Cảm nhận Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm lớp 12 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 15 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.
Đề bài: Cảm nhận Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
Dàn ý Cảm nhận Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm chi tiết
Dàn ý Cảm nhận Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm- Mẫu 1
I. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
Bạn đang xem: Cảm nhận Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm chọn lọc hay nhất (15 bài mẫu)
Nguyễn Khoa Điềm thuộc lớp nhà thơ lớn lên trong những ngày hòa bình và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, tiêu biểu cho thế hệ thơ trẻ những năm chống Mĩ.
Bài thơ Đất nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng, là một bài thơ có chất triết lí sâu sắc, thể hiện tư tưởng “Đất nước của nhân dân”, thức tỉnh thanh niên, tuổi trẻ thành thị miền Nam xuống đường đấu tranh.
II. Thân bài
* Luận điểm 1: Cảm nhận của tác giả về đất nước từ nhiều phương diện
– Lí giải cội nguồn của đất nước (phương diện lịch sử, văn hoá dân tộc)
- “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi” -> Đất nước đã có từ lâu đời
- “ngày xửa ngày xưa” -> gợi nhớ đến câu mở đầu các câu chuyện dân gian
- “miếng trầu” -> tục ăn trầu của người Việt và truyện cổ tích trầu cau
- “Tóc mẹ thì bới sau đầu” -> thói quen búi tóc của những người phụ nữ Việt Nam
=> Đất nước gắn liền với truyền thống văn hoá, quá trình hình thành phong tục tập quán.
- “Thương nhau bằng gừng cay muối mặn” -> thói quen tâm lí, truyền thống yêu thương của dân tộc.
- “cái kèo cái cột thành tên”, “một nắng hai sương” -> Đất nước trưởng thành cùng quá trình lao động sản xuất.
=> Đất nước bắt nguồn từ những điều bình dị, gần gũi trong đời sống của người Việt Nam từ xa xưa mà không hề xa xôi, trừu tượng.
– Cảm nhận về đất nước qua phương diện không gian và thời gian
+ Về không gian địa lí:
- “Đất / nước” : hai yếu tố được tách riêng để suy tư một cách sâu sắc
- “nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”, “nơi em đánh rơi… thương thầm” : là nơi sinh sống của mỗi người (sinh ra, lớn lên, đi học, trưởng thành và những những rung động đầu đời,…)
- “nơi con chim phượng hoàng”, “nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi” : Là núi, sông, rừng, biển
“là nơi dân mình đoàn tụ…” : là không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ ()
+ Về thời gian:
- Dài “đằng đẵng” từ xa xưa, gắn liền với truyền thuyết các dân tộc anh em cùng chung con Rồng, cháu Lạc và truyền thuyết dựng nước của vua Hùng cùng ngày giỗ Tổ.
- Trong hiện tại: đất nước có trong tấm lòng mỗi con người, mỗi người đều thừa hưởng những giá trị của đất nước, khi có sự gắn kết giữa mỗi người đất nước sẽ nồng thắm, hài hòa, lớn lao.
- Đó là sự gắn kết giữa cái riêng và cái chung.
- Trong tương lai: thế hệ trẻ sẽ “mang đất nước đi xa”, “đến những ngày mơ mộng”, đất nước sẽ trường tồn, bền vững.
=> Đất nước được cảm nhận suốt chiều dài thời gian lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.
* Luận điểm 2: Tư tưởng cốt lõi Đất nước của Nhân dân.
– Thiên nhiên địa lí của đất nước không chỉ là sản phẩm của tạo hóa mà được hình thành từ phẩm chất và số phận của mỗi người, là một phần máu thịt, tâm hồn con người:
- Nhờ tình nghĩa yêu thương, thủy chung mà có “hòn Vọng Phu”, “hòn Trống Mái”
- Nhờ tinh thần bất khuất, anh hùng trong quá trình dựng nước và giữ nước mà có những ao đầm, di tích lịch sử về quá trình dựng nước.
- Nhờ truyền thống hiếu học mà có những “núi Bút non Nghiên”
– Nhân dân làm nên lịch sử 4000 năm:
- Họ là những người con trai, con gái bình dị nhưng luôn thường trực tình yêu nước.
- Tác giả nhấn mạnh đến những con người vô danh làm nên lịch sử, khẳng định vai trò của mỗi cá nhân với lịch sử dân tộc.
– Nhân dân tạo ra và giữ gìn những giá trị vật chất, tinh thần cho đất nước: văn hóa “truyền hạt lúa”, “truyền lửa”, “truyền giọng nói”, “gánh theo tên xã, tên làng”,… từ đó xây dựng nền móng phát triển đất nước lâu bền.
– Tư tưởng cốt lõi, cảm hứng bao trùm cả đoạn trích: “đất nước này là đất nước của nhân dân đất nước của ca dao thần thoại”, đất nước ấy thể hiện qua tâm hồn con người: biết yêu thương, biết quý trọng trọng tình nghĩa, công sức và biết chiến đấu vì đất nước.
III. Kết bài
– Khái quát giá trị nội dung bài thơ: Đất nước được cảm nhận ở nhiều phương diện, cái nhìn mới mẻ về đất nước với tư tưởng cốt lõi là tư tưởng đất nước của nhân dân. Đồng thời cũng nêu lên trách nhiệm của các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ với đất nước mình.
– Đặc sắc nghệ thuật:
- Sử dụng các chất liệu của văn hoá dân gian đa dạng, sáng tạo
- Ngôn ngữ giàu chất suy tư, triết luận sâu sắc
- Thể thơ tự do hiện đại linh hoạt
- Giọng thơ trữ tình – chính luận sâu lắng, thiết tha.
– Nêu cảm nhận của em về bài thơ
– Liên hệ trách nhiệm của thế hệ trẻ ngày nay với đất nước.
Dàn ý Cảm nhận Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm- Mẫu 2
1. Mở bài:
– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Khoa Điềm: ông thuộc thế hệ nhà thơ chống Mĩ cứu nước, thơ ông là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và chất triết lí, suy tư của người trí thức về đất nước, con người.
– Giới thiệu về bài thơ Đất nước: được trích trong trường ca Mặt đường khát vọng, là một bài thơ có chất triết lí sâu sắc, thể hiện tư tưởng “Đất nước của nhân dân”.
2. Thân bài
* Đất nước được cảm nhận từ phương diện lịch sử, văn hóa, chiều sâu của không gian, chiều dài của thời gian
* Đất nước có từ bao giờ? (lí giải cội nguồn của đất nước) (9 câu đầu)
– Tác giả khẳng định một điều tất yếu: “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”, điều này thôi thúc mỗi con người muốn tìm đến nguồn cội đất nước.
– Đất nước bắt nguồn từ những diều bình dị, gần gũi trong đời sống của người Việt Nam từ xa xưa: “ngày xửa ngày xưa” gợi nhớ đến câu mở đầu các câu chuyện dân gian, “miếng trầu” gợi nhớ tục ăn trầu của người Việt và truyện cổ tích trầu cau, “Tóc mẹ thì bới sau đầu”: thói quen búi tóc của những người phụ nữ Việt Nam, “Thương hau bằng gừng cay muối mặn” thói quen tâm lí, truyền thống yêu thương của dân tộc.
– Đất nước trưởng thành cùng quá trình lao động sản xuất “cái kèo cái cột thành tên”, “một nắng hai sương”, quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
– Nhận xét: Tác giả có cái nhìn mới mẻ về cội nguồn đất nước, đất nước bắt nguồn từ chiều sâu văn hóa, văn học, lịch sử và truyền thống dân tộc.
* Định nghĩa về đất nước (28 câu thơ tiếp theo)
– Về phương diện không gian địa lí:
- Tác giả tách riêng hai yếu tố “đất” và “nước” để suy tư một cách sâu sắc.
- Đất nước là không gian riêng tư quen thuộc gắn với không gian sinh hoạt của mỗi con người: “nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”; gắn với kỉ niệm tình yêu lứa đôi: “nơi em đánh rơi… thương thầm”.
- Đất nước là không gian bao la trù phú, không gian sinh tồn của cộng đồng qua bao thế hệ: “Đất là nơi con chim phượng hoàng… dân mình đoàn tụ”.
– Nhìn đất nước được nhìn xuyên suốt chiều dài lịch sử từ quá khứ, hiện tại đến tương lai:
- Trong quá khứ đất nước là nơi thiêng liêng, gắn với truyền thuyết, huyền thoại: “Đất là nơi chim về… trong bọc trứng”
- Trong hiện tại: đất nước có trong tấm lòng mỗi con người, mỗi người đều thừa hưởng những giá trị của đất nước, khi có sự gắn kết giữa mỗi người đất nước sẽ nồng thắm, hài hòa, lớn lao. Đó là sự gắn kết giưa cái riêng và cái chung.
- Trong tương lai: thế hệ trẻ sẽ “mang đất nước đi xa” “đến những ngày mơ mộng”, đất nước sẽ trường tồn, bền vững.
– Suy tư về trách nhiệm của mỗi cá nhân với đất nước: “Phải biết gắn bó và san sẻ”, đóng góp, hi sinh để góp phần dựng xây đất nước.
– Nhận xét: qua cái nhìn toàn diện của nhà thơ, đất nước hiện lên vừa gần gũi, thân thuộc lại vừa thiêng liêng, hào hùng và trường tồn đến muôn đời sau.
* Tư tưởng cốt lõi, cảm nhận về đất nước: đất nước của nhân dân
– Thiên nhiên địa lí của đất nước không chỉ là sản phẩm của tạo hóa mà được hình thành từ phẩm chất và số phận của mỗi người, là một phần máu thịt, tâm hồn con người:
- Nhờ tình nghĩa yêu thương, thủy chung mà có “hòn Vọng Phu”, “hòn Trống Mái”
- Nhờ tinh thần bất khuất, anh hùng trong quá trình dựng nước và giữ nước mà có những ao đầm, di tích lịch sử về quá trình dựng nước.
- Nhờ truyền thống hiếu học mà có những “núi Bút non Nghiên”
– Nhân dân làm nên lịch sử 4000 năm:
- Họ là những người con trai, con gái bình dị nhưng luôn thường trực tình yêu nước.
- Tác giả nhấn mạnh đến những con người vô danh làm nên lịch sử, khẳng định vai trò của mỗi cá nhân với lịch sử dân tộc.
– Nhân dân tạo ra và giữ gìn những giá trị vật chất, tinh thần cho đất nước: văn hóa: “truyền hạt lúa”, “truyền lửa”, “truyền giọng nói”, “gánh theo tên xã, tên làng”,… từ đó xây dựng nền móng phát triển đất nước lâu bền.
– Tư tưởng cốt lõi, cảm hứng bao trùm cả đoạn trích: “đất nước này là đất nước của nhân dân đất nước của ca dao thần thoại”, đất nước ấy thể hiện qua tâm hồn con người: biết yêu thương, biết quý trọng trọng tình nghĩa, công sức và biết chiến đấu vì đất nước.
– Nhận xét:
- Về nội dung: đoạn trích “Đất nước” đã thể hiện cái nhìn mới mẻ về đất nước trên nhiều bình diện: văn hóa, lịch sử, địa lí dựa trên tư tưởng cốt lõi: “đất nước của nhân dân”.
- Về nghệ thuật: sử dụng đa dạng và sáng tạo chất liệu văn hóa dân gian, ngôn ngữ giàu chất suy tư, triết luận sâu sắc.
3. Kết bài:
– Khẳng định lại giá trị của đoạn trích: đoạn trích đã nhấn mạnh tư tưởng “đất nước của nhân dân”, thể hiện tinh thần yêu nước của tác giả, đánh thức tinh thần yêu nước trong mỗi con người.
– Nêu cảm nhận riêng về đoạn trích đất nước và có liên hệ thực tiễn đến trách nhiệm của thế hệ hôm nay với đất nước.
15 bài mẫu Cảm nhận Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm hay nhất
Cảm nhận Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm- Mẫu 1
Từ sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, dân tộc ta đã phải tiến hành liên tiếp hai cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược để gìn giữ nền độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc. Trong suốt ba mươi năm ấy, vận mệnh của đất nước luôn luôn là vấn đề lớn lao, nóng bỏng và chi phối mọi lĩnh vực của đời sống dân tộc và mỗi con người Việt Nam. Vì thế, cũng là lẽ tự nhiên, tình cảm yêu nước đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong thơ ca hiện đại Việt Nam, tiếp nối một truyền thống sâu đậm của văn học dân tộc từ ngàn xưa. Tình cảm yêu nước được biểu hiện trong thơ ca ta thống nhất nhưng cũng rất đa dạng, phong phú tùy theo hoàn cảnh sáng tác, tâm trạng cụ thể của từng nhà thơ.
Trường ca Mặt đường khát vọng được viết giữa những năm tháng hào hùng cả toàn quân, toàn dân ta đang tập trung sức lực, tập trung trí tuệ để chiến thắng đế quốc Mĩ, có vai trò không nhỏ của tầng lớp tuổi trẻ học sinh, sinh viên các thành thị vùng tạm chiếm miền Nam đang thức tỉnh, siết chặt đội ngũ xuống đường. Tầng lớp này cũng có nhiều tâm tư, nhiều suy ngẫm về thế hệ mình, về đất nước. Từ góc độ đó, ở Đất Nước, chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm đã định nghĩa, cảm nhận ngợi ca vẻ đẹp nhiều mặt của đất nước, trình bày ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh dân tộc giữa cơn thử thách lớn của lịch sử.
Hình tượng đất nước, trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, gắn với những nhân vật, hình ảnh hết sức cụ thể với những sinh hoạt rất đỗi thường ngày của mỗi chúng ta. Tình yêu lớn lao nhưng không hề xa xôi, trừu tượng mà được khơi gợi từ những sự vật, sinh hoạt gần gũi, từ những phong tục văn hóa có tự ngàn xưa. Đất nước có trong những câu chuyện cổ tích mẹ thường hay kể cho ta từ tuổi bé thơ, trong miếng trầu bây giờ bà ăn, trong lũy tre làng bao đời thành lũy thành công cho dân mình đánh giặc. Đất nước gắn cùng tục búi tóc sau đầu, câu ca dao gừng cay muối mặn, gắn cùng cái kèo, cái cột, hạt gạo một nắng hai sương. Cảm nhận đất nước từ những cái bình thường quanh ta đã dẫn Nguyễn Khoa Điềm đến biện pháp nghệ thuật chiết tự. Từ ghép đất nước được tách thành đôi để nhà thơ định nghĩa thật cụ thể từng thành đôi.
Đất và Nước:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khai
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Dòng suy tưởng đưa Nguyễn Khoa Điềm trở về quá khứ, với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ khẳng định cội nguồn thống nhất của con người Việt. Đất nước trường tồn trong thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông. Vậy là những hình ảnh, sự vật trên rất đỗi bình thường, nhưng đâu phải tầm thường; trong đó ẩn chứa sâu xa chiều dài lịch sử, truyền thống văn hóa với bao phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc. Gợi lên truyền thống lịch sử – văn hóa vững bền, không gian địa lí mênh mông của đất nước từ những điều giản dị, thường ngày, đó là thành công đặc biệt của Nguyễn Khoa Điềm ở đoạn trích này. Đất nước là đời sống, là hơi thở hàng ngày của mỗi chúng ta. Đất nước là sông bể mênh mông, núi rừng hùng vĩ. Đất nước trải suốt chiều dài lịch sử từ truyền thuyết Hùng Vương đến đạo lí Hàng năm ăn đâu làm đâu – Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. Ai biết được tự bao giờ con người Việt Nam biết kể chuyện cổ tích, có tục ăn trầu… Ai biết được tự bao giờ con người Việt Nam biết làm bạn với cây tre, với cái kèo, cái cột… Đằng sau những điều giản dị ấy là truyền thống lịch sử — văn hóa lâu đời, bền vững của đất nước Việt Nam ta. Từ góc độ đời sống cá nhân, nhà thơ nói được cả cuộc sống cộng đồng, đưa đến cho người đọc cảm nhận toàn vẹn, tổng hợp về vẻ đẹp đất nước.
Làm nên truyền thống lịch sử – văn hóa độc đáo, vững bền của đất nước chính là bao thế hệ nhân dân. Bởi thế, lòng yêu nước của Nguyễn Khoa Điềm ở đoạn trích này gắn liền cùng lòng yêu nhân dân, cùng niềm tự hào về vai trò to lớn của nhân dân. Đất Nước của Nhân dân đã trở thành tư tưởng nổi bật, xuyên suốt đoạn trích Đất Nước này và chính ngay cách cảm nhận đất nước từ những điều bình dị, gần gũi như trên sẽ tự nhiên dẫn đến tư tưởng ấy.
Có lẽ chưa bao giờ như trong thời đại dân tộc Việt Nam ta đánh Mĩ, vai trò to lớn, sức mạnh vô địch của nhân dân được thể hiện đầy đủ đến thế. Cuộc đối chọi quyết liệt với một kẻ thù giàu có và hung bạo vào bậc nhất đòi hỏi phải huy động triệt để sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân. Bởi vậy, Đất Nước của Nhân dân đã trở thành tư tưởng chung của thời đại, đã chi phối toàn bộ nền văn học cách mạng và làm nên rất nhiều tác phẩm có giá trị. Trong bối cảnh ấy, đoạn trích Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã đóng góp một cách cảm nhận, cách thể hiện đặc sắc. Khi nói về bốn nghìn năm lịch sử của đất nước, nhà thơ không điểm lại các triều đại, những anh hùng nổi tiếng mà tự hào nhắc đến vô vàn lớp người vô danh bình dị:
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Đối với nhân dân, cần cù làm lụng và ra trận đánh giặc, sống và chết đều thật giản dị và bình tâm vì lẽ tồn vong của đất nước. Khi đất nước thanh bình, họ “cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó”. Khi đất nước gặp nạn ngoại xâm, họ đứng dậy cầm vũ khí, sẵn sàng xả thân vì độc lập, chủ quyền như lẽ tự nhiên. Chính những con người không ai nhớ mặt đặt tên ấy đã làm ra Đất Nước. Trong trường kì lịch sử, nhân dân là lực lượng chủ yếu sáng tạo, giữ gìn truyền lại mọi tài sản vật chất, mọi giá trị tinh thần để làm nên Đất Nước muôn đời:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân.
Bao lớp người vô danh, thầm lặng ấy đã hóa thân cho đất nước vững bền. Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận sự hóa thân của nhân dân hiển hiện trên gương mặt địa lí của đất nước. Không ít tác phẩm thơ văn đã nhắc tới những danh lam thắng cảnh, những sự tích núi sông của đất nước Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến. Nhưng gắn chúng cùng số phận, cùng phẩm chất của những người dân bình dị, thấy trong đó cuộc đời hi sinh cao đẹp của quần chúng nhân dân, ấy là Nguyễn Khoa Điềm. Sau khi nhắc tới hàng loạt danh lam thắng cảnh, sự tích núi sông trên các miền đất nước, nhà thơ đi đến một khái quát thấm thía:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
Làm sáng tỏ tư tưởng Đất Nước của nhân dân từ nhiều phía, nhiều chiều như thế, đoạn trích đã đem đến cho người đọc niềm tin vào sự trường tồn của đất nước. Đất Nước là của nhân dân, mà nhân dân thì mênh mông, vĩ đại và bất tử. Vì thế, Đất Nước này mãi mãi trường tồn cùng với nhân dân.
Chiêm ngưỡng tiếp nhận Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại từ góc độ thế hệ trẻ trong thời đại dân tộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã gợi nhắc trách nhiệm đối với vận mệnh đất nước. Phải chăng đây chính là mục đích của đoạn thơ Đất Nước này khi ra đời giữa những năm tháng chiến tranh quyết liệt, hào hùng, khi lịch sử đang yêu cầu mọi con người phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở. Ý thức trách nhiệm này được Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận, dẫn dắt rất tự nhiên cùng quá trình khám phá ngày càng sâu về đất nước. Ban đầu, đất nước là những gì thân thiết ở ngoài ta, ở xung quanh ta. Nhưng dần về sau, đất nước đã ở trong ta, đất nước có trong mỗi người:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mỗi con người hôm nay đều đang thừa hưởng những di sản vật chất và tinh thần quý báu của đất nước, của nhân dân, của bao thế hệ đi trước, vì thế phải biết cống hiến đời mình vì lẽ tồn vong của đất nước. Ý thức trách nhiệm được nhà thơ trình bày thật thiết tha. Đó là mệnh lệnh cất lên từ trái tim đang xúc động:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…
Như vậy, tiếp thu nguồn mạch cảm hứng yêu nước chưa bao giờ vơi cạn trong lịch sử văn học Việt Nam, nằm trong bối cảnh của thời đại dân tộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, đoạn trích Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng đã thể hiện những nhận thức, khám phá mới mẻ về vẻ đẹp đất nước. Trên nền văn hóa dân gian vững chắc, Nguyễn Khoa Điềm đã hướng sự tìm tòi, suy ngẫm tới nhiều bình diện như lịch sử, địa lí, phong tục… để làm nổi bật tư tưởng Đất Nước của Nhân dân và gợi nhắc ý thức trách nhiệm trước vận mệnh đất nước. Nhưng sức hấp dẫn của chương Đất Nước không chỉ ở các nội dung cảm nhận mà còn ở cách thể hiện của Nguyễn Khoa Điềm. Khi đưa vào đây nhiều kiến thức về lịch sử, địa lí, về văn hóa dân gian, thơ dễ sa vào diễn ca theo lối phô bày hiểu biết, dễ chỉ tác động vào lí trí mà khó lay thức tình cảm người đọc. Nguyễn Khoa Điềm đã vượt qua thử thách đó và Đất Nước vừa làm sáng bừng nhận thức, vừa lay động sâu xa tâm hồn mỗi con người Việt Nam. Cái gì đã tạo nên thành công ấy? Điều chủ yếu là do tất cả các kiến thức, tư liệu, sự kiện phong phú này đã được thẩm thấu qua tâm hồn chứa chan xúc cảm của Nguyễn Khoa Điềm và nhà thơ đã tìm được một cách nói riêng, bằng giọng điệu tâm tình, qua hồi ức lại những kỉ niệm riêng tư:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Ngay từ phần mở đầu, Đất Nước dẫn ta vào câu chuyện tâm tình thiết tha, sâu lắng. Toàn bộ chương này được thể hiện bằng hình thức “anh” trò chuyện cùng “em”. Với hình thức này, giọng điệu thơ tất phải ngọt ngào, thủ thỉ. Nguyễn Khoa Điềm nói về lịch sử mà như tâm sự về những kỉ niệm tuổi thơ, như nhắc lại những hồi ức cảm động về người thân trong gia đình là bà, là mẹ. Bề dày của lịch sử, của nền văn hóa phong phú, lâu đời, cả không khí của truyền thuyết Thánh Gióng, cổ tích Trầu Cau bỗng được sống dậy trong cảm nhận gần gũi của mỗi người đọc. Chính nhờ lối thể hiện ấy mà vẻ đẹp sâu xa của đất nước, ý thức trách nhiệm công dân trước vận mệnh đất nước được người đọc nhận cảm một cách tự nhiên, thấm thía.
Tiếp nối dòng mạch thơ ca yêu nước trong lịch sử văn học dân tộc, Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã mang nội dung cảm nhận cùng cách thể hiện thật độc đáo. Thành công của đoạn trích Đất Nước này góp phần chứng tỏ tầm trí tuệ, sức khám phá của một nhà thơ trưởng thành cùng thời đại kháng chiến chống Mĩ cứu nước anh hùng.
Cảm nhận Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm- Mẫu 2
Chương Đất Nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng là sự cảm của Nguyễn Khoa Điềm về vai trò và những hi sinh to lớn của nhân dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước lâu dài của dân tộc. Cũng như những nhà thơ trẻ tiêu biểu của thời kỳ chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những suy ngẫm của mình về nhân dân thông qua những trải nghiệm của chính bản thân mình. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại” là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình thức chương V của bản trường ca này.
Tư tưởng chủ đạo nói trên được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện bằng một hình thức thơ trữ tình – chính luận. Cái lý lẽ mà tác giả đưa ra nhằm thuyết phục người đọc thật giản dị: Không phải ai khác mà chính nhân dân – những người vô danh – đã kiến tạo và bảo vệ, giữ gìn đất nước, đã xây dựng nên những truyền thống vãn hoá, lịch sử hàng ngàn đời của dân tộc. Lý lẽ ấy nhà thơ không phát biểu một cách khô khan, trừu tượng mà bằng hình ảnh gợi bằng giọng thơ sôi nổi tha thiết của mình. Thông qua những vần thơ kết giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm gắn bó với nhân dân, đất nước thế hệ trẻ trong những năm chống Mĩ.
Mượn hình thức trò chuyện tâm tình với một người con gái yêu thương, kết cấu chương V của bản trường ca có vẻ phóng túng, tự do, nhưng từ trong chiều sâu của cảm hứng của mỗi phần vẫn bám rất chắc vào tư tưởng cốt lõi: Đất nước nhân dân. Tư tưởng đó được nhà thơ thể hiện cụ thể, sinh động và được triển trên các bình diện: trong chiều dài của thời gian (thời gian đằng đẵng) và bề dày của truyền thống văn hoá, phong tục, tâm hồn và tính cách dân tộc. Ba phương diện ấy gắn bó, hoà quyện, thống nhất chặt chẽ với nhau trong một “hệ quy chiếu”. Đất nước của nhân dân vốn là linh hồn của cả bài thơ.
Cả chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng như được bao bọc bởi không khí của văn hoá dân gian. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi và linh hoạt các chất liệu của văn hoá dân gian, từ ca dao, tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong tục tập quán đến thói quen sinh hoạt trong đời sống hằng ngày của nhân dân. Những chất liệu ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa, kì diệu, đủ gợi lên được cái hồn thiêng của non sông, đất nước. Điều đó không đơn thuần chỉ là thủ pháp nghệ thuật, cũng không phải chỉ là một tiếp thu có sáng tạo vãn học dân gian. Có thể nói, tư tưởng Đất nước của Nhân dân là tư tưởng chủ đạo của bài thơ – đã thấm nhuần từ quan niệm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của bài thơ.
Phần đầu của bài thơ này, có thể xem là một định nghĩa về đất nước. Cố nhiên là định nghĩa theo cách riêng của thơ, được phát biểu thông qua những hình tượng cụ thể, sinh động, đầy gợi cảm.
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết, ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người: Đất nước hiện hình lên qua những lời kể chuyện của mẹ, qua “miếng trầu bây giờ bà ăn”, qua cái kèo, cái cột, qua hạt gạo miếng cơm ta ăn hàng ngày.
Đất nước không phải là cái gì xa lạ mà ở ngay trong máu thịt của anh và em:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên được sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận mệnh chung của cộng đồng, của đất nước. Đó là tư tưởng chung của thời đại khi mà vấn đề dân tộc nói lên như một vân đề khác. Trách nhiệm, bổn phận đối với đất nước không phải là cái gì khác mà cũng chính là trách nhiệm đối với chính bản thân mình:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san xẻ,
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở,
Làm nên Đất Nước muôn đời.
Đất nước còn được hình thành từ những truyền thống lịch sử, văn hoá, phong tục hàng ngàn đời của dân tộc. Nhà thơ đã khai thác ý nghĩa các thành tố Đất Nước trong mối quan hệ với không gian và thời gian, với lịch sử và hiện ta. Chiều sâu của lịch sử, truyền thống, phong tục và văn hoá của đất nước được gợi lên từ huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương với ngày giỗ tổ, từ những câu ca dao quen thuộc, ở đây, đất nước được cảm nhận như là sự thống nhất của các phương diện truyền thống, vãn hoá, phong tục rất thiêng liêng song cũng rất gần gũi với cuộc sống của mỗi con người. Những giá trị tinh thần bền vững ấy của đất nước đã gắn liền với quá khứ, hiện tại với tương lai, được nuôi dưỡng qua các thế hệ:
Những ai đã khuất,
Những ai bây giờ,
Yêu nhau và sinh con đẻ cái,
Gánh vác phần người đi trước để lại.
Dặn dò con cháu chuyện mai sau,
Hằng năm ăn đâu nằm đâu,
Cũng biết cúi đầu nhớ – ngày giỗ Tổ.
Từ những quan niệm về đất nước như vậy, đến phần sau của bài thơ, tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng. Đất Nước của nhân dân, chính nhân dân là người sáng tạo ra Đất Nước.
Tư tưởng đó đã dẫn đến một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Những núi Vọng Phu những hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên không còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa, mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, hoá thân của những con người không tên, không tuổi: “Những người vợ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ chồng yêu nhau nên hòn Trống Mái”. “Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình Bút non Nghiên”. Cả đến “Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”, ở đây, cảnh vật của thiên nhiên đất nước qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này, từ những hình ảnh, những cảnh vật, hình tượng cụ thể, nhà thơ đã “quy nạp” thành một khái quát sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha,
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy,
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.
Tư tưởng Đất nước của Nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ngợi ca các triều đại, cũng không nói tới những anh hùng đã được ghi lại trong sử sách mà chỉ tập trung nói tới những con người vô đanh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người bình dị, vô danh đó:
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ giữ gìn và truyền lại cho các thế mai sau những giá trị văn hoá, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước lại lúa, ngọn lửa, tiếng nói, lên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, những câu ca dao, tục ngữ. Mạch cảm xúc, suy nghĩ của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm bật lên tư tưởng cốt lõi của bài thơ vừa bất ngờ vừa giản dị và độc đáo:
Đất Nước này là Đất nước Nhân dân Đất Nước của Nhân dân,
Đất Nước của ca dao, thần thoại.
Đọc chương Đất Nước, có thể thấy rõ dấu ấn của vốn tri thức văn hoá nhà trường và sách vở, sự ảnh hưởng phong cách của một nhà thơ nào đó. Tuy nhiên, đó vẫn là chương tiêu biểu và tinh tuý nhất của trường ca Mặt đường khát vọng. Bài thơ vẫn tạo nên được những rung động âm vang trong lòng người đọc là nhờ tác giả từ những cảm xúc chân thành, từ sự trải nghiệm của bản mà nói lên những suy nghĩ chung của cả thế hệ mình về đất nước.
Cảm nhận Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm- Mẫu 3
Đất nước là đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam. Chúng ta đã bắt gặp đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất qua bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao nhiêu sóng gió chiến tranh được tái diễn sinh động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khoáng của Nguyễn Khoa Điềm.
Tác giả nhìn đất nước từ nhiều khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử. Đất nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn của cảm xúc chính tác giả.
Bài thơ được mở đầu bằng những vần thơ nhẹ nhàng, tinh tế đưa người đọc trở về với những ngày đầu mới khai sinh:
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa mẹ…” thường hay kể
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc.
Đất nước hiện lên qua những câu thơ thật bình dị, gần gũi, nó không phải là một khái niệm trừu tượng mà là một khái niệm hiện hữu hằng ngày trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Tác giả sử dụng từ “khi” để đánh dấu sự ra đời của khái niệm “đất nước”. Từ khi mỗi chúng ta sinh ra thì đất nước đã có rồi. Sau câu thơ ấy, tác giả bắt đầu lí giải nguồn gốc của đất nước mà mỗi người đều mong muốn hiểu thấu được. Giọng thơ dịu nhẹ, ngọt ngào dẫn dụ người đọc về với những “ngày xửa ngày xưa”. Đó như một nốt nhạc của quá khứ trở về trong những suy nghĩ của con người. Từ “ngày xửa, ngày xưa” đánh dấu những điều gì đó xa xưa, rất xưa, không xác định thời gian cụ thể, chỉ biết rằng nó đã có từ lâu đời. Đất nước đồng thời hình thành từ khi dân mình biết đánh giặc, là những con người đó làm nên đất nước…
Đất nước còn gắn liền với cuộc sống bình dị, thân quen của người nông dân Việt Nam. Tác giả không chỉ dừng lại ở đó, đất nước còn được lý giải chính là thành quả của công cuộc lao động để xây dựng và phát triển:
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng
Đất nước có từ ngày đó
Một một dụng cụ được tạo ra để phục vụ cho đời sống sản xuất cũng như sinh hoạt của con người như “kèo, cột” đều gắn bó với lịch sử ra đời của đất nước. Rất bình dị, rất chân thực nhưng nó như là một sự giải thích đúng đắn. Hình ảnh Đất Nước trong 9 câu thơ đầu Việt Bắc qua sự cảm nhận của tác giả thật mới mẻ nhưng cũng rất gần gũi, thân thương.
Nguyễn Khoa Điềm như dẫn người đọc đi vào những cung bậc tình cảm khác của đất nước, đó là chuyện tình yêu lứa đôi e ấp nhưng tha thiết và mặn nồng:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất nước không chỉ hiển hiện trong không gian văn hóa, phong tục tập quán của con người mà còn hiện lên trong những tình yêu lứa đôi mặn nồng, tha thiết nhất. Tác giả đã cắt nghĩa “đất nước” thành hai từ “đất” và “nước” để lí giải cụ thể ý nghĩa của từng từ. Đây có thể coi là sự tinh tế và đầy thi vị của Nguyễn Khoa Điềm. Nhưng dù được tách ra thì đất nước vẫn là một khái niệm trọn vẹn và đầy ý nghĩa nhất.
Đất nước còn được mở ra theo chiều dài của lịch sử và chiều dài của không gian văn hóa, của những con người vẫn còn trằn trọc tha thiết đi tìm hình bóng quê hương. Đất nước được hình thành từ những câu chuyện xa xưa, từ những điển tích điển cố mà người đời sau vẫn luôn nhắc nhở nhau. Hình ảnh “con chim phượng hoàng”, “núi bà Đen, bà Điểm”, “Lạc Long Quân Âu Cơ” chính là minh chứng cho sự phát triển nhiều thăng trầm nhưng đáng tự hào của chúng ta. Nhớ về cội nguồn, nhớ về những ngày xưa vất vả chính là đạo lí, truyền thống uống nước nhớ nguồn mãnh liệt của nhân dân ta.
Đất nước trong ý niệm của Nguyễn Khoa Điềm còn là sự tiếp nối truyền thống:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Trong sự hình thành và phát triển bề dày văn hóa lịch sử ngày càng được khẳng định. Những con người đã ngã xuống vì đất nước, những con người thế hệ mai sau cần phải cố gắng gìn giữ và phát huy được truyền thống tốt đẹp đó.
Nguyễn Khoa Điềm đã có cái nhìn đa chiều về đất nước từ khía cạnh đời thường, khía cạnh lịch sử, khía cạnh không gian và thời gian mang đến cho người đọc nhận thức đúng đắn nhất về đất nước mà chúng ta đang sống và cống hiến.
Hơn hết tác giả còn khẳng định:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Có thể nói đất nước đã đi vào và in hằn vào máu thịt của mỗi người, nhắc nhở trách nhiệm và nghĩa vụ của chúng ta về công cuộc xây dựng và bảo vệ sự vững mạnh của đất nước này.
Đất nước còn được Nguyễn Khoa Điềm tích lũy thành một khái niệm sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Một quan niệm sâu sắc, giàu giá trị nhân sinh quan khiến cho người đọc không thể phủ nhận sự tồn tại của đất nước là một thực tế. Đất nước còn biểu tượng cho lòng thành kính, sự biết ơn đến những người đã ngã xuống vì hòa bình, tự do cho hôm nay:
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước
Lại thêm một sự lí giải đúng đắn cho định nghĩa “đất nước”, những con người đó họ dù chết nhưng trái tim họ vẫn còn sống mãi trong cuộc sống của những người ở lại. Nhưng ở hai câu thơ cuối có thể nói Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra định nghĩa đúng đắn và sâu sắc nhất về đất nước:
Đất nước này là đất nước của nhân dân
Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại.
Thật vậy, nhân dân chính là chủ nhân của đất nước. Bởi vậy đất nước này phải thuộc về nhân dân. Tư tưởng của tác giả rất tiến bộ, rất đời thường và rất sâu sắc.
Như vậy, Nguyễn Khoa Điềm bằng những lý lẽ và dẫn chứng đầy thuyết phục đã khẳng định được vị trí, vai trò vô cùng to lớn của đất nước trong cuộc sống của mỗi con người. Gấp trang sách lại nhưng những hình ảnh về đất nước vẫn sống mãi trong lòng người đọc.
Cảm nhận Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm- Mẫu 4
Mặt đường khát vọng là tập trường ca hùng tráng được Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971. Bản trường ca khái quát quá trình thức tỉnh của tuổi trẻ các đô thị vùng tạm chiếm miền Nam. Họ nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mỹ; hướng về nhân dân, về đất nước; ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, đứng dậy xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. Đoạn trích Đất Nước thuộc phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng.
Đất Nước có thể coi là chương hay nhất trình bày sự cảm nhận và lý giải của tác giả về đất nước, cũng đồng thời thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi của cả bản trường ca, đó là tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”. Trình tự triển khai mạch suy nghĩ và cảm xúc của tác giả khá chặt chẽ nhưng cũng rất phóng túng. Đoạn thơ mở đầu bằng những lời định nghĩa say sưa về đất nước. Tiếp đó là sự hình dung về đất nước qua chiều dài thời gian – lịch sử, qua về rộng của không gian – lãnh thổ địa lí và qua chiều sâu văn hóa – phong tục, lối sống, tính cách của người dân Việt Nam, với một niềm tự hào sâu sắc. Từ ba bình diện này, lời thơ hào hứng, giàu chất suy tư hướng đến tư tưởng chủ đạo: “Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân”. Mạch cảm xúc và suy tư của bài thơ trôi chảy một cách tự nhiên, vừa chặt chẽ vừa đầy hứng khởi, đồng thời lại cũng có những vang động sâu xa.
Trong phần đầu của đoạn trích, bằng hình thức trữ tình – chính luận, nhà thơ đã đưa ra định nghĩa riêng của mình về đất nước bằng những cảm nhận về đất nước trong cổ tích, ca dao. Lời thơ định nghĩa thoát khỏi những khái niệm khó khăn để trở thành một cuộc chuyện trò gần gũi, thân mật mà bay bổng. Mức độ đậm đặc của các chất liệu lấy từ cổ tích, truyền thuyết, ca dao, dân ca, huyền thoại…. tạo cho đoạn thơ đầu một âm hưởng đầy quyến rũ. Những câu thơ như:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “Ngày xửa ngày xưa…”mẹ thường hay kể
Đoạn thơ đầu làm mờ đi khái niệm đất nước là của các vương triều. Ngay từ lúc sơ khai, nó đã là của nhân dân. Định nghĩa đất nước bằng sự lựa chọn chất liệu từ văn hóa dân gian, đó là một ẩn ý của Nguyễn Khoa Điềm bời văn hóa dân gian của nhân dân. Cách định nghĩa của Nguyễn Khoa Điềm là một sự khám phá mới mẻ, độc đáo tạo ra sự hấp dẫn và thú vị đối với người đọc.
Cách định nghĩa về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã chạm được vào những gì thiêng liêng nhất, lớn lao nhất nhưng cũng lại gần gũi và thân thiết nhất đối với mỗi chúng ta. Nõ dễ gợi cho ta những suy ngẫm về quá khứ, về lòng tự hào dân tộc. Và bởi thế, nó thức tỉnh ý thức dân tộc và tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với nhân dân trong mỗi chúng ta.
Phần sau của đoạn thơ từ “Những người vợ nhớ chồng” đến hết đoạn trích là phần tập trung làm nổi bật tư tưởng “Đất nước của nhân dân”. Trong phần này, tư tưởng đã quy tụ mọi cách nhìn nhận và đưa đến những phát hiện sâu sắc và mới mẻ của tác giả về địa lí, lịch sử và văn hóa của đất nước.
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Quả là những phát hiện rất mới về thiên nhiên đất nước. Những núi Bút, non Nghiên, núi Vọng Phu, hòn Trống Mái… vốn đã rất quen thuộc nay bỗng trở nên thật lạ. Nó không phải là sản phẩm của tạo hóa mà là tâm hồn, là số phận của nhân dân. Đến đây, thiên nhiên, tạo hóa không phải là cái làm nảy sinh ra những câu chuyện đầy huyền thoại mà chính những câu chuyện về những tâm hồn, những số phận của con người trong quá khứ làm cho những danh thắng kia có tâm hồn, làm cho nó sống mãi. Cái nhìn rất thơ của tác giả đi đến một khái quát đầy thấm thía:
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
Tiếp nối những câu thơ khám phá độc đáo về thiên nhiên là những câu thơ khám phá vẻ đẹp tâm hồn, tính cách Việt Nam, cũng như vai trò, vị trí của con người Việt Nam trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó là những con người yêu thương sâu sắc, thủy chung tình nghĩa; là những con người cần cù lao động, anh hùng trong đánh giặc; là những con người “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng chính họ “đã làm ra Đất Nước”. Họ là những người âm thầm làm nên lịch sử, âm thầm gìn giữ những nét văn hóa của dân tộc qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử dân tộc.
Từ những khái quát giản dị nhưng đầy tính nhân văn, tác giả khẳng định:
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.
Đó là một chân lý. Một chân lý đã được nhận thức trong suốt quá trình phát triển dài lâu của lịch sử nhưng chỉ đến văn học Việt Nam hiện đại, nó mới đạt đến đỉnh cao, mới cất lên thành những tuyên ngôn đầy tự hào và hang động sâu xa.
Cảm nhận Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm- Mẫu 5
Con người Việt Nam ta từ xưa đến nay tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm luôn chảy trong dòng máu, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh để bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc. Trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ gian khổ, có biết bao nhiêu bài thơ, bài văn ra đời để cổ vũ tinh thần chiến đấu cho quân và dân ta ngoài mặt trận. Một trong số các tác phẩm khơi gợi lòng yêu nước đó không thể không kể đến Trường ca Mặt đường khát vọng của tác giả Nguyễn Khoa Điềm mà nổi bật là đoạn trích Đất nước.
Nguyễn Khoa Điềm được biết đến là nhà thơ với phong cách trữ tình chính luận độc đáo. Thơ Nguyễn Khoa Điềm thu hút, hấp dẫn người đọc bởi sự đan kết cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của một thanh niên tri thức tự ý thức sâu sắc về vai trò, trách nhiệm của mình trong cuộc chiến đấu vì đất nước và nhân dân. “Trường ca Mặt đường khát vọng” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ văn của ông. Đoạn trích Đất nước thuộc chương V của bản Trường ca mang đến cho bạn đọc cái nhìn mới mẻ về hình hài của Đất nước.
Mở đầu bài thơ, tác giả lí giải về cội nguồn của Đất nước
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
….………………………………..
Đất Nước có từ ngày đó…”
Tác khẳng định trực tiếp rằng Đất nước này đã tồn tại từ rất lâu đời, khi mà con người mới sinh ra trên mảnh đất của họ thì chính nơi đó là đất nước, là quê hương. Đất Nước ra đời từ rất xa xưa như một sự tất yếu, trong chiều sâu của lịch sử thời các vua Hùng dựng nước và giữ nước đã đi vào sử sách được lưu truyền đến tận bây giờ. Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Từ lời hát mẹ ru, từ những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa” mà mẹ kể đã nuôi dưỡng chúng ta khôn lớn, làm ta hiểu hơn về văn hóa của ta, theo ta đi hết cuộc đời và trở thành một phần kí ức tốt đẹp khiến ta không thể quên. Nhai trầu từ lâu đã trở thành một thói quen không thể thiếu của những người phụ nữ Việt Nam nhất là các bà, các mẹ và từ lâu dân gian ta đã có câu chuyện sự tích trầu cau nói về tình nghĩa con người. Từ những năm tháng trước công nguyên, từ thời của hai Bà Trưng, Bà Triệu, là lần đầu tiên nước ta mạnh mẽ đứng lên khởi nghĩa đánh đuổi giặc ngoại xâm. Từ những câu chuyện truyền thuyết Thành Gióng với hình ảnh nhổ cả luỹ tre giơ cao đánh đuổi giặc. Cây tre cũng là hình ảnh biểu tượng của người nông dân Việt Nam, hiền lành, thật thà, chăm chỉ và chất phác nhưng cũng rất kiên cường bất khuất.
Bên cạnh truyền thống về lòng yêu nước, tác giả Nguyễn Khoa Điềm còn nhắc đến những hình ảnh mang đậm vẻ đẹp thuần phong mĩ tục giản dị của con người Việt Nam :
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Từ ngày xưa, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam luôn gắn liên với mái tóc dài, được búi gọn gàng ngay sau đầu. Vẻ đẹp đó của một người bà, người mẹ, người chị, của một người con gái Việt Nam mộc mạc, giản dị nhưng lại rất nữ tính, thuần hậu rất riêng. Tác giả đã vận dụng thành ngữ “gừng cay muối mặn” một cách hết sức tự nhiên, đặc sắc, nhẹ nhàng mà thấm đượm ân tình để nói lên sự thuỷ chung ở trong con người như câu nói “gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa sẽ đong đầy”.
Ngoài những phong tục tập quán và tình yêu thương của con người, Nguyễn Khoa Điềm còn nêu lên truyền thống lao động sản xuất của người dân: Từ xa xưa, con người đã biết chặt gỗ mà làm nhà. Những ngôi nhà đó sử dụng kèo, cột giằng giữ vào nhau vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió và thú dữ. Đó cũng chính là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình có thể đoàn tụ, quây quần bên nhau, cùng nhau chia sẻ niềm vui nỗi buồn; từ đó hình thành nên làng, xóm và Đất nước. Ngôi nhà là mái ấm, là nơi con người “an cư lạc nghiệp” siêng năng tích góp của cải dồn thành sự phát triển đất nước. Nhà thơ vận dụng khéo léo câu thành ngữ “Một nắng hai sương” để nói lên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta trong lao động sản xuất. Các động từ “xay – giã – dần – sàng” đó là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra được hạt gạo, người nông dân phải trải qua biết bao tháng ngày nắng sương vất vả gieo cấy, chăm sóc, xay giã và giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của người nông dân vất vả nắng mưa. Thành quả ngọt ngào này không chỉ giúp dân ta có đời sống no ấm mà nó còn trở thành nền văn minh lúa nước mà khi nhắc đến người ta biết ngay đến Việt Nam; không chỉ dừng lại ở đó, nền văn minh này đã giúp cho nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thế hai thế giới và toàn cầu biết đến lúa gạo Việt Nam.
Từ tất cả các yếu tố trên, nhà thơ khẳng định: “Đất Nước có từ ngày đó…” Ngày đó là ngày nào, chúng ta không hề biết, tác giả cũng không thể biết. Chỉ biết rằng ngày đó chính là ngày ta bắt đầu có truyền thống, có những phong tục tập quán, có nhiều văn hoá riêng biệt khác với quốc gia khác. Đó là ngày ta có Đất nước của dân tộc Việt Nam.
Tiếp nối sau khẳng định Đất nước là của nhân dân, tác giả định nghĩa về Đất nước vô cùng độc đáo:
“Đất là nơi em đến trường
.…………………………..
Cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Đất nước không chỉ được cảm nhận bằng không gian địa lí hay chiều dài lịch sử mà Đất nước còn được cảm nhận bằng không gian sinh hoạt vô cùng gần gũi, thân thuộc. “Đất” gắn liền với hình ảnh, hoạt động của người con trai, “nước” gắn với vẻ đẹp của người con gái nhưng hai tiếng Đất nước lại hợp thành tình yêu đôi lứa mặn mà. Đất nước cũng là nơi để họ hẹn hò, trao nhau những yêu thương mùi mẫn, những kỉ niệm, những nhớ thương, mong mỏi của thời gian xa cách.
Người xưa có câu: “Đất lành chim đậu”, đất là nơi chim bay về làm tổ, nước là nơi con cá vùng vẫy giữa đại dương mênh mông. Ngần ấy năm lịch sử là quãng thời gian dài hình thành nên sự trù phú của thiên nhiên, làm giàu cho đất nước để từ đó Đất nước trở thành nơi con người đoàn tụ làm ăn sinh sống và làm nên truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ cùng bọc trăm trứng trở thành những thế hệ đầu tiên của đồng bào ta.
Từ những lí giải, cảm nhận trên về Đất nước, tác giả nhắn nhủ đến những thế con người dù đi trước, dù đi sau, dù ở bất cứ thời đại, hoàn cảnh nào cũng phải nhớ về cội nguồn, biết ơn cội nguồn và nhớ về ngày giỗ tổ Hùng Vương – người đã có công gây dựng nền móng nhà nước đầu tiên để có Đất nước bây giờ.
Đất Nước được Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận dựa trên bề rộng của không gian địa lí, chiều dài của lịch sử, bề dày của truyền thống văn hóa, Đất Nước thống nhất giữa cái hằng ngày với cái muôn đời trong cuộc sống cộng đồng, sự hòa quyện không thể tách rời giữa nhân dân và cộng đồng.
Sau những nhận định, lí giải Đất nước trên những phương diện khác nhau, tác giả nêu lên trách nhiệm của con người đối với Đất nước:
“Trong anh và em hôm nay
……………………………
Làm nên Đất Nước muôn đời”
Đất nước dường như là một phần máu thịt của mỗi con người. Đất nước của tình yêu đôi lứa là một đất nước hài hòa, nồng thắm. Đất nước của cả dân tộc đoàn kết là đất nước vẹn tròn, to lớn có sức mạnh chống lại mọi thế lực kẻ thù. Qua đây, tác giả thể hiện niềm tin yêu của mình vào thế hệ con cháu mai sau, rồi chúng sẽ mang đất nước mình sánh vai với các cường quốc năm châu, rồi chúng sẽ phát triển đất nước này đến những tháng ngày mà hiện tại ta đang mơ mộng.
“Em ơi em” – một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng đang dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về Đất Nước: “Đất Nước là máu xương của mình” để từ đó, tác giả nêu lên trách nhiệm của mỗi con người với Đất nước, phải biết gắn bó và san sẻ với những mảnh đời bất hạnh, phải biết hi sinh, hóa thân để giữ vững dáng hình xứ sở để Đất nước này tồn tại muôn đời.
Đoạn thơ thể hiện cái tôi suy tư đầy ý thức trách nhiệm của tác giả: mỗi con người không phải chỉ sở hữu riêng của cá nhân người đó mà còn là của chung của đất nước. Bởi chúng ta đều được thừa hưởng những di sản văn hóa, tinh thần của đất nước và được nuôi dưỡng trưởng thành trong di sản đó. Vì vậy mỗi người đều phải có trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ, phát huy nền văn hóa ấy. Từ đây, ta thấy rõ hơn cách cảm nhận, cái nhìn Đất Nước toàn vẹn, tổng hợp đa chiều của Nguyễn Khoa Điềm (địa lí, lịch sử, văn hóa, phong tục, truyền thống tinh thần của dân tộc trong đời sống hằng ngày, biến cố lịch sử…).
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
….………………………………………
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
Nguyễn Khoa Điềm thật khéo léo và tinh tế khi đã vận dụng sáng tạo thành công chất liệu dân gian vào bài thơ của mình để tạo nét riêng biệt không thể nhầm lẫn. Đó là sự tích hòn Vọng Phu nói về tình cảm thủy chung, son sắt chờ chồng đến hóa đá của người phụ nữ. Đó là tình hòn Trống Mái gắn với truyền thuyết tình cảm vợ chồng chung thủy. Dù ở bất cứ nơi nào trên đất nước, bờ cõi này thì tình cảm yêu thương, gắn bó vợ chồng vẫn là những tình cảm vô cùng tốt đẹp xứng đáng được tôn vinh.
Không chỉ có tình yêu đôi lứa, tình cảm vợ chồng, Nguyễn Khoa Điềm còn tôn vinh cả nền lịch sử với lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc ta. Đó là vị anh hùng Thánh Gióng nhỏ tuổi nhưng khi có giặc anh dũng ra trận đánh đuổi giặc Ân lấy lại độc lập cho nước nhà. Đó là mảnh đất Tổ thờ vua Hùng vô cùng linh thiêng với sự quây quần của đàn voi chín mươi chín con. Tất cả những câu truyện, những sự tích, truyền thuyết trên đều rất thân thuộc với mỗi thế hệ con dân trên Đất nước này, trở thành niềm tự hào vô bờ bến của chúng ta.
Chúng ta có thể tự hào rằng Đất nước này là đất nước của những con người hiếu học. Biết bao tấm gương nghèo vượt khó vươn kên trở thành nhân tài cho đất nước, đánh dấu công lao của mình bằng những núi Bút, non Nghiên. Dù họ là những người nổi tiếng hay chỉ là những con người vô danh thì họ cũng đáng để chúng ta biết ơn, học tập và noi theo.
Đất nước còn được hình thành từ những điều hết sức nhỏ bé: những quả núi hình con cóc, con gà quây quần cũng giúp cho Hạ Long trở thành di sản thế giới. Những ngọn núi khác cũng được đặt theo tên của các vị anh hùng để con cháu mai sau không quên ơn họ và tôn vinh những giá trị quý báu mà họ đã gây dựng cho nước nhà. Những ao đầm, gò bãi là sự hóa thân của những con người làm nên Đất Nước. Ở trên đất nước này đâu đâu cũng mang dáng dấp, những kỉ niệm của thế hệ ông cha. Hành trình hơn bốn nghìn năm lịch sử vẫn sẽ tiếp tục mãi mãi và cũng sẽ có nhiều hơn những kỉ niệm, những giai thoại được ghi vào sử sách. Tuy nhiên, không vì thế mà lối sống cha ông đi vào dĩ vãng, nó mãi là những tiếng âm vang, là niềm tự hào của con cháu sau này.
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
….…………………………………..
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Đến đây, Nguyễn Khoa Điềm không điểm qua các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà nhấn mạnh đến vô vàn những con người vô danh, bình dị nhưng dũng cảm, kiên cường. Họ là những “con gái, con trai, không ai nhớ mặt đạt tên, giản dị và bình tâm” cần cù, chăm chỉ làm lụng gây dựng cuộc sống tốt đẹp. Khi nước nhà có giặc, họ lại đứng lên chiến đấu anh dũng, mạnh mẽ một lòng một dạ cùng nhau đoàn kết lấy lại độc lập dân tộc. Họ có thể là những con người vô danh, không ai nhớ mặt đặt tên nhưng chính họ là người giữ vững non sông này để có chúng ta ngày hôm nay. Không chỉ trên mặt trận chiến đấu mà họ còn là những anh hùng của đời thường. Những người vô danh đó đã giữ và truyền lại giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất (văn minh lúa nước đã truyền lửa quanh mỗi nhà, tiếng nói, gánh theo tên làng xã, đắp đập be bờ). Điệp cấu trúc “họ…” đã gợi ra lớp lớp những con người nối tiếp nhau, giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ sau giá trị văn hóa, truyền thống tốt đẹp.
Đến đây, tác giả khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân: Đất Nước này, của nhân dân, do nhân dân làm ra gắn với những câu ca dao, thần thoại từ lâu đời, cội nguồn dân tộc, văn hóa dân gian. Đồng thời, tác giả cũng gửi gắm những bài học quý giá: anh em nên biết đoàn kết, yêu thương nhau từ thuở nằm nôi; biết quý trọng công sức những ngày gian khổ; biết nuôi ý chí mà đánh đuổi giặc ngoại xâm. Qua đây, tác giả một lần nữa khẳng định vẻ đẹp giản dị, mộc mạc của thế hệ những con người Việt Nam và chất “tình” có ở khắp mọi nơi trên đất nước này.
Bằng việc vận dụng khéo léo và mềm mại các chất liệu văn hóa dân gian cùng với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho bạn đọc một cách nhìn mới mẻ về cội nguồn của đất nước; về vẻ đẹp của một đất nước giàu văn hóa cổ truyền, đất nước của truyền thống, của phong tục tươi đẹp. Đồng thời, tác giả thể hiện rõ nét tư tưởng Đất nước của nhân dân qua ba chiều cảm nhận: địa lí, lịch sử và văn hóa vô cùng tinh tế, sâu sắc.
Nhiều năm tháng qua đi nhưng đoạn thơ cùng với trường ca “Mặt đường khát vọng” vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại ấn tượng đẹp đẽ, đọng lại trong tâm tư của bao thế hệ con người Việt Nam trước đây, bây giờ và cả sau này. Bản trường ca của tác giả Nguyễn Khoa Điềm làm ta thêm hiểu và yêu Đất nước đồng thời thôi thúc bản thân hành động để bảo vệ và phát triển đất nước này.
Cảm nhận Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm- Mẫu 6
Đất nước là đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam. Chúng ta đã bắt gặp đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất qua bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao nhiêu sóng gió chiến tranh được tái diễn sinh động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khoáng của Nguyễn Khoa Điềm.
Tác giả nhìn đất nước từ nhiều khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử. Đất nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn của cảm xúc chính tác giả.
Bài thơ được mở đầu bằng những vần thơ nhẹ nhàng, tinh tế đưa người đọc trở về với những ngày đầu mới khai sinh:
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa mẹ…” thường hay kể
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc.
Đất nước hiện lên qua những câu thơ thật bình dị, gần gũi, nó không phải là một khái niệm trừu tượng mà là một khái niệm hiện hữu hằng ngày trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Tác giả sử dụng từ “khi” để đánh dấu sự ra đời của khái niệm “đất nước”. Từ khi mỗi chúng ta sinh ra thì đất nước đã có rồi. Sau câu thơ ấy, tác giả bắt đầu lí giải nguồn gốc của đất nước mà mỗi người đều mong muốn hiểu thấu được. Giọng thơ dịu nhẹ, ngọt ngào dẫn dụ người đọc về với những “ngày xửa ngày xưa”. Đó như một nốt nhạc của quá khứ trở về trong những suy nghĩ của con người. Từ “ngày xửa, ngày xưa” đánh dấu những điều gì đó xa xưa, rất xưa, không xác định thời gian cụ thể, chỉ biết rằng nó đã có từ lâu đời. Đất nước đồng thời hình thành từ khi dân mình biết đánh giặc, là những con người đó làm nên đất nước…
Đất nước còn gắn liền với cuộc sống bình dị, thân quen của người nông dân Việt Nam. Tác giả không chỉ dừng lại ở đó, đất nước còn được lý giải chính là thành quả của công cuộc lao động để xây dựng và phát triển:
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng
Đất nước có từ ngày đó
Một một dụng cụ được tạo ra để phục vụ cho đời sống sản xuất cũng như sinh hoạt của con người như “kèo, cột” đều gắn bó với lịch sử ra đời của đất nước. Rất bình dị, rất chân thực nhưng nó như là một sự giải thích đúng đắn. Hình ảnh Đất Nước trong 9 câu thơ đầu Việt Bắc qua sự cảm nhận của tác giả thật mới mẻ nhưng cũng rất gần gũi, thân thương.
Nguyễn Khoa Điềm như dẫn người đọc đi vào những cung bậc tình cảm khác của đất nước, đó là chuyện tình yêu lứa đôi e ấp nhưng tha thiết và mặn nồng:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất nước không chỉ hiển hiện trong không gian văn hóa, phong tục tập quán của con người mà còn hiện lên trong những tình yêu lứa đôi mặn nồng, tha thiết nhất. Tác giả đã cắt nghĩa “đất nước” thành hai từ “đất” và “nước” để lí giải cụ thể ý nghĩa của từng từ. Đây có thể coi là sự tinh tế và đầy thi vị của Nguyễn Khoa Điềm. Nhưng dù được tách ra thì đất nước vẫn là một khái niệm trọn vẹn và đầy ý nghĩa nhất.
Đất nước còn được mở ra theo chiều dài của lịch sử và chiều dài của không gian văn hóa, của những con người vẫn còn trằn trọc tha thiết đi tìm hình bóng quê hương. Đất nước được hình thành từ những câu chuyện xa xưa, từ những điển tích điển cố mà người đời sau vẫn luôn nhắc nhở nhau. Hình ảnh “con chim phượng hoàng”, “núi bà Đen, bà Điểm”, “Lạc Long Quân Âu Cơ” chính là minh chứng cho sự phát triển nhiều thăng trầm nhưng đáng tự hào của chúng ta. Nhớ về cội nguồn, nhớ về những ngày xưa vất vả chính là đạo lí, truyền thống uống nước nhớ nguồn mãnh liệt của nhân dân ta.
Đất nước trong ý niệm của Nguyễn Khoa Điềm còn là sự tiếp nối truyền thống:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Trong sự hình thành và phát triển bề dày văn hóa lịch sử ngày càng được khẳng định. Những con người đã ngã xuống vì đất nước, những con người thế hệ mai sau cần phải cố gắng gìn giữ và phát huy được truyền thống tốt đẹp đó.
Nguyễn Khoa Điềm đã có cái nhìn đa chiều về đất nước từ khía cạnh đời thường, khía cạnh lịch sử, khía cạnh không gian và thời gian mang đến cho người đọc nhận thức đúng đắn nhất về đất nước mà chúng ta đang sống và cống hiến. Hơn hết tác giả còn khẳng định:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Có thể nói đất nước đã đi vào và in hằn vào máu thịt của mỗi người, nhắc nhở trách nhiệm và nghĩa vụ của chúng ta về công cuộc xây dựng và bảo vệ sự vững mạnh của đất nước này. Đất nước còn được Nguyễn Khoa Điềm tích lũy thành một khái niệm sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Một quan niệm sâu sắc, giàu giá trị nhân sinh quan khiến cho người đọc không thể phủ nhận sự tồn tại của đất nước là một thực tế. Đất nước còn biểu tượng cho lòng thành kính, sự biết ơn đến những người đã ngã xuống vì hòa bình, tự do cho hôm nay:
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước
Lại thêm một sự lí giải đúng đắn cho định nghĩa “đất nước”, những con người đó họ dù chết nhưng trái tim họ vẫn còn sống mãi trong cuộc sống của những người ở lại. Nhưng ở hai câu thơ cuối có thể nói Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra định nghĩa đúng đắn và sâu sắc nhất về đất nước:
Đất nước này là đất nước của nhân dân
Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại.
Thật vậy, nhân dân chính là chủ nhân của đất nước. Bởi vậy đất nước này phải thuộc về nhân dân. Tư tưởng của tác giả rất tiến bộ, rất đời thường và rất sâu sắc.
Như vậy, Nguyễn Khoa Điềm bằng những lý lẽ và dẫn chứng đầy thuyết phục đã khẳng định được vị trí, vai trò vô cùng to lớn của đất nước trong cuộc sống của mỗi con người. Gấp trang sách lại nhưng những hình ảnh về đất nước vẫn sống mãi trong lòng người đọc.
Cảm nhận Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm- Mẫu 7
Chương “Đất Nước” trích trong trường ca Mặt đường khát vọng là sự cảm của Nguyễn Khoa Điềm về vai trò và những hi sinh to lớn của nhân dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước lâu dài của dân tộc. Cũng như những nhà thơ trẻ tiêu biểu của thời kỳ chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những suy ngẫm của mình về nhân dân thông qua những trải nghiệm của chính bản thân mình. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại” là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình thức chương V của bản trường ca này.
Tư tưởng chủ đạo nói trên được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện bằng một hình thức thơ trữ tình – chính luận. Cái lý lẽ mà tác giả đưa ra nhằm thuyết phục người đọc thật giản dị: Không phải ai khác mà chính nhân dân – những người vô danh – đã kiến tạo và bảo vệ, giữ gìn đất nước, đã xây dựng nên những truyền thống vãn hoá, lịch sử hàng ngàn đời của dân tộc. Lý lẽ ấy nhà thơ không phát biểu một cách khô khan, trừu tượng mà bằng hình ảnh gợi bằng giọng thơ sôi nổi tha thiết của mình. Thông qua những vần thơ kết giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm gắn bó với nhân dân, đất nước thế hệ trẻ trong những năm chống Mĩ.
Mượn hình thức trò chuyện tâm tình với một người con gái yêu thương, kết cấu chương V của bản trường ca có vẻ phóng túng, tự do, nhưng từ trong chiều sâu của cảm hứng của mỗi phần vẫn bám rất chắc vào tư tưởng cốt lõi: Đất nước nhân dân. Tư tưởng đó được nhà thơ thể hiện cụ thể, sinh động và được triển trên các bình diện: trong chiều dài của thời gian (thời gian đằng đẵng) và bề dày của truyền thống văn hoá, phong tục, tâm hồn và tính cách dân tộc. Ba phương diện ấy gắn bó, hoà quyện, thống nhất chặt chẽ với nhau trong một “hệ quy chiếu”. Đất nước của nhân dân vốn là linh hồn của cả bài thơ.
Cả chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng như được bao bọc bởi không khí của văn hoá dân gian. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi và linh hoạt các chất liệu của văn hoá dân gian, từ ca dao, tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong tục tập quán đến thói quen sinh hoạt trong đời sống hằng ngày của nhân dân. Những chất liệu ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa, kì diệu, đủ gợi lên được cái hồn thiêng của non sông, đất nước. Điều đó không đơn thuần chỉ là thủ pháp nghệ thuật, cũng không phải chỉ là một tiếp thu có sáng tạo vãn học dân gian. Có thể nói, tư tưởng Đất nước của Nhân dân là tư tưởng chủ đạo của bài thơ – đã thấm nhuần từ quan niệm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của bài thơ.
Phần đầu của bài thơ này, có thể xem là một định nghĩa về đất nước. Cố thiên là định nghĩa theo cách riêng của thơ, được phát biểu thông qua những hình tượng cụ thể, sinh động, đầy gợi cảm.
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết, ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người: Đất nước hiện hình lên qua những lời kể chuyện của mẹ, qua “miếng trầu bây giờ bà ăn”, qua cái kèo, cái cột, qua hạt gạo miếng cơm ta ăn hàng ngày. Đất nước không phải là cái gì xa lạ mà ở ngay trong máu thịt của anh và em:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên được sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận mệnh chung của cộng đồng, của đất nước. Đó là tư tưởng chung của thời đại khi mà vấn đề dân tộc nói lên như một vân đề khác. Trách nhiệm, bổn phận đối với đất nước không phải là cái gì khác mà cũng chính là trách nhiệm đối với chính bản thân mình:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san xẻ,
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở,
Làm nên Đất Nước muôn đời.
Đất nước còn được hình thành từ những truyền thống lịch sử, văn hoá, phong tục hàng ngàn đời của dân tộc. Nhà thơ đã khai thác ý nghĩa các thành tố Đất Nước trong mối quan hệ với không gian và thời gian, với lịch sử và hiện ta. Chiều sâu của lịch sử, truyền thống, phong tục và văn hoá của đất nước được gợi lên từ huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương với ngày giỗ tổ, từ những câu ca dao quen thuộc, ở đây, đất nước được cảm nhận như là sự thống nhất của các phương diện truyền thống, vãn hoá, phong tục rất thiêng liêng song cũng rất gần gũi với cuộc sống của mỗi con người. Những giá trị tinh thần bền vững ấy của đất nước đã gắn liền với quá khứ, hiện tại với tương lai, được nuôi dưỡng qua các thế hệ:
Những ai đã khuất,
Những ai bây giờ,
Yêu nhau và sinh con đẻ cái,
Gánh vác phần người đi trước để lại.
Dặn dò con cháu chuyện mai sau,
Hằng năm ăn đâu nằm đâu,
Cũng biết cúi đầu nhớ – ngày giỗ Tổ.
Từ những quan niệm về đất nước như vậy, đến phần sau của bài thơ, tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng. Đất Nước của nhân dân, chính nhân dân là người sáng tạo ra Đất Nước.
Tư tưởng đó đã dẫn đến một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Những núi Vọng Phu những hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên không còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa, mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, hoá thân của những con người không tên, không tuổi: “Những người vợ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ chồng yêu nhau nên hòn Trống Mái”. “Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình Bút non Nghiên”. Cả đến “Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”, ở đây, cảnh vật của thiên nhiên đất nước qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này, từ những hình ảnh, những cảnh vật, hình tượng cụ thể, nhà thơ đã “quy nạp” thành một khái quát sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha,
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy,
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.
Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ngợi ca các triều đại, cũng không nói tới những anh hùng đã được ghi lại trong sử sách mà chỉ tập trung nói tới những con người vô đanh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người bình dị, vô danh đó:
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ giữ gìn và truyền lại cho các thế mai sau những giá trị văn hoá, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước lại lúa, ngọn lửa, tiếng nói, lên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, những câu ca dao, tục ngữ. Mạch cảm xúc, suy nghĩ của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm bật lên tư tưởng cốt lõi của bài thơ vừa bất ngờ vừa giản dị và độc đáo:
Đất Nước này là Đất nước Nhân dân Đất Nước của Nhân dân,
Đất Nước của ca dao, thần thoại.
Đọc chương “Đất Nước”, có thể thấy rõ dấu ấn của vốn tri thức văn hoá nhà trường và sách vở, sự ảnh hưởng phong cách của một nhà thơ nào đó. Tuy nhiên, đó vẫn là chương tiêu biểu và tinh tuý nhất của trường ca Mặt đường khát vọng. Bài thơ vẫn tạo nên được những rung động âm vang trong lòng người đọc là nhờ tác giả từ những cảm xúc chân thành, từ sự trải nghiệm của bản mà nói lên những suy nghĩ chung của cả thế hệ mình về đất nước.
Cảm nhận Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm- Mẫu 8
Đề tài đất nước là một trong những đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam nói chung và trong các lĩnh vực khác nói riêng. Chúng ta đã bắt gặp hình ảnh đất nước rất nhiều không chỉ trong văn học, thơ ca mà cả trong những lời ca, câu hát của bà và mẹ. Hình ảnh đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất vẫn là qua bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao nhiêu sóng gió chiến tranh được tái diễn sinh động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khoáng của Nguyễn Khoa Điềm.
Tác giả nhìn đất nước từ nhiều khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử. Đất nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn của cảm xúc chính tác giả.
Bài thơ được mở đầu bằng những vần thơ nhẹ nhàng, tinh tế đưa người đọc trở về với những ngày đầu mới khai sinh:
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc.
Đất nước hiện lên qua những câu thơ thật bình dị, gần gũi, nó không phải là một khái niệm trừu tượng mà là một khái niệm hiện hữu hằng ngày trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Tác giả sử dụng từ “khi” để đánh dấu sự ra đời của khái niệm “đất nước”. Từ khi mỗi chúng ta sinh ra thì đất nước đã có rồi. Sau câu thơ ấy, tác giả bắt đầu lí giải nguồn gốc của đất nước mà mỗi người đều mong muốn hiểu thấu được. Giọng thơ dịu nhẹ, ngọt ngào dẫn dụ người đọc về với những “ngày xửa ngày xưa”. Đó như một nốt nhạc của quá khứ trở về trong những suy nghĩ của con người. Từ: “ngày xửa, ngày xưa” đánh dấu những điều gì đó xa xưa, rất xưa, không xác định thời gian cụ thể, chỉ biết rằng nó đã có từ lâu đời. Đất nước đồng thời hình thành từ khi dân mình biết đánh giặc. Là những con người đó làm nên đất nước…Đất nước còn gắn liền với cuộc sống bình dị, thân quen của người nông dân Việt Nam.
Tác giả không chỉ dừng lại ở đó, đất nước còn được lý giải chính là thành quả của công cuộc lao động để xây dựng và phát triển:
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng
Đất nước có từ ngày đó
Một một dụng cụ được tạo ra để phục vụ cho đời sống sản xuất cũng như sinh hoạt của con người như “kèo, cột” đều gắn bó với lịch sử ra đời của đất nước. Rất bình dị, rất chân thực nhưng nó như là một sự giải thích đúng đắn.
Nguyễn Khoa Điềm như dẫn người đọc đi vào những cung bậc tình cảm khác của đất nước, đó là chuyện tình yêu lứa đôi e ấp nhưng tha thiết và mặn nồng:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất nước không chỉ hiển hiện trong không gian văn hóa, phong tục tập quán của con người mà còn hiện lên trong những tình yêu lứa đôi mặn nồng, tha thiết nhất. Tác giả đã cắt nghĩa “đất nước” thành hai từ “đất” và “nước” để lí giải cụ thể ý nghĩa của từng từ. Đây có thể coi là sự tinh tế và đầy thi vị của Nguyễn Khoa Điềm. Nhưng dù được tách ra thì đất nước vẫn là một khái niệm trọn vẹn và đầy ý nghĩa nhất.
Đất nước còn được mở ra theo chiều dài của lịch sử và chiều dài của không gian văn hóa, của những con người vẫn còn trằn trọc tha thiết đi tìm hình bóng quê hương. Đất nước được hình thành từ những câu chuyện xa xưa, từ những điển tích điển cố mà người đời sau vẫn luôn nhắc nhở nhau. Hình ảnh “con chim phượng hoàng”, “núi Bà Đen, Bà Điểm”, “Lạc Long Quân Âu Cơ” chính là minh chứng cho sự phát triển nhiều thăng trầm nhưng đáng tự hào của chúng ta. Nhớ về cội nguồn, nhớ về những ngày xưa vất vả chính là đạo lí, truyền thống uống nước nhớ nguồn mãnh liệt của nhân dân ta. Đất nước trong ý niệm của Nguyễn Khoa Điềm còn là sự tiếp nối truyền thống:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Trong sự hình thành và phát triển, bề dày văn hóa lịch sử ngày càng được khẳng định. Những con người đã ngã xuống vì đất nước, những con người thế hệ mai sau cần phải cố gắng gìn giữ và phát huy được truyền thống tốt đẹp đó.
Nguyễn Khoa Điềm đã có cái nhìn đa chiều về đất nước từ khía cạnh đời thường, khía cạnh lịch sử, khía cạnh không gian và thời gian mang đến cho người đọc nhận thức đúng đắn nhất về đất nước mà chúng ta đang sống và cống hiến.
Hơn hết tác giả còn khẳng định:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Có thể nói đất nước đã đi vào và in hằn vào máu thịt của mỗi người, nhắc nhở trách nhiệm và nghĩa vụ của chúng ta về công cuộc xây dựng và bảo vệ sự vững mạnh của đất nước này.
Đất nước còn được Nguyễn Khoa Điềm tích lũy thành một khái niệm sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Một quan niệm sâu sắc, giàu giá trị nhân sinh quan khiến cho người đọc không thể phủ nhận sự tồn tại của đất nước là một thực tế.
Đất nước còn biểu tượng cho lòng thành kính, sự biết ơn đến những người đã ngã xuống vì hòa bình, tự do cho hôm nay:
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước
Lại thêm một sự lí giải đúng đắn cho định nghĩa “đất nước”, những con người đó họ dù chết nhưng trái tim họ vẫn còn sống mãi trong cuộc sống của những người ở lại.
Nhưng ở hai câu thơ cuối có thể nói Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra định nghĩa đúng đắn và sâu sắc nhất về đất nước:
Đất nước này là đất nước của nhân dân
Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại.
Thật vậy, nhân dân chính là chủ nhân của đất nước. Bởi vậy đất nước này phải thuộc về nhân dân. Tư tưởng của tác giả rất tiến bộ, rất đời thường và rất sâu sắc.
Như vậy Nguyễn Khoa Điềm bằng những lý lẽ và dẫn chứng đầy thuyết phục đã khẳng định được vị trí, vai trò vô cùng to lớn của đất nước trong cuộc sống của mỗi con người. Gấp lại những trang thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm chắc hẳn ai trong chúng ta cũng có những bồi hồi, xao xuyến nơi sâu thẳm đáy lòng bởi những vần thơ sâu lắng đi vào lòng người nghe và người đọc.
Cảm nhận Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm- Mẫu 9
Đất nước là một đề tài lớn thường gợi lên những cảm hứng mãnh liệt đối với thi nhân, nhất là vào thời điểm nền độc lập dân tộc đứng trước những thử thách lớn lao. Đoạn trích “Đất Nước” trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm cũng ra đời trong một hoàn cảnh tương tự như vậy. Đó là những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước sôi sục, cuộc sống của mỗi cá nhân luôn luôn gắn liền với vận mệnh của đất nước. Viết trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm muốn góp một tiếng nói nhằm thức tỉnh thế hệ trẻ ở vùng tạm chiếm miền Nam. Đoạn trích “Đất Nước” thuộc chương V của trường ca, đây cũng là phần hay nhất của bản trường ca này, có thể hiện sự nhận thức sâu sắc của một thế hệ thanh niên Việt Nam về đất nước. Chính nhận thức ấy đã trở thành một điểm tựa để mỗi người tự suy nghĩ về trách nhiệm của mình đối với đất nước.
Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ chính luận thể hiện cảm nhận “Đất Nước của Nhân dân”. Sở dĩ gọi là chính luận bởi trong bài thơ này nhà thơ muốn bàn luận về đất nước, về nhân dân. Đó là những khái niệm về đất nước vừa quen thuộc vừa mới mẻ nhưng tác giả không dừng lại ở chỗ lí giải đất nước là gì, nhân dân là gì mà ông còn muốn bày tỏ những tình cảm sâu nặng của mình đối với đất nước, đối với nhân dân. Sự kết hợp giữa hai phương diện này một cách nhất quán đã làm cho bài thơ vừa mang chất chữ tình, vừa mang chất chính luận. Toàn bộ đoạn trích được chia thành những khổ và những đoạn nhỏ để trả lời cho mỗi câu hỏi và giữa các câu hỏi ấy được liên kết với nhau khá chặt chẽ. Khởi đầu là những câu hỏi về thời gian, tác giả muốn đưa bạn đọc trở về quá khứ để tìm trong lịch sử cái thời điểm mà đất nước ra đời:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa, ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên…
Trong một đoạn thơ ngắn mà xuất hiện một loạt các trạng từ chỉ thời gian: “ngày xửa, ngày xưa”, “bây giờ”, “từ ngày đó”. Gắn liền với những trạng từ đó là những miếng trầu bà vẫn thường ăn hàng ngày, nghĩa là đất nước có từ rất lâu đời, từ thuở xa xưa trong văn hóa dân gian, trong phong tục tập quán, trong tình yêu của mỗi gia đình, trong từng hạt gạo. Sau mỗi câu hỏi xác định tình yêu và đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã tìm câu trả lời cho một câu hỏi quen thuộc hơn. Đất là gì? Đây không phải là câu hỏi mới mẻ và Nguyễn Khoa Điềm không phải là người đầu tiên đặt câu hỏi này. Người ta đã từng có những định nghĩa trong lịch sử, trong địa lí, trong dân tộc học. Trong văn học, từ lâu lắm rồi, người ra cũng đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: Đất nước là gì? Cái mới của Nguyễn Khoa Điềm chính là đi tìm một câu trả lời của riêng mình, của thế hệ mình. Ở đoạn thơ tiếp theo, nhà thơ liên tiếp đưa ra những nhận định của mình:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Đất nước thật giản dị và cũng thật độc đáo, thật trữ tình và có sức hấp dẫn, lôi cuốn bạn đọc một cách mạnh mẽ. Nhưng có lẽ bài thơ không chỉ viết cho tuổi trẻ, không chỉ cho những người yêu nhau mà viết cho tất cả mọi người. Định nghĩa Đất Nước được kéo dài nhưng lại kiến giải rất đơn giản, rất có lí và đầy thuyết phục. Đó là những kiến giải trên hai trục không gian và thời gian, “thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông”, giữa cái thời gian và không gian ấy hiện ra một đất nước với dáng vẻ hùng vĩ với hình ảnh “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc – con cá như ông móng nước biển khơi”. Đó là một không gian trữ tình hùng vĩ của đất nước. Ở đây tác giả trở về với truyền thuyết và dùng truyền thuyết để cắt nghĩa đất nước là gì.
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở.
Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra đồng bào trong bọc trăm trứng,
Đất nước tạo ra mọi người, tất cả mọi thế hệ, những người đang sống, những người đã khuất. Nhưng ở nơi nào thì mọi người dân ở đất nước này cũng cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. Đất nước vừa linh thiêng rộng lớn nhưng cũng vừa gần gũi thân thuộc. Đất nước có trong anh, trong em và trong tất cả mọi người, trong thế hệ đã khuất, trong thế hệ hôm nay và trong thế hệ mai sau. Bao giờ cũng có một đất nước vẹn tròn tình nghĩa. Vẫn là giọng chính luận khúc chiết mà lời thơ đằm thắm chứa chan bao tìm cảm:
Em ơi đất nước là máu xương của mình
….
Làm nên đất nước muôn đời…
Đọc những câu thơ này của Nguyễn Khoa Điềm, ta chợt nhớ đến một câu thơ của Chế Lan Viên, một người cũng rất hay đưa những khái quát trong thơ khi nghĩ về đất nước. Chế Lan Viên và Nguyễn Khoa Điềm thuộc hai thế hệ khác nhau nhưng dường như có một sự gặp gỡ nào đó khi nói về tình yêu lớn lao của mỗi người về đất nước. Nguyễn Khoa Điềm viết “Đất Nước là máu xương của mình”, vì thế mà phải “biết hóa thân cho dáng hình xứ sở” thì Chế Lan Viên viết:
Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Chính luận cần sự minh xác bởi những lí lẽ thuyết phục sẽ làm người ta tin, chất chữ tình để làm con người ra xúc động yêu thương. Sức hấp dẫn của thơ Nguyễn Khoa Điềm khi nói về đất nước chính là sự kết hợp hài hòa giữa chất chính luận và chất chữ tình từ những hình ảnh chi tiết cụ thể mà nâng dần lên tầm khái quát.
Ở phần thứ hai của bài thơ xuất hiện một loạt những hình ảnh, những chi tiết cụ thể khi nói về đất nước, một phát hiện độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm khi nhà thơ chỉ ra những yếu tố để góp thành đất nước. Ở đây có một loạt tên hùng vĩ, một đất nước bao la, một đất nước với truyền thống ngàn năm trong lịch sử không phải là một cái gì đó lớn lao, to tát mà là những thứ gần gũi, quen thuộc đối với mọi người. Công lao để góp nên đất nước không thuộc về riêng ai, không chỉ có anh hùng vĩ nhân mới có công làm nên đất nước mà cả những người con bình thường, những con người vô danh sống âm thầm lặng lẽ nhưng chính họ đã góp cho đất nước cuộc sống của mình. Đó là những người yêu nhau góp cho đất nước “núi Bút, non Nghiên” và cả những con vật bình thường như con gà, con cóc nhưng lại có đủ sức để góp cho đất nước một Hạ Long đẹp huyền thoại. Những cái tên gọi bình thường của những người dân Việt Nam như “ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm” làm nên những địa danh nổi tiếng của đất nước.
Từ những phát hiện rất mới mẻ và độc đáo này, tác giả đã đi đến một khái quát sâu sắc và xúc động:
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.
Tác giả không dừng lại ở đây coi như một sự kết thúc cho những cảm nhận và suy ngẫm về đất nước, cảm xúc và những suy ngẫm trải dài bởi dường như động tới bất kì cái gì cũng là nói về đất nước, từ những người con trai ra trận, con gái ở nhà nuôi cái cùng con. Trong số họ đã có những người trở thành anh hùng. Tuy nhiên, đất nước không chỉ được làm nên bởi bốn nghìn lớp người ‘họ đã sống và chết – giản dị và bình tâm – không ai nhớ mặt đặt tên nhưng họ đã làm nên Đất Nước”. Tác giả muốn bày tỏ niềm biết ơn sâu sắc đối với những con người vô danh, với những việc làm thầm lặng, giản dị và quen thuộc nhưng lại có ý nghĩa vô cùng lớn lao. Chính họ đã truyền lại cho ta hạt lúa ta trồng, đã cho ta ngọn lửa, cho con ta tiếng nói… Sau những suy ngẫm, nhà thơ đi đến kết luận: Đất nước này là đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại, đất nước của tất cả mọi người, trong đó có cả những anh hùng và cả những người vô danh. Họ không để lại một dòng tên trong lịch sử, không một tượng đài, một tấm bia lưu danh nhưng lại cho đất nước một cuộc đời bình dị và chính những sự bình dị ấy đã làm nên một đất nước lớn lao mạnh mẽ, làm nên một đất nước trường tồn với thời gian và hùng vĩ trong một không gian bao la, rộng lớn.
Đóng góp của Nguyễn Khoa Điềm khi nói về đất nước chính là ở chỗ nhà thơ đã huy động toàn bộ vốn hiểu biết phong phú của mình trong những năm còn ngồi trên ghế nhà trường ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa và những trải nghiệm của chính nhà thơ trong những ngày tham gia phong trào học sinh sinh viên chống Mĩ ngụy ở thành phố Huế và cả những năm tháng bị tù đày trong nhà tù của Mĩ ngụy. Bằng cảm xúc chân thành và suy nghĩ sâu sắc, nhà thơ muốn gửi tới bạn đọc những cảm nghĩ rất riêng của mình về đất nước, góp phần làm phong phú thêm hình tượng đất nước trong văn học nói chung và trong thơ ca nói riêng. Đất không phải là tiếng nói của riêng nhà thơ mà là cảm nhận của một thế hệ thanh niên trong thời kì chống Mĩ về đất nước. Đây cũng là một sự thể hiện, một nét độc đáo trong giọng điệu của Nguyễn Khoa Điềm, đó là sự kết hợp hài hòa và nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và chất chính luận.
Cảm nhận Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm- Mẫu 10
Đất nước là hình tượng trữ tình lớn, là cảm xúc nghệ thuật của nhiều thế hệ nhà thơ Việt Nam. Có một thực tế: mỗi lần đất nước đặt trước những thử thách thì hình tượng đất nước lại ngời sáng trong văn học với những phát hiện mới mẻ độc đáo. Trường ca Mặt đường khát vọng với trích đoạn “Đất Nước” là một minh chứng đẹp đẽ cho quy luật này. Trong trích đoạn nói trên, những cảm nhận về “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm đạt tới một tầm vóc triết học sâu sắc.
Trước tiên, đất nước hiện lên trong chiều dài của thời gian. Thời gian trong trích đoạn Đất Nước đầy ắp những hình tượng huyền thoại lấy từ trong truyền thuyết, phong tục dân gian. Nhờ sự xuất hiện của hình tượng thời gian này đất nước hiện lên trong chiều sâu thẳm của thời gian nguồn cội, đầy thiêng liêng thành kính.
Bên cạnh “thời gian đằng đẵng” là “không gian mênh mông”. Có không gian gắn với sự sinh tồn của cả cộng đồng: “Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ”. Có không gian gắn bó với cuộc đời riêng tư của mỗi cá nhân; “Đất là nơi anh đến trường – Nước là nơi em tắm”… Sự song hành của các không gian như thế gợi lên hình tượng đất nước như là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, cộng đồng và cá nhân. Đất Nước thiêng liêng mà cũng thật gần gũi gắn bó.
Đất nước còn hiện lên trong bề sâu văn hóa – phong tục, lối sống, mang đậm bản sắc Việt Nam. Chiều sâu văn hóa luôn ẩn hiện trong toàn bộ trích đoạn. Từ một nét phong tục: “Tóc mẹ thì bới sau đầu” cho đến nghi thức thiêng liêng của ngày giỗ Tổ. Tuy nhiên, chiều sâu văn hóa hiện lên thấm thía và đẹp đẽ nhất với những phát hiện và ngợi ca về vẻ đẹp tâm hồn, tính cách Việt Nam: yêu đắm say mà chung thủy; trọng nghĩa tình nhưng vì thế mà quyết liệt, không khoan nhượng trước kẻ thù.
Tư duy triết học hướng tới khám phá, nhận thức cái thống nhất. Tầm vóc triết học trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm là ở chỗ: từ ba bình diện không gian – thời gian – văn hóa, nhà thơ đã tìm ra hạt nhân gắn kết làm nên tính chính thể của hình tượng đất nước. Cái hạt nhân gắn kết này, không gì khác, đó chính là quan niệm: đất nước của nhân dân.
Tư tưởng đất nước của nhân dân là cơ sở đem lại những khám phá mới mẻ, độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm về hình tượng đất nước. Từ quan niệm đất nước của nhân dân. Lịch sử của đất nước không còn là lịch sử của các triều đại, các anh hùng mà là lịch sử của hàng nghìn lớp người “không ai nhớ mặt đặt tên – Nhưng họ đã làm ra đất nước”. Không gian đất nước cũng được tạo hình từ những “ao ước”, “lối sống” của ông cha từ bao đời nay. Cũng chính nhân dân là người đã sáng lập, giữ gìn dòng chảy văn hóa của đất nước: “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng – Họ truyền lửa.. – Họ truyền giọng điệu… Họ gánh theo tên xã, tên làng…”. Một mật độ lớn các động từ được xếp cạnh nhau làm nổi lên hình tượng thật tầm vóc và kì vĩ của nhân dân – những người “làm ra Đất Nước”.
Tư tưởng đất nước của nhân dân đã có một quá trình phát triển lâu dài trong lịch sử văn học dân tộc (Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu…). Trong văn học cách mạng, tư tưởng đất nước của nhân dân cũng đã được nhiều nhà thơ đề cập đến (Bài thơ Hắc Hải, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Tre Việt Nam của Nguyễn Duy). Tuy nhiên, để tư tưởng này trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên thấm vào mọi biểu hiện nhỏ bé tinh tế nhất của hình tượng đất nước thì đó là một đóng góp đặc sắc của Nguyễn Khoa Điềm. Nó cho thấy sự kế thừa và kết tinh ở một trình độ mới của tư tưởng đất nước của nhân dân trong văn học.
Đoạn thơ mở đầu trích đoạn là một minh chứng sống động cho những đặc sắc trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Hiện lên qua đoạn thơ là hình tượng đất nước mênh mang trong thời gian. Nét đặc sắc là ở chỗ chiều sâu thời gian ấy được gợi lên trước tiên từ những “ngày xửa ngày xưa” trong lời kể của mẹ. Đây không phải là thời gian lịch sử chính xác với những niên đại cụ thể. Nó là thứ thời gian mơ hồ, ảo diệu trong trí tưởng tượng của trẻ thơ. Nó không định vị chính xác nhưng giúp ta cảm nhận thật sâu sắc, thấm thía về sự trường tồn của đất nước.
Gương mặt của đất nước được hình dung từ những gì gần gũi bình dị trong cuộc sống thường ngày. Có cái gì thật chi li, tường tận trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Từ một cách búi tóc, một câu ca dao đến những sự vật bình dị: cái kèo, cái cột. Ngay cả đối với những vật tưởng rất mực bé nhỏ như “hạt gạo” thì tác giả vẫn có sự cảm nhận thật sâu sắc từ những thời điểm cụ thể: “một nắng hai sương” – “xay” – “giã” – “giần” – “sàng”. Với cách cảm nhận này, đất nước trở thành bầu khí quyển bao bọc lấy cuộc sống của mỗi con người. Ở đâu, trong bất kì biểu hiện nhỏ bé nào cũng mang hình đất nước. Đất nước được kéo gần lại thân quen, gắn bó máu thịt với con người.
Góp phần quan trọng tạo nên vẻ đẹp của hình tượng đất nước trong đoạn thơ là một ngôn ngữ thấm đẫm chất liệu và hương sắc của văn hóa dân gian. Ngôn ngữ không bao giờ chỉ là ngôn ngữ. Đằng sau ngôn ngữ là một quan niệm. Ngôn ngữ mang đậm màu sắc văn hóa dân gian, ở đây là sự thấm nhuần quan niệm đất nước của nhân dân. Nói cách khác, quan điểm đất nước của nhân dân không chỉ là suy tưởng bên trong mà còn được hiện thực hóa bằng chính hình thức và ngôn ngữ thơ.
Giọng điệu thơ trầm lắng, chất chứa suy tư. Vừa như bộc bạch giải bày vừa như tự nói với chính mình. Một giọng điệu như thế khiến hình tượng đất nước hiện lên vừa trang nghiêm thành kính, vừa gần gũi thân thiết.
Cảm nhận Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm- Mẫu 11
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ trẻ thơ năm chống Mĩ cứu nước. Thơ Nguyễn Khoa Điêm lôi cuốn người đọc bởi xúc cảm lắng đọng, giàu chất suy tư. Bài thơ Đất Nước là một đoạn trích tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo ấy. Bài thơ “Đất Nước” là phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng” – tác phẩm được ra đời vào năm 1971, giữa lúc của kháng chiến chống Mĩ diễn ra khốc liệt.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
……
Đất nước có từ ngày đó”
9 câu thơ đầu tiên của đoạn trích, là sự lí giải và cảm nhận Đất Nước ở phương diện lịch sử, văn hoá. Đất nước có từ rất xa xưa, thật dung dị, đời thường. Đất Nước hiện lên qua câu chuyện cổ tích mẹ kể- có từ rất xưa rồi, gắn liền với miếng trầu bà ăn- gắn với thuần phong mĩ tục. Đất nước gắn với những dãy tre làng- gắn với truyền thống yêu nước. Đất Nước gắn với “bới” tóc của mẹ- thói quen hàng ngày của những người phụ nữ Việt Nam ngày xưa, gắn với gừng cay, muối mặn- những gia vị hàng ngày rất quen thuộc nhưng cũng là lối sống tình nghĩa thủy chung của con người. Đất Nước hiện hình trong những sự vật gần gũi: cái kèo, cái cột. Đất nước gắn với truyền thống lao động cần cù: hạt gạo một nắng hai sương.
Như vậy, trong những cảm nhận ban đầu của Nguyễn Khoa Điềm, lịch sử lâu đời của đất nước không được cắt nghĩa bằng sự nối tiếp của các triều đại hay các mốc son lịch sử chói lọi mà được nhìn từ trong chiều sâu văn hóa và văn học dân gian. Đây cũng chính là điểm mới trong cách tìm về nguồn cội của đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Sự độc đáo trong nghệ thuật thể hiện: Một đoạn thơ ngắn nhưng gợi dậy biết bao nét văn hóa và văn học dân gian quen thuộc. Đoạn thơ là một định nghĩa theo cách riêng của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước: Không siêu hình trừu tượng mà gắn bó thân thuộc với mỗi người, Đất Nước của nhân dân. Lời thơ giàu chất liêu văn hoá dân gian, tạo một không gian nghệ thuật vừa gần gũi thân quen, vừa bay bổng, sâu xa.
“Đất nước là nơi anh đến trường
………………………………………….
Đất nước vẹn tròn, to lớn”
Đất nước là nơi rất gần gũi với cuộc sống mỗi người ( nơi anh đến trường… nơi em tắm). Đất Nước tồn tại ngay cả trong những không gian riêng tư của tình yêu đôi lứa : Đất Nước còn là không gian sinh tồn hết sức đời thường của nhân dân qua bao thế hệ “Những ai đã khuất. Những ai bây giờ. Yêu nhau và sinh con đẻ cái. Gánh vác phần người đi trước để lại…”).
Đất Nước được cảm nhận suốt chiều dài thời gian lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Đó là một Đất Nước thiêng liêng, hào hùng trong quá khứ (gắn liền với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết về các vua Hùng dựng nước). Đó là một Đất nước giản dị, gần gũi trong hiện tại (“Trong anh và em hôm nay. Đều có một phần Đất Nước”) . Và một Đất Nước triển vọng sáng tươi trong tương lai (“Mai này con ta lớn lên. Con sẽ mang Đất Nước đi xa. Đến những tháng ngày mơ mộng”).
Từ cách cảm nhận và lí giải Đất Nước như thế nhà thơ suy nghĩ về trách nhiệm của mọi người: Đất nước kết tinh, hoá thân trong cuộc sống của mỗi con người, vì thế mọi người phải có tinh thần cống hiến, có trách nhiệm đối với sự trường tồn của quê hương, xứ sở. Cần biết gắn bó biết san sẻ : sự sống của mỗi con người không chỉ là của riêng cá nhân mà còn thuộc về Đất nước.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
…………………………………………………………….
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
Nhà thơ đã nhìn ngắm Đất Nước mình qua các danh thắng trải dài từ Bắc chí Nam. Tất cả các địa danh được nhắc đến đều gắn liền với một huyền thoại, huyền tích và sự thật về nhân dân trong lịch sử. Nói cách khác, chính những huyền thoại, huyền tích và sự thật lịch sử về nhân dân đã làm nên tên tuổi của các địa danh ấy, biến chúng thành danh thắng, thành di tích lịch sử văn hóa được mọi người thừa nhận và biết đến: Những người vợ nhớ chồng – núi Vọng Phu, cặp vợ chồng yêu nhau – hòn Trống Mái, người học trò nghèo – núi Bút, non Nghiên, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…
Trong con mắt của nhà thơ, mỗi danh thắng không chỉ là một nét vẽ tô điểm vào bức “tranh họa đồ” Đất Nước mà còn ẩn chứa những nét đẹp tâm hồn của nhân dân trong mấy nghìn năm lịch sử : sự thủy chung; tình nghĩa vợ chồng; tinh thần yêu nước; ý thức hướng về tổ tông, nguồn cội; tinh thần hiếu học, ý chí vượt khó vươn lên; tinh thần xả thân vì cộng đồng, dân tộc…
Khi nhìn vào “bốn nghìn năm Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh đến “lớp lớp” những con người “giản dị và bình tâm. Không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. Không ai khác mà chính họ đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau mọi giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của Đất Nước: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, bản sắc văn hóa các vùng miền… Cũng chính họ “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm. Có nội thù thì vùng lên đánh bại” tạo dựng chủ quyền, đắp nền xây móng cho ngôi nhà Đất Nước để các thế hệ mai sau kế thừa và tiếp tục dựng xây, phát triển.
Khi khẳng định “Đất Nước của Nhân dân”, tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao. Ca dao chính là diện mạo tinh thần, là nơi lưu giữ đời sống tâm hồn tình cảm của nhân dân qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn ra từ kho tàng thơ ca dân gian ba nét đẹp tiêu biểu nhất của tâm hồn Việt, của bản sắc văn hóa Đất Nước: thật say đắm trong tình yêu, quý trọng tình nghĩa và kiên trì, bền bỉ trong đấu tranh cho đến ngày toàn thắng.
Bằng sự vận dụng đầy sáng tạo hình thức thơ trữ tình – chính trị, đoạn trích Đất Nước đã quy tụ mọi cảm nhận, mọi cái nhìn và vốn liếng sách vở cũng như những trải nghiệm cá nhân của người nghệ sĩ để làm nên một tuyên ngôn về tư tưởng, về nhận thức của cả một thế hệ nghệ sĩ, ấy là tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”.
“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
…………………………….
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Các hình ảnh gắn với chuỗi động từ này: hạt lúa, lửa, giọng nói, tên xã, tên làng, đập, bờ… một mặt tiếp tục thể hiện sự khám phá mới mẻ, độc đáo của nhà thơ về Đất Nước trong bề rộng không gian địa lí và tầng sâu của những truyền thống văn hoá, tạo nên sự thống nhất trong cách thể hiện Đất Nước ở toàn bộ chương V; mặt khác còn khẳng định nhân dân chính là lực lượng đông đảo vừa kiến tạo bảo tồn. lưu giữ truyền thống giàu tình nghĩa, giàu tình yêu thương, cần cù lao động – đó là những giá trị văn hoá tinh thần cao quý của Đất Nước.
Trong cuộc đấu tranh giữ nước cũng chính là nhân dân chứ không ai khác viết lên trang sử bi tráng.Nhân dân, những con người “có ngoại xâm thì chống ngoại xâm/ có nội thù thì vùng lên đánh bại” khẳng định đầy tự hào và sức mạnh lớn lao của nhân dân chống thù trong, giặc ngoài. Chính nhân dân đã hun đúc nên truyền thống kiên cường, bất khuất.
Để chuyền tải tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại, người viết đã tìm đến nguồn chất liệu dồi dào và vô cùng thích hợp: nguồn chất liệu văn hóa, văn học dân gian.
Đoạn thơ có sự đan dệt của những ca dao, tục ngữ, hang loạt truyện cổ và vô vàn những tập quán, phong tục một cách sang tạo. Người viết có khi chỉ trích nguyên văn một câu ca dao: yêu em từ thủơ trong nôi, song phần lớn chỉ sử dụng ý, hình ảnh ca dao: Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội; biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù mà không sợ dài “
Có thể nói, “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là một khúc ca – sự nhận thức về nguồn gốc sâu xa của nhà thơ về đất nước về trí tuệ, tâm hồn và ý chí của nhân dân.Để từ đó, nhà thơ khẳng định: Nhân dân chính là người – là chủ thể .làm nên đất nước.
Bằng giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết, trang trọng; ý thơ giàu chất chính luận, ngôn ngữ thơ mộc mạc, cách sử dụng sáng tạo chất liệu văn hóa, văn học dân gian… từ những suy tư cảm xúc của nhà thơ, đọan thơ đã khắc sâu cho chúng ta những nhận thức sâu sắc và mới mẻ về đất nước nhân dân. Từ đó, đọan thơ bồi dưỡng thêm tình yêu Tổ quốc và niềm tự hào về con người Việt Nam cho mỗi người, đặc biệt là thế hệ trẻ trong thời đại hôm nay.
Cảm nhận Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm- Mẫu 12
Hai tiếng “Đất nước” thật thiêng liêng biết bao nhiêu trong trái tim của những người dân. Đề tài đất nước dường như cũng lại trở thành một đề tài hay, sâu sắc và rất nhiều nhà văn, nhà thơ đã đến khai thác, mỗi người lại tìm thấy hình hài đất nước trong vẻ đẹp khác nhau. Góp cho mình tình yêu đất nước thì Nguyễn Khoa Điềm đã sáng tác, khám phá Đất Nước thông qua chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng mang tên “Đất nước”. Qua đây tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã định nghĩa, cảm nhận đồng thời ngợi ca vẻ đẹp nhiều mặt của đất nước. Đồng thời ông cũng đã trình bày ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh dân tộc giữa cơn thử thách lớn của lịch sử.
Có thể nhận thấy được rằng chính hình tượng đất nước, trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm dường như cũng đã lại gắn với những nhân vật. Chúng ta có thể cảm nhận được một hình ảnh hết sức cụ thể với những sinh hoạt rất đỗi thường ngày của mỗi chúng ta. Thực sự chính tình yêu lớn lao nhưng không hề xa xôi, cũng không hề trừu tượng mà được khơi gợi từ những sự vật, gợi ra từ sinh hoạt gần gũi và cả những sinh hoạt của đất nước tự ngàn xưa nữa. Hình ảnh đất nước có trong những câu chuyện cổ tích hay có hậu mà mẹ thường hay kể cho ta từ tuổi bé thơ. Đất nước với Nguyễn Khoa Điềm còn có trong miếng trầu bây giờ bà ăn, trong lũy tre làng bao đời thành lũy, thành chông cho dân mình đánh giặc bảo vệ quê hương. Không chỉ vậy thôi đâu, hình ảnh đất nước gắn cùng tục búi tóc sau đầu, có trong câu ca dao gừng cay muối mặn, gắn cùng cái kèo, cái cột, hạt gạo một nắng hai sương với biết bao khó nhọc. Chính cách cảm nhận đất nước từ những cái bình thường quanh ta đã dẫn cho thi nhân Nguyễn Khoa Điềm đến biện pháp nghệ thuật chiết tự. Sử dụng từ ghép đất nước được tách thành đôi đế’ nhà thơ định nghĩa thật cụ thể từng thành tố một tạo lên tổng thể của Đất Nước.
Đất và Nước:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khai
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Có thể nhận thấy được chính với dòng suy tưởng đưa Nguyễn Khoa Điềm trở về quá khứ, khi trở về với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ dường như cũng đã lại khẳng định cội nguồn thống nhất của con người Việt. Hình ảnh đất nước trường tồn trong thời gian đằng đẵng, trường tồn trong không gian mênh mông. Có thể nhận thấy được đây cũng chính là những hình ảnh, những sự vật trên rất đỗi bình thường ta hay gặp thường ngay. Nhưng đâu phải tầm thường; trong đó ẩn chứa sâu xa chiều dài lịch sử và ẩn chứa trong cả truyền thông văn hóa với bao phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc. Tất cả điều này đã gợi lên truyền thống lịch sử – văn hóa vững bền, một không gian địa lí mênh mông của đất nước từ những điều giản dị, thường ngày, đó là thành công đặc biệt của Nguyễn Khoa Điềm. Đoạn trích còn thể hiện được lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, đoạn trích đất Nước của Nhân dân đã trở thành tư tưởng nổi bật, cũng lại còn xuyên suốt đoạn trích Đất Nước. Nguyễn Khoa Điềm như đã giới thiệu một cách gần gũi, bình dị nhất về hình ảnh của đất nước.
Chúng ta có thể thấy được chưa bao giờ như trong thời đại dân tộc Việt Nam ta đánh Mĩ, đồng thời ta cũng cảm nhận thấy được với vai trò to lớn, sức mạnh vô địch của nhân dân được thể hiện đầy đủ đến thế. Thêm với đó ta nhận thấy được một cuộc đối chọi quyết liệt với một kẻ thù giàu có và vô cùng hung bạo vào bậc nhất đòi hỏi chúng ta phải huy động triệt để sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân. Tất cả điều này cũng đã dẫn đến được hình ảnh Đất Nước của Nhân dân đã trở thành tư tưởng chung của thời đại. Tư tưởng này có tác dụng chi phối toàn bộ nền văn học cách mạng và đồng thời cũng đã lại làm nên rất nhiều tác phẩm có giá trị. Đặc biệt hơn khi tác giả gợi nhắc đến bốn nghìn năm lịch sử của đất nước, nhà thơ tuyệt nhiên không điểm lại các triều đại, những anh hùng nổi tiếng mà ông lại luôn tự hào nhắc đếnvô vàn những lớp người vô danh, bình dị nhưng họ lại làm ra đất nước:
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trờ về nuôi cái cùng con
Với nhân dân họ luôn chăm chỉ cần cù làm lụng và ra trận đánh giặc, chuyện sống và chết đều thật giản dị, thật bình tâm vì lẽ tồn vong của đất nước. Thế rồi khi đất nước thanh bình, những người dân họ lại chăm chỉ cui cút làm ăn,toan lo nghèo khó. Rồi khi đất nước gặp nạn ngoại xâm, thêm một lần nữa họ đứng dậy cầm vũ khí, sẵn sàng xả thân vì độc lập, bảo vệ chủ quyền như lẽ tự nhiên. Nguyễn Khoa Điềm đã nói chính những con người không ai nhớ mặt đặt tên ấy đã làm ra Đất Nước. Ở trong trường kì lịch sử thì chính nhân dân là lực lượng chủ yếu sáng tạo đồng thời cũng lại luôn giữ gìn truyền lại mọi tài sản vật chất, mọi giá trị tinh thần để làm nên Đất nước muôn đời thông qua đoạn thơ:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân.
Có biết bao nhiêu lớp người vô danh, thầm lặng ấy đã hóa thân cho đất nước vững bền. Tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận sự hóa thân của nhân dân dường như đã lại hiển hiện trên gương mặt địa lí của đất nước. Chúng ta biết có không ít tác phẩm thơ văn dường như đã nhắc tới những danh lam thắng cảnh, nhắc đến những sự tích núi sông của đất nước Việt Nam trong suốt bốn ngàn năm văn hiến. Thế nhưng nhìn nhận và gắn chúng cùng số phận, gắn với các địa danh đó là những phẩm chất của những người dân bình dị nhất ở trong đó. Thực sự đó chính là sự hi sinh cao đẹp của quần chúng nhân dân thì chỉ có Nguyễn Khoa Điềm mà thôi.
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
Nguyễn Khoa Điềm như muốn làm sáng tỏ tư tưởng Đất Nước của Nhân dân từ nhiều phía, rõ ràng ở nhiều chiều như thế, đoạn trích đã đem đến cho người đọc niềm tin tưởng vào chính sự trường tồn của đất nước Việt Nam ta. Hình ảnh Đất Nước là của Nhân dân, mà đáng nói Nhân dân thì mênh mông, vĩ đại và luôn luônbất tử. Theo một lẽ tự nhiên thì đất nước này mãi mãi trường tồn cùng với Nhân dân.
Không chỉ thể mà Nguyễn Khoa Điềm còn thể hiện hình ảnh Đất Nước của Nhân dân, chính Đất Nước của ca dao thần thoại từ góc độ thế hệ trẻ trong thời đại dân tộc anh hùng đã đứng dậy để kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Tác giả Nguyễn Khoa Điềm dường như đã gợi nhắc trách nhiệm đối với vận mệnh đất nước. Ta nhận thấy được phải chăng đây chính là mục đích của đoạn thơ đặc sắc – Đất Nước này khi được đặt trong những năm tháng chiến tranh thật quyết liệt và hào hùng. Tất cả ý thức cũng như trách nhiệm này cũng đã được tác giả Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận và dẫn dắt vô cùng tự nhiên. Mới đầu tiên thì hình ảnh đất nước thân thiết ở ngoài ta ở xung quanh ta. Thế nhưng càng về sau thì hình ảnh đất nước lại ở trong ta và có trong mỗi người yêu nước:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cẩm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Thông qua đoạn thơ trên Nguyễn Khoa Điềm như đã bày tỏ mỗi con người hôm nay đều đang thừa hưởng biết bao nhiêu di sản vật chất và tinh thần quý báu của đất nước, của nhân dân và lại còn của bao thế hệ đi trước. Có lẽ chính vì thế phải biết cống hiến đời mình vì những lẽ tồn vong của đất nước. Thêm với đó ta nhận thấy được chính các ý thức trách nhiệm được nhà thơ trình bày thật thiết tha và đằm thắm và đó cũng chính là những mệnh lệnh được cất lên từ chính trái tim vô cùng xúc động.
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…
Nguyễn Khoa Điềm như đã tiếp thu nguồn mạch cảm hứng yêu nước chưa bao giờ vơi cạn trong lịch sử văn học Việt Nam. Khi ở trong bối cảnh của thời đại dân tộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, người đọc nhận thấy được đoạn trích Đất Nước trong trường ca “Mặt đường khát vọng” dường như đã thể hiện những nhận thức, khám phá mới mẻ về vẻ đẹp đất nước, quê hương. Nguyễn Khoa Điềm luôn luôn tìm tòi và suy ngẫm tới mọi phương diện vô cùng sâu sắc từ lịch sử, địa lí, phong tục… tất cả như đã để làm nổi bật tư tưởng Đất Nước của Nhân dân. Đồng thời như lại còn gợi nhắc ý thức trách nhiệm trước vận mệnh đất nước. Thế nhưng hơn tất cả tất cả sự hấp dẫn của đoạn trích “Đất nước” này không chỉ ở nội dung cảm nhận mà còn chính là ở cách thể hiện của tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã gửi gắm vào đó.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Nếu để ý ta sẽ nhận thấy được cũng ngay từ phần mở đầu, hình ảnh Đất Nước dẫn ta vào câu chuyện tâm tình thiết tha, thật sâu lắng. Ta có thể thấy được toàn bộ chương này được thể hiện bằng hình thức giữa hai người đó là “anh” đang trò chuyện cùng với “em”. Có thể nhận thấy được cũng chính với hình thức này, giọng điệu thơ tất phải ngọt ngào, giọng thơ như thủ thỉ. Tác giả Nguyễn Khoa Điềm nói về lịch sử mà như tâm sự về biết bao nhiêu những kỉ niệm tuổi thơ. Tác giả như đã khéo léo nhắc lại biết bao nhiêu hồi ức thật cảm động về những người thân trong gia đình đó là hình ảnh người mẹ, người bà. Rồi đất nước còn được nhìn qua trên phương diện của bề dày lịch sử, văn hóa,…
Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã tiếp nối mạch cảm xúc trong thơ ca yêu nước dân tộc. Bài thơ đã mang nội dung cảm nhận cùng cách thể hiện thật độc đáo cho thấy được tư tưởng mới của Nguyễn Khoa Điềm đó là tư tưởng Đất nước của nhân dân.
Cảm nhận Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm- Mẫu 13
Đất Nước là hình tượng trữ tình lớn và cảm xúc nghệ thuật của bao thế hệ nhà thơ Việt Nam. Có một thực tế: Mỗi khi đất nước đứng trước những thử thách đó, hình ảnh đất nước lại bừng sáng trong văn học với những khám phá mới, độc đáo. Bài thơ Mặt đường khát vọng với đoạn trích Đất nước là một minh chứng đẹp đẽ cho quy luật này. Trong đoạn trích trên, cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã vươn tới một tầm nhìn khí tượng sâu sắc.
Đầu tiên, nước xuất hiện trong thời gian dài. Thời gian trong đoạn trích “Đất nước” được bố cục đầy đủ với những hình ảnh huyền thoại lấy từ truyền thuyết và phong tục dân gian. Nhờ sự xuất hiện của hình ảnh đất nước lần này hiện lên trong chiều sâu cội nguồn thời gian, đầy tôn kính thiêng liêng.
Bên cạnh “thời gian đăng nhập sau” là “mông rộng không gian”. Có không gian gắn liền với sự tồn tại của cả cộng đồng: “Đất nước là nơi đoàn kết của dân ta”. Cuộc sống riêng tư của mỗi người không gắn kết với nhau; “Đất là nơi em đi học – Nước là nơi em tắm”… Tính song hành của các không gian gợi lên hình ảnh đất nước là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, giữa cộng đồng và cá nhân. Tổ quốc thiêng liêng nhưng cũng rất gần gũi.
Đất nước còn hiện lên trong chiều sâu văn hóa – phong tục, phiêu bạt, đậm đà bản sắc Việt Nam. Chiều sâu văn hóa luôn ẩn chứa trong toàn bộ đoạn trích. Từ một phong tục: “Tóc mẹ búi sau đầu” đến nghi lễ thiêng liêng trong ngày giỗ Tổ. Tuy nhiên, chiều sâu văn hóa hiện lên tinh tế và đẹp đẽ nhất với những khám phá, ca khúc về vẻ đẹp tâm hồn, tính cách Việt Nam: yêu say đắm mà thủy chung; Trân trọng nghĩa tình nhưng vì lẽ đó mà quyết chiến thắng, không dung thứ kẻ thù.
Tư duy triết học nhằm khám phá và nhận thức hệ thống thống nhất. Điều kinh dị trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm là ở chỗ: từ ba bình diện không gian – thời gian – văn hóa, nhà thơ đã tìm ra hạt nhân thống nhất chính thể của hình tượng đất nước. Cốt lõi gắn kết này, không gì khác, chính là quan niệm: Đất nước của nhân dân.
Tư tưởng đất nước nhân dân là cơ sở để Nguyễn Khoa Điềm có những khám phá mới mẻ, độc đáo về hình tượng đất nước. Từ quan niệm đất nước của nhân dân. Lịch sử của đất nước không còn là lịch sử của các triều đại anh hùng, mà là lịch sử của những con người “không ai nhớ tên – Nhưng họ đã lập nên đất nước”. Không gian đất nước cũng được định hình từ những “ước nguyện”, “nếp sống” của ông cha bao đời nay. Đó cũng là những người đã sáng lập và giữ kín dòng chảy văn hóa của đất nước: “Họ giữ và truyền lại cho chúng tôi cây lúa mà chúng tôi trồng. – Họ truyền lửa.. – Họ truyền giọng nói… – Họ mang tên. tên xã, thôn…”. hình ảnh nhìn xa trông rộng, hào hùng của những con người – những con người đã “khai quốc”.
Tư tưởng dân tộc thương dân đã có một quá trình phát triển lâu dài trong lịch sử văn học dân tộc (Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu…). Trong văn học cách mạng, tư tưởng nhân dân về đất nước cũng đã được nhiều nhà thơ đề cập đến (Bài thơ Hạc Hải, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Tuổi trẻ Việt Nam của Nguyễn Duy). Tuy nhiên, để tư tưởng này trở thành cảm hứng chủ đạo, thấm sâu vào mọi biểu hiện tinh tế nhất của hình ảnh đất nước, đó là một đóng góp độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm. Nó thể hiện sự kế thừa và kết tinh ở một trình độ mới tư tưởng dân tộc nhân dân trong văn học.
Câu thơ mở đầu của đoạn trích là một minh họa sinh động cho những nét đặc sắc trong tình cảm của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước.
Thể hiện qua bài thơ là hình ảnh đất nước hoang mang với thời gian. Nét đặc sắc là chiều sâu thời gian được gợi lên trước hết từ “ngày xửa ngày xưa” trong câu chuyện về người mẹ. Đây không phải là một giai đoạn lịch sử chính xác với những năm cụ thể. Đó là giấc mơ thứ hai, kỳ diệu trong trí tưởng tượng của một đứa trẻ. Nó không xác định chính xác vị trí, nhưng giúp ta cảm nhận được sự thật sâu sắc, gợi nhớ về sự tồn tại của đất nước.
Bộ mặt đất nước được hình dung từ sự gần gũi bình dị giữa đời thường. Có một cái gì đó rất chi tiết và thú vị trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Từ một mái tóc, một câu ca dao đến những vật dụng đơn giản: cái kèo, cái sào. Ngay cả đối với những vật tưởng tượng rất nhỏ bé như “hạt gạo” tác giả vẫn có sự cảm nhận sâu sắc từ những thời điểm cụ thể: “một nắng, hai sương” – “xây dựng” – “về hưu” – “gần gũi” – “sẵn sàng”. Với cách cảm nhận này, đất nước trở thành không khí bao trùm cuộc sống của mọi người. Đâu đâu, trong từng biểu cảm nhỏ nào cũng có hình ảnh đất nước. Đất nước như được kéo lại gần hơn cho thân thuộc, gắn bó mật thiết với con người.
Góp phần quan trọng tạo nên vẻ đẹp của hình ảnh đất nước trong bài thơ là ngôn ngữ, hương vị văn học dân gian. Ngôn ngữ không bao giờ chỉ là ngôn ngữ. Đằng sau ngôn ngữ là một khái niệm. Ngôn ngữ thấm đẫm màu sắc văn hóa dân gian, ở đây thấm đẫm quan niệm về đất nước của nhân dân. Nói cách khác, quan điểm về đất nước của nhân dân không chỉ là tư tưởng bên trong mà còn được hiện thực hóa trong thể thơ và ngôn ngữ.
Giọng thơ trầm lắng, chất chứa nhiều suy tư. Nó giống như bộc bạch giải bày và nói chuyện với chính mình. Nhịp điệu ấy làm cho hình ảnh đất nước hiện lên vừa trang trọng, thành kính, vừa gần gũi, thân thiết.
Cảm nhận Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm- Mẫu 14
Chương Đất nước trích trong sử thi “Mặt đường khát vọng” là cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về vai trò và những hy sinh to lớn của nhân dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước lâu dài của dân tộc. Cũng như những nhà thơ trẻ tiêu biểu của thời chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm thể hiện những suy tư về nhân dân qua những trải nghiệm của bản thân. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân, xứ sở của những câu ca dao thần thoại” là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình thức của chương V của sử thi này.
Những ý chính nêu trên được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện bằng hình thức trữ tình – chính luận. Lý do may mắn mà tác giả đưa ra thuyết phục người đọc rất đơn giản: Không phải ai khác mà chính nhân dân – những con người vô danh – đã tạo dựng và bảo vệ, giữ đất, xây dựng nên những truyền thống văn hiến. văn hóa, lịch sử của hàng nghìn dân tộc. Lập luận của nhà thơ không nói theo lối tượng trưng khô khan mà bằng những hình ảnh giàu sức gợi trong giọng điệu thiết tha. Thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm và nghĩ, giữa trữ tình và chính luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn đánh thức ý thức, tinh thần dân tộc, sự gắn bó với nhân dân với đất nước của thế hệ trẻ trong những năm chống Mỹ cứu nước.
Hình thức trò chuyện tâm tình với người con gái đang yêu, kết cấu chương V của sử thi có vẻ phóng khoáng, tự do nhưng từ chiều sâu cảm hứng của mỗi phần vẫn bám sát tư tưởng chủ đạo một cách rất vững vàng. cốt lõi cốt lõi: Đất nước của nhân dân. Hình dung của nhà thơ cụ thể, sinh động và phát triển về các bình diện: về chiều dài thời gian (thời gian sau kí hiệu) và bề dày của truyền thống văn hóa, phong tục tập quán, tâm hồn và tính cách dân tộc. Ba mặt đó gắn bó chặt chẽ, đan xen và thống nhất với nhau trong một “hệ quy chiếu”. Đất nước của những con người là linh hồn của cả bài thơ.
Toàn bộ chương V của sử thi Mặt đường khát vọng được bao trùm bởi không khí văn học dân gian. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi, linh hoạt các chất liệu văn học dân gian, từ ca dao, tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong tục tập quán đến nếp sinh hoạt trong đời sống của trẻ thơ. mọi người. Những chất liệu ông đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, thân thuộc, vừa sâu sắc, huyền diệu, đủ sức khơi gợi hồn thiêng Tổ quốc. Đó không đơn thuần là một thủ thuật công nghệ, cũng không nhất thiết là sự tiếp thu văn hóa dân gian một cách sáng tạo. Có thể nói, tư tưởng Đất nước nhân dân là tư tưởng chủ đạo của bài thơ – thấm nhuần từ quan niệm đến cảm xúc, từ hình tượng đến các chi tiết nghệ thuật của bài thơ.
Phần đầu của bài thơ này có thể được coi là một định nghĩa về đất nước. Tất nhiên, nó được định nghĩa theo cách thơ riêng, thể hiện qua những hình ảnh cụ thể, sinh động và gợi cảm.
Trước hết, Đất nước không phải là một khái niệm bị lãng quên mà là một cái gì đó rất gần gũi, thân thương, ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người: Đất nước hiện lên qua những câu chuyện kể của mẹ, qua “miếng trầu bây giờ bà ăn”, qua những cái kèo, cái sào, qua hạt gạo, miếng cơm ta ăn hàng ngày.
Đất nước không phải là một khung cảnh xa lạ, mà trong máu thịt của bạn và tôi:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Nguyễn Khoa Điềm đã nói về sự gắn bó giữa những bộ phận riêng lẻ với vận mệnh chung của cộng đồng, của đất nước. Đó là suy nghĩ chung của những thời điểm khi vấn đề quốc gia lên tiếng như một vấn đề khác. Trách nhiệm, bổn phận với đất nước không phải là điều gì khác mà còn là trách nhiệm với chính mình:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ,
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở,
Làm nên Đất Nước muôn đời.
Đất nước cũng được hình thành từ bề dày lịch sử, văn hóa và truyền thống lâu đời của dân tộc. Nhà thơ đã khai thác một cách có ý nghĩa các yếu tố đất nước trong mối quan hệ không gian và thời gian, lịch sử và hiện tại. Chiều sâu lịch sử, truyền thông, phong tục tập quán và văn hóa của đất nước được khơi dậy từ truyền thuyết Lạc Long Quân và U Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương với ngày dựng nước, từ những câu ca dao quen thuộc mà đất nước được coi là có tính hệ thống nhất về truyền thống, văn hóa, phong tục, rất thiêng liêng và cũng là bài ca rất gần gũi với cuộc sống của mỗi con người. Những giá trị tinh thần bền vững của đất nước đã gắn liền với quá khứ, hiện tại và tương lai, được nuôi dưỡng qua bao thế hệ:
Những ai đã khuất,
Những ai bây giờ,
Yêu nhau và sinh con đẻ cái,
Gánh vác phần người đi trước để lại.
Dặn dò con cháu chuyện mai sau,
Hằng năm ăn đâu nằm đâu,
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày dỗ tổ.
Từ những quan niệm về đất nước như vậy, đến phần sau của bài thơ, tác giả tập trung làm nổi bật các ý kiến. Đất nước của nhân dân, chính nhân dân tạo ra đất nước.
Suy nghĩ đó đã dẫn đến một cái nhìn mới, sâu sắc hơn về địa lý và danh lam thắng cảnh trên khắp đất nước. Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, hòn Bút Không Nghiên không còn là những thắng cảnh thiên nhiên hấp dẫn mà được cảm nhận qua cảnh ngộ, số phận của những con người, được ghi nhận là những người có công với nhân loại. Con người, hóa thân của những người không tên, không tuổi: “Đôi lứa cũng góp nên sông Vọng Phu, đôi lứa yêu nhau làm nên hòn Trống Mái”. “Sinh Viên Góp Công Cho Tổ Quốc Cây Bút Nghiên Cứu”. Ngay cả “Chợ và tiếng gà quê hương cũng góp phần làm nên một Hạ Long phong cảnh”, ở đây, cảnh sắc thiên nhiên non nước qua con mắt của Nguyễn Khoa Điềm hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của người dân Việt Nam. nhân loại. Chính con người đã tạo ra đất nước này, đặt tên cho nó, đánh dấu cuộc đời họ. Mỗi núi sông, tấc đất tấc vàng này, từ những hình ảnh, cảnh vật, con số cụ thể, nhà thơ “lôi” vào một câu hỏi sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi,
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha,
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy,
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.
Tư tưởng Đất Nước Nhân Dân đã chi phối cái nhìn của nhà thơ khi nghĩ về trang sử lạ lùng của đất nước. Nhà thơ không ca dao các triều đại, cũng không nói đến những anh hùng được ghi trong sử sách, mà chỉ tập trung vào những con người vô danh, bình dị, bình thường. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người chất phác, vô danh ấy:
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Họ đã lao động và chiến đấu chống ngoại xâm, họ đã giữ bí mật và truyền lại cho thế hệ mai sau những giá trị văn hóa, tinh thần và vật chất của đất nước. thần thoại, truyện dân gian, tục ngữ. Mạch cảm xúc và suy nghĩ của bài thơ cứ thế tiếp diễn dần dần để cuối cùng dẫn đến cao trào, bộc lộ tư tưởng cốt lõi của bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị, vừa độc đáo:
Đất Nước này là Đất nước Nhân dân Đất Nước của Nhân dân,
Đất Nước của ca dao, thần thoại.
Đọc chương Đất nước, người ta có thể thấy rõ dấu ấn của vốn kiến thức văn hóa học đường và sách vở, ảnh hưởng phong cách của một nhà thơ nào đó. Tuy nhiên, đó vẫn là chương trình tiêu biểu và thuần túy nhất của bản trường ca khát vọng. Bài thơ còn tạo nên những rung động vang dội trong lòng người đọc nhờ những cảm xúc chân thành của tác giả, từ trải nghiệm của bản thân, nói lên những suy nghĩ chung của cả thế hệ mình về đất nước.
Cảm nhận Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm- Mẫu 15
Nguyễn Khoa Điềm đã hoàn thành tập trường ca hùng tráng “Mặt đường khát vọng” vào năm 1971 tại chiến khu Trị – Thiên. Tác phẩm trình bày khái quát quá trình thức tỉnh của thanh niên đô thị trong vùng tạm chiếm miền Nam. Họ thấu hiểu rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mỹ; hướng tới dân tộc và quê hương, đất nước; nhận thức được trọng trách, sứ mệnh của thế hệ mình để rồi vùng dậy xuống đường cùng tham gia vào cuộc đấu tranh chung của toàn dân tộc. “Đất Nước” được trích từ phần mở đầu của chương V trong tác phẩm “Mặt đường khát vọng”.
“Đất nước” được đánh giá là chương hay nhất trình bày cảm nhận và lí giải của tác giả về đất nước, đồng thời thể hiện tư tưởng cốt lõi sâu sắc của toàn bộ tác phẩm đó là “Đất Nước của Nhân dân”. Cách triển khai ý tưởng và cảm xúc của tác giả theo trình tự rất chặt chẽ nhưng cũng vô cùng tự do, phóng túng. Mở đầu đoạn trích, tác giả đã đưa ra các định nghĩa về đất nước. Tiếp sau đó, tác giả hình dung về đất nước qua chiều dài thời gian – lịch sử, không gian – lãnh thổ địa lí và đặc biệt là niềm tự hào sâu sắc về văn hóa – phong tục, lối sống và bản sắc của dân tộc Việt Nam. Thông qua ba bình diện này, lời thơ hào hứng và giàu suy tư hướng đến tư tưởng chủ đạo: “Đất nước này là Đất nước nhân dân”. Bài thơ với mạch cảm xúc và suy tư tự nhiên, trôi chảy, vừa chặt chẽ vừa đầy sự hứng khởi đã tạo ra những vang động sâu sắc.
Ở phần đầu của đoạn trích, nhà thơ đã sử dụng hình thức trữ tình – chính luận để đưa ra định nghĩa riêng của cá nhân về đất nước thông qua những cảm nhận từ cổ tích và ca dao. Lời thơ định nghĩa không bị giới hạn bởi các khái niệm khó hiểu mà đã trở thành một cuộc trò chuyện gần gũi, thân mật. Việc sử dụng đa dạng, đậm đặc các chất liệu từ cổ tích, truyền thuyết, ca dao, dân ca, huyền thoại… tạo nên âm hưởng đầy quyến rũ cho đoạn thơ đầu. Các câu thơ như:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “Ngày xửa ngày xưa…”mẹ thường hay kể
Khái niệm đất nước là của các vương triều trở nên mờ nhạt đi sau đoạn thơ mở đầu. Ngay từ thuở sơ khai, đất nước đã thuộc về nhân dân. Nguyễn Khoa Điềm đã có ẩn ý khi định nghĩa đất nước thông qua việc lựa chọn chất liệu từ văn hóa dân gian bởi văn hóa dân gian là của nhân dân. Nguyễn Khoa Điềm đã có một cách định nghĩa vô cùng mới mẻ, độc đáo và hấp dẫn đối với người đọc. Cách định nghĩa ấy đã chạm được vào những điều thiêng liêng và quan trọng nhất đồng thời cũng gần gũi và thân thiết nhất với mỗi người trong chúng ta. Nó gợi mở cho chúng ta sự suy ngẫm về quá khứ và lòng tự hào dân tộc. Nó thức tỉnh ý thức dân tộc và tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, đối với nhân dân trong từng cá nhân.
Phần tiếp theo của đoạn thơ từ “Những người vợ nhớ chồng” đến kết thúc đoạn trích tập trung vào việc làm nổi bật tư tưởng “Đất nước của nhân dân”. Và ở phần này, tư tưởng đã kết hợp mọi góc nhìn và đưa ra những phát hiện sâu sắc và độc đáo của tác giả về đất nước thông qua địa lí, lịch sử và văn hóa.
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Đó quả thật là những khám phá vô cùng mới mẻ về thiên nhiên và đất nước. Những thứ vốn đã rất quen thuộc như núi Bút, non Nghiên, núi Vọng Phu, hòn Trống Mái… giờ đây bỗng trở nên thật lạ. Chúng không phải là sản phẩm của tạo hóa mà chính là tâm hồn, số phận của nhân dân. Ở đây, thiên nhiên và tạo hóa không làm nảy sinh những câu chuyện đầy huyền thoại mà chính những câu chuyện về những tâm hồn, số phận của con người trong quá khứ đã làm cho những danh thắng kia có một tâm hồn và khiến chúng sống mãi. Quan điểm rất thơ của tác giả đã đạt đến một sự khái quát đầy sâu sắc:
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
Sau những câu thơ khám phá độc đáo về thiên nhiên, ta tiếp tục đến với những câu thơ khám phá vẻ đẹp tâm hồn và tính cách của người Việt Nam cũng như vai trò và vị trí quan trọng của con người Việt Nam trong lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước hàng nghìn năm qua. Họ là những con người yêu thương một cách sâu sắc, thủy chung tình nghĩa; họ là những người lao động cần cù, anh hùng trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm; họ là những người “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng họ “đã làm ra Đất nước”. Họ là những người âm thầm tạo nên lịch sử, gìn giữ nét văn hóa của dân tộc qua bao biến động trong lịch sử dân tộc.
Từ những khái quát giản dị nhưng đầy tính nhân văn, tác giả khẳng định:
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.
“Đất nước của nhân dân”, đó là một sự thật, chân lý không thể phủ nhận. Chân lí này đã được nhận thức trong quá trình phát triển dài của lịch sử, nhưng chỉ trong văn học Việt Nam hiện đại, nó mới đạt đến đỉnh cao, trở thành những tuyên ngôn đầy tự hào và hang động sâu xa.
Trên đây là nội dung bài học Cảm nhận Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm chọn lọc hay nhất (15 bài mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập
- Phân tích chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn trích Đất nước hay nhất (3 bài mẫu)
- Phân tích chất trữ tình chính luận trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm hay nhất (4 bài mẫu)
- Phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân trong bài thơ Đất nước hay nhất (15 bài mẫu)
- Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm chọn lọc hay nhất (25 bài mẫu)
- Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm hay nhất (23 bài mẫu)
- Phân tích hình tượng đất nước trong bài thơ Việt Bắc và Đất nước hay nhất
- Cảm nhận của anh (chị) về vùng đất và con người miền cực nam của Tổ quốc qua truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh Hạ lớp 12 (9 Mẫu)
- Anh (chị) hãy bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra” lớp 12 (10 Mẫu)
- Buy-phông, nhà văn Pháp nổi tiếng, có viết: “Phong cách chính là người”. Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? lớp 12 (12 Mẫu)
- Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên lớp 12 (7 Mẫu)
- Viết bài văn trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận, theo chủ đề: một tác phẩm văn học mới ra đời và đáng được nhiều người quan tâm bàn luận lớp 12
- Viết bài văn nghị luận trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận khác nhau lớp 12 (3 Mẫu)