Mời các em theo dõi nội dung bài học về Nhóm tác giả Ngô gia văn phái là ai? Phong cách văn chương của nhóm tác giả Ngô gia văn phái do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.
Nhóm tác giả Ngô gia văn phái là ai?
– Là một nhóm tác giả Việt Nam thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội).
– Là một nhóm các nhà văn Việt Nam thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội). Ngô Chi Thất và Ngô Trân là người đề xướng và dựng nên Văn phái, về sau được mệnh danh là Ngô gia văn phái, gồm 20 tác giả thuộc 9 thế hệ, trên dưới 200 năm, từ đầu thế kỷ thứ 17 đến đầu thế kỷ thứ 20.
Bạn đang xem: Nhóm tác giả Ngô gia văn phái là ai? Phong cách văn chương của nhóm tác giả Ngô gia văn phái
– Ngô Chi Thất và Ngô Trân là người đề xướng và dựng nên Văn phái, về sau được mệnh danh là Ngô gia văn phái.
– Ngô gia văn phái gồm 20 tác giả thuộc 9 thế hệ, trong đó hai tác giả chính là Ngô Thì Chí (1753 – 1788) làm quan thời Lê Chiêu Thống và Ngô Thì Du (1772-1840), làm quan dưới triều nhà Nguyễn.
– Ngoài ra, còn là tên một bộ sách tập hợp các tác phẩm của các thành viên trong Ngô gia văn phái. Bộ sách do Ngô Thì Trí đề xướng và khởi công biên soạn tập đầu tiên. Ngô Thì Điển làm công tác biên tập. Trong sách có 2 bài tựa, một là của Phan Huy Ích, hai là của Ngô Thì Trí. Đây là bộ sách có tính chất sưu tập nhằm nêu cao truyền thống văn hóa, văn học của dòng họ Ngô Thì, chứ không có tính chất một hợp tuyển hay một tổng tập của những tác giả cùng một trường phái, một khuynh hướng tư tưởng và sáng tác. Lúc đầu, chỉ gồm các tác giả từ Ngô Thì Ức đến Ngô Thì Điển, về sau được bổ sung thêm cho đến tác giả cuối cùng là Ngô Thì Giai, tổng cộng là 15 người, trong đó có nhiều tác giả nổi bật như Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, Ngô Thì Hương,… Các tác phẩm đều bằng chữ Hán, bao gồm đủ các thể loại, nhiều nhất là thơ, rồi tới phú, truyện ký, tự, bạt, khải, biểu, tấu, sớ…Hiện có nhiều bản chép tay trong các thư viện, nhưng tương đối đầy đủ hơn cả là hai bộ sách mang ký hiệu A117a và VHv.1743 ở Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội).
Các thành viên nhóm tác giả Ngô gia văn phái
– Ngô Thì Ức (1709 – 1736), hiệu là Tuyết Trai cư sĩ, là con trai của Ngô Trân. Ông là tác giả đầu tiên có tên trong Ngô gia văn phái. Tác phẩm chính của ông là: Nam trình liên vịnh tập và Nghi vịnh thi tập.
– Ngô Thì Sĩ (1726 – 1780), tự là Thế Lộc, hiệu là Ngọ Phong, là con trai trưởng của Ngô Thì Ức. Tác phẩm chính của ông là: Đại Việt sử ký tiền biên, Việt sử tiêu án, Khuê ai lục, Ngọ Phong văn tập…
– Ngô Thì Đạo (1732 – 1802), hiệu là Ôn Nghị và Văn Túc, là con trai của Ngô Thì Ức. Tác phẩm chính của ông là: Hoành từ Hiến sát Văn Túc công di thảo.
– Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803), tự là Hy Doãn, hiệu là Đạt Hiên, là con trai trưởng của Ngô Thì Sĩ. Ông làm quan nhà Hậu Lê và là một danh sĩ nổi danh. Ngoài ra, ông còn là người có công lớn trong việc giúp triều Tây Sơn đánh lui quân Thanh xâm lược. Tác phẩm chính của ông là: Hàn các anh hoa, Doãn thi văn tập, Yên đài thu vịnh, Hoàng hoa đồ phả, Cúc đường bách vịnh…
– Ngô Thì Chí (1753–1788), tự là Học Tốn, hiệu là Uyên Mật, là con trai thứ hai của Ngô Thì Sĩ. Tác phẩm chính của ông là: Học Phi thi tập, Học Phi văn tập và Hào mân khoa sứ. Ngoài ra, ông chính là người khởi đầu viết bộ tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng Hoàng Lê nhất thống chí 17 hồi, mà 7 hồi đầu là do ông viết.
– Ngô Thì Trí (1766-?), hiệu là Dưỡng Hạo, là con trai thứ sáu của Ngô Thì Sĩ. Ông chính là người khởi xướng việc sưu tập tác phẩm của các tác giả dòng họ Ngô Thì, nhờ vậy mà ngày nay văn học Việt Nam có được bộ sách Ngô gia văn phái đồ sộ.
– Ngô Thì Điển (?-?), tự là Kính Phủ, hiệu là Tĩnh Trai, là con trai trưởng của Ngô Thì Nhậm. Tác phẩm của ông chỉ có tập Dưỡng chuyết thi văn. Theo đề xướng của chú là Ngô Thì Trí, ông đã ra sức biên tập và làm ra bộ sách Ngô gia văn phái.
– Ngô Thì Hoàng (1768-1814), còn có tên là Tịnh, hiệu là Huyền Trai, biệu hiệu là Thạch Ổ cư sĩ, là con trai của Ngô Thì Sĩ. Tác phẩm của ông chỉ có Thạch Ổ di chương.
– Ngô Thì Du (1772-1840), tự là Trưng Phủ, hiệu là Văn Bác, là con trai của Ngô Thì Đạo. Dưới triều Nguyễn, ông được bổ làm Đốc học Hải Dương. Nhưng chẳng bao lâu sau, ông xin được từ chức, về ở quê nhà. Tác phẩm chính của ông là quyển Trưng Phủ công thi văn.
– Ngô Thì Hương (1774-1821) còn có tên là Vị, tự là Thành Phủ, hiệu là Ước Trai, là con trai của Ngô Thì Sĩ. Ông lớn lên trong cảnh gia đình họ Ngô Thì đã sa sút, cha đã qua đời và anh cả là Ngô Thì Nhậm thì đang gặp chuyện phiền phức. Khi Gia Long lên ngôi (1802), ông làm quan triều Nguyễn, và 2 lần được cử đi sứ sang Trung Quốc. Tác phẩm chính của ông là: Mai dịch thú dư (Cỗ xe sứ trạm), Thù phụng toàn tập (Toàn tập xướng họa)…
– Ngô Thì Hiệu (1791-1830), tự là Tử Thị, hiệu là Dưỡng Hiên, biệt hiệu là Hoa Lâm tản nhân, là con trai của Ngô Thì Nhậm. Tuy ông chỉ là Giám sinh nhưng sáng tác khá nhiều thơ văn. Tác phẩm chính của ông là: Nam du thi tập, Lạng hành ký sự, Quan ngư ký, Khôn trinh ký lục, Dạ trạch phú ký…
– Ngô Thì Giai (1818-1881), tự là Cường Phù, hiệu làVân Lâm cư sĩ, biệt hiệu là Thanh Xuyên, là con trai của Ngô Thì Hiệu. Ông là danh sĩ đời vua Tự Đức, có nhiều thơ văn được chép trong bộ sách Ngô gia văn phái, và ông cũng là người cuối cùng được biên chép trong bộ sách này. Con ông là Ngô Giáp Đậu, tác giả sách quyển truyện lịch sử Hoàng Việt hưng long chí.
– Ngô Thì Thập (?-?) tham gia viết Hoàng Lê nhất thống chí.
– Ngô Thì Lữ là con của Ngô Thì Chí.
– Ngô Giáp Đậu (1853-1929), là con trai của Ngô Thì Giai. Năm 1891, ông thi đỗ cử nhân khoa Tân Mão tại trường thi Hà Nam (tức trường Hà Nội và Nam Định hợp thi), được bổ làm hành tẩu, sau chuyển sang ngạch học quan từ chức giáo thụ lên đến chức đốc học. Ông là người suốt đời tận tụy với nghề dạy học và biên soạn sách (đa phần là sách sử). Tác phẩm của ông gồm có: Hoàng Việt hưng long chí, Trung học Việt sử toát yếu,…
Phong cách văn chương của nhóm tác giả Ngô gia văn phái
Ngô gia văn phái là nhóm những nhà Nho mang đậm tư tưởng trung quân, ái quốc. Minh chứng rõ ràng cho điều này là Ngô Thì Chí đã từng chạy theo vua Lê Chiêu Thống trong thời gian lần thứ hai Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc nhằm tiêu diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Ngoài ra, Ngô Thì Chí cũng chính là người dâng “Trung hưng sách” để lập kế khôi phục nhà Lê. Đồng thời ông cũng được vua Chiêu Thống cử đi chiêu tập binh sĩ nhằm chống lại đội quân Tây Sơn. Tuy nhiên, trên đường đi, ông không may bị bệnh và mất tại Bắc Ninh
– Ngô gia văn phái được đánh giá là những cây bút trung thực mang tư tưởng tiến bộ. Những tác phẩm của văn phái này phản ánh chân thực, sinh động những sự kiện đã diễn ra trong khoảng 30 năm (từ cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX)
– Các tác phẩm của Ngô gia văn phái phản ánh được rất nhiều mặt trong thời kỳ lịch sử như: đời sống xã hội, chính trị, văn hóa qua các triều đại: Hậu Lê, Tây Sơn và triều Nguyễn. Tuy nhiên, do tập hợp nhiều tác giả khác nhau về quan điểm xã hội và nhân sinh nên các tác phẩm của văn phải thường có nội dung không đồng đều và thống nhất
Tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái
Thể loại
– Tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí thuộc theo thể chí
– Thể chí là thể loại văn ghi chép sự vật, sự việc có thật, xảy ra trong một thời điểm cụ thể. Đây là thể loại văn học vừa mang tính văn học, vừa mang tính lịch sử và đậm tính triết lí
– Mặt khác, tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí có thể được xếp loại ký sự lịch sử khi xét theo tính chân thực hoặc thuộc loại tiểu thuyết lịch sử nếu xét trên phương diện nghệ thuật (gồm yếu tố về kết cấu, giọng điệu)
Nguồn gốc
– Tác phẩm gốc được viết bằng chữ Hán, được viết theo kiểu chương hồi, bao gồm 17 hồi. Trong đó, trích đoạn trong SGK thuộc hồi thứ 14 của tác phẩm. Nội dung chính đoạn trích là ca ngợi chiến thắng lừng lẫy của vua Quang Trung và nghĩa quân Tây Sơn, cùng với đó là sự thất bại thảm hại của nhà Thanh.
– Thời điểm sáng tác: được nhiều tác giả kế tục nhau viết nối – Từ cuối triều Lê đến đầu triều Nguyễn.
Bố cục
– Phần 1: Từ đầu đến “…ngày 25 tháng chạp năm Mậu thân 1788”: Khi nghe tin Quân Thanh đã đóng chiếm thành Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã lên ngôi Hoàng đế rồi thân chinh cầm quân dẹp giặc
– Phần 2: Từ đoạn “Vua Quang Trung tự mình đốc suất đại binh” đến “….vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long, rồi kéo vào thành”: Kể về cuộc hành quân thần tốc cùng chiến thắng lừng lẫy mà nghĩa quân Tây Sơn đã dành được
– Phần 3: Từ đoạn “Lại nói, Tôn Sĩ Nghị và vua Lê” đến “… lấy làm xấu hổ”: Nói đến sự thất bại của quân Thanh, tình trạng thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống.
Ý nghĩa nhan đề
– “Hoàng Lê nhất thống chí” hay tên Hán tự là “An Nam nhất thống chí”
– Chủ đề của “Hoàng Lê nhất thống chí” là phản ánh xã hội đang trên đà sụp đổ dưới triều đại Lê – Trịnh. Đồng thời, đề cập đến sự hỗn loạn của quân và dân ở Đàng Ngoài cuối thế kỉ XVIII
– “Hoàng Lê nhất thống chí” được dùng làm tên cho cuốn tiểu thuyết chương hồi với nội dung ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê, thời điểm quân Tây Sơn diệt Trịnh, trao trả lại Bắc Hà cho vua Lê. Từ “chí” trong tên dùng để chỉ thể loại tác phẩm – lối văn ghi chép sự vật sự việc diễn ra trong lịch sử.
– Tuy nhan đề mang ý nghĩa ca ngợi nhà Lê, nhưng thực chất nội dung tác phẩm lại là vạch trần triều đình nhà Lê với sự thối nát, mục ruỗng. Đồng thời, ca ngợi phong trào nông dân khởi nghĩa Tây Sơn và người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Mặt khác, tác phẩm còn tái hiện sinh động bức tranh toàn cảnh cuộc sống nhân dân trong giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam, diễn ra vào cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX (cuối Triều Lê đến đầu Triều Nguyễn)
– Thời điểm ra đời “Hoàng Lê nhất thống chí”: từ nửa cuối thế kỷ XVIII sang đến nửa đầu thế kỷ XIX, xã hội An Nam chứng kiến sự suy yếu của chế độ phong kiến. Lúc này, chế độ phong kiến Việt Nam đã bước vào giai đoạn khủng hoảng, suy vong trầm trọng, mầm mống cho sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ này. Nền tảng của sự khủng hoảng thực chất đã có từ các cuộc nội chiến diễn ra trước đó. Tuy nhiên, nguyên nhân nổi bật nhất vẫn là tính thối nát trong toàn bộ cơ cấu quan lại của chế độ phong kiến.
Điển hình trong giai đoạn vua Lê chúa Trịnh: Vua Cảnh Hưng sống bạc nhược còn Trịnh Tông trở thành con rối của đám kiêu binh. Trong triều đình chỉ thấy vua chúa tham quan sống sa đọa. Đến đời vua tôi Lê Chiêu Thống thì bán nước, đặt dân tộc vào tay kẻ thù. Trong khi đó, đời sống cơ cực người dân dưới thời Lê thì không được quan tâm, chú trọng nên tình trạng đói khổ trở nên cực kỳ trầm trọng.
Năm 1786, nhận thấy tình cảnh đất nước sắp nằm trong tay triều đình nhà Thanh, Nguyễn Huệ đưa quân đánh ra Phú Xuân và chuẩn bị tiến quân ra Đàng Ngoài. Trước sức mạnh cùng khả năng cầm quân tài tình của Quang Trung – Nguyễn Huệ, chúa Trịnh nhanh chóng bị đánh bại bởi quân Tây Sơn. Cuối cùng, Nguyễn Huệ trao toàn bộ quyền hành lại cho vua Lê và rút về Nam.
Tóm tắt nội dung
Trước sức mạnh của quân địch, quân Tây Sơn ở Thăng Long đã lập tức rút quân về Tam Điệp và cho người vào Phú Xuân để báo tin với Nguyễn Huệ.
– Ngày 24 tháng 11, sau khi nhận được tin báo, Nguyễn Huệ nhanh chóng cho cơ cấu lại lực lượng để chia quân làm hai đạo thuỷ – bộ.
– Ngày 25 tháng 12 (tháng Chạp), Nguyễn Huệ lên ngôi vua lấy hiệu là Quang Trung, trực tiếp lãnh đạo hai đạo quân tiến ra Bắc để bắt Vũ Văn Nhậm.
– Ngày 29 tháng 12 (tháng Chạp), khi nghĩa quân Tây Sơn tiến đến Nghệ An, Quang Trung đã cho dừng lại một ngày. Tại đây, ông tổ chức tuyển binh, cho mở tiệc khao quân, rồi tổ chức chia lực lượng thành 5 đạo.
– Ngày 30 tết đạo quân lên đường ra trận cùng lời hẹn ngày mùng 7 tết sẽ có mặt ở kinh thành Thăng Long để mở tiệc lớn, ăn mừng thắng lợi. Khi quân của Quang Trung ra đến Tam Điệp, hội cùng Sở và Lân ông đã dõng dạc tuyên bố: “Chẳng quá mười ngày có thể đuổi được người Thanh“. Cũng ngay trong đêm đó, nghĩa quân Tây Sơn lại tiếp tục lên đường. Ra đến sông Thanh Quyết, quân Tây Sơn bắt gặp đám do thám của quân Thanh. Thấy vậy, Quang Trung bèn ra lệnh bắt sống hết đám do thám, đảm bảo không một tên nào trốn thoát.
– Nửa đêm mùng 3 Tết Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung ra đến Hà Hồi, Thượng Phúc, ông lặng lẽ chỉ đạo quân vây kín thành khiến quân Thanh bị bất ngờ, rơi vào thế bị động, sau đó rụng rời sợ hãi xin đầu hàng.
– Mờ sáng ngày mùng 5 Tết, nghĩa quân Tây Sơn dàn trận “chữ nhất”, tấn công đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh chống trả dữ dội bằng ống phun khói lửa, mục đích làm quân ta rối loạn, nhưng gió đổi chiều khiến vũ khí trở nên phản tác dụng. Khi chống cự không nổi, quân Thanh buộc phải bỏ chạy, khung cảnh hỗn loạn, chúng giẫm đạp lên nhau mà chết. Cuối cùng, quân giặc phải chịu đầu hàng, tướng giặc là Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử.
– Trưa mùng 5 Tết, Quang Trung dẫn đầu đoàn quân thắng trận tiến vào Thăng Long, cho nghi binh dồn giặc xuống đầm Mực, để voi giày đạp khiến đám tàn quân của giặc kinh hồn bạt vía, chết hàng vạn tên như ngả rạ. Một số tên kịp chạy lên cầu phao nhưng khi cầu phao đứt, người và ngựa của chúng chết nhiều đến mức làm tắc cả đoạn sông Nhị Hà.
– Mùng 4 Tết, nghe tin quân Tây Sơn tấn công Thăng Long, tổng đốc Tôn Sĩ Nghị đang vui yến tiệc bỗng sợ mất mật, vội vàng chạy trốn về nước. Vua Lê Chiêu Thống cũng hốt hoảng thu nhặt tàn quân, chạy trốn sang biên giới phía Bắc. Quân Tây Sơn chính thức toàn thắng trước sự thất bại thảm hại của quân Thanh.
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí
1. Phân tích hình ảnh Quang Trung – người anh hùng áo vải, vị hoàng đế với trí tuệ sáng suốt, mạnh mẽ và quyết đoán
a. Người anh hùng áo vải quyết đoán, mạnh mẽ và có bản lĩnh phi thường
– Sự mạnh mẽ, nhanh gọn và rất quyết đoán trong hành động của Nguyễn Huệ được thể hiện qua mọi tình huống. Đặc biệt, khi nghe tin 20 vạn quân Thanh tràn vào đất Bắc và chiếm thành Thăng Long, ông không hề nao núng mà tính đến việc đích thân “cầm quân đi ngay”
Nhờ tính quyết đoán và bản lĩnh phi thường mà Nguyễn Huệ đã thực hiện được rất nhiều việc lớn chỉ trong vòng hơn một tháng:
– Lên ngôi hoàng đế vào ngày 25 tháng Chạp: Ông tự quyết định “tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi” rồi lên ngôi vương, lấy niên hiệu là Quang Trung. Mục đích của hành động này là khiến nhân dân yên lòng, sau đó sẽ đích thân đốc thúc đại quân tiến ra Bắc đánh giặc
– Gặp gỡ Nguyễn Thiếp (một người tài giỏi, có tài mưu lược) để bàn kế sách diệt giặc trên đường tiến quân ra Bắc đã tranh thủ gặp Nguyễn. Mục đích là để thu hút sự ủng hộ của tầng lớp sĩ phu.
– Tổ chức tuyển mộ được hơn một vạn tinh binh tại Nghệ An và mở cuộc duyệt quân lớn
– Ra phủ dụ tướng sĩ trước khi cầm quân ra Bắc: vừa để vạch trần âm mưu xâm lược, bộ mặt xấu xa, tàn ác của nhà Thanh, vừa để hình thành ý thức kỷ luật, động viên tinh thần chiến đấu của binh sĩ
=> Với tính cách mạnh mẽ, quyết đoán và đầy bản lĩnh, Quang Trung – Nguyễn Huệ đã khắc họa rõ nét hình tượng vị anh hùng xuất chúng, vừa có tài vừa có chí. Ông sẵn sàng tiếp nhận ý kiến của các tướng sĩ, thực hiện những điều ngoài ý định ban đầu của mình để đem đến những lợi chung cho sự nghiệp. Với nét tính cách ấy, Quang Trung – Nguyễn Huệ hoàn toàn xứng đáng với sự tin tưởng của nhân dân để trở thành linh hồn của nghĩa quân Tây Sơn
b. Một vị hoàng đế với trí tuệ sáng suốt và nhạy bén
Quang Trung với cương vị của một bậc quân vương, thống lĩnh cả vạn binh lính tinh nhuệ là một người sáng suốt, nhạy bén trong việc nhận định thời cuộc và sức mạnh lực lượng giữa ta và địch. Điều này được thể hiện rõ nhất trong lời phủ dụ tướng sĩ tại Nghệ An trước khi lên đường tiến quân ra Bắc:
– Khẳng định chủ quyền dân tộc qua câu nói: “Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng… Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta”
– Lên án hành động ngang ngược, phi nghĩa của quân Thanh, rằng: “Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của cải”
– Để khích lệ tinh thần tướng sĩ, Quang Trung đã khéo léo nhắc lại truyền thống đánh giặc của các bậc minh vương trong lịch sử dân tộc như: Hai Bà Trưng đời Hán, Đinh Tiên Hoàng đời nhà Tống, Trần Hưng Đạo đời nhà Nguyên, Lê Thái Tổ đời nhà Minh. Từ những tấm gương đó, ông mong muốn quân lính hãy “đồng tâm hiệp lực”, ra sức chống giặc ngoại xâm lược, dựng lên công lớn
– Quang Trung đưa ra kỷ luật nghiêm khắc theo phép nhà binh: “Chớ có quen thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai”
=> Lời phủ dụ rõ ràng với lập luận thật chặt chẽ như một bài hịch ngắn gọn mà súc tích, sâu sắc. Có thể nói Quang Trung thật sáng suốt khi nói ra bản chất của kẻ thù, đồng thời kích thích lòng yêu nước để quân sĩ tự giác “xin vâng lệnh không dám hai lòng”
Quang Trung là một bậc minh quân sáng suốt trong việc xét đoán bề tôi và tận dụng người tài:
– Trong dịp hội quân ở Tam Điệp, đối với Lân và Sở – những người đáng lẽ mang tội “quân thua chém tướng”, song vua Quang Trung hiểu năng lực các tướng lĩnh của mình sức ít không thể địch nổi quân hùng tướng hổ nhà Thanh. Họ đều là “hạng võ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến việc tuỳ cơ ứng biến là không có tài” nên Quang Trung buộc phải cho rút quân để bảo toàn lực lượng của hai vị tướng này.
– Đối với Ngô Thì Nhậm, Quang Trung nhận thức rõ năng lực và khả năng “đa minh túc trí” của vị quân sĩ này. Khi Lân và Sở rút chạy, Quang Trung phán đoán là do Nhậm chủ mưu. Chính vì thế, ông đã xếp Ngô Thì Nhậm (người biết dùng lời khéo léo) hỗ trợ cho họ, vừa là để bảo toàn lực lượng, vừa gây cho địch sự chủ quan.
=> Có thể thấy Quang Trung là một bậc minh quân có trí tuệ nhạy bén, vừa nhận định được thời cuộc lại rất hiểu tướng sĩ, xét đoán bề tôi ân uy rạch ròi. Ở Quang Trung, ta thấy cách am hiểu bề tôi và dùng người của ông đã đạt mức tri âm tri kỷ, minh bạch và vô cùng sáng suốt. Nhờ đó bậc anh quân đã tập hợp, tổ chức được một lực lượng sánh tầm với Lê Lợi xưa kia.
c. Bậc quân vương có tầm nhìn xa trông rộng
– Mặc cho quân Thanh đóng quân gần hết đất Bắc Hà, Quang Trung dựa vào sự tự tin trong năng lực quân sự của mình và niềm tin vào các tướng sĩ, ông đã chắc thắng, thậm chí ông còn dự kiến cả ngày chiến thắng của nghĩa quân: “Phương lược tiến đánh đã tính sẵn. Chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người Thanh..”
– Ngay cả khi đang ngồi trên lưng voi trước trận đánh, vua Quang Trung đã tính sẵn cả kế hoạch của 10 năm sau chiến thắng. Đó là làm sao để tìm cách ngoại giao với giặc, dẹp “việc binh đao” để quân ta “yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng”,…
=> Nhờ tinh thần và ý chí quyết thắng hừng hực của vua Quang Trung, quân sĩ như được tiếp thêm sức mạnh, khơi dậy ý chí quật cường trong họ. Đây quả là hình tượng tiêu biểu của một nhà chính trị văn hoá kiệt xuất, một đấng minh quân, một người anh hùng xuất chúng sở hữu tầm nhìn chiến lược sâu sắc và thấu đáo
d. Vị anh hùng có tài thao lược hơn người, thiên tài quân sự
Tài thao lược hơn người của Nguyễn Huệ được thể hiện qua sự nhanh nhẹn, thần tốc bất ngờ trong việc dùng binh, giúp đội quân lớn mạnh không ngừng:
– Ngày 25 tháng Chạp, đội quân bắt đầu xuất quân từ Phú Xuân (Huế)
– Ngày 29 tháng Chạp, sau khi vượt qua gần 350 km đường đèo, núi, đội quân đã tiến đến Nghệ An. Tốc độ di chuyển và mở rộng của đội quân nhanh đến bất ngờ. Họ đã vượt qua quãng đường từ Phú Xuân đến Thăng Long (hơn bốn trăm dặm mét) một cách chóng vánh trong bốn ngày.
– Cũng trong ngày 29, Quang Trung tổ chức đợt tuyển quân, duyệt binh chỉ trong một ngày: cứ 3 suất đinh thì lấy 1
– Ngày 30 tháng Chạp, tổ chức được cho quân lính ăn Tết sớm, ban bố lời dụ về lãnh thổ đất nước, rồi chia quân lính thành 5 đạo quân tiến về Thăng Long. Vượt khoảng 150 km, đạo quân đã tiến đến Tam Điệp
– Đêm 30 tháng Chạp, Quang Trung lãnh đạo quân ngay lập tức tiến thẳng vào thành Thăng Long để vừa hành quân vừa đánh giặc một cách bí mật đến bất ngờ.
=> Quang Trung có tài thao lược hơn người khi có khả năng nhận định tình hình của giặc để chớp lấy thời cơ. Từ đó, lãnh đạo chiến dịch tấn công thần tốc nổi tiếng trong lịch sử với những công việc to lớn trong thời gian chỉ tính bằng ngày. Cuộc hành quân nhanh chóng và bất ngờ đến nay còn khiến chúng ta ngả mũ thán phục.
Quang Trung có tài dùng quân và áp dụng các chiến thuật một cách linh hoạt và hiệu quả, hạn chế tối đa hao tổn binh lực mà vẫn đem lại chiến thắng vẻ vang:
– Trong trận Hạ Hồi, sử dụng chiến thuật nghi binh, đội quân do Quang Trung lãnh đạo đã chiến thắng vẻ vang mà không tốn một hòm tên hay mũi đạn nào
– Trong trận Ngọc Hồi, Quang Trung cho quân làm những tấm ván ghép, bên ngoài phủ rơm dấp nước để binh lính dễ dàng tiến sát đồn mà không bị ảnh hưởng bởi đạn hỏa công
– Dưới sự chỉ huy tài tình của vua Quang Trung, quân đội tuy phải hành quân xa liên tục và gấp gáp, song vẫn giữ được sự chỉnh tề, trở thành quân đội dũng mãnh, đánh đâu thắng đó
=> Không ngoa khi khẳng định Quang Trung chính là sức mạnh, là nội lực của nghĩa quân Tây Sơn, đại diện cho vẻ đẹp của bậc thiên tài quân sự với tài thao lược hơn người, đánh đâu thắng đó
e. Một vị anh hùng oai phong, lẫm liệt trong chiến đấu
– Quang Trung là một tổng chỉ huy tài ba thực sự của chiến dịch đánh phá quân Thanh trong lịch sử. Ngoài việc là một vị đế vương, Quang Trung cũng đồng thời là một vị anh hùng, người đã tự mình thống lĩnh một mũi tiên phong, xông pha chiến trận
– Hình ảnh nhà vua oai phong lẫm liệt trên lưng voi, địch thân chỉ huy trận đánh được tác giả khắc họa như linh hồn của cuộc tiến công vĩ đại của dân tộc
– Sử sách còn ghi lại “ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu” Quang Trung trong tấm áo bào đỏ sạm đen khói súng đã cùng nghĩa quân Tây Sơn giành chiến thắng trước quân địch nhà Thanh và bè lũ bán nước
– Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, vị vua vừa lập chiến lược, vừa thân chinh cầm quân đánh giặc mà vừa đốc xuất chiến dịch thì chỉ có duy nhất Quang Trung là làm được
=> Hình ảnh vua Quang Trung xông pha nơi chiến trận với tư thế dũng mãnh, “tả đột hữu xông” xứng đáng là biểu tượng về người anh hùng, bậc đế vương xuất chúng nhất trong văn học trung đại Việt Nam
2. Sự thảm bại của quân Thanh và số phận bi thảm của lũ vua tôi phản nước
a. Quân tướng nhà Thanh với sự thất bại đầy bi thảm
Hình ảnh thua trận của quân tướng nhà Thanh đối lập hoàn toàn với khí phách của nghĩa quân Tây Sơn. Trong đó:
– Hình ảnh tướng Tôn Sĩ Nghị, kẻ kiêu căng, tự mãn, kéo quân vào Thăng Long, sau trận chiến được miêu tả như sau: “sợ mất mật, ngựa không còn kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dân bọn lính kị mà của mình chuồn trước qua câu phao, rồi nhằm hướng Bắc mà chạy”, thái tướng Sầm Nghi Đống, không còn đường lui, buộc phải thắt cổ tự tử
– Còn đội quân xâm lược “.. hoảng hồn, tan tác bỏ chạy”, sợ hãi, xin đầu hàng, có đám thì bỏ chạy toán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Xác chết nhiều đến nỗi làm tắc dòng chảy của nước sông Nhị Hà
– Cả một đội mấy chục vạn binh hùng tướng mạnh sau khi bại trận giờ chỉ còn biết tháo chạy “đêm ngày đi gấp, không dám nghỉ ngơi”
Phân tích nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của quân Thanh:
– Do tướng lĩnh thì kiêu căng, chủ quan, coi thường và bỏ ngoài tai lời cảnh báo của vua tôi Lê Chiêu Thống. Vì thế thay vì phòng thủ, chúng chỉ lo ăn chơi, hưởng lạc trên chiến thắng trước mắt
– Do sự bất tài, ham sống sợ chết của tướng sĩ. Khi bị tấn công bất ngờ, rơi vào thế bị động là cao chạy xa bay, chưa cần biết đối thủ mạnh yếu ra sao
– Binh lính tráng ô hợp, thiếu kỷ cương, thiếu ý chí chiến đấu, chỉ trực rời doanh trại để đi kiếm củi và làm con buôn ở chợ
=> Sự đại bại của quân xâm lược nhà Thanh trong tác phẩm được tác giả miêu tả với âm điệu nhanh, gấp gáp đã cho thấy sự ê chề, thảm hại của quân địch, đồng thời thể hiện thái độ hả hê, sung sướng của người viết
b. Bọn vua tôi phản nước, hại dân và kết cục thảm hại
– Vua Lê Chiêu Thống và bề tôi trung thành chỉ vì lợi ích riêng của dòng họ mà mù quáng “cõng rắn cắn gà nhà”, cấu kết với nhà Thanh, để rồi đặt vận mệnh của dân tộc vào tay kẻ thù phương Bắc vốn không đội trời chung
– Lê Chiêu Thống không xứng đáng với vị thế của bậc quân vương. Kết cục ông phải trả giá là chịu chung số phận thảm hại của kẻ vong quốc: “chạy bán sống, bán chết”, nhịn đói để trốn, ông cùng kẻ cầu cạnh chỉ biết “nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt”
=> Bằng một giọng văn chậm rãi tác giả đã gợi lên sự thảm bại của bọn vua tôi phản nước, hại dân Lê Chiêu Thống. Mặt khác, đó cũng là tâm trạng ngậm ngùi của người cầm bút trước hình ảnh của một bậc đế vương nhu nhược trong lịch sử dân tộc
3. Tổng kết về mặt nội dung
“Hoàng Lê nhất thống chí” thuộc hồi mười bốn với tên “Đánh Ngọc Hồi, quán Thanh bị thua trận, bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài” đã gợi lên khung cảnh lịch sử đầy sinh động về người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ. Tác phẩm vừa làm nổi bật những phẩm chất tốt đẹp của một vị vua văn võ toàn tài, vừa nói lên tình cảnh thất bại ê chề, nhục nhã của bọn vua quan bán nước Lê Chiêu Thống cùng quân xâm lược nhà Thanh.
4. Tổng kết về nghệ thuật
– Dựa trên các tình tiết có thật, tác giả đã lựa chọn trình tự kể trình tự diễn ra các sự kiện, giúp người đọc theo dõi dòng lịch sử dễ dàng hơn
– Với ngôn ngữ kể, tả chân thực, tác phẩm đã khắc họa sinh động các nhân vật lịch sử, từ nhân vật chính nghĩa đến phản diện đều được hiện lên rõ nét
– Sử dụng giọng điệu trần thuật thể hiện thái độ của tác giả với vương triều Lê, với chiến thắng của nhân dân, dân tộc với bọn cướp nước.
***
Trên đây là nội dung bài học Nhóm tác giả Ngô gia văn phái là ai? Phong cách văn chương của nhóm tác giả Ngô gia văn phái do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học tập
- Chi tiết hoặc hình ảnh nào trong văn bản đã để lại trong em những ấn tượng sâu đậm? Hãy viết một đoạn văn (khoảng 8 – 10 dòng) ghi lại ấn tượng ấy lớp 8 (7 Mẫu)
- Trong truyện có nhiều đoạn văn mang tính triết lí về cuộc sống, con người. Em thích nhất đoạn văn nào? Vì sao? lớp 8 (2 Mẫu)
- Tóm tắt truyện Lão Hạc trong khoảng 10-15 dòng lớp 8 (24 Mẫu)
- Việc tái hiện sự khác nhau trong cách nhìn những bức tranh liên quan chặt chẽ đến ý nghĩa của đoạn trích. Em có đồng ý với nhận xét này không? Vì sao? (Trình bày thành một đoạn văn khoảng 8 – 10 dòng) lớp 8 (3 Mẫu)
- Viết một đoạn văn (khoảng 6-8 dòng) nêu ý kiến của em về hiện tượng sử dụng biệt ngữ xã hội trên mạng xã hội hiện nay lớp 8 (6 Mẫu)
- Hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình là một trong những biểu hiện của lòng yêu nước. Viết một đoạn văn khoảng sáu câu, nêu một số việc mà em đã hoàn thành tốt và lí giải vì sao những việc đó có thể thể hiện lòng yêu nước của em lớp 8 (6 Mẫu)