thấy được lòng dũng cảm của Việt Bắc trong chiến đấu. Hình ảnh những trận đánh anh dũng, những hoạt động sôi nổi, khí thế đấu tranh quyết liệt vang lên trong những câu thơ phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu được khắc họa đậm chất sử thi.

” Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.”

Dân tộc đã vượt qua muôn vàn gian khổ hy sinh, lập nên những chiến công lẫy lừng như Phủ Thông, đèo Giang, Sông Lô, Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên Phủ… Tố Hữu đi sâu tìm hiểu cội nguồn, đề cao sức mạnh tập thể mà dẫn đến những thắng lợi vẻ vang đó. Sức mạnh ấy đến từ sự đoàn kết của nhân dân và các lực lượng vũ trang trong kháng chiến, cũng như sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên.

” Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.”

Bằng những vần thơ thiết tha, trang trọng, Tố Hữu đã nhấn mạnh vai trò của Việt Bắc đối với cách mạng. Nơi đây như quê hương đã nuôi dưỡng sức mạnh trong cuộc kháng chiến của quân dân ta:

“Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”

Những vần thơ sâu lắng về tình cảm dân tộc, đậm đà chất trữ tình,. Trong cuộc kháng chiến lâu dài vĩ đại ấy, có sự soi sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là nơi trung ương, chính phủ bàn việc công, là nơi chứa đựng lý tưởng cao đẹp, đường lối sáng suốt, đúng đắn đã tạo nên thắng lợi.

“Mười lăm năm ấy, ai quên
Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.”

Tố Hữu từ tình yêu chiến khu Việt Bắc đã đặt niềm tin vững chắc, mạnh mẽ vào một ngày mai tươi sáng, một ngày mai với sức mạnh của toàn dân, toàn quân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ tạo nên một bức tranh đẹp của dân tộc Việt Nam độc lập, tự do:

“Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng.
Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng
Phố phường như nấm như măng giữa trời.”

Những hình ảnh ấy chính là khát vọng, ước mơ không chỉ của người lính kháng chiến mà còn của nhân dân, đồng bào. Tác giả không quên cái cũ vì cái mới, bởi người luôn luôn nghĩ đến, nhớ đến tình cảm chân thành giữa miền xuôi và miền ngược.

“- Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Mình đi, ta hỏi thăm chừng
Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?“

Đây là lời người ở lại nhắn nhủ rằng khi trở về kinh đô, đừng để sự thay đổi của ngoại cảnh ảnh hưởng đến tình cũ. Tố Hữu đã giữ nguyên những giá trị đó cho đến ngày nay.

Hai câu thơ trong bài thể hiện mối quan hệ đối nghịch giữa bóng tối và ánh sáng: nếu câu thơ đầu miêu tả bóng đêm sâu thẳm, gợi nhớ cuộc sống đầy đau khổ của dân tộc bị áp bức, thì câu thơ thứ hai lại tươi sáng với niềm tin vào tương lai. Tác giả sử dụng các từ chỉ ánh sáng như ánh sao, đuốc đỏ, lửa bay để tạo đối lập với các từ chỉ bóng tối như đêm, ngàn đêm, thăm thẳm. Từ đó, Tố Hữu muốn nói rằng dân tộc ta sẽ luôn đấu tranh chống lại những kẻ thù đen tối và niềm tin vào một tương lai tươi sáng và hạnh phúc nhất định sẽ đến cho chúng ta.

Một số tác phẩm văn học chỉ tập trung vào một phần nhỏ của cuộc đời hoặc một nhân vật riêng lẻ, trong khi bài thơ Việt Bắc lại đưa ta đến với tầm nhìn toàn cảnh về dân tộc Việt Nam. Bài thơ mang đậm nét tình ca, anh hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp, kể về những con người dũng cảm đã hi sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Tác giả đã thể hiện lòng thành kính của mình đối với đồng bào Việt Bắc và các cán bộ cách mạng đã dành tất cả tình thân để giải phóng dân tộc. Qua bài thơ, tác giả muốn nhắn nhủ cho thế hệ trẻ rằng hãy luôn nhớ đến công lao của những anh hùng dân tộc, và tình yêu cho đất nước, lịch sử và văn hoá của chúng ta.

Phân tích nỗi nhớ của người chiến sĩ Cách mạng trong bài thơ Việt Bắc- Mẫu 4

Bài thơ Việt Bắc là bài thơ được trích trong tập thơ Việt Bắc (1947 – 1954) của Tố Hữu. Tên bài thơ đã trở thành tên chung của cả tập thơ vì bài thơ đã thể hiện được những tình cảm tiêu biểu cho cả tập thơ. Bài thơ đã bộc lộ những tình cảm thiết tha, mặn nồng, gắn bó, thủy chung, son sắt của Việt Bắc đối với người cán bộ về xuôi và ngược lại người cán bộ cách mạng về xuôi cũng bộc lộ những tình cảm ấy đối với Việt Bắc trong buổi chia li bằng sự khẳng định nỗi nhớ của mình đối với Việt Bắc.

Mở đầu bài thơ, Việt Bắc đã hỏi người cán bộ cách mạng về xuôi:

Mình về, mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Câu hỏi này của Việt Bắc có nghĩa là: Anh về anh có nhớ tôi không? Nhớ anh và tôi đã gắn bó thiết tha mặn nồng suốt mười lăm năm ở Việt Bắc không? Và sau đó là hàng loại câu hỏi của Việt Bắc cũng mang nội dung này:

Mình đi có nhớ nhưng ngày

Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù

Mình về có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai

Mình về rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng măng mai để già

Mình đi có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son

Mình về còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh Việt Bắc cứ sợ người cán bộ cách mạng về xuôi quên mình nên cứ gợi lại những hình ảnh ở Việt Bắc, với bao hình ảnh thân thương đậm đà tình nghĩa. Việt Bắc vừa bộc lộ yêu thương vừa khao khát được yêu thương, nên cứ hỏi: “Mình đi có nhớ…”, “mình về có nhớ… “Mình về còn nhớ…?”…

Để trả lời cho những câu hỏi này của Việt Bắc, người cán bộ cách mạng về xuôi đã khẳng định với Việt Bắc một điều thật chắc chắn rằng sẽ không bao giờ quên Việt Bắc, vẫn trước sau như một, không bao giờ thay đổi:

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu

“Ta” với “mình” gắn bó, xoắn xuýt, quyện chặt vào nhau làm nồng ấm cả một mối tình. Lòng người cán bộ cách mạng về xuôi đã chan chứa bao nhiêu tình cảm với Việt Bắc. Câu thơ “nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” đã nói lên tất cả điều ấy.

Để làm nổi bật nỗi nhớ da diết của người cán bộ Cách mạng về xuôi đối với Việt Bắc nhà thơ đã sử dụng điệp từ “nhớ” lặp đi, lặp lại rất nhiều lần và đặc biệt là nhà thơ đã so sánh nỗi nhớ ấy như nỗi nhớ trong tình yêu “Nhớ gì như nhớ người yêu”. Đây là một sự so sánh thật độc đáo của Tố Hữu, bởi trong muôn ngàn nỗi nhớ của con người trên cuộc đời, có lẽ nỗi nhớ trong tình yêu là nỗi nhớ ray rứt nhất quay quắt nhất. Ông cha ta ngày trước cũng đã bộc lộ khá độc đáo tâm trạng này:

Đêm nằm lưng chẳng tới giường

Trông trời mau sáng ra đường gặp em

(Ca dao)

Hay:

Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than

(Ca dao)

Cho nên, ở đây nhà thơ chỉ có mượn nỗi nhớ trong tình yêu mới nói hết được nỗi nhớ của người cán bộ Cách mạng về xuôi đối với Việt Bắc. Hình ảnh cảnh vật ở Việt Bắc và con người Việt Bắc cứ sống dậy mãnh liệt trong tâm hồn kẻ ra đi. Nỗi nhớ Việt Bắc của người cán bộ cách mạng hiện lên trong từng màu sắc, từng hình ảnh của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Những hình ảnh này như hòa quyện vào nhau, cảnh Việt Bắc đẹp và con người Việt Bắc cũng đẹp.

Cảnh vật Việt Bắc và con người Việt Bắc hiện lên trong nỗi nhớ của người cán bộ qua bốn mùa. Mùa nào cũng đẹp, cũng nên thơ, cũng sinh động và dạt dào sức sống:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Hình ảnh Việt Bắc trong trí nhớ của người cán bộ về xuôi còn là một thiên nhiên hùng vĩ. Thiên nhiên ấy đã trở thành một nhân vật che chở cho bộ đội, đã vây lá quân thù, cùng nhân dân đánh giặc, trở thành một vùng chiến khu mênh mông:

Nhớ khi giặc đến, giặc lùng

Rừng cây, núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bội đội, rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng

Càng nhớ Việt Bắc, người ra đi càng tự hào về Việt Bắc, bởi chính Việt Bắc là nơi ghi nhận những hình ảnh hào hùng của quân và dân ta trong thời kì kháng chiến chống Pháp:

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Dấu chân nát đá muôn tàn lửa bay

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên

Việt Bắc còn là nơi ghi dấu, mở ra nhiều chiến công của quân và dân ta, đem lại bao niềm vui chiến thắng của dân tộc ta:

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng

Người ra đi nhớ Việt Bắc cũng chính là nhớ nơi ghi dấu bao hoạt động của Trung ương Đảng và Chính phủ:

Ai về ai có nhớ không

Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang

Nắng trưa rực rỡ sao vàng

Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công

Điều quân chiến dịch thu đông

Nông thôn phát động giao thông mở đường

Giữ đê phòng hạn thu lương

Gửi dao miền ngược thêm trường các khu

Người cán bộ cách mạng về xuôi nhớ Việt Bắc không những chỉ nhớ thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc mà còn nhớ những con người Việt Bắc chân chất, đậm đà tình nghĩa, cần cù trong lao động và rất thủy chung, son sắt.

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Nhớ Việt Bắc, người cán bộ về xuôi không thể nào quên hình ảnh của Bác Hồ trong những năm tháng Người sống nơi đây, bởi Người là ánh sáng, là niềm tin của cả dân tộc.

Ở đâu u ám quân thù

Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền

Mười lăm năm ấy ai quên

Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa

Tóm lại, nỗi nhớ của người cán bộ Cách mạng về xuôi qua nghệ thuật diễn đạt của nhà thơ đó là một nỗi nhớ ray rứt, quay quắt như nỗi nhớ trong tình yêu, một nỗi nhớ có nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều góc độ khác nhau. Nỗi nhớ ấy là cả một tấm lòng yêu thương, gắn bó, thủy chung, son sắt của người cán bộ cách mạng về xuôi đối với Việt Bắc. Mối quan hệ tình cảm thắm thiết này đã nói lên được những tình cảm cách mạng cao đẹp của con người Việt Nam.

Phân tích nỗi nhớ của người chiến sĩ Cách mạng trong bài thơ Việt Bắc- Mẫu 5

Việt Bắc trong nỗi nhớ của người ra đi được tái hiện theo ba phương diện: thiên nhiên với những địa danh cụ thể; những hoạt động kháng chiến; hoa và người. Và bao trùm lên là tình cảm gắn bó sâu nặng nghĩa tình với Việt Bắc.

Bắt đầu là nỗi nhớ da diết, nôn nao như là nhớ người yêu. Việt Bắc hiện ra với buổi chiều, với đêm trống, với bếp lửa, với núi, với nương, rừng nứa bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê. Một không gian rộng lớn và một thời gian dài với các mùa khác nhau (Ngòi Thia sông Đáy suối Lê vơi đầy), với các thời điểm khác nhau (chiều, sớm, khuya, đêm).

Rồi nỗi nhớ cụ thể hơn với kỉ niệm kháng chiến: người mẹ bẻ ngô, lớp học i tờ, đêm liên hoan, ngày tháng cơ quan. Việt Bắc hiện ra qua âm thanh đặc biệt của núi rừng:

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều,
Chày đêm nện cối đều đều suối xa.

Nỗi nhớ tập trung vào hoa và người Việt Bắc. Đó là bông hoa chuối đỏ tươi nổi bật giữa màu xanh của rừng. Rồi một rừng hoa mơ nở trắng. Một rừng phách đổ vàng đầy tiếng ve kêu. Con người Việt Bắc nhìn thấy thấp thoáng qua dao cài thắt lưng nắng ánh trên đèo. Lại cũng là con người cụ thể với bàn tay khéo léo chuốt từng sợi giang. Và đậm nét có lẽ là cô em gái hái măng một mình với tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Tất cả những nỗi nhớ ấy khi da diết, khi thấp thoáng, nhưng đọng lại nhất, ấn tượng nhất là tình người Việt Bắc, cái tình thể hiện bằng hành động giản dị nhường cơm sẻ áo:

Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Trong khổ thơ từ nhớ được sử dụng rất nhiều. Nó là từ đứng đầu mỗi câu thơ: Nhớ gì.., Nhớ từng…, Nhớ người.., Nhớ sao…, Nhớ ai.. Nỗi nhớ cứ đầy mãi lên trong tâm trí người ra đi. Nhớ cảnh, nhớ hoa, nhớ người, nhớ kỉ niệm ngày tháng kháng chiến. Điều đó nói lên sự gắn bó sâu nặng của người đi với Việt Bắc.

Trên đây là nội dung bài học Phân tích nỗi nhớ của người chiến sĩ Cách mạng trong bài thơ Việt Bắc hay nhất (5 bài mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập

5/5 - (5 bình chọn)



Nguyễn Thanh Tùng

Trường THCS Bình Chánh với mục tiêu chung là tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh có thể phát triển khả năng và đạt được thành công trong quá trình học tập. Chúng tôi cam kết xây dựng một không gian học tập đầy thách thức, sáng tạo và linh hoạt, nơi mà học sinh được khuyến khích khám phá, rèn luyện kỹ năng và trở thành những người học suốt đời.

Bài viết liên quan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button