Phân tích hình ảnh Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí lớp 9 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 17 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.
Đề bài: Phân tích hình ảnh Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí
Dàn ý Phân tích hình ảnh Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí chi tiết
1. Mở bài:
Bạn đang xem: Phân tích hình ảnh Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí hay nhất (17 mẫu)
- Đôi chút về bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu là một kiệt tác ca ngợi hình ảnh người lính nơi chiến trường.
- Đặc biệt, hình ảnh “Đầu súng trăng treo” có cách miêu tả hết sức độc đáo.
- Hiện lên như một bức tranh đẹp vừa có nét hào hùng vừa có nét trữ tình.
2. Thân bài:
“Đêm nay rừng hoang sương muối lạnh
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
- Hình ảnh câu thơ gợi lên nỗi gian khổ của những người lính trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc đầy cam go và ác liệt.
- Đêm giữa núi rừng hoang vắng, sương lạnh phủ kín mặt ai, trong hoàn cảnh phải trực ca canh gian khổ không ngơi nghỉ nhưng người lính không hề mệt mỏi mà còn rất nhân hậu. Nhà thơ khi nhìn thấy ánh trăng vô cùng huyền ảo.
- Hình ảnh người lính trong 3 câu thơ trên thể hiện rõ “đứng bên nhau”, họ không đơn độc giữa núi rừng bao la, không đơn độc giữa bao la.
- Họ có những người đồng chí, đồng đội, những người anh em không cùng huyết thống nhưng thân thiết hơn cả ruột thịt.
- Các chiến sĩ sẵn sàng đón địch với một tâm thế hết sức chủ động, dù kẻ thù của ta là thực dân Pháp hay đế quốc Mỹ hùng mạnh, quân ta đều được trang bị vũ khí hiện đại.
- Hình ảnh “Đầu súng” tượng trưng cho chiến tranh, bom đạn, chết chóc, trái ngược hoàn toàn với “Trăng treo” một hình ảnh lãng mạn, trữ tình, mềm mại. Nhưng khi đặt cạnh nhau, chúng lại trở thành một bức tranh hoàn hảo, vô cùng tuyệt vời.
3. Kết bài:
- Tác giả Chính Hữu đã vẽ nên một bức tranh bằng chất thơ vô cùng tinh tế, sức lan tỏa lớn, dùng chất lãng mạn để tôn lên sự khắc nghiệt của hiện thực.
- Bài thơ “Đồng chí” là một bài thơ hay của tác giả Chính Hữu, trong đó hình ảnh thành công nhất của bài thơ là hình ảnh “đầu súng trăng treo”.
17 bài mẫu Phân tích hình ảnh Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí hay nhất
Phân tích hình ảnh Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí- Mẫu 1
Đồng chí của Chính Hữu là một trong những bài thơ hay về người chiến sĩ trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Trải qua hơn năm mươi năm, bài thơ đã trở thành người bạn tâm tình của nhiều lớp người cầm súng chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Đoạn kết của bài thơ thật đẹp, nó đã tạc vào thơ ca chân dung người chiến sĩ mộc mạc, đơn sơ và tuyệt vời thi vị:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn bay bổng hòa quyện với nhau. Cảnh rừng hoang, sương muối âm u, lạnh giá dường như không còn gây được ấn tượng đe dọa đối với con người nữa mà trái lại, nó bị đẩy lùi ra phía sau, nhường chỗ cho hình ảnh đồng đội đang sát cánh bên nhau trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Tình đồng chí thiêng liêng đã sưởi ấm lòng chiến sĩ, chắp cánh cho tâm hồn họ bay bổng. Đêm khuya chờ giặc, trăng đã ngang đầu súng. Và lạ lùng thay, người chiến sĩ như có một khám phá bất chợt, thú vị: đầu súng trăng treo. Câu thơ như một tiếng reo vui chứa đựng bao ý nghĩa. Hình ảnh đầu súng trăng treo được tạo nên nhờ sự liên tưởng thông minh và độc đáo.
Anh bộ đội hướng mũi súng về phía giặc, tình cờ phía ấy là hướng trăng lặn. Đêm khuya về sáng, trăng đang xuống thấp dần và ngang tầm mũi súng, tạo cảm giác đầu súng trăng treo. Cảnh ấy có thể có thật song có thể chỉ là sự liên tưởng bất ngờ do ý thơ lãng mạn để tạo ra một ý nghĩa tượng trưng. (Mũi súng chờ giặc – chất hiện thực quyết liệt; trăng – chất thơ bay bổng). Giữa hai hình ảnh tương phản súng và trăng, người đọc vẫn tìm ra được mối quan hệ gần gũi. Súng tượng trưng cho tinh thần chiến đấu bảo vệ cuộc sống tốt đẹp yên lành, trăng tượng trưng cho cái đẹp yên lành ấy.
Hình ảnh Đầu súng trăng treo là biểu tượng cao đẹp của tình đồng đội, đồng chí thiêng liêng. Nó thể hiện rõ nét cái tư thế chủ động, tinh thần lạc quan, tin tưởng vào chiến thắng, vào tương lai tươi sáng của đất nước, của người chiến sĩ. Cao hơn nữa, hình ảnh ấy là biểu tượng sóng đôi của dân tộc Việt Nam dũng cảm, hào hoa muôn thuở.
Phân tích hình ảnh Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí- Mẫu 2
Sau tác phẩm Ngày về, Chính Hữu tiếp tục sở trường viết về người lính trong kháng chiến, đó cũng là đề tài rất mới mẻ của văn học Cách mạng. Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu đánh dấu sự thành công của ông khi viết về đề tài này. Bài thơ, tác giả không dùng nhiều nghệ thuật, ngôn ngữ giản dị như những người dân mặc áo lính nhưng những hình ảnh thơ đẹp là điều bất cứ một người đọc nào cũng nhận thấy trong bài thơ của ông. Đặc biệt là hình ảnh cuối bài thơ “Đầu súng trăng treo”.
Cả bài thơ được sáng tác với bút pháp hiện thực, hình ảnh những anh lính cụ Hồ thực, những gian khổ trong chiến tranh thực, tình cảm đồng chí đồng đội thực và những đêm phục kích chờ giặc tới cũng là thực:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Những người lính được giới thiệu trong bài thơ là những người gắn bó với ruộng nương, với “ gian nhà không”, nhưng họ “mặc kệ” như một lẽ quyết tâm sẵn sàng rời bỏ tất cả để đi dẹp giặc. Người lính khi ra trận, họ hiểu nhau đến từng khúc ruột, họ chia sẻ tất cả những khó khăn “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Họ chiến đấu bên cạnh nhau với tình cảm thiết tha mặn nồng nhất, cái “nắm tay” đến đúng lúc đủ để họ xóa đi hết những gian khổ:
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày.
Tất cả những lý do đó đủ để Chính Hữu kết thúc bài thơ với ba câu thơ ngắn gọn nhưng chất chứa biểu tượng của người lính. Họ phục kích trong những đêm “sương muối” độc và lạnh, nó độc và lạnh hơn khi “áo rách”, “chân không giày”, nhưng hơi ấm từ tình đồng đội đã sưởi ấm chính bản thân người lính. Tâm thế sẵn sang “chờ giặc tới” là do “đứng cạnh bên nhau”, gắn bó khăng khít, chia sẻ những cực nhọc trong chiến trường. Những câu thơ không cho thấy khói bụi chiến tranh nhưng lại cho ta thấy sự khốc liệt do cảnh khắc nghiệt mà hoàn cảnh đem lại.
Sau những câu thơ dài như tự sự ấy, câu kết bài thơ “Đầu súng trăng treo” chỉ có bốn tiếng làm cho nhịp thơ đang dàn trải bỗng thay đổi đột ngột, dồn nén, chắc gọn, gây được sự chú ý cao nơi người đọc. Từ “ treo” tạo nên quan hệ bất ngờ nối liền mặt đất với không gian bát ngát. Đó có lẽ là chất thơ bay bổng nhất trong bài thơ. Có người đã liên tưởng “trăng” tượng trưng cho sự yên bình, chất nghệ sĩ, thi sĩ. “súng” tượng trưng cho sự chiến đấu, khốc liệt và hiện thực chiến tranh, bởi vậy biểu tượng của người lính là chiến đấu cho cuộc sống hòa bình. Nhưng Chính Hữu có lần tâm sự: “Trong chiến dịch nhiều đêm có trăng. Đi phục kích trong đêm, trước mắt tôi có ba nhân vật: khẩu súng, vầng trăng và người bạn chiến đấu. Ba nhân vật ấy hòa quyện với nhau tạo ra hình ảnh “Đầu súng trăng treo”.
Như vậy chúng ta cần hiểu biểu tượng mà Chính Hữu xây dựng được vút lên từ chất thơ bay bổng trong hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt. Suốt đêm vầng trăng từ trên trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo ngay trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích như vậy trăng với người lính giống như bạn hữu. Vậy, biểu tượng của người lính trong bài thơ chưa hẳn là sự chiến đấu mà chính là tình cảm của những người đồng tình, đồng lý tưởng…
“Đầu súng trăng treo” là một hình ảnh thơ đẹp và độc đáo, xứng đáng để khép lại một tác phẩm thơ thành công của Chính Hữu.
Phân tích hình ảnh Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí- Mẫu 3
Chính Hữu đã tạo nên hình ảnh người lính trong chiến tranh thật đẹp, thật đáng khâm phục qua bài thơ Đồng Chí. Bài thơ để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc không chỉ bởi tinh thần của người chiến sĩ mà còn bởi hình ảnh đầy chất thơ: Đầu súng trăng treo.
Với cảnh rừng núi hoang vu, rừng thiêng nước độc, bom đạn ác liệt, người lính càng gắn bó với nhau hơn, để vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Đêm lạnh và hoang vu, nhưng người lính vẫn luôn đứng gác, luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Nhà thơ đã có cái cảm nhận thật mới mẻ và tinh tế khi kết hợp hai hình ảnh, súng và trăng. Đó là chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn, trái ngược nhau nhưng chúng bay bổng hòa quyện với nhau. Cảnh rừng hoang, sương muối âm u, lạnh giá dường đã không ảnh hưởng tới tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ, nhường chỗ cho hình ảnh đồng đội đang sát cánh bên nhau trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Chính cái tinh thần đồng đội thiêng liêng và lý tưởng chiến đấu cao thượng đã sưởi ấm lòng chiến sĩ, chắp cánh cho tâm hồn họ bay bổng. Đứng giữa cái giá lạnh của núi rừng để chờ giặc, khi trăng đã ngang đầu súng. Người chiến sĩ đã không cảm thấy buồn chán mà trong tâm hồn họ lại khám phá bất chợt, thú vị: đầu súng trăng treo. Câu thơ như một tiếng reo vui chứa đựng bao ý nghĩa. Hình ảnh đầu súng trăng treo được tạo nên nhờ sự liên tưởng thông minh và độc đáo.
Người chiến sĩ luôn trong tư thế chiến đấu, súng lúc nào cũng trong tư thế sẵn sàng, hướng mũi súng về phía giặc, tình cờ phía ấy là hướng trăng lặn. Đêm khuya về sáng, trăng đang xuống thấp dần và ngang tầm mũi súng, tạo cảm giác đầu súng trăng treo.
Hình ảnh đầu súng trăng treo, vừa là hình ảnh tả thực, vừa mang chất lãng mạn bay bổng. Hai hình ảnh này có sự trái ngược nhau, súng tượng trưng cho tinh thần chiến đấu bảo vệ cuộc sống tốt đẹp yên lành, súng là sự chết chóc là sự tàn khốc, còn trăng tượng trưng cho cái đẹp của cuộc sống yên bình. Muốn tận hưởng cuộc sống yên bình ấy thì phải cầm súng để dành lại.
Hình ảnh Đầu súng trăng treo đã mang một thi vị lãng mạn cho bài thơ, nó thể hiện tinh thần lạc quan, ý chí quyết tâm chiến đấu và tình đoàn kết của các chiến sĩ. Bài thơ trở thành động lực tạo nên sức mạnh cho thế hệ trẻ Việt Nam trong việc đấu tranh để bảo vệ tổ quốc.
Phân tích hình ảnh Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí- Mẫu 4
Không biết tự bao giờ ánh trăng đã đi vào văn học như một huyền thoại đẹp. Ở truyền thuyết Chú cuội cung trăng hay Hằng Nga trộm thuốc trường sinh là những mảng đời sống tinh thần bình dị đậm đà màu sắc dân tộc của nhân dân ta. Hơn thế nữa, trăng đã đi vào cuộc chiến đấu, trăng bảo vệ xóm làng, trăng được Chính Hữu kết tinh thành hình ảnh đầu súng trăng treo rất đẹp trong bài thơ Đồng chí của mình. Sau hơn mười năm làm thơ, Chính Hữu cho ra mắt tập Đầu súng trăng treo. Thế mới biết tác giả đắc ý như thế nào về hình ảnh thật đẹp, thơ mộng, rất thực nhưng không thiếu nét lãng mạn đó.
Đầu súng trăng treo – đó là một hình ảnh tả thực một bức tranh tả thực và sinh động. Giữa núi rừng heo hút rừng hoang sương muối giữa đêm thanh vắng tĩnh mịch bỗng xuất hiện một ánh trăng treo lơ lửng giữa bầu trời. Và hình ảnh này cũng thật lạ làm sao, súng và trăng vốn tương phản với nhau, xa cách nhau vời vợi bỗng hòa quyện vào nhau thành một hình tượng gắn liền. Nhà thơ không phải tả mà chỉ gợi, chỉ đưa hình ảnh nhưng ta liên tưởng nhiều điều. Đêm thanh vắng người lính bên nhau chờ giặc tới, trăng chếch bóng soi sáng rừng hoang bao la rộng lớn, soi sáng tình cảm họ, soi sáng tâm hồn họ…
Giờ đây, người chiến sĩ như không còn vướng bận về cảnh chiến đấu sắp diễn ra, anh thả hồn theo trăng, anh say sưa ngắm ánh trăng tỏa ngời trên đỉnh núi, tâm hồn người nông dân nước mặn đồng chua, hay đất cày trên sỏi đá cằn cỗi ngày nào bỗng chốc trở thành người nghệ sĩ đang ngắm nhìn vẻ đẹp ánh trăng vốn có tự ngàn đời. Phải là một người có tâm hồn giàu lãng mạn và một phong thái ung dung bình tĩnh lạc quan thì anh mới có thể nhìn một hình ảnh nên thơ như thế. Chút nữa đây không biết ai sống chết, chút nữa đây cùng có thể là giây phút cuối cùng ta còn ở trên đời này nhưng ta vẫn mặc kệ, vẫn say sưa với ánh trăng.
Ánh trăng như xua tan cái lạnh giá của đêm sương muối, trăng tỏa sáng làm ngời ngời lòng người, trăng như cùng tham gia, cùng chứng kiến cho tình đồng chí đồng đội thiêng liêng của những người lính. Trăng truyền thêm sức mạnh cho họ, tắm gội tâm hồn họ thanh cao hơn, trong sạch hơn, trăng cùng là bạn, là đồng chí của anh bộ đội Cụ Hồ.
Đầu súng trăng treo – hình ảnh thật đẹp và giàu sức khái quát. Súng và trăng kết hợp nhau; súng tượng trưng cho chiến đấu – trăng là hình ảnh của thanh bình hạnh phúc; súng là con người – trăng là đất nước quê hương của bốn nghìn năm văn hiến; súng là hình ảnh người chiến sĩ gan dạ kiên cường – trăng là hình ảnh người thi sĩ. Sự kết hợp hài hòa tạo nên nét lãng mạn bay bổng vừa gợi tả cụ thể đã nói lên lý tưởng, mục đích chiến đấu mà người lính ấy đang tham gia. Họ chiến đấu cho sự thanh bình, chiến đấu cho ánh trăng mãi nghiêng cười trên đỉnh núi. Ta hãy tưởng tượng xem giữa đêm khuya rừng núi trập trùng bỗng hiện lên hình ảnh người lính đứng đó với súng khoác trên vai, nòng súng chếch lên trời và ánh trăng lơ lửng ngay nòng ngọn súng. Đó là biểu tượng khát vọng hòa bình, nó tượng trưng cho tư thế lạc quan, bình tĩnh, lãng mạn của người bảo vệ Tổ quốc.
Cái thần của câu thơ Đầu súng trăng treo nằm ở từ treo, ta thử thay bằng từ mọc thì thật thà quá, làm sao còn nét lãng mạn? Và hãy thay một lần nữa bằng từ lên cũng không phù hợp, vì nó là hiện tượng tự nhiên: trăng tròn rồi khuyết, trăng lên trăng lặn sẽ không còn cái bất ngờ màu nhiệm nữa. Chỉ có trăng treo. Phải, chỉ có Đầu súng trăng treo mới diễn tả hết được cái hay, cái bồng bềnh thơ mộng của một đêm trăng đứng chờ giặc tới, chẳng thơ mộng chút nào. Ta nên hiểu bài thơ dường như được sáng tác ở thời điểm hiện tại đêm nay, trong một không gian mà mặt đất là rừng hoang sương muối lạnh lẽo và lòng đầy phấp phỏng giặc sẽ tới có nghĩa là cái chết có thể đến từng giây từng phút.
Thế nhưng người lính ấy vẫn đứng cạnh nhau để tâm hồn họ vút lên nở thành vầng trăng. Nếu miêu tả hiện thực thì vầng trăng ấy sẽ có hình khối của không gian ba chiều. Ở đây, từ điểm nhìn xa, cả vầng trăng và súng đều tồn tại trên một mặt phẳng và trong hội họa nó mang tính biểu tượng cao. Tố Hữu cũng có một câu thơ kiểu này: Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan, và Phạm Tiến Duật thì Và vầng trăng vượt lên trên quầng lửa, hay Hoàng Hữu Chỉ một nửa vầng trăng thôi một nửa – Ai bỏ quên ở phía chân trời…
Như đã nói ở trên, không phải ngẫu nhiên mà Chính Hữu lấy hình ảnh Đầu súng trăng treo làm tựa đề cho tập thơ của mình. Nó là biểu tượng, là khát vọng và cũng là biểu hiện tuyệt vời chất lãng mạn trong bài thơ cách mạng. Lãng mạn nhưng không thoát ly, không quên được nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Lãng mạn vì con người cần có những phút sống cho riêng mình. Trước cái đẹp mà con người trở nên thờ ơ lãnh đạm thì cuộc sống vô cùng tẻ nhạt. Âm hưởng của câu thơ đã đi đúng với xu thế lịch sử của dân tộc. Hình ảnh trăng và súng đã có nhiều trong thơ Việt Nam và hình ảnh Đầu súng trăng treo của Chính Hữu là một trong những hình ảnh tuyệt đẹp trong kho tàng thơ ca dân tộc.
Phân tích hình ảnh Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí- Mẫu 5
Trăng là người bạn tri âm tri kỉ đồng hành cùng con người trong mọi hoàn cảnh. Từ bao lâu nay, hình ảnh đó đã đi vào thơ ca một cách rất tự nhiên. Có rất nhiều nhà thơ mượn ánh trăng để giãi bày lòng mình. Tiêu biểu phải kể đến nhà thơ Chính Hữu với bài thơ “Đồng chí”. Kết thúc bài thơ, tác giả gợi nhắc đến hình ảnh “Đầu súng trăng treo” mang nhiều ý nghĩa.
Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác vào năm 1948, sau khi nhà thơ và những người đồng đội của mình tham gia chiến dịch Việt Bắc. Qua bài thơ, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh những người lính có chung hoàn cảnh xuất thân, cùng chung lí tưởng cách mạng mong muốn mang lại hòa bình cho Tổ quốc. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” nằm ở cuối bài thơ để nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn của những người đồng chí trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” mang hai nét nghĩa đó là tả thực và lãng mạn. Những đêm lạnh giá canh gác nơi rừng sâu, người lính vẫn trông thấy ánh trăng trên bầu trời đang chiếu sáng cho muôn loài. Vầng trăng quen thuộc như một người bạn đồng hành cùng họ trong mọi hoàn cảnh. Chính nhà thơ Chính Hữu đã từng chia sẻ rằng: “Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng đối với chúng tôi như một người bạn; rừng hoang sương muối là một khung cảnh thật”. Vậy rõ ràng, với người lính, ánh trăng chính như tiếp thêm sức mạnh để họ có thể vững vàng tay súng chiến đấu. Nhưng không dừng lại ở nét nghĩa đó, nhà thơ Chính Hữu còn muốn mang đến cho ta một cảm nhận khác về ý nghĩa hình ảnh “Đầu súng trăng treo”. “Súng” là biểu tượng của chiến tranh. Còn “trăng” tượng trưng cho hòa bình. Việc nhà thơ để hình ảnh “súng, trăng” cạnh nhau đã thể ước mong về một ngày không xa hòa bình sẽ đến với dân tộc.
Việc tác giả đan cài giữa chất hiện thực và lãng mạn trong câu thơ đã cho ta cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của những người lính. Giữa cái khốc liệt của chiến tranh, họ vẫn luôn lạc quan, yêu đời, mở rộng lòng mình cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên. Và ước mong một ngày không xa đánh thắng được quân thù luôn thường trực trong trái tim của người lính.
“Súng” tượng trưng cho người lính, còn “trăng” thường gắn liền với thi nhân. Hình ảnh thơ “Đầu súng trăng treo” như sự hòa hợp đầy ngọt ngào giữa chất trữ tình lãng mạn của một nhà thơ và sự kiên cường, mạnh mẽ chảy trong máu người lính. Qua đó, ta thấy được bức chân dung, tính cách của tác giả Chính Hữu – một nhà thơ chiến sĩ nổi tiếng trong nền văn chương Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.
Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” khép lại bài thơ gợi nhiều liên tưởng độc đáo. Nhà thơ đã nhấn mạnh vẻ đẹp của người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Qua đây, ta cũng phần nào thấy được tâm hồn bay bổng, lạc quan cùng ngòi bút tài hoa của Chính Hữu.
Phân tích hình ảnh Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí- Mẫu 6
Chính Hữu là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến. Chiến tranh là chất liệu làm nên nét chân thực, dữ dội và không kém phần lãng mạn trong những vần thơ ông viết. “Đồng chí” là bài thơ sáng tác trong thời kì đất nước ta kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Hình ảnh người lính được khắc họa đậm nét và đầy ấn tượng. Sự khốc liệt của chiến tranh vẫn khiến cho thơ ông có sự mềm mại và trữ tình. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” cuối bài thơ tiêu biểu cho khuynh hướng đó.
Bao trùm lên bài thơ “Đồng chí” là hình ảnh người lính cụ hồ hiên ngang, bất khuất, vượt qua mưa gió bão bùng, sự gian khổ và khắc nghiệt của thời tiết để hướng về phía trước. Cuộc sống nhọc nhằn, thiếu thốn vẫn không thể đánh gục những con người vì dân vì nước như vậy.
Giữ rừng hoang sương muối bao phủ lấy, hình ảnh “đầu súng trăng treo” như một nét chấm phá tuyệt đẹp. Nó hiện lên trong trang viết của Chính Hữu như một bức tranh:
Đêm nay rừng hoang sương muối lạnh
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Nếu như ở hai câu thơ trên tái hiện lại sự khắc nghiệt, gian khổ của địa hình và thời tiết thì câu thơ thứ ba, duy nhất chỉ có trăng và súng lại rất thơ mộng và lãng mạn. Có lẽ đây chính là dụng ý của tác giả khi viết bài thơ này.
Giữa đêm đông giá lạnh, sương muối bao trùm khiến cho những người lính rét run người. Dù khắc nghiệt, gió khó khăn bủa vây nhưng hình tượng người lính vẫn hiện lên thật kiên cường và cao đẹp. Họ vẫn luôn “đứng cạnh bên nhau” để “chờ giặc tới”. Tư thế và tâm thế luôn sẵn sàng khiến cho chúng ta phải khâm phục và ngưỡng mộ.
Không phải vô tình mà 3 câu thơ này được tác ra làm một khổ riêng, có lẽ dụng ý của tác giả muốn làm nổi bật hình ảnh ‘đầu súng trăng treo” ở cuối bài thơ. Trên cái nền ảm đạm, khắc nghiệt, nguy hiểm của thiên nhiên và chiến tranh nhưng người lính vẫn luôn kiên cường, bất khuất. Họ luôn tràn đầy tình yêu và sự lạc quan để tiến về phía trước đánh đuổi kẻ thù.
Mặc dù hình ảnh “đầu súng trăng treo” gồm “trăng” và “súng”, tưởng như đối lập nhau giữa cái lãng mạn, trữ tình và cái hiện thực khắc nghiệt nhưng trong thơ Chính Hữu nó lại trở nên mềm mại. Trăng và súng không còn đối lập nhau nữa mà hòa quyện vào nhau làm nên một khung cảnh tuyệt đẹp giữa rừng hoang sương muối rơi ướt vai người lính.
Đấy chính là chất liệu lãng mạn nổi bật trên hiện thực khắc nghiệt. Đây thực sự là một hình ảnh đầy dụng ý nghệ thuật của tác giả. Người lính vẫn sẵn sàng canh gác bảo vệ tổ quốc, mũi súng hướng lên trời mà tác giả cứ ngỡ súng chạm vào trăng. Một nét điểm xuyết chấm phá tạo nên bức tranh đối lập nhưng vô cùng hài hòa và đầy tinh tế.
Những người lính có tuổi đời còn rất trẻ, họ có lý tưởng sống và cống hiến cho đất nước nhưng họ cũng ấp ủ những ước mơ bé nhỏ, một tình yêu bé nhỏ hay bóng dáng người con gái nào đó. Trong lòng họ vẫn luôn giữ được sự lạc quan, tin tưởng và sự lãng mạn đáng trân trọng. Chiến tranh khắc nghiệt nhưng không để nó làm trái tim người lính chai lì mới thực sự là điều đáng quý.
Bởi vậy mới có thể thấy rằng “đầu súng trăng treo” dường như lan tỏa thứ ánh sáng dịu nhẹ của ánh trăng xuống cánh rừng, lan vào lòng người lính sự mát dịu, trong lành nhất.
Chính Hữu đã rất thành công khi xây dựng hình ảnh “đầu súng trăng treo” ám ảnh tâm trí người đọc như thế này. Gấp trang sách lại nhưng hình ảnh này còn neo đậu mãi.
Phân tích hình ảnh Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí- Mẫu 7
Chính Hữu là một nhà thơ cách mạng, ông trưởng thành trong cuộc kháng chiến của dân tộc. Những tác phẩm của ông đều để lại sự mộc mạc giản dị, nhưng không kém phần lãng mạn, tinh tế.
Bài thơ “Đồng chí” được tác giả Chính Hữu viết trong cuộc kháng chiến chống quân Mỹ xâm lược. Thể hiện sự bi tráng, anh hùng của người lính, của chiến sĩ bộ đội cụ Hồ dũng cảm kiên cường trong đấu tranh, nhưng không kém phần lãng mạn, thi vị trong cuộc sống, trong hoài bão lý tưởng.
Đề tài người lính không phải đề tài mới mẻ nhưng với tác giả Chính Hữu hình ảnh người lính được khắc họa khá chân thực, ấn tượng thể hiện sự tà khốc của chiến tranh, của đạn bom. Nhưng hình ảnh “Đầu súng trăng treo” lại là một hình ảnh vô cùng lãng mạn, thể hiện sự tinh tế của tác giả trong việc sử dụng hình tượng thơ.
Bao trùm lên toàn bài thơ là hình ảnh người chiến sĩ cách mạng, kiên trung, hiên ngang bất khuất, vượt qua mọi khó khăn thử thách vẫn một lòng bền gan quyết chí hướng tới miền Nam ruột thịt, thống nhất nước nhà.
Cuộc sống dù có nhọc nhằn, gian khổ thiếu thốn vẫn không đánh bại được ý chí sự kiên trì của những con người vì dân vì nước mà hy sinh quên mình.
Người lính ra trận phải đối diện với nhiều khó khăn, hình ảnh rừng hoang sương muối, thể hiện sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Thể hiện sự khổ ải trên con đường cứu nước.
Đêm nay rừng hoang sương muối lạnh
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Nếu như ở câu thơ đầu tiên thể hiện sự nghiệt ngã của thiên nhiên, của địa hình Trường Sơn thì trong hai câu tiếp theo lại mang ý nghĩa hoàn toàn khác. Hình ảnh người lính hiên ngang canh gác, chờ quân giặc tới để chiến đấu không hề run sợ lo lắng, thể hiện sự chủ động của người lính.
Hình ảnh “đầu súng trăng treo” thể hiện sự đối lập giữa súng và trăng giữa thực tại và tâm hồn người lính là hoàn toàn trái ngược nhau. Dù cuộc sống thực tại có khó khăn khắc nghiệt thì tâm hồn người lính vẫn thi vị đượm chất trữ tình, lãng mạn
Chính Hữu đã thể hiện chất liệu thơ vô cùng lãng mạn, đây là hình ảnh độc đáo thể hiện dụng ý nghệ thuật điêu luyện của tác giả. Tạo nên một nét chấm phá độc đáo làm nên hình tượng cho bài thơ nhiều sáng tạo.
Nó thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời của những người lính trẻ đang độ xuân xanh yêu đời, lòng tràn ngập ước mơ hoài bão lý tưởng sống lớn lao.
Tác giả Chính Hữu đã vô cùng đặc sắc khi xây dựng hình ảnh “Đầu súng trăng treo” tạo nhiều ám ảnh trong tâm trí người đọc, nó là hình tượng thành công nhất tạo nên nét riêng của bài thơ.
Phân tích hình ảnh Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí- Mẫu 8
“Đầu súng trăng treo” là câu kết bài thơ Đồng chí. cũng là một biểu tượng đẹp về người chiến sĩ thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Trong đêm phục kích giữa rừng, bên cạnh hình ảnh thực là súng, là nhiệm vụ chiến đấu tạo nên con người chiến sĩ thì cái mộng, cái trữ tình là trăng.Hình ảnh trăng tạo nên con người thi sĩ.
Hình ảnh chiến sĩ, thi sĩ hài hòa với nhau trong cuộc đời người lính cách mạng. Hai hình ảnh tưởng là đối lập nhau đặt cạnh nhau tạo ra ý nghĩa hòa hợp vô cùng độc đáo. Súng là chiến đấu gian khổ, hi sinh, là hiện thực. Còn trăng là tượng trưng cho hòa bình, gợi lên sự đẹp đẽ thơ mộng, dịu dàng và lãng mạn.
Người lính cầm súng để bảo vệ hòa bình, khát khao hòa bình, không ngại gian khổ hi sinh. Súng và trăng: cứng rắn và dịu hiền, chiến sĩ và thi sĩ, có người còn gọi đây là một cặp đồng chí.Chính Hữu đã thành công với hình ảnh “đầu súng trăng treo” – một biểu tượng thơ giàu sức gợi cảm.
“Đầu súng trăng treo” đã trở thành một biểu tượng đẹp của người lính cách mạng Việt Nam hiện thực và lãng mạn, chiến sĩ và thi sĩ. Hình ảnh “ánh trăng” của Nguyễn Duy: Ánh trăng của Nguyễn Duy không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước mà còn gắn bó với tuổi thơ, với những ngày kháng chiến gian khổ. Hình ảnh “ánh trăng” bắt đầu gắn với cuộc sống bình thường của con người và vầng trăng thời chiến tranh, vầng trăng là biểu tượng đẹp của những năm tháng tình nghĩa ngỡ không bao giờ quên. Từ ở rừng, sau chiến thắng về thành phố, được sống cuộc sống tiện nghi: ở buyn-đinh, quen ánh điện, cửa gương… và vầng trăng tri kỉ tình nghĩa đã bị người tri kỉ xưa lãng quên, dửng dưng. Trăng được nhân hóa, lặng lẽ đi qua đường, như người dưng, chẳng còn ai nhớ, chẳng ai hay. Bất ngờ gặp một tình huống của nhịp sống thành thị: thình lình đèn điện tắt. Vầng trăng xưa xuất hiện, vần tròn, vẫn đẹp, vẫn thủy chung với con người. Cả một quá khứ đẹp và tình nghĩa ùa về rưng rưng trong lòng người lính, còn trăng thì im lặng. Người lính giật mình, cái giật mình của người lính trước sự im lặng của trăng xưa hiện về nơi thành phố hôm nay là một biểu tượng nghệ thuật mang tính hàm nghĩa độc đáo. Đó là sự bao dung, độ lượng, nghĩa tình, thủy chung của nhân dân, sự trong sáng mà không hề đòi hỏi được đền đáp.
Đây chính là phẩm chất cao đẹp của nhân dân mà tác giả muốn ngợi ca tự hào. Cũng là thông điệp hãy biết nhớ về quá khứ tốt đẹp, không nên sống vô tình. Đó chính là ý nghĩa sâu sắc của hình ảnh trăng trong bài thơ của Nguyễn Duy tự nhắn nhủ mình và muốn gửi gắm.
Phân tích hình ảnh Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí- Mẫu 9
Chính Hữu tên khai sinh là Trần Đình Đắc, sinh ngày 15/12/1926, tại thành phố Vinh, Nghệ An, quê ở Can Lộc, Hà Tĩnh. Ông là nhà thơ tiêu biểu trong kháng chiến với những bài thơ nói về cuộc sống của những người lính và những tâm tư tình cảm của bộ đội tham gia kháng chiến. Nói về những tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ Chính Hữu, chúng ta có thể nhắc tới bài thơ Đồng chí, sáng tác vào đầu năm 1948, sau khi Chính Hữu đã cùng đồng đội tham gia chiến dịch Thu đông 1947, đánh bại cuộc tấn công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Cảm nhận về bài thơ chúng ta không thể không ấn tượng với hình ảnh đầu súng trăng treo.
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Mở đầu cho hình ảnh đầu súng trăng treo là cảnh rừng hoang, sương muối âm u, lạnh giá. Dù khắc nghiệt nhưng những người lính vẫn thật kiên cường và cao đẹp. Họ vẫn “ đứng cạnh nhau” và “chờ giặc đến” làm chúng ta không khỏi tự hào và ngưỡng mộ. Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn bay bổng hòa quyện với nhau. . Câu kế tiếp là hình ảnh đầu súng trăng treo được tạo nên nhờ sự liên tưởng thông minh và độc đáo.
Trong đêm gác, anh bộ đội hướng mũi súng về phía trăng, trăng ngang tầm mũi súng, tạo cảm giác đầu súng trăng treo. Là hai hình ảnh đối lập, súng tượng trưng cho tinh thần chiến đấu bảo vệ cuộc sống tốt đẹp yên lành, trăng tượng trưng cho cuộc sống yên lành ấy. Ý thơ tạo liên tưởng bất ngờ do ý thơ lãng mạn để tạo ra một ý nghĩa tượng trưng. Ngoài ra còn thể hiện tinh thần chiến đấu bất khuất, tinh thần lạc quan, tin tưởng vào chiến thắng, vào tương lai tươi sáng của đất nước của những người chiến sĩ. Phải là một người có tâm hồn giàu lãng mạn và một phong thái ung dung bình tĩnh lạc quan thì mới có thể nhìn một hình ảnh nên thơ như thế. Chất lãng mạn được nổi bật trên hiện thực khắc nghiệt, thể hiện dụng ý nghệ thuật của tác giả.
Ai cũng biết rằng ánh trăng đã trở thành đề tài nổi bật cho những người chiến sĩ cách mạng, xa quê hương. Vận dụng khéo léo trong bài thơ Đồng chí, Chính Hữu đã tạo ra hình ảnh Đầu súng trăng treo thật đẹp và giàu sức khái quát.
Phân tích hình ảnh Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí- Mẫu 10
Không biết tự bao giờ ánh trăng đã đi vào văn học như một huyền thoại đẹp. Ở truyền thuyết “Chú cuội cung trăng” hay Hằng Nga trộm thuốc trường sinh là những mảng đời sống tinh thần bình dị đậm đà màu sắc dân tộc của nhân dân ta. Hơn thế nữa, trăng đã đi vào cuộc chiến đấu, trăng bảo vệ xóm làng, trăng được Chính Hun kết tinh thành hình ảnh “đầu súng trăng treo” rất đẹp trong bài thơ Đồng chí của mình.
Sau hơn mười năm làm thơ, Chính Hữu cho ra mắt tập “Đầu súng trăng treo”. Thế mới biết tác giả đắc ý như thế nào về hình ảnh thật đẹp, thơ mộng, rất thực nhưng không thiếu nét lãng mạn đó.
Đầu súng trăng treo – đó là một hình ảnh tả thực một bức tranh tả thực và sinh động. Giữa núi rừng heo hút “rừng hoang sương muối” giữa đêm thanh vắng tĩnh mịch bỗng xuất hiện một ánh trăng treo lơ lửng giữa bầu trời. Và hình ảnh này cũng thật lạ làm sao, súng và trăng vốn tương phản với nhau, xa cách nhau vời vợi bỗng hoà quyện vào nhau thành một hình tượng gắn liền. Nhà thơ không phải tả mà chỉ gợi, chỉ đưa hình ảnh nhưng ta liên tưởng nhiều điều. Đêm thanh vắng người lính bên nhau chờ giặc tới, trăng chếch bóng soi sáng rừng hoang bao la rộng lớn, soi sáng tình cảm họ, soi sáng tâm hồn họ… Giờ đây, người chiến sĩ như không còn vướng bận về cảnh chiến đấu sắp diễn ra, anh thả hồn theo trăng, anh say sưa ngắm ánh trăng toả ngời trên đỉnh núi, tâm hồn người nông dân “nước mặn đồng chua” hay “đất cày trên sỏi đá” cằn cỗi ngày nào bỗng chốc trở thành người nghệ sĩ đang ngắm nhìn vẻ đẹp ánh trăng vốn có tự ngàn đời. Phải là một người có tâm hồn giàu lãng mạn và một phong thái ung dung bình tĩnh lạc quan thì anh mới có thể nhìn một hình ảnh nên thơ như thế. Chút nữa đây không biết ai sống chết, chút nữa đây cũng có thể là giây phút cuối cùng ta còn ở trên đời này nhưng ta vẫn “mặc kệ”, vẫn say sưa với ánh trăng. Ánh trăng như xua tan cái lạnh giá của đêm sương muối, trăng tỏa sáng làm ngời ngời lòng người, trăng như cùng tham gia, cùng chứng kiến cho tình đồng chí đồng đội thiêng liêng của những người lính. Trăng truyền thêm sức mạnh cho họ, tắm gội tâm hồn họ thanh cao hơn, trong sạch hơn, trăng cũng là bạn, là đồng chí của anh bộ đội Cụ Hồ.
Đầu súng trăng treo – hình ảnh thật đẹp và giàu sức khái quát. Súng và trăng kết hợp với nhau: súng tượng trưng cho chiến đấu- trăng là hình ảnh của thanh bình hạnh phúc. Súng là con người, trăng là đất nước quê hương của bốn nghìn năm văn hiến. Súng là hình ảnh người chiến sĩ gan dạ kiên cường- Trăng là hình ảnh người thi sĩ. Sự kết hợp hài hoà tạo nên nét lãng mạn bay bổng vừa gợi tả cụ thể đã nói lên lí tưởng, mục đích chiến đấu mà người lính ấy đang tham gia. Họ chiến đấu cho sự thanh bình, chiến đấu cho ánh trăng mãi nghiêng cười trên đỉnh núi. Ta hãy tưởng tượng xem: giữa đêm khuya rừng núi trập trùng bỗng hiện lên hình ảnh người lính đứng đó với súng khoác trên vai, nòng súng chếch lên trời và ánh trăng lơ lửng ngay nòng ngọn súng. Đó là biểu tượng Khát Vọng Hoà Bình, nó tượng trưng cho tư thế lạ quan bình tĩnh, lãng mạn của người bảo vệ Tổ quốc.
Cái thân của câu thơ “Đầu súng trăng treo” nằm ở từ “treo”, ta thử thay bằng từ mọc thì thật thà quá, làm sao còn nét lãng mạn? Và hãy thay một lần nữa bằng từ “lên” cũng không phù hợp, vì nó là hiện tượng tự nhiên: trăng tròn rồi khuyết, trăng lên trăng lặn sẽ không còn cái bất ngờ màu nhiệm nữa. Chỉ có trăng “treo”. Phải, chỉ có “Đầu súng trăng treo” mới diễn tả hết được cái hay, cái bồng bềnh thơ mộng của một đêm trăng “đứng chờ giặc tới”, chẳng thơ mộng chút nào. Ta nên hiểu bài thơ dường như được sáng tác ở thời điểm hiện tại “đêm nay” trong một không gian mà mặt đất là “rừng hoang sương muối” lạnh lẽo và lòng đầy phấp phỏng giặc sẽ tới có nghĩa là cái chết có thể đến từng giây từng phút. Thế nhưng người lính ấy vẫn đứng cạnh nhau để tâm hồn họ vút lên nở thành vầng trăng. Nếu miêu tả hiện thực thì vầng trăng ấy sẽ có hình khối của không gian ba chiều. ở đây, từ điểm nhìn xa, cả vầng trăng và súng đều tồn tại trên một mặt phẳng và trong hội hoạ nó mang tính biểu tượng cao. Tố Hữu cũng có một câu thơ kiểu này: “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” và Phạm Tiến Duật thì “Và vầng trăng vượt lên trên quầng lửa” hay Hoàng Hữu “Chỉ một nửa vầng trăng thôi một nửa. Ai bỏ quên ở phía chân trời…”. Nhưng có lẽ hay nhất vẫn là “Đầu súng trăng treo”.
Như đã nói ở trên, không phải ngẫu nhiên mà Chính Hữu lấy hình ảnh “Đầu súng trăng treo” làm tựa đề cho tập thơ của mình. Nó là biểu tượng, là khát vọng và cũng là biểu hiện tuyệt vời chất lãng mạn trong bài thơ cách mạng. Lãng mạn nhưng không thoát li, không quên được nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Lãng mạn vì con người cần có những phút sống cho riêng mình. Trước cái đẹp mà con người trở nên thờ ơ lãnh đạm thì cuộc sống vô cùng tẻ nhạt. Âm hưởng của câu thơ đã đi đúng với xu thế lịch sử của dân tộc. Hình ảnh trăng và súng đã có nhiều trong thơ Việt Nam nhưng chưa có sự kết hợp kì diệu nào bằng hình ảnh Đầu súng trăng treo của Chính Hữu.
Nếu như Elsa Triolet – nữ văn sĩ Pháp có nói “Nhà văn là người cho máu” thì tôi hãnh diện nói với văn sĩ rằng: Chính Hữu đã cho máu để tạo nên câu thơ tuyệt vời để cống hiến cho cuộc kháng chiến của chúng ta. Và bạn ơi! Bạn hãy thả cùng tôi những chú chim trắng trên bầu trời, hãy hát vang lên ca khúc Hoà Bình vì hình ảnh đầu súng trăng treo mà nhà thơ đã gửi vào đó bao nhiêu khát vọng nay đã thành hiện thực.
Phân tích hình ảnh Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí- Mẫu 11
Đầu súng trăng treo là câu kết bài thơ Đồng chí, cũng là một biểu tượng đẹp về người chiến sĩ thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Trong đêm phục kích giữa rừng, bên cạnh hình ảnh thực là súng, là nhiệm vụ chiến đấu tạo nên con người chiến sĩ thì cái mộng, cái trữ tình là trăng.
Hình ảnh trăng tạo nên con người thi sĩ. Hình ảnh chiến sĩ, thi sĩ hài hòa với nhau trong cuộc đời người lính cách mạng. Hai hình ảnh đối lập đặt cạnh nhau tạo ra ý nghĩa vô cùng độc đáo. Súng là chiến tranh lạnh lùng, là gợi ra sự chết chóc, tàn phá, ghê sợ. Còn trăng là tượng trưng cho hòa bình, gợi lên sự thanh cao, hạnh phúc, thơ mộng, dịu dàng. Người lính cầm súng để bảo vệ hòa bình, khát khao hòa bình. Súng và trăng: cứng rắn và dịu hiền, chiến sĩ và thi sĩ, có người còn gọi đây là một cặp đồng chí.
Chính Hữu đã thành công với hình ảnh Đầu súng trăng treo – một biểu tượng thơ giàu sức gợi cảm. Tác giả đã từng nói: “Trong chiến dịch nhiều đêm có trăng đi phục kích giặc trong đêm trước mắt tôi chỉ có ba nhân vật: Khẩu súng, vầng trăng và người bạn chiến đấu. Ba nhân vật quyện với nhau tạo ra hình ảnh đầu súng trăng treo”.
Đầu súng trăng treo, đã trở thành một biểu tượng đẹp của người lính cách mạng Việt Nam: Hiện thực và lãng mạn, chiến sĩ và thi sĩ.
Phân tích hình ảnh Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí- Mẫu 12
Chính Hữu là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến. Chiến tranh là chất liệu làm nên nét chân thực, dữ dội và không kém phần lãng mạn trong những vần thơ ông viết. “Đồng chí” là bài thơ sáng tác trong thờ kì đất nước ta kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Hình ảnh người lính được khắc họa đậm nét và đầy ấn tượng. Sự khốc liệt của chiến tranh vẫn khiến cho thơ ông có sự mềm mại và trữ tình. Hình ảnh “đầu súng trắng treo” cuối bài thơ tiêu biểu cho khuynh hướng đó.
Bao trùm lên bài thơ “Đồng chí” là hình ảnh người lính cụ hồ hiên ngang, bất khuất, vượt qua mưa gió bão bùng, sự gian khổ và khắc nghiệt của thời tiết để hướng về phía trước. Cuộc sống nhọc nhằn, thiếu thốn vẫn không thể đánh gục những con người vì dân vì nước như vậy. Giữa rừng hoang sương muối bao phủ lấy, hình ảnh “đầu súng trăng treo” như một nét chấm phá tuyệt đẹp. Nó hiện lên trong trang viết của Chính Hữu như một bức tranh:
Đêm nay rừng hoang sương muối lạnh
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Nếu như ở hai câu thơ trên tái hiện lại sự khắc nghiệt, gian khổ của địa hình và thời tiết thì câu thơ thứ ba, duy nhất chỉ có trăng và súng lại rất thơ mộng và lãng mạn. Có lẽ đây chính là dụng ý của tác giả khi viết bài thơ này.
Giữa đếm đông giá lạnh, sương muối bao trùm khiến cho những người lính rét run người. Dù khắc nghiệt, gió khó khăn bủa vây nhưng hình tượng người lính vẫn hiện lên thật kiên cường và cao đẹp. Họ vẫn luôn “đứng cạnh bên nhau” để “chờ giặc tới”. Tư thế và tâm thế luôn sẵn sàng khiến cho chúng ta phải khâm phục và ngưỡng mộ.
Không phải vô tình mà 3 câu thơ này được tác ra làm một khổ riêng, có lẽ dụng ý của tác giả muốn làm nổi bật hình ảnh ‘đầu súng trăng treo” ở cuối bài thơ. Trên cái nền ảm đảm, khắc nghiệt, nguy hiểm của thiên nhiên và chiến tranh nhưng người lính vẫn luôn kiên cường, bất khuất. Họ luôn tràn đầy tình yêu và sự lạc quan để tiến về phía trước đánh đuổi kẻ thù.
Mặc dù hình ảnh “đầu súng trăng treo” gồm “trăng” và ‘súng”, tưởng như đối lập nhau giữa cái lãng mạn, trữ tình và cái hiện thực khắc nghiệt nhưng trong thơ Chính Hữu nó lại trở nên mềm mại. Trăng và súng không còn đối lập nhau nữa mà hòa quyện vào nhau làm nên một khung cảnh tuyệt đẹp giữa rừng hoang sương muối rơi ướt vai người lính.
Đấy chính là chất liệu lãng mạn nổi bật trên hiện thực khắc nghiệt. Đây thực sự là một hình ảnh đầy dụng ý nghệ thuật của tác giả. Người lính vẫn sẵn sàng canh gác bảo vệ tổ quốc, mũi súng hướng lên trời mà tác giả cứ ngỡ súng chạm vào trăng. Một nét điểm xuyết chấm phá tạo nên bức tranh đối lập nhưng vô cùng hài hòa và đầy tinh tế.
Những người lính có tuổi đời còn rất trẻ, họ có lý tưởng sống và cống hiến cho đất nước nhưng họ cũng ấp ủ những ước mơ bé nhỏ, một tình yêu bé nhỏ hay bóng dáng người con gái nào đó. Trong lòng họ vẫn luôn giữ được sự lạc quan, tin tưởng và sự lãng mạn đáng trân trọng. Chiến tranh khắc nghiệt nhưng không để nó làm trái tim người lính chai lì mới thực sự là điều đáng quý.
Bởi vậy mới có thể thấy rằng ‘đầu súng trăng treo” dường như lan tỏa thứ ánh sáng dịu nhẹ của ánh trăng xuống cánh rừng, lan vào lòng người lính sự mát dịu, trong lành nhất. Chính Hữu đã rất thành công khi xây dựng hình ảnh ‘đầu súng trăng treo” ám ảnh tâm trí người đọc như thế này. Gấp trang sách lại nhưng hình ảnh này còn neo đậu mãi.
Phân tích hình ảnh Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí- Mẫu 13
Cùng với sự phát triển của lịch sử dân tộc, văn học cũng có những bước chuyển mình và phát triển song song cùng với dòng chảy của lịch sử ấy. Văn học qua từng thời kì đều có những khuynh hướng phát triển riêng, nhưng về cơ bản có hai khuynh hướng chính chi phối nền văn học Việt Nam thời kì trung đại và cận hiện đại, đó chính là khuynh hướng yêu nước và khuynh hướng nhân đạo. Hai khuynh hướng này luôn có sự song song phát triển và tồn tại nhưng mỗi khi đất nước có chiến tranh thì khuynh hướng yêu nước lại phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết, nội dung chủ yếu của khuynh hướng này chính là tình yêu nước, tinh thần đoàn kết và sức mạnh quật cường của dân tộc Việt Nam. Vào cuộc kháng chiến chống pháp cứu nước đã có rất nhiều các tác phẩm thơ văn nói về tình yêu nước, tinh thần chiến đấu và một nội dung mới đó chính là tình đồng đội, đồng chí. Bài thơ tiêu biểu cho giai đoạn này có thể kể đến, đó chính là bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu.
Bài thơ “Đồng chí” được Chính Hữu sáng tác vào tháng hai năm 1948, đây là thời điểm cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào giai đoạn dữ dội và ác liệt. Thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn nhằm tấn công và tiêu diệt chiến khu Việt Bắc, cơ quan đầu não cách mạng và buộc quân ta đầu hàng, hoàn thành công cuộc chiếm đóng ở Việt Nam. Khi ấy quân và dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp vô cùng dữ dội, dù có những đau thương mất mát nhưng người Việt Nam kiên quyết bảo vệ từng tấc đất, đấu tranh đánh bại âm mưu tham độc của kẻ thù. Đồng chí được Chính Hữu sáng tác trong một cuộc hành quân ở khu vực rừng núi phía Bắc.
Bài thơ nói về tình đồng đội đồng chí gắn bó, sẻ chia với nhau từng miếng sắn, mảnh chăn, chia sẻ với nhau cả những tâm nguyện đầy chân thành, cảm động. Và bài thơ đặc biệt nhất ở chi tiết cuối bài thơ, câu thơ “Đầu súng trăng treo” mang nhiều ý nghĩa đặc biệt, độc đáo. Và cũng chính câu thơ góp phần làm nên những giá trị của bài thơ “Đồng chí”. Trước hết, để hiểu được ý nghĩa của câu thơ cuối bài thì ta cần hiểu hơn về nội dung của bài thơ cũng như nội dung chủ đạo của bài thơ là tình đồng đội, đồng chí trong chiến tranh. Có như vậy thì ta mới có thể hiểu trọn vẹn được ý nghĩa đẹp mà câu thơ cuối mang lại.
Nói về tình đồng đội, đồng chí, ngay phần mở đầu của bài thơ, nhà thơ Chính Hữu đã trực tiếp gợi mở những ấn tượng đầu tiên về bức tranh của tình đồng chí. Đó là bức tranh được vẽ lên bởi những nét tương đồng trong lí tưởng cao đẹp của họ:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Tôi với anh đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Như vậy, trong ấn tượng đầu tiên thì những người lính vốn không hề quen biết, cũng không hề có một mối liên hệ đặc biệt nào, họ đến từ những vùng quê khác nháu của tổ quốc, và nét tương đồng trong hoàn cảnh sống, đó là quê hương họ đều nghèo khó “nước mặn đồng chua” “đất cày lên sỏi đá”, từ hoàn cảnh sống có phần khó khăn, họ có cùng một lí tưởng đó là cầm súng chiến đấu bảo vệ đất nước, làng bản, bảo vệ chính cuộc sống của mình. Vì vậy mà họ từ những người vốn chẳng quen biết mà gặp nhau và trở thành những người đồng đội. Khi đó, lí tưởng chiến đấu khiến họ trở thành những người đồng đội, nhưng quá trình cùng chia sẻ những điều kiện sinh hoạt, chiến đấu đầy khó khăn, ác liệt khiến mối quan hệ đồng đội thắt chặt trở thành tình đồng chí:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí”
Xác định vào chiến trường là những người lính xác định dâng hiến hết mình cho nền độc lập, hòa bình của tổ quốc, thậm chí họ đánh đổi cả mạng sống của mình cho nền tự do, độc lập ấy. Họ luôn mang trong mình lí tưởng cao đẹp: sống, chiến đấu, hi sinh:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Vậy là những người lính một khi ra đi là họ quyết dâng hiến tất cả cho Tổ quốc thân yêu, họ mang trong mình tinh thần của những bậc chinh phu nghĩa sĩ xưa, coi cái chết nhẹ tựa hồng mao. Những từ ngữ như “gửi”, “mặc kệ” nghe qua dường như là sự vô tư, bất cần, tinh thần xả thân vô tư của những người lính. Nhưng thực sự liệu có phải chỉ có như vậy không? Những người lính họ yêu đất nước nhưng họ cũng yêu gia đình, làng quê, xứ sở của mình. Đối với nơi mình yêu thương, gắn bó đâu có phải nói đi là không có chút lưu luyến gì.
Nhưng họ càng yêu quê hương, càng gắn bó với nó thì họ lại càng quyết tâm chiến đấu. Những lời tâm sự của những người lính với nhau là những lời dặn dò, là những trách nhiệm họ muốn những người đồng đội thực hiện thay mình, vì họ lường hết được cái ác liệt của chiến tranh, sự sống trong không gian mưa bom bão đạn ấy cũng hết sức mỏng manh.
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Những câu thơ cuối thật đẹp, đẹp bởi hình ảnh hiên ngang, bất khuất của những người lính trong không gian đầy khắc nghiệt của núi rừng. Hoàn cảnh chiến đấu nơi thâm sơn cùng cốc vốn đầy khắc nghiệt, hiểm nguy, trong không gian đêm khuya, sương muối dày đặc lạnh cắt da cắt thịt nhưng những người lính vẫn đứng bên nhau. Họ thức làm nhiệm vụ, họ chờ giặc tới, để giành được thắng lợi cuối cùng thì không có một phút giây nào được lơ là mất cảnh giác, kể cả đêm khuya, thời tiết khắc nghiệt cũng không làm bước chân của họ lùi bước, không làm cho ý chí của họ bị lay chuyển, ảnh hưởng.
Hình ảnh cuối bài thơ “Đầu súng trăng treo” được coi là hình ảnh đẹp, ý nghĩa nhất của bài thơ. Câu thơ tuy chỉ có bốn chữ nhưng lại gợi cho chúng ta rất nhiều những liên tưởng độc đáo. Trước tiên, ta có thể hiểu là súng là những thứ vũ khí mà những người lính luôn mang theo bên người. Vì vậy mà khi người lính đứng gác đêm thì ngọn súng cũng trở thành những người bạn đồng hành trong cuộc chiến đấu ấy. Và dưới ánh trăng thì hình ảnh ngọn súng dường như đón nhận mọi ánh sáng của mặt trăng, nhìn từ xa thì mặt trăng như treo ở trên ngọn súng. Tuy nhiên đó chỉ là cách cảm nhận trực tiếp, theo tôi còn có một cách hiểu mang nhiều ý nghĩa hơn.
Ngọn súng là vũ khí của những người lính nhưng nó cũng là biểu tượng của chiến tranh, của sự hủy diệt bạo tàn. Còn ánh trăng lại thuộc về tự nhiên, nó biểu tượng cho cái đẹp, cho nền hòa bình mà người Việt Nam vẫn ngày đêm đấu tranh bảo vệ. Sự giao thoa giữa ngọn súng và vầng trăng như thể hiện được khát vọng hòa bình, khát vọng về một cuộc sống bình yên, không tiếng súng, không chiến tranh, không có sự hủy diệt. Đó là một đời sống lí tưởng mà những người lính hướng tới.
Phân tích hình ảnh Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí- Mẫu 14
Nhà thơ Chính Hữu là một nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến. Ông thường viết về những cuộc chiến tranh đầy nét chân thực, dữ dội mà không kém phần lãng mạn trong những vần thơ. “Đồng Chí” là một trong những bài thơ mà ông sáng tác trong thời kỳ đất nước ta kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” cuối bài thơ được miêu tả một cách tiêu qua qua những hình ảnh người lính được khắc hoạ đậm nét và đầy ấn tượng và sự khốc liệt của chiến tranh nhưng thơ ông vẫn giữ được sự mềm mại và trữ tình.
Bài thơ “Đồng Chí” được bao trùm lên bởi hình ảnh người lính cụ hồ hiên ngang, bất khuất, vượt qua mưa gió bão bùng, sự gian khổ và khắc nghiệt của thời tiết để hướng về phía trước. Cuộc sống nhọc nhằn, thiếu thốn thế nhưng vẫn không thể đánh gục ý chí và tinh thần của những con người vì nước vì dân như vậy. Giữ rừng hoang vu sương muối bao quanh lấy. Hình ảnh “đầu súng trăng treo”như một nét chấm phá tuyệt đẹp. Nó hiện lên trong trang viết của Chính Hữu như một bức tranh:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Nếu như hai câu thơ trên tái hiện lại sự khắc nghiệt, gian khổ của địa hình và thời tiết thì câu thơ thứ ba duy nhất chỉ có ánh trăng và súng lại rất thơ mộng và lãng mạn. Có lẽ đây chính là dụng ý của tác giả khi viết bài thơ này. Giữa đêm đông lạnh giá, sương muối bao chùm vây quanh khiến cho người lính rét run người. Dù có khắc nghiệt, khó khăn vây quanh mình nhưng hình tượng người lính vẫn hiện lên kiên cường và cao đẹp. Họ vẫn luôn”đứng bên nhau” để chờ”giặc tới” tư thế và tâm thế của họ luôn sẵn sàng khiến cho chúng ta càng khâm phục và ngưỡng mộ.
Không phải vô tình mà ba câu thơ này lại được sáng tác thành một khổ riêng mà đó có lẽ là dụng ý của tác giả muốn làm nổi bật hình ảnh “đầu súng trăng treo” ở cuối bài thơ. Trên cái nền ảm đạm, khắc nghiệt, nguy hiểm của thiên nhiên và cảnh chiến tranh nhưng người lính vẫn luôn kiên cường, bất khuất. Họ luôn tràn đầy tình yêu và lạc quan để tiến về phía trước đánh đuổi kẻ thù.
Mặc dù hình ảnh “đầu súng trăng treo” gồm “súng” và “trăng”tưởng như đối lập nhau giữa cái lãng mạn chữ tình cái hiện thực khắc nghiệt nhưng trong thơ chính hữu nó lại trở nên mềm mại. Súng biểu tượng cho người chiến sĩ, trăng biểu tượng cho người thi sĩ. Trăng và súng không đối lập với nhau mà hoà quyện vào nhau tạo nên một khung cảnh tuyệt đẹp giữ rừng hoang sương muối rơi ướt vai người lính.
Ánh trăng đã trở thành đề tài nổi bật cho những người chiến sĩ cách mạng xa quê hương xa những người thân để đi chiến đấu chính vì vậy những nỗi nhớ quê hương được thể hiện qua ánh trăng, những hình ảnh đó đã tạo nên sự gần gũi, hình ảnh quen thuộc trong mọi cách nghĩ và hình dung ra những hình ảnh mang ý nghĩa đặc biệt hơn. Hàng loạt các chi tiết đã mang lại ký ức đẹp và nó trở nên quen thuộc và gần gũi với con người hơn.
Ánh trăng đã trở nên quen thuộc và gắn bó trong từng kỉ niệm và các khoảnh khắc của tác giả, nó đã mang trong chúng ta những điều gần gũi khi hình ảnh “đầu súng trăng treo” luôn trở thành một đề tài nổi bật của tác giả. Những hình ảnh đó đã tác động mạnh mẽ đến con người, đã cho người chiến sĩ những kỉ niệm sâu sắc vô cùng.
Những người lính họ có tuổi đời còn rất trẻ, họ có lý tưởng sống và cống hiến cho đất nước nhưng họ cũng luôn ấm ủ trong mình những ước mơ bé nhỏ, một tình yêu bé nhỏ hay là bóng dáng một người con gái nào đó. Trong lòng họ vẫn luôn luôn giữ được sự lạc quan, tin tưởng và sự lãng mạn đáng trân trọng. Chiến tranh khắc nhiệt nhưng không để nó làm trái tim của những người lính bị chai lì mới thực sự là điều đáng quý. Bởi vậy, có thể thấy rằng hình ảnh “đầu súng trăng treo” dường như lan toả thứ ánh sáng dịu nhẹ của ánh trăng xuống cánh rừng lan vào lòng những người lính mát dịu và trong lành nhất.
Hình ảnh “đầu súng trăng treo” thực sự là một hình ảnh đầy dụng ý của tác giả. Người lính vẫn sẵn sàng canh gác bảo vệ tổ quốc, mũi súng luôn hướng lên trời mà tưởng chừng có thể chạm đến trăng. Một nét điểm xuyết tạo nên một bức tranh đối lập nhưng vô cùng hài hoà và tinh tế. Nhà thơ chính hữu đã thành công khi xây dựng hình ảnh “đầu súng trăng treo” đi sâu vào tâm trí người đọc.
Phân tích hình ảnh Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí- Mẫu 15
Trong thời kỳ kháng chiến của Việt Nam xuất hiện biết bao nhà thơ kháng chiến. Có lẽ chính họ đang sống trong cái thời kỳ chiến tranh kịch liệt, đứng giữa sự sống và cái chết. Chứng kiến những cuộc sống gian khổ, tâm hồn thi sĩ của họ đã thốt lên thành những câu thơ, bài hát. Và điển hình trong những nhà thơ cách mạng đó chính là Chính Hữu.
Nói đến ông là người ta sẽ nhớ đến ngay bài thơ “Đồng Chí”. Một bài thơ tạo bởi những nét bút chân thực, dữ dội nhưng trong đó là những sự lãng mạn. Hình ảnh người lính đã được khắc họa vô cùng đậm nét trong bài thơ. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu. Một câu thơ phải nói là hay nhất và ẩn chứa trong đó nhiều điều nhất.
Cả bài thơ Đồng Chí khi chúng ta đọc lên, chúng ta sẽ thấy được hình ảnh những người lính cụ Hồ vượt qua gian khó, hiên ngang, bất khuất. Họ đã phải hứng chịu mọi gian khổ sống trong rừng hoang, lạnh tê người bởi những làn sương muối lạnh. Nhưng trong cái gian khổ đó, họ ủ ấm tình yêu thương đoàn kết bên nhau. Đứng cạnh bên nhau canh gác chờ đợi kẻ thù đến.
Và trong cái khung cảnh “rừng hoang sương muối lạnh đó” họ dường như vẫn thức tỉnh được tâm hồn lãng mạn của mình. Trong cái ánh “trăng treo” ngay ở phía trên đầu họ tưởng như treo trên “đầu súng”.
Một hình ảnh tuyệt đẹp, tạo nên một nét chấm phá trong một không gian hoang sơ và lạnh lẽo. Nếu như hai câu thơ trên thể hiện sự khắc nghiệt của thời tiết. Và người lính vẫn bất chấp những khắc nghiệt bủa vây quanh mình. Vẫn hiên ngang không hề sợ hãi “chờ giặc tới” với tâm thế luôn sẵn sàng khiến người đọc phải thực sự ngưỡng mộ. Thì câu cuối của khổ thơ “đầu súng trăng treo” khiến chúng ta phải ngưỡng mộ họ hơn. Khi mà trong cái hoàn cảnh khó khăn đó vẫn toát lên được một vẻ đẹp tâm hồn của họ, đó là sự yêu đời, sự lạc quan.
“Súng” và “trăng” hai hình ảnh này thực sự là khác nhau. “Súng” đại điện cho đấu tranh, và tượng trưng cho điều gì đó mạnh mẽ. “Trăng” là đại diện cho vẻ đẹp của thiên nhiên, sự mềm mại của cuộc sống, với những khát vọng. Phải chăng nhà thơ đang muốn hòa quyện hai hình ảnh này. Ông muốn nói đến việc những người lính đã phải đang dùng đến sức mạnh của “súng” để có thể có được những khát vọng hòa bình dưới “ánh trăng”.
Cái lãng mạn trữ tình và cái hiện thực khắc nghiệt đã thực sự quyện vào nhau làm nên một khung cảnh tuyệt đẹp giữa núi rừng hoang sương muối lạnh. Một chất liệu lãng mạn trong sự khắc nghiệt đã làm nổi bật lên cho toàn bài thơ. Những người lính Việt Nam dù tuổi đời còn trẻ, nhưng họ luôn sẵn sàng gánh vác nhiệm vụ bảo vệ đất nước. Cho dù họ có thể phải hi sinh thân mình. Nhưng họ hiểu “không có tự do” thì “không có gì cả”. Không có “đất nước” thì coi như họ “đã chết”. Chiến đấu với kẻ thù để bảo vệ tổ quốc là nhiệm vụ và trách nhiệm của họ.
Hình ảnh người lính thức đêm canh gác biên cươngThế nên dù có khó khăn gian khổ thế nào tâm thế của họ vẫn thể hiện hiên ngang, vẫn lạc quan, vẫn có sự lãng mạn bay bổng. Ngắm lên trời cao trong một tiết trời giá lạnh, rừng hoang âm u. Thấy được ánh trăng đẹp có khác gì trăng đang treo trên “đầu súng” với mũi súng hướng lên trời cao.
Một bức tranh đối lập nhưng đã được nhà thơ Chính Hữu thể hiện một cách tinh tế tạo nên một sự hài hòa đặc sắc. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” như là một sự lan tỏa dịu nhẹ cho toàn bài thơ. Nó cũng như một sự an ủi cho tâm hồn của những người lính trẻ. Những người đọc cũng cảm thấy có một thứ gì đó thật trong sáng. Thật lãng mạn trong tâm hồn người lính, cảm thấy được tình yêu đời của họ, những khát khao của họ về một cuộc sống yên bình.
Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong một câu thơ đã để lại bao nhiêu cảm xúc trong lòng người đọc. Một câu thơ khiến chúng ta phải ngưỡng mộ những người lính Việt Nam kiên cường bất khuất.
Phân tích hình ảnh Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí- Mẫu 16
Từ bao giờ ánh trăng đã đi vào văn học như một huyền thoại đẹp. Trong truyền thuyết cung trăng hay Hằng Nga ăn trộm thuốc trường sinh, đó là những mảnh ghép trong đời sống tinh thần bình dị đậm đà màu sắc dân tộc của nhân dân ta. Hơn nữa, trăng ra trận, trăng che chở cho xóm làng, trăng được Chính Hữu kết tinh thành hình ảnh đầu súng trăng treo thật đẹp trong bài thơ Đồng chí. Sau hơn mười năm làm thơ, Chính Hữu cho xuất bản tập thơ Đầu súng, Trăng treo. Vậy là tác giả hài lòng với hình ảnh đẹp, nên thơ, rất thực nhưng không thiếu phần lãng mạn đó.
Đầu súng trăng treo – đó là bức tranh tả thực về một bức tranh chân thực và sống động. Giữa núi rừng, rừng hoang sương muối giữa đêm vắng thanh bình bỗng hiện ra vầng trăng treo lơ lửng trên trời. Và hình ảnh này thật lạ lùng làm sao, súng và trăng vốn đối lập với nhau bao lâu nay đã xa cách bỗng hòa vào nhau thành một hình ảnh nối kết. Nhà thơ không miêu tả mà chỉ gợi, chỉ đưa ra những hình ảnh nhưng ta liên tưởng được nhiều điều. Trong đêm quạnh hiu, người lính cùng nhau chờ giặc tới, ánh trăng soi sáng hoang vu bao la, soi sáng tâm hồn, soi sáng cả tâm hồn…
Giờ đây, người lính dường như không còn quan tâm đến cảnh chiến đấu sắp tới, anh thả hồn theo trăng, anh say mê ngắm nhìn ánh trăng soi trên đỉnh núi, tâm hồn của người nông dân chua ngoa, hay trồng trọt.Trên phiến đá cằn cỗi, bỗng một ngày trở thành người nghệ sĩ đang ngắm nhìn vẻ đẹp của ánh trăng ngàn năm đã có. Phải là một người có tâm hồn lãng mạn, phong thái điềm đạm, lạc quan mới có thể nhìn thấy một hình ảnh nên thơ như vậy. Chút nữa thôi, không biết ai sống ai chết, đây có thể là giây phút cuối cùng của tôi trên cõi đời này, nhưng tôi vẫn mặc kệ, vẫn say sưa với ánh trăng.
Ánh trăng như xua tan đi cái lạnh của đêm sương, trăng tỏa sáng rực rỡ làm cho lòng người sáng ngời, trăng như hòa vào để làm chứng cho tình đồng chí thiêng liêng của những người lính. Trăng cho họ sức mạnh, tắm mát tâm hồn họ thêm trong sáng, cao thượng, trăng còn là người bạn, người đồng chí của anh bộ đội cụ Hồ.
Đầu súng trăng treo – hình ảnh đẹp giàu sức khái quát. Tổ hợp súng và trăng; súng tượng trưng cho chiến trận – vầng trăng là hình ảnh của hòa bình và hạnh phúc; súng là người – trăng là quê hương bốn nghìn năm văn hiến. Súng là hình ảnh của người lính dũng cảm, kiên cường – vầng trăng là hình ảnh của thi nhân. Sự kết hợp hài hoà tạo nên chất lãng mạn bay bổng và nét tả cụ thể nói lên lí tưởng, mục đích chiến đấu mà người lính đang tham gia. Họ chiến đấu vì hoà bình, chiến đấu vì ánh trăng trên đỉnh núi. Thử tưởng tượng giữa đêm khuya núi rừng trập trùng bỗng hiện lên hình ảnh người lính hào hoa với khẩu súng trên vai, nòng súng hướng lên trời trăng lơ lửng. ngay tại thùng. Đó là biểu tượng của khát vọng hòa bình, tượng trưng cho tư thế lạc quan, điềm tĩnh và lãng mạn của người chiến sĩ bảo vệ Tổ quốc.
Thần của câu thơ Đầu súng trăng treo chữ treo, ta thử thay bằng chữ mọc, thì làm sao có sự lãng mạn? Và thay bằng chữ lên cũng không phù hợp, bởi đó là hiện tượng tự nhiên: trăng tròn rồi khuyết, trăng mọc rồi trăng lặn, sẽ không còn những điều bất ngờ kỳ diệu nữa. Chỉ có trăng treo. Vâng, chỉ có Đầu súng trăng treo mới lột tả hết được vẻ đẹp, sự bồng bềnh nên thơ của một đêm trăng chờ giặc tới, không thơ mộng chút nào. Ta nên hiểu rằng bài thơ dường như được sáng tác vào thời điểm hiện tại đêm nay, trong một không gian mà mặt đất là rừng sương lạnh và lòng đầy nơm nớp lo sợ quân thù đến gần, nghĩa là cái chết có thể ập đến từng giây từng phút.
Nhưng người lính ấy vẫn sát cánh bên nhau để tâm hồn họ cùng bay bổng, cùng nhau nở hoa dưới trăng. Nếu được mô tả thực tế, mặt trăng đó sẽ có hình dạng của không gian ba chiều. Ở đây, nhìn từ xa, cả trăng và súng đều tồn tại trên một mặt phẳng, và trong hội họa, nó mang tính tượng trưng cao. Tố Hữu cũng có câu thơ như thế này: Ánh sao trên đầu súng anh đội nón, Phạm Tiến Duật Vầng trăng lên bếp lửa hay Hoàng Hữu Còn nửa vầng trăng – Ai quên phía chân trời…
Như trên đã nói, không phải ngẫu nhiên mà Chính Hữu lại lấy hình ảnh đầu súng trăng treo làm nhan đề cho tập thơ của mình. Đó là biểu tượng, khát vọng và cũng là biểu hiện tuyệt vời của chất lãng mạn trong thơ ca cách mạng. Lãng mạn nhưng không trốn tránh, không quên bổn phận và trách nhiệm của mình. Lãng mạn vì người ta cần có những khoảnh khắc riêng của cuộc đời. Trước cái đẹp mà con người trở nên thờ ơ, cuộc sống tẻ nhạt vô cùng. Âm hưởng của bài thơ đã đi đúng vào trào lưu lịch sử của dân tộc. Hình ảnh trăng và súng đã được tìm thấy nhiều trong thơ ca Việt Nam và hình ảnh đầu súng trăng treo của Chính Hữu là một trong những hình ảnh đẹp trong kho tàng thơ ca dân tộc.
Phân tích hình ảnh Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí- Mẫu 17
Sau tác phẩm Trở về, Chính Hữu tiếp tục viết về người lính trong kháng chiến, đây cũng là một mảng đề tài rất mới của văn học cách mạng. Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu đánh dấu sự thành công của ông khi viết về đề tài này. Trong bài thơ, tác giả không sử dụng nhiều nghệ thuật, ngôn ngữ giản dị như trong bộ quân phục nhưng hình ảnh thơ đẹp là điều mà bất cứ người đọc nào cũng có thể nhận thấy trong thơ ông. Đặc biệt là hình ảnh cuối bài thơ “Đầu súng trăng treo”.
Cả bài thơ được viết với bút pháp hiện thực, hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ rất thực, gian khổ của chiến tranh rất thực, tình đồng chí của người lính rất thực và những đêm chờ giặc đến cũng rất thực:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Những người lính được giới thiệu trong bài thơ là những người gắn bó với ruộng đồng, với “vườn không nhà trống” nhưng họ “bất chấp” như lẽ phải, sẵn sàng từ bỏ tất cả để đánh giặc. Người lính ra trận thì hiểu nhau đến tận xương tủy, khó khăn gì cũng chia sẻ với nhau. Họ đã sát cánh chiến đấu bằng tình yêu nồng nàn nhất, cái “nắm tay” đến đúng lúc để họ xóa đi bao gian nan:
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày.
Tất cả những lí do đó đủ để Chính phủ kết thúc bài thơ bằng ba câu thơ ngắn chứa đựng hình ảnh người lính. Họ phục kích trong những đêm “sương” lạnh và độc, còn độc và lạnh hơn cả khi “áo rách”, “chân không”, nhưng hơi ấm từ tình đồng chí đã sưởi ấm chính người lính. Sở dĩ sẵn sàng “chờ giặc tới” là do được “kề vai sát cánh”, cùng nhau gắn bó, chia sẻ gian khổ nơi chiến trường. Những câu thơ không chỉ ra khói bụi của chiến tranh mà cho ta thấy sự khốc liệt của hoàn cảnh khắc nghiệt mà hoàn cảnh mang lại.
Sau những câu tự sự dài này, câu cuối của bài thơ “Đầu súng trăng treo” chỉ có 4 tiếng khiến nhịp thơ đang lan tỏa đột ngột thay đổi, cô đọng, gây chú ý lớn. trong đầu đọc. cộng đồng địa phương. người đọc. Chữ “treo” tạo nên sự liên tưởng bất ngờ nối mặt đất với không gian bao la. Đó có lẽ là cái hay nhất của bài thơ. Một số người đã nghĩ rằng “mặt trăng” tượng trưng cho hòa bình, nghệ thuật và chất lượng thơ ca. “Súng” tượng trưng cho sự giao tranh, khốc liệt và hiện thực của chiến tranh nên biểu tượng của người lính đang chiến đấu vì cuộc sống hòa bình. Nhưng Chính Hữu từng tâm sự: “Trong chiến dịch, có nhiều đêm trăng sáng. Đi phục kích trong đêm, trước mặt tôi là ba nhân vật: cây súng, vầng trăng và người bạn chiến đấu. Ba nhân vật đó hòa quyện vào nhau tạo nên hình tượng “Đầu súng trăng treo”.
Như vậy, chúng ta cần hiểu rằng, biểu tượng mà Chính Hữu xây dựng được tạo nên từ những câu thơ bay bổng trong hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt. Suốt đêm, trăng từ trên cao rơi xuống, có lúc như treo đầu súng. Những đêm phục kích như vậy với người lính như những người bạn. Vì vậy, hình ảnh người lính trong bài thơ không hẳn là chiến đấu mà là tình cảm của những con người cùng chung lý tưởng.
“Đầu súng trăng treo” là một hình ảnh thơ đẹp và độc đáo, xứng đáng khép lại một tác phẩm thơ thành công của Chính Hữu.
Trên đây là nội dung bài học Phân tích hình ảnh Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí hay nhất (17 mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập
- Hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay (25 mẫu)
- Rừng là lá phổi xanh của nhân loại. Em hãy viết bài văn trình bày suy nghĩ của em về ý kiến trên (5 mẫu)
- Bạo lực học đường đang là vấn đề được cả xã hội quan tâm. Em hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề trên (51 mẫu)
- Viết một đoạn văn ngắn nói về cảm xúc của em khi được thưởng thức một tác phẩm văn nghệ (truyện, thơ, phim, ảnh, tượng,…), trong đoạn văn đó có câu chứa thành phần tình thái hoặc cảm thán (25 mẫu)
- Nêu một tác phẩm văn nghệ mà em yêu thích và phân tích ý nghĩa, tác động của tác phẩm ấy đối với mình (9 mẫu)
- Phân tích Tiếng nói của văn nghệ của Nguyễn Đình Thi lớp 9 hay nhất (17 mẫu)