Học TậpLớp 8

Tác giả Nam Cao là ai? Thông tin về tác phẩm Lão Hạc

Mời các em theo dõi nội dung bài học về Tác giả Nam Cao là ai? Thông tin về tác phẩm Lão Hạc do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.

Tác giả Nam Cao là ai?

Nam Cao là một nhà văn, nhà thơ, nhà báo và cũng là một chiến sĩ, liệt sỹ người Việt Nam. Ông là nhà văn hiện thực lớn, một nhà báo kháng chiến, một trong những nhà văn tiêu biểu nhất thế kỷ 20.

Tác giả Nam Cao là ai?
Tác giả Nam Cao là ai?

Tiểu sử của tác giả Nam Cao

Nhà văn hiện thực phê phán Nam Cao sinh ngày 29-10-1917 tại Tỉnh Hà Nam, nước Việt Nam. Ông sống và làm việc chủ yếu ở Tỉnh Ninh Bình, nước Việt Nam. Ông sinh thuộc cung Thần Nông, cầm tinh con (giáp) rắn (Đinh Tỵ 1917). Nam Cao xếp hạng nổi tiếng thứ 19765 trên thế giới và thứ 3 trong danh sách Nhà văn hiện thực phê phán nổi tiếng.

Bạn đang xem: Tác giả Nam Cao là ai? Thông tin về tác phẩm Lão Hạc

Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, các bút danh khác của ông như Nam cao, Thúy Rư, Xuân Du, Nguyệt . Ông là một nhà văn hiện thực lớn và là một nhà báo kháng chiến. Ông được xem là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất tại Việt Nam ở thế kỷ 20. Nửa đầu Thế Kỷ 20, Nhà văn Nam Cao là người có công trong việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết. Bút danh Nam Cao, được ghép hai chữ của tên tỉnh và huyện của quê của ông mà thành.

Năm 18 tuổi, Nam Cao đã bắt đầu sáng tác những truyện ngắn đầu tiên như “Cảnh cuối cùng”, “Hai cái xác” . Các tác phẩm của ông được in trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy. Một số tác phẩm truyện ngắn của nhà văn Nam Cao được in trên báo Ích Hữu như: Nghèo, Những cánh hoa tàn, Đui mù, Một bà hào hiệp với bút danh Thúy Rư. Với bút sanh Xuân Du, Nguyệt, ông đã sáng tác truyện ngắn “Cái chết của con Mực”, tác phẩm được in trên báo Hà Nội tân văn và đã được in thơ cùng trên báo này.

Năm 1941, với bút danh Nam Cao, ông đã cho ra mắt tập truyện đầu tay “Đôi lứa xứng đôi” với tên trong bản thảo là “Cái lò gạch cũ” đã được Nhà xuất bản Đời mới Hà Nội ấn hành. Sau này khi in lại,nhà văn Nam Cao đã đổi tên truyện là Chí Phèo. Tác phẩm “Chí Phèo” như một hiện tượng văn học thời bấy giờ.

Năm 1943, nhà văn Nam Cao cho ra mắt tác phẩm “Đời thừa”. Tác phẩm này thuộc thể loại văn hiện thực phê phán, đã lột tả một cách chân thực về xã hội và cuộc sống con người lúc bấy giờ. Đây cũng là một trong những tác phẩm nổi tiếng và được đưa vào chương trình văn học.

Nam Cao thời trẻ

Thở bé, ông theo học ở trường làng. Đến cấp tiểu học và bậc trung học thì học ở trường Cửa Bắc rồi trường Thành Chung (nay là trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong tại tỉnh Nam Định. Tuy nhiên, ông chưa thi bằng Thành Chung vì lí do sức khỏe yếu nên về quê dưỡng bệnh.

Năm 18 tuổi vào Sài Gòn, ông nhận làm thư ký cho một hiệu may, bắt đầu viết truyện. Ban đầu, ông viết truyện chỉ là để kiếm tiền mưu sinh.

Tháng 4/1943, nhà văn Nam Cao là một trong những thành viên đầu tiên gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Nhưng sau đó, ông phải lánh về quê vì quân địch truy lùng gắt gao.

Cách mạng tháng Tám thành công, Nam Cao cùng tham gia cướp chính quyền ở phủ Lý Nhân, rồi được cử làm Chủ tịch xã của chính quyền mới ở địa phương.

Năm 1946, Nam Cao ra Hà Nội hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc. Tiếp đó, ông vào miền Nam với tư cách phóng viên.

Mùa thu năm 1947, Nam Cao lên Việt Bắc làm thư ký cho tòa soạn báo Cứu quốc Việt Bắc.

Tháng 05/1951, Nam Cao cùng nhà văn Nguyễn Huy Tưởng về dự Hội nghị văn nghệ tại Liên khu 3. Sau đó hai ông cùng về công tác tại Liên khu 4.

Tiểu sử của tác giả Nam Cao
Tiểu sử của tác giả Nam Cao

Sự nghiệp của tác giả Nam Cao

Quan điểm nghệ thuật:

Nam Cao, trong quan điểm của mình về văn chương, đặt ra một tiêu chí vô cùng quý báu. Đối với ông, văn chương không chỉ đơn thuần là sự sáng tạo từ trí tưởng tượng mà còn là một công cụ, phải phục vụ con người và phải trung thực đến cùng. Ông tin rằng văn chương không nên khuấy đảo bằng những lời nói giả dối, không nên bị cuốn vào cuồng phím. Thực ra, quan điểm của ông chính là nghệ thuật vị nhân sinh, một nghệ thuật mà đặt con người vào trung tâm, đòi hỏi sự trung thực và sự tương tác sâu sắc với cuộc sống hàng ngày. Nam Cao đề cao sự gắn bó chặt chẽ giữa văn học và đời sống của nhân dân lao động. Ông nhấn mạnh rằng nghệ thuật không nên trở thành một loại ánh trăng lừa dối, mà phải là tiếng đau khổ thực tế, một tiếng kêu thấu hiểu những sai lầm trong cuộc sống. Ông thể hiện điều này qua cụm từ: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ kiếp lầm than” (Trăng sáng).

Tác phẩm văn học theo quan điểm của Nam Cao cần phải mang ý nghĩa xã hội to lớn và sâu sắc, phải thể hiện nội dung nhân đạo sâu sắc. Ông cho rằng một tác phẩm văn học xuất sắc phải là một tác phẩm của tất cả loài người, chứa đựng những giá trị lớn lao và cao cả, đồng thời đọng đầy đau đớn và phấn khích. Nó phải tôn vinh tình thương, lòng bác ái và sự công bằng. Qua câu nói này: “Nó làm cho người gần người hơn” (Đời thừa), Nam Cao đã thể hiện tầm quan trọng của văn chương trong việc giao tiếp và gắn kết con người với nhau. Người viết văn không thể ngừng khám phá, không ngừng đắm chìm trong trí tưởng tượng sáng tạo. Để viết ra những tác phẩm có giá trị, nhà văn cần phải sở hữu một vốn sống phong phú, một trải nghiệm đa dạng về cuộc sống, về con người. Văn chương chỉ thật sự có khả năng tiếp nhận những người biết đào sâu vào tâm hồn, biết tìm kiếm trong những nguồn tài nguyên chưa được khai phá và sáng tạo ra những điều chưa từng tồn tại.

Nhà văn không chỉ cần có tài năng và kiến thức, mà còn phải có lương tâm nghề nghiệp. Sự cẩu thả, sơ suất trong bất kỳ lĩnh vực nghề nghiệp nào cũng là một hành vi bất lương. Tuy nhiên, sự cẩu thả trong lĩnh vực văn chương lại càng đáng lên án, bởi văn chương là một phương tiện mạnh mẽ có khả năng tác động đến tâm hồn và tư tưởng của người đọc. Những nguyên tắc này thể hiện rõ sứ mệnh cao cả của người viết văn: “Muốn viết cho nhân đạo, trước hết phải sống cho nhân đạo.” Điều này đồng nghĩa với việc nhà văn phải đón nhận cuộc sống và trải nghiệm nó một cách chân thật, để sau đó có thể chia sẻ và lan tỏa những giá trị nhân đạo qua tác phẩm văn học của mình.

Đề tài:

Trước khi bước vào thời kỳ Cách mạng tháng Tám, tác phẩm văn học của Nam Cao đã tập trung vào hai đề tài chính, làm nổi bật tầm quan trọng của cuộc sống trong xã hội đầy biến động. Các tác phẩm của ông thường khám phá và phác họa một mối quan tâm tinh tế đối với cuộc sống của người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. Nam Cao nắm vững một tư tưởng chung chung đan xen trong tác phẩm của mình: mối băn khoăn về tình trạng con người, một tình trạng đầy thách thức và nước mắt, khi họ bị tác động và hủy hoại đa dạng về mặt vật chất và tinh thần do hoàn cảnh đói nghèo đưa đến. Điều này thể hiện rõ sự nhạy bén của ông trong việc phân tích và tái hiện cuộc sống, cũng như mong muốn sâu sắc về việc thấu hiểu và cải thiện tình hình người dân trong xã hội phức tạp và khó khăn.

Câu chuyện về những người trí thức nghèo được Nam Cao miêu tả một cách tỉ mỉ và sâu sắc, nhưng nó còn là một bức tranh tấn bi kịch tinh thần của họ trong bối cảnh xã hội cổ xưa đầy những bất công và phi nhân tính. Những con người này đậm đà hoài bão và lý tưởng, tràn đầy tài năng và tiềm năng, nhưng họ buộc phải chịu gánh nặng của cuộc sống cơm áo gạo tiền và vẻ đẹp tinh thần của họ bị bóp nghẹt, dần biến thành những người thừa sống mòn. Tác phẩm của Nam Cao không chỉ là một bản phê phán sâu sắc về xã hội thiếu nhân tính, mà còn là một cách thể hiện mạnh mẽ niềm khao khát của nhân văn, khao khát một cuộc sống đích thực và có ý nghĩa. Những nhân vật này thể hiện lòng đam mê không ngừng nghỉ để đóng góp cho xã hội và thúc đẩy sự phát triển của con người, nhưng cuối cùng họ buộc lòng phải chấp nhận thực tế khắc nghiệt và khả năng sống sót trong một thế giới khắc nghiệt.

Hãy cùng nhìn sâu vào bức tranh của Nam Cao về cuộc sống của những người nông dân trong thời kỳ nghèo đói khốc liệt, đặc biệt trong giai đoạn trước năm 1945. Những tác phẩm của ông là một tượng đài của sự hi sinh và bất khuất của những người đứng cuối hàng ngày. Nam Cao đã bám vào chân thực, khắc họa đời sống của những người nông dân bị đánh đập, bị chà đạp dưới gót bụi của xã hội, những người phải chịu sự nhẫn nhục và bị đẩy vào tình trạng bần cùng và bất lương. Trong quá trình sáng tác, ông đã dấn thân sâu vào tâm lý của nhân vật để tôn vinh bản chất lương thiện và đạo đức của họ. Tác phẩm của Nam Cao không chỉ là một bức tranh sống động về cuộc sống nông dân, mà còn là một lời kết án thấm thía về xã hội tàn bạo đã hủy hoại nhân tính của những người nông dân hiền lành. Ông đã tạo ra một không gian văn học trong đó nhân phẩm và bản chất lương thiện của họ được tôn vinh và thể hiện rõ nét, đồng thời là một lời thông điệp mạnh mẽ về giá trị và sức mạnh của lòng người.

Các tác phẩm

  • Nhỏ nhen
  • Làm tổ
  • Lang Rận
  • Lão Hạc (1943)
  • Mong mưa
  • Một truyện xu-vơ-nia
  • Một đám cưới (1944)
  • Đôi móng giò
  • Đời thừa (1943)
  • Ba người bạn
  • Bài học quét nhà (1943)
  • Bảy bông lúa lép
  • Cái chết của con Mực
  • Cái mặt không chơi được
  • Chuyện buồn giữa đêm vui
  • Cười
  • Con mèo
  • Đòn chồng
  • Đón khách
  • Đui mù
  • Mua danh
  • Mua nhà
  • Một bữa no (1943)
  • Người thợ rèn
  • Con mèo mắt ngọc
  • Chí Phèo (1941)
  • Đầu đường xó chợ
  • Điếu văn
  • Đôi mắt (1948)
  • Nhìn người ta sung sướng
  • Những chuyện không muốn viết
  • Những trẻ khốn nạn
  • Nghèo (1937)
  • Nụ cười
  • Trẻ con không được ăn thịt chó (1942)
  • Truyện biên giới
  • Truyện tình
  • Tư cách mõ (1943)
  • Từ ngày mẹ chết
  • Xem bói
  • Dì Hảo (1941)
  • Nỗi truân chuyên của khách má hồng (1946)
  • Mò Sâm Banh (1945)
  • Truyện người hàng xóm
  • Rình trộm
  • Nước mắt
  • Nửa đêm
  • Phiêu lưu
  • Quái dị
  • Quên điều độ
  • Anh tẻ
  • Rửa hờn
  • Sao lại thế này?
  • Thôi về đi
  • Giăng sáng (1942)
  • Làm tổ
  • “Truyện người hàng xóm” được Báo Trung văn Chủ nhật ấn hành
  • Tiểu thuyết Sống mòn (ban đầu có tên Chết mòn) được Nhà xuất bản Văn Nghệ, xuất bản năm 1956.
  • Bốn tiểu thuyết bị thất lạc Cái bát, Một đời người, Cái miếu, Ngày lụt.
Sự nghiệp của tác giả Nam Cao
Sự nghiệp của tác giả Nam Cao

Giá trí và tầm ảnh hưởng

– Là nhà văn lớn, một cây bút xuất sắc của nền văn học hiện đại.

– Là nhà văn hiện thực nhân đạo xuất sắc của thế kỉ XX. Nam Cao đã đưa chủ nghĩa hiện thực lên một bước đột phá: chủ nghĩa hiện thực tâm lí.

– Ông nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 1996.

Giải thưởng và vinh danh

  • Năm 199, ông nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật.
  • Tên của nhà văn Nam Cao đã được đặt cho nhiều đường phố tại Việt Nam như: Quận Ba Đình – Thành phố Hà Nội, Quận 9 – Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Đà Nẵng, Thành phố Biên Hòa – Tỉnh Đồng Nai, Thành phố Rạch Giá – Tỉnh Kiên Giang và một số địa phương khác.
  • Tên ông cũng được đặt cho một số trường học phổ thông và dự định cho tên một khu đại học tại Hà Nam.

Tác phẩm Lão Hạc

Hoàn cảnh sáng tác:

– “Lão Hạc” được đăng báo lần đầu năm 1943. Là truyện ngắn xuất sắc về người nông dân trong xã hội phong kiến của Nam Cao.

Bố cục: 

3 phần

– Phần 1: Từ đầu → cũng xong: Lão Hạc kể chuyện bán chó và nhờ ông giáo hai việc.

– Phần 2: Tiếp theo → đáng buồn: Cuộc sống của lão sau khi bán chó.

– Phần 3: Còn lại: Cái chết của lão Hạc.

Thể loại: 

Truyện ngắn.

Phương thức biểu đạt:

Tự sự, miêu tả, biểu cảm.

Giá trị nội dung:  

– Qua đoạn trích tác giả đã thể hiện sự chân thực và cảm động về số phận đau thương của người nông dân trong xã hội phong kiến cũ và ca ngợi những phẩm chất cao quí của họ. Đồng thời cũng cho thấy sự yêu thương trân trọng của Nam Cao đối với những người nông dân như thế.

Giá trị nghệ thuật:

– Kết hợp yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm.

– Kể chuyện tự nhiên, linh hoạt, khách quan.

– Xây dựng nhân vật tiêu biểu, điển hình

– Kết hợp triết lí và trữ tình.

Đọc hiểu văn bản:

1.Nhân vật lão Hạc.

a. Hoàn cảnh Lão Hạc

– Lão nông già yếu, nghèo khó

– Vợ chết sớm

–  Con trai bỏ đi đồn điền cao su, để lão ở nhà với “cậu Vàng”

→ Hoàn cảnh cô đơn, đáng thương

b. Tình cảm của lão Hạc với cậu Vàng trước khi bán:

–  Gọi con chó là cậu Vàng như một bà hiếm hoi gọi con cái

–  Bắt rận, đem ra ao tắm

–  Cho ăn cơm….cái bát như một nhà giàu

–  Nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng

–  Chửi yêu, nói với nó như nói một đứa cháu

–  Không đủ sức nuôi nó, lão suy tính đắn đo, coi việc bán chó là việc rất hệ trọng.

→ Tình yêu tha thiết với loài vật, một người giàu tình cảm

c. Tâm trạng của lão Hạc sau khi bán chó:

– Thái độ, cử chỉ:

+ Lão cố làm ra vui vẻ, cười như mếu

+ Đôi mắt lão ầng ậng nước

+ Mặt … co rúm, vết nhăn xô lại, ép …nước mắt

+ Cái đầu ….ngoẹo, miệng móm mém…mếu

+ Lão hu hu khóc

– Suy nghĩ: con chó không biết gì, già rồi còn đánh lừa một con chó.

– Nghệ thuật: sử dụng các từ tượng hình, tượng thanh, động từ có sức gợi tả cao.

→ Tâm trạng đau đớn, xót xa, dằn vặt, ân hận, tự trách mình

=> Lão Hạc là người nhân hậu, tình nghĩa, thuỷ chung, giàu tình yêu thương.

Tác phẩm Lão Hạc
Tác phẩm Lão Hạc

d. Cuộc sống của lão Hạc sau khi bán chó.

– Lão nhờ ông giáo hai việc:

+ Giữ hộ mảnh vườn cho con

+ Gửi tiền để lo ma cho mình

→ Thương con sâu sắc, cẩn thận, chu đáo, không muốn phiền luỵ đến láng giềng.

– Chỉ ăn khoai, củ chuối, củ ráy, sung luộc, rau má, trai, ốc.

– Từ chối gần như hách dịch sự giúp đỡ của ông giáo

→ Cuộc sống cùng cực, khổ sở

=> Lão Hạc giàu lòng tự trọng.

e. Cái chết của lão Hạc

– Lão vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc, lão tru tréo, bọt mép trào ra, chốc chốc lại bị giật mạnh nảy lên, vật vã đến hai giờ mới chết

– Miêu tả cái chết cụ thể, chi tiết cận cảnh sử dụng liên tiếp từ tượng thanh, tượng hình

→ Cái chết đau đớn, dữ dội, thê thảm và thương tâm.

=> Là người có ý thức cao về lẽ sống, coi trọng nhân phẩm, sống trong sạch, lương thiện

=> Là điển hình của người nông dân trước Cách mạng tháng 8 với số phận cơ cực, đáng thương nhưng có phẩm chất tốt đẹp, đáng kính trọng.

2. Nhân vật ông giáo

– Muốn ôm choàng lấy lão oà lên khóc, ái ngại, an ủi, bùi ngùi…

– Giấu giếm vợ giúp lão Hạc.

– Tôn trọng, cảm thông, xót thương tình cảnh của lão Hạc.

– Những ý nghĩ thấm đẫm triết lý nhân sinh, thâm trầm, sâu sắc.

=> Ông giáo là người hiểu đời, hiểu người, chan chứa tình yêu thương và lòng nhân ái sâu sắc. Người trọng nhân cách không mất niềm tin vào những điều tốt đẹp của con người.

***

Trên đây là nội dung bài học Tác giả Nam Cao là ai? Thông tin về tác phẩm Lão Hạc do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học tập

5/5 - (7 bình chọn)


Cô Nguyễn Thanh Phương

Trường THCS Bình Chánh với mục tiêu chung là tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh có thể phát triển khả năng và đạt được thành công trong quá trình học tập. Chúng tôi cam kết xây dựng một không gian học tập đầy thách thức, sáng tạo và linh hoạt, nơi mà học sinh được khuyến khích khám phá, rèn luyện kỹ năng và trở thành những người học suốt đời.

Bài viết liên quan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button