Học TậpLớp 12

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt ngắn gọn, hay nhất (18 Mẫu)

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt lớp 12 ngắn gọn bao gồm dàn ý chi tiết cùng 18 bài mẫu hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp từ các bài văn đạt điểm cao trên toàn quốc. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các bạn tham khảo để từ đó hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình

Đề bài: Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt.

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt.
Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt.

Mục lục

Dàn ý Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt lớp 12

Dàn ý Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt – Số 1

1. Mở bài

Bạn đang xem: Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt ngắn gọn, hay nhất (18 Mẫu)

Giới thiệu về truyện ngắn Vợ nhặt và nhân vật Tràng

2. Thân bài

* Tràng là người đàn ông xấu xí, gia cảnh nghèo khổ:

– Ngoại hình thô kệch, xấu xí: “lưng to như lưng gấu”, “hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều”…

– Tính cách: ngờ nghệch, vô tư “vừa đi vừa tủm tỉm cười”, thích chơi với đám trẻ con.

– Gia cảnh nghèo khó lại có gánh nặng gia đình: Sống cùng mẹ già ở xóm Ngụ Cư.

* Người đàn ông tình nghĩa, sống có trách nhiệm:

– Trả ơn người đàn bà đã cùng mình đẩy xe bò hôm trước.

– Sẵn sàng cưu mang người vợ nhặt giữa buổi đói khát dù cho mình chưa nuôi nổi mình.

– Cảm nhận được việc lập gia đình là việc hệ trọng, là chuyện cả đời.

– Trở nên chín chắn, biết quan tâm, lo lắng.

– Từ khi có vợ Tràng thấy có trách nhiệm với ngôi nhà, vợ con “hắn thấy thương yêu, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”.

* Khát khao hạnh phúc, trân trọng người vợ mình vô tình có được:

– Bên ngoài vẻ vô tư, hồn nhiên là khát khao hạnh phúc cháy bỏng. Chính vì khát khao hạnh phúc nên khi cơ hội đến Tràng mới quyết định nhanh đến vậy.

– Bỏ tiền mua hai hào dầu nhân ngày đầu tiên vợ về nhà –>  Thái độ trân trọng người đàn bà và hạnh phúc của bản thân.

– Trên đường dẫn vợ về nhà, Tràng phấp phới niềm vui, hạnh phúc “mắt sáng lên lấp lánh”,  cái mặt phớn phở.

– Trịnh trọng giới thiệu vợ với mẹ. hợp thức hóa mối quan hệ giữa hai người bằng hai từ “duyên số”.

– Hạnh phúc mới giúp Tràng cảm nhận được sự thay đổi của ngôi nhà, thêm trân trọng ngôi nhà và hạnh phúc hiện tại.

3. Kết bài

Nêu suy nghĩ về nhân vật Tràng:

–  Tràng là nhân vật điển hình cho người nông dân lao động nghèo khổ nhưng luôn khát khao hạnh phúc.

– Những tình tiết xoay quanh hình tượng nhân vật Tràng được nhà văn sắp xếp một cách chặt chẽ hợp lí

Dàn ý Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt – Số 2

I. Mở bài:

  • Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh nông thôn, hình tượng người nông dân lao động.
  • Vợ nhặt là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân trong nạn đói năm 1945, nhân vật Tràng là hình tượng đại diện cho số phận của những người nông dân giai đoạn này.

II. Thân bài:

1. Hoàn cảnh

  • Hoàn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở tồi tàn, cuộc sống bấp bênh, …
  • Hoàn cảnh bản thân: xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về, …

2. Tâm trạng và hành động

a. Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ

– Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.

– Lần gặp 2:

  • Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.
  • Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.
  • Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.

b. Trên đường về:

  • Vẻ mặt “có cái gì phơn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”. Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diễn.
  • Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.

c. Khi về đến nhà:

  • Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
  • Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vi gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
  • Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.
  • Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.

d. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy:

  • Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo, …), Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.
  • Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.

– Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.

III. Kết bài:

  • Nêu suy nghĩ về nhân vật Tràng.
  • Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ bình dị, gần gũi.
  • Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.

18 Bài mẫu Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt lớp 12 hay nhất đạt điểm 9, 10

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt – Mẫu 1

Độc giả biết nhiều hơn tới Kim Lân với những tác phẩm gắn liền với những truyện ngắn tài năng của Văn học Hiện đại Việt Nam. Những nhân vật của ông thường là những con người nghèo khổ và bần cùng. Nhưng ở họ vẫn luôn tồn tại một nét đẹp tâm hồn bất diệt. Nhà văn đã khai thác triệt để vẻ đẹp đó và viết nên những trang truyện mà khiến cho người đọc xúc động và rút ra nhiều bài học ý nghĩa. Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã khắc hoạ thành công nhân vật Tràng, một người lao động nghèo khổ nhưng giàu tình yêu thương, luôn khao khát hạnh phúc gia đình giản dị.

Tác phẩm Vợ Nhặt ra đời trong hoàn cảnh đất nước rơi vào nạn đói kinh hoàng thời kì 1945, khi mà nhân dân ta chịu cảnh chết đói như ngả rạ, người người nhà nhà rơi vào cảnh khó xử. Không khí của những làng quê được miêu tả là “người chết như ngả rạ, không buổi sáng nào người trong làng đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí bốc lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả được cái đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm”. Xóm nghèo ấy cũng là xóm ngụ cư,mọi người tứ phương đổ về ai cũng mong muốn tìm được cái ăn để đỡ đói qua ngày.

Đọc lướt qua câu chuyện ta ngỡ như việc “nhặt vợ” của Tràng là tình cờ nhưng nghĩ cho kĩ ta sẽ thấy rằng việc làm ấy xuất phát từ tình yêu thương của con người chân chính. Tình thương người đã cho anh quyết định dứt khoát là đưa người đàn bà xa lạ về chung sống. Hành động ấy của Tràng còn tiềm ẩn khát vọng hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình mà trước đây anh không dám ao ước.

Khi đã có vợ rồi niềm vui sướng trong anh tràn ngập. Dường như anh đã quên đi cuộc sống tối tăm thường nhật và cảm nhận một sự thay đổi. Tràng ý thức được trách nhiệm, bổn phận của người chồng, người chủ gia đình “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng… Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”.

Từ một con người cục mịch, sống vô tư, chỉ biết việc trước mắt, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ của anh lại vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới…

Chính khát vọng và tình thương đã làm cho Tràng biến đổi từ dáng vẻ bên ngoài đến bên trong tâm hồn. “Mặt hắn có một vẻ gì hớn hở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Với cách miêu tả ấy dường như trước mắt người đọc là một anh Tràng khác hẳn. Từ một con người mang mặc cảm về thân phận, một trái tim cằn cỗi nay lại hồi sinh.

Về đến nhà, lúc đầu Tràng thấy “ngượng nghịu” rồi cứ thế “đứng tây ngây ra giữa nhà, chợt hắn thấy sờ sợ”. Nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua thôi. Hạnh phúc lớn lao quá khiến Tràng lại lấy lại được thăng bằng nhanh chóng. Lúc sau Tràng tủm tỉm cười một mình với ý nghĩ có phần ngạc nhiên sửng sốt, không dám tin đó là sự thật: “hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư ?”. Đó là sự ngạc nhiên trong sung sướng.

Sáng hôm sau Tràng tỉnh dậy muộn nhưng vẫn chưa hết cảm giác ngỡ ngàng: “Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”. Lần đầu tiên trong đời Tràng nhận thấy niềm hạnh phúc thật giản dị đang hiện hữu ngay trong ngôi nhà của mình, vẫn là căn nhà ấy nhưng lâu nay nhếch nhác, bừa bộn nay được mẹ và vợ sắp đặt ngăn nắp, gọn gàng. Hắn nhận thấy ngôi nhà mới thực sự là tổ ấm của mình, lâu nay hắn vẫn ở trong ngôi nhà ấy nhưng hôm nay: “bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.” Đó chính là một gia đình, một nguồn vui sống, phấn chấn khi hắn cảm nhận được hạnh phúc một gia đình. Bấy giờ hắn mới nhận thấy hắn “nên người”, hắn nhận thấy hắn có bổn phận chăm lo cho vợ con sau này.

Ở cuối tác phẩm, ta thấy trong suy nghĩ của Tràng xuất hiện cảnh những người nghèo đói khổ đang kéo nhau ầm ầm đi trên đê Sộp, ở đằng trước là một lá cờ đỏ sao vàng. Đoàn người đang đi phá kho thóc Nhật. Đây là một hiện thực và cũng là ước mơ tin về tương lai, tin về Đảng và cách mạng của Tràng cũng như của những người như Tràng. Kim Lân rất xuất sắc và thành công khi có thể lột tả được sự thay đổi cũng như miêu tả được tâm lý nhân vật bằng ngòi bút nhân đạo vô cùng sâu sắc của tác giả.

Tràng giống như một đứa con tinh thần của Kim Lân. Tình huống nhặt vợ đầy bất ngờ và đặc biệt nhưng đã thể hiện được tư tưởng sâu sắc của tác phẩm đó chính là dù người nghèo đói, cùng cực nhưng họ luôn nghĩ đến sự sống chứ không phải là cái chết, luôn có niềm tin vào tương lai tươi đẹp. Qua Tràng ta cũng đã cảm nhận được một tâm hồn trong sáng đẹp đẽ của người dân lao động nghèo đó chính là tình người và hi vọng.

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt – Mẫu 2

“Vợ nhặt” của Kim Lân là một trong số những truyện ngắn nổi bật viết về số phận của những người dân nghèo giai đoạn 1945. Nhân vật chính của truyện – Tràng – chính là người đã thể hiện tư tưởng chủ đề tác phẩm một cách chân thực và rõ nét nhất. Anh hiện lên với vẻ ngoài thô kệch, xấu xí, vụng về nhưng lại có được rất nhiều phẩm chất đáng quý.

Trước tiên, có thể thấy hoàn cảnh của Tràng vô cùng khó khăn. Anh ta có ngoại hình thô kệch: “lưng to như lưng gấu”, “hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều”. Tính cách của Tràng cũng khá ngờ nghệch, vô tư. Anh thích chơi với đám trẻ con, thi thoảng lại hò mấy câu vu vơ. Ấy vậy, gia cảnh nhà Tràng còn vô cùng khó khăn. Cha mất sớm, anh và mẹ nương tựa lẫn nhau trong “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại” ở xóm ngụ cư. Chỉ một vài nét miêu tả sơ qua như thấy thôi, độc giả cũng thấy được cái nghèo, cái đói hành hạ con người dã man đến mức nào. Đó chẳng phải là hoàn cảnh của mỗi Tràng mà là của gần như tất cả người dân lúc bấy giờ.

Tuy nhiên, trong cái đói, cái nghèo, cái khổ, ở nhân vật Tràng vẫn sáng lên bao phẩm chất, tính cách đáng quý. Trước tiên, anh chính là một người sống tình nghĩa, trách nhiệm. Khi đẩy xe thóc, anh cũng chỉ hò mấy câu vu vơ chứ chẳng có ý trêu đùa ai. Ấy vậy mà thấy thị sưng xỉa mắng mình, Tràng vẫn cười cười, thậm chí còn đãi thị bốn bát bánh đúc. Điều này cho thấy anh là một con người đơn giản, vô tư, đôi khi là hơi ngờ nghệch. Khi thị theo mình về nhà thật, Tràng nghiêm túc dắt cô đi chợ tỉnh sắm sửa đồ đạc. Qua các hành động của Tràng, độc giả dễ thấy anh vô cùng chân thành, thật thà và chất phác. Anh coi việc thành gia lập thất là chuyện quan trọng của đời người. Tuy “nhặt” được vợ nhưng anh vẫn muốn trịnh trọng giới thiệu bạn đời của mình cho mẹ: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau… Chẳng qua nó cũng là cái số cả…”. Thấy mẹ chấp thuận người con dâu mới, “Tràng thở đánh phào một cái”, nhẹ nhõm hẳn. Vậy có thể thấy, Tràng không chỉ dành sự tôn trọng cho vợ mà còn là một người con hiếu thảo, biết lễ nghĩa với mẹ. Hình ảnh của Tràng trong buổi sáng ngày hôm sau cũng khác hẳn ngày thường. Cảm động trước cảnh mẹ chồng nàng dâu cùng nhau dọn dẹp, vun vén nhà cửa, “một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập” lòng Tràng. Anh ta “xăm xăm chạy ra giữa sân”, “muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. Cái gia đình nhỏ đầy mới mẻ này đã thay đổi Tràng theo một hướng tích cực hơn rất nhiều. Đây quả là một điều đáng quý trong hoàn cảnh ngặt nghèo, u tối của nạn đói.

Không chỉ vậy, Tràng còn có lòng thương người đáng quý cùng khát khao mạnh mẽ về một gia đình hạnh phúc. Khi thấy thị theo mình về thật, Tràng cũng từng nghĩ “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng” thêm một miệng ăn nhưng rồi chỉ tặc lưỡi cho qua. Anh nhìn người phụ nữ gầy gò, rách nát kia mà thương. Lòng thương người ấy đã trao cho cô vợ nhặt cơ hội sống sót, cũng cho Tràng một gia đình đúng nghĩa. Việc có vợ, đối với Tràng, là vô cùng đáng tự hào, hãnh diện. Sự xuất hiện của người vợ nhặt khiến Tràng thấy mình trưởng thành hơn, càng thêm trân trọng cái hạnh phúc nhỏ bé mới vừa chớm nở. Và trong bữa cơm, khi nghe vợ kể về Việt Minh, về sự kiện phá kho thóc ở Thái Nguyên, Bắc Giang, trong lòng Tràng cũng trở nên lay động. Anh nghĩ về “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”, báo hiệu cho một tương lai mới tự do, hạnh phúc. Có thể, đây sẽ là cơ sở, nền tảng để Tràng cùng gia đình đi theo con đường Cách mạng, tự giải phóng bản thân khỏi nghịch cảnh sau này.

Nhìn chung, hình tượng nhân vật Tràng chính là đại diện cho những người dân lao động nghèo khổ. Họ bị vùi dập bởi hoàn cảnh, bởi cái đói nhưng vẫn luôn khao khát về cuộc sống gia đình hạnh phúc, về tương lai tự do, tươi sáng. Ngòi bút của Kim Lân đã thành công khắc họa, đi sâu vào nội tâm nhân vật. Từ đó, để cao, trân trọng con người. Nhân vật Tràng nói riêng và truyện ngắn “Vợ nhặt” nói chung chính là minh chứng cho tài năng cùng tấm lòng nhân đạo cao cả của Kim Lân.

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt – Mẫu 3

Vợ Nhặt là một tác phẩm tiêu biểu của tác giả  Kim Lân, tác phẩm xuất sắc cho văn học Việt Nam được sáng tác vào năm 1945 giữa nạn đói khủng khiếp, thể hiện nội dung nhân đạo sâu sắc trong từng câu văn và  hình ảnh, chi tiết của tác phẩm. Qua đó, người đọc ấn tượng với nhân vật Tràng, từ ngoại hình tính cách và  gia cảnh, đến việc quan trọng nhất đời người là lấy vợ.

Truyện xoay quanh những  tình huống anh Tràng nhặt được vợ trong hoàn cảnh đói khát. Ở nhân vật Tràng ,tác giả đã miêu tả với nhiều chi tiết nói về ngoại hình và  tính cách, gia cảnh nhưng gần như tạo hóa không cho anh ta một điểm đáng tự hào nào cả: người thô kệch và  lưng rộng như lưng gấu, đầu trọc và  nhà nghèo, dân ngụ cư, nghèo kiết xác . Điểm ấn tượng nhất về bề ngoài là sự ngờ nghệch và  có cái tật vừa đi lại  vừa nói, vừa cười tủm tỉm một mình. Hơn nữa, Tràng sống với mẹ nghèo đến nỗi cái nhà hắn ở “rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại” mẹ góa con côi và  tuy nhiên ở hắn  cũng có điểm đáng quý: vui vẻ, dễ gần lại tốt bụng đối với lũ trẻ con trong xóm vẫn xúm lại trêu đùa và anh ta không bao giờ dám nghĩ đến chuyện mình có thể lấy nổi một cô  vợ; tức là anh ta đã ế vợ và không đủ  khả năng lấy được vợ. Hơn nữa đang trong cái  thời điểm tất cả mọi người đều rơi vào nạn đói thê thảm nhưng thế mà anh ta lại nhặt được vợ một cách rất dễ dàng ngay giữa đường, giữa chợ chỉ qua vài câu nói vu vơ vui đùa.

Đã có người theo không về làm vợ và  điều đó thật bất ngờ nhưng là niềm vui, hạnh phúc tột đỉnh trong cuộc đời của Tràng và hoàn cảnh nạn đói ghê gớm, bản thân Tràng lại rất nghèo vì  không biết mình có nuôi nổi mình không cho nên sau lời nói đùa cho vui ấy , Tràng cảm thấy “chợn”, sợ đèo bòng. Tuy nhiên anh ta lấy vợ bằng một cái tặc lưỡi: “chậc,kệ!”. Cái tặc lưỡi vừa thể hiện sự buông xuôi cho số phận éo le , vừa thể hiện cái liều lĩnh của một kẻ không biết sợ là gì. Đồng thời cũng thể hiện niềm khao khát của một người lần đầu tiên có niềm vui hạnh phúc.

Hắn dẫn vợ về trong niềm vui khác lạ: ” Mặt hắn có vẻ gì hớn hở khác thường, hắn tủm tỉm cười nụ một mình, hai mắt thì sáng lên lấp lánh “. Lần đầu tiên có được niềm vui trong cuộc đời cho nên hắn quên hết những cảnh sống tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói đang đe dọa ngay trước mắt cũng không sợ những ngày tháng đói khổ và  ghê sợ ở phía trước…Có cái gì đó mới mẻ và  lạ lắm chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy. Đó là cảm giác sung sướng và  hạnh phúc của người đàn ông được biết thế nào là hạnh phúc: “hắn thích lắm, từ cha mẹ sinh mẹ đẻ đến bây  giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế. “Tràng nói đùa…ai ngờ Thị về thật”. Đúng là dẫu có cực khổ và  cùng quẫn đến đâu, dẫu đói khát đến mấy thì  người ta cũng luôn luôn khao khát hạnh phúc và chỉ nghĩ đến nó thôi đã thấy nó lấn lướt tất cả nỗi sợ hãi và  kể cả lưỡi hái tử thần. Chính vì thế dù biết rằng” Thóc gạo này đến cái thân mình còn không biết mình có nuôi nổi không nhưng hắn vẫn chậc kệ đưa Thị về nhà để làm vợ mình .

Khi Thị về nhà hắn, hắn mới thực sự thấy lo và  tâm trạng bỗng thiếu tự tin, bối rối như một đứa trẻ. Hắn nóng lòng và  sốt ruột, mong mẹ về, khi mẹ về hắn mừng rỡ như đứa trẻ lật đật chạy ra đón. Lúc đó  tâm trạng của Tràng phức tạp, đan xen rất nhiều cảm xúc: vừa mừng lại còn  vừa lo. Sau những  phút bối rối khi biết mẹ đã đồng ý. Như vậy là Tràng đã thay đổi hẳn khi Thị theo về làm vợ.

Sáng hôm sau hắn tỉnh dậy muộn nhưng vẫn chưa hết cảm giác ngỡ ngàng: “Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”. Lần đầu tiên trong đời hắn nhận thấy niềm hạnh phúc thật giản dị đang hiện hữu ngay trong ngôi nhà của mình và vẫn là căn nhà ấy nhưng lâu nay nhếch nhác và  bừa bộn nay được mẹ và vợ sắp đặt ngăn nắp và  gọn gàng. Hắn nhận thấy ngôi nhà mới thực sự là tổ ấm của mình bấy  lâu nay hắn vẫn ở trong ngôi nhà ấy nhưng hôm nay: “bỗng nhiên hắn thấy hắn thấy  thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.” Đó chính là một gia đình và  một nguồn vui sướng, phấn chấn khi hắn cảm nhận được sự  hạnh phúc một gia đình. Bấy giờ hắn mới nhận thấy hắn “nên người”, hắn nhận thấy hắn có bổn phận chăm lo cho vợ con sau này.

Như vậy là  niềm vui và  hạnh phúc làm cho con người ta thay đổi, sự cưu mang và  đùm bọc, yêu thương nhau làm cho con người cảm nhận cuộc đời trở nên có ý nghĩa hơn và trở nên tốt đẹp hơn và dẫu cùng đường thì con người ta vẫn luôn luôn  yêu đời và nhân hậu, có trách nhiệm hơn, sống tốt hơn trong niềm hạnh phúc.

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt – Mẫu 4

Puskin từng viết “Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây cỏ sống được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút”. Và nhà văn Kim Lân đã để tiếng lòng mình cất lên, để linh hồn tác phẩm neo đậu mãi trong trái tim của bạn đọc về hình tượng nhân vật anh cu Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt. Anh là một người nông dân nghèo khổ, xấu xí nhưng mang một tấm lòng ấm áp tình yêu thương và lòng nhân hậu.

Có nhà văn từng nói “Con người là điều thú vị nhất đối với con người, và con người cũng chỉ hứng thú với con người”. Con người cũng chính là nội dung quan trọng nhất của văn học. Nhân vật văn học là một khái niệm không còn quá xa lạ đối với chúng ta. Đó là khái niệm dùng để chỉ hình tượng các cá thể con người trong tác phẩm văn học – cái đã được nhà văn thể hiện bằng các phương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ. Và mỗi nhà văn sẽ tập trung tất cả những hình họa nghệ thuật, những quan niệm cuộc sống và nhân vật để gửi gắm những tư tưởng đến bạn đọc. Để từ đó khi chúng ta tìm hiểu một nhân vật, chúng ta cũng thấy được khía cạnh bức tranh xã hội lúc bấy giờ và nỗi niềm của người nghệ nhân khi đứng trước nó. Chẳng hạn như trong Chí Phèo của Nam Cao, ta thấy được bản chất lương thiện của một con người lưa manh trong xã hội thực dân nửa phong kiến, qua đó thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Có thể khẳng định rằng, nhân vật có yếu tố then chốt góp phần tạo nên thành công của một tác phẩm, như “xương sống của một con người vậy”. Viết đề tài người nông dân, nhà văn Kim Lân đã rất thành công khi khắc họa chân dung người lao động nghèo khổ, chân lấm tay bùn nhưng mang một phẩm chất đẹp đẽ như nhân vật Tràng trong tác phẩm “Vợ nhặt”.

Kim Lân là một cây bút xuất sắc chuyên viết truyện ngắn về đề tài người nông dân chất phác, thật thà và đậm tình người ở những làng quê Việt Nam. Lần đầu tiên có một nhà văn “nông dân” xắn quần lội xuống bùn để lắng nghe hơi thở nồng nàn của đất đai, của cuộc sống con người để tái hiện lên rõ mồn một trên mỗi trang viết. Với cốt truyện đơn giản, lời kể hấp dẫn và khả năng phân tích tâm lý nhân vật thiên tài, ông đã để lại cho độc giả những trang viết sâu sắc và xúc động về người dân quê – những con người gắn bó rất tha thiết với quê hương và cách mạng. Một trong những sáng tác thuộc đỉnh cao của Kim Lân là truyện ngắn “Vợ nhặt”. Tác phẩm được xây dựng trên nền nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu. Cái năm mà người ta vẫn nhắc đến như một tai nạn thảm khốc khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ. Truyện ngắn “Vợ nhặt” ra đời dựa trên một cốt truyện cũ với nhau để “Xóm ngụ cư”, được in trong tập “Con chó xấu xí” xuất bản năm 1962. Tác phẩm kể về anh cu Tràng – một thanh niên nghèo khổ làm nghề kéo xe bò thuê. Dù trong tình cảnh đói kém quay quắt nhưng anh vẫn dắt thêm một người đàn bà về làm vợ. Sự việc khiến cả xóm ngụ cư và ngay cả mẹ Tràng – bà cụ Tứ hết sức ngạc nhiên và lo lắng. Nhưng qua đó, Kim Lân muốn ca ngợi sức sống và niềm tin mãnh liệt của con người vào tương lai, vào cách mạng, vào tình người dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào

Viết về người nông dân, Kim Lân đã “khơi nguồn chưa ai khơi” , đó là thân phận rẻ rúng như rơm rác của người nông dân nghèo trong xã hội cũ. Tràng – một nhân vật điển hình như thế với một hoàn cảnh vô cùng khốn khó, mang một ngoại hình chẳng mấy ưu nhìn. Tràng xuất thân là dân ngụ cư – tầng lớp người bị coi thường nhất lúc bấy giờ, sống cùng mẹ già trong “túp lều tranh nằm rúm ró trên mảnh vườn lổn nhổn những bụi cỏ dại”. Hai mẹ con nương tựa vào nhau để sống sót qua nạn đói này. Tràng thì làm nghề kéo xe bò thuê nên cũng chưa đến mức phải chết đói nhưng cũng cực nhọc vô cùng. Sinh ra trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước, chứng kiến biết bao là xác chết nằm la liệt, lại hội tụ trong mình đầy yếu tố của một loại người đáng bị coi khinh.Tràng còn có một ngoại hình hết sức thô kệch, cục mịch. Nó được ví như “sự gọt đẽo sơ sài của tạo hóa”. Nếu như trong văn Nam Cao ta thấy Chí Phèo xuất hiện đầu tác phẩm với tiếng chửi ngoa ngoắt “hắn vừa đi vừa chửi, …nó chửi trời, chửi đất…” thì Kim Lân lại đưa vào Tràng một số nét khắc họa ngoại hình “dáng đi ngất ngưởng, hai mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào hướng chiều hai bên quai hàm, đôi khi lại ngửa mặt lên cười khành khạch”. Tác giả khi xây dựng nhân vật này không tập trung miêu tả ngoại hình mà chỉ chú trọng khắc họa những nét riêng biệt. Nhìn vào Tràng ai cũng thấy, ngoại hình ấy không hề đẹp, có phần hoang dã khác hẳn với cách trau chuốt của xã hội văn minh. Bên cạnh đó ngoại hình của Tràng còn được khắc họa rõ nét hơn khi nạn đói tràn vào xóm ngụ cư. Đó là dáng đi mệt mỏi, đầu thì chúi về đằng trước mặt cứ gằm lại, nó làm mụ mị con người vui vẻ, ngất ngưỡng trước đây ở Tràng. Tạo hóa đã ban cho anh cái xấu mà không hề thương xót. Phải chăng cách xây dựng nhân vật có số phận như thế là dụng ý nghệ thuật của nhà văn Kim Lân?! Để từ đó người nghệ sĩ ấy làm bật lên vẻ đẹp bên trong của con người Tràng!

Ẩn sâu bên trong của con người xấu xí, thô kệch ấy là cả một bầu trời nhân cách tốt đẹp. Tràng tốt bụng, hiền lành, hào hiệp và nhân hậu. Tính anh vui vẻ, nhanh nhẹn và thích nô đùa với trẻ con. Bởi vậy mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong xóm ra vây lấy hắn reo cười vang lên, khi ấy Tràng chỉ ngửa mặt lên “cười hềnh hệch”. Quả thật, tính tình Tràng vô tư chẳng khác đám trẻ con là mấy. Cũng chính vì thế mà anh đã sẵn sàng cưu mang người đàn bà xa lạ giữa nạn đói bằng một bữa ăn. Mặc dù anh cũng là tầng lớp đang bị cái đói hoành hành. Tuy nhiên “Thương người như thể thương thân”, anh đã cứu một người đàn bà đang ở giữa ranh giới của sự sống và cái chết, sẵn sàng cưu mang thị với quyết định đưa về làm vợ. Tình thương người với người tỏa sáng hơn bao giờ hết trong một con người tưởng chừng như gàn dở, ngờ nghệch đang bị coi thường! Vẻ ngoài thô kệch chính là bàn đạp để làm nổi bật tinh thần nhân đạo, yêu thương con người của Tràng. Đó cũng chính là dụng ý của nhà văn Kim Lân. Một người ngờ nghệch như anh cu Tràng mà biết cưu mang người khác, mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp thì những người cao hơn anh, có địa vị hơn anh đánh rơi tình người ở đâu mất rồi?. Đây chính là niềm trăn trở của những nhà văn chân chính, những nhà nhân đạo, đặc biệt là những cây bút hướng về con người. Vì xét cho cùng, văn chương là vì con người, giáo dục nhân cách chúng ta!

Người đàn ông nhân hậu, tốt bụng ấy sẵn sàng cưu mang những người cùng cảnh ngộ. Vẻ đẹp ấy đã ngời lên thật trọn vẹn trong tình huống truyện độc đáo. Tình huống Tràng nhặt vợ khi gặp lại người con gái đẩy xe bò giúp anh lần trước khiến anh không khỏi ái ngại, xót xa. Bởi trước mắt anh là hình ảnh thê thảm của người cùng cảnh ngộ “quần áo rách như tổ đỉa trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ thấy hai con mắt”. Cái đói khiến người con gái ấy chẳng biết thể diện là gì, cứ thế mà thô thiển, trơ trẽn bất chấp tất cả để được ăn. Tràng động lòng thương, bởi Tràng cảm nhận được sự đói khát cùng đường của người đàn bà ấy. Nó đã đánh thức con người nhân hậu trong Tràng. Anh hào hiệp, phóng khoáng đãi người đàn bà xa lạ đến bốn bát bánh đúc. Vẻ đẹp tình người đã được nhen nhóm, thắp sáng lên giữa cái tối tăm của nạn đói. Và cũng chỉ một câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng “Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về mà thị đã theo Tràng về thật. Lúc đầu Tràng phảng phất nỗi lo sợ về cái đói, cái chết, “Thóc gạo này đến cái thân mình cũng có nuôi nổi hay không mà còn đèo bòng”. Đó là nỗi sợ hãi có thật, nhất là cái thời đói kém như thế này. Nhưng rồi anh cũng chậc lưỡi “chậc, kệ”. Kệ ở đây không phải là kệ đời hay mặc xác đời mà là cái kệ trong niềm tin mãnh liệt vào tương lai, cái “kệ” trong hành động của con người luôn khao khát hạnh phúc gia đình, hạnh phúc lứa đôi ngay cả khi cái chết đang cận kề. Chỉ một từ “kệ” thôi, Tràng như đã bỏ lại sau mình tất cả nỗi sợ hãi, mọi lo nghĩ để hướng đến hạnh phúc. Người ta cho rằng đó là hành động liều lĩnh bởi ta đã chứng kiến một chị Dậu phải bán con, bán chó để nuôi những đứa con khác, duy chì miếng sinh nhai, một anh Đĩ Chuột phải tự tử để nhường lại miếng cơm cho vợ và con mình. Vậy mà Tràng lại đi cưu mang người khác. Tình thương đã cho anh quyết định dứt khoát hơn về hành động của mình. Nó còn tiềm ẩn cái khao khát hạnh phúc gia đình mà trước đây anh không dám ao ước. Nhà văn Kim Lân quả thật đã khám phá thành công những vẻ đẹp tâm hồn của những người nông dân như Tràng – giàu tình yêu thương và sẵn sàng cưu mang những kiếp người khổ hơn mình.

Sau khi có vợ, Tràng không còn là một anh thanh niên ngờ nghệch mà đã trở thành một người đàn ông có khát vọng hạnh phúc, có ý thức vun vén cho mái ấm gia đình. Ta nhận ra rằng, Tràng là một người chồng hết sức yêu quý, quan tâm người bạn đời của mình. Anh đưa thị vào chợ tỉnh “mua cho thị cái thúng con đựng lặt vặt”, đưa vào hàng cơm “đánh một bữa no nê rồi cùng đẩy xe bò vê”. Chăm sóc từng cái nhỏ nhặt như thế cũng chứng tỏ Tràng rất tâm lý. Anh mua cho thị cái thúng con không chỉ đựng mấy thứ lặt vặt mà còn là minh chứng thị là một người phụ nữ giống như những người khác, để thị có thể tự tin hơn khi về nhà chồng, ai lại để vợ về nhà bằng tay không bao giờ! Tràng còn “rất chịu chơi” khi chi hẳn hai hào mua dầu để thắp sáng cho đêm tân hôn của mình. Chi tiết Tràng khoe với thị chai dầu vừa buồn cười lại vừa xót thương. “Hai hào đấy, đắt quá cơ, mà thôi, chẳng cần”. Tràng muốn đêm tân hôn của mình sáng lên một chút để giúp người đàn bà xấu số phần nào đỡ tủi thân trong buổi đầu về nhà chồng. Khi mà có hạnh phúc thì con người ta sẵn sàng đánh đổi cho niềm tin của mình được thắp sáng, cho hạnh phúc được bấu víu cũng như cho hy vọng của mình được nhen nhóm và phát triển. Tràng cũng khao khát như vậy!

Ai đó đã từng nói rằng “Hạnh phúc trong tình yêu có thể làm cho tâm hồn con người thay đổi một cách kỳ lạ” và Tràng cũng không ngoại lệ. Tràng không còn cúi đầu lầm lũi như mọi ngày mà “phởn phở khác thường”, “tủm tỉm cười”, “hai mắt sáng lên lấp lánh”. Cái cảm giác lâng lâng êm ái hạnh phúc buổi đầu đi bên vợ. Bởi vốn dĩ anh chưa từng được người đàn bà nào tình tứ với mình như thế, chưa bao giờ nghĩ mình sẽ có được hạnh phúc giữa nạn đói này. Sự xuất hiện của thị, của người vợ nhặt không chỉ mang đến một luồng sinh khí cho Tràng, cho mẹ Tràng mà còn cả xóm ngụ cư. Có thứ gì đó lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tối tăm của họ. Phải chăng sự xuất hiện của người vợ nhặt, sự thay đổi của con người khi người ta nâng niu và ngợi ca tình người thì cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn! Từ câu chuyện của hai con người dưới đáy của xã hội dường như đã mang theo không khí chờ đợi hạnh phúc đang đến nhẹ nhàng và bình yên. Nó như nhắn nhủ với chúng ta một điều “Trong những hoàn cảnh bần cùng nhất mà con người ta vẫn nghĩ đến tình người thì chắc chắn sẽ còn một tia sáng ở cuối con đường”.

Khi đem thị về nhà, Tràng mới thật sự lo lắng, tâm trạng thiếu tự tin, giống như một đứa trẻ. Trong lòng anh ngổn ngang trăm thứ cảm xúc vừa vui, vừa lo âu. Tràng vui vì hạnh phúc quá lớn, “Hắn đã có vợ rồi đấy ư?”, sẽ có một hạnh phúc gia đình. Nhưng rồi hắn cũng lo sợ ý của mẹ, hết chạy ra ngõ lại chạy vào sân. Khi thấy mẹ, “Tràng reo lên như một đứa trẻ. Anh cẩn thận mời mẹ vào ngồi lên giường cho chĩnh chện rồi mới giới thiệu. Không chỉ là một người đàn ông có trách nhiệm mà Tràng còn là một người con hết mực lễ phép, ngoan ngoãn với mẹ. Anh giới thiệu với mẹ, “Kìa nhà tôi nó chào u đấy”. Kim Lân quả thật rất tài tình trong việc xây dựng lời thoại rất ít chữ nhưng chứa đựng trong đó tình cảm rất nhiều. Chao ôi, cái người mà Tràng gọi “nhà tôi” ấy, cái người đang ra mắt mẹ chồng lại chỉ là một người đàn bà nhặt được theo không, không cưới hỏi, không nhan sắc, bộ áo cô dâu trong ngày vu quy thì xác xơ như tổ đỉa. Tuy nhiên, tiếng “nhà tôi” kia vẫn nghe như có gì đó hết sức thân thương, trân trọng. Nó có sự nghiêm túc, chín chắn về việc hệ trọng cả đời người. Đến với nhau chỉ bằng bốn bát bánh đúc nhưng Tràng đã dành trọn tình thương, tình yêu cho người đàn bà xấu số kia, mở ra những ngày tháng hạnh phúc đang chờ phía trước. Như nhà văn Kim Lân đã chia sẻ “Tôi muốn họ vào trong sự sống, sự yêu thương nhau… dù trong hoàn cảnh cùng đường, bế tắc nhất”.

Song song với niềm hạnh phúc vừa chớm nở, nhà văn Kim Lân đã cho thấy ở Tràng một luồng sống mới vào sáng hôm sau. “Một nguồn sung sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”, “trong người êm ái lửng lơ như người trong giấc mơ đi ra”. Việc có vợ như một giấc mơ đẹp trong cuộc đời Tràng vậy, nó đột ngột, nhanh chóng, niềm vui sướng ngập dâng trong lòng,… bỗng nhiên hắn thấy yêu thương, gắn bó với căn nhà này lạ lùng. Tràng đã có suy nghĩ, ý thức của một người đàn ông trưởng thành, từ vô tâm thành quan tâm, tử dửng dưng đến lo lắng cho hạnh phúc lứa đôi. Từ trách nhiệm với cá nhân gia đình càng thêm khát khao cháy bỏng vào tương lai phía trước. Ở Tràng hiện rõ tương lai tươi sáng, dù trên bờ vực thẳm, anh vẫn đi tìm sự sống “Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây”.Và hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới như báo hiệu trước cuộc sống đói khổ này sẽ chấm dứt thay vào đó là những ngày vui, ấm áp của mọi người. Giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm được tỏa sáng hơn bao giờ hết, tình thương, tình yêu giữa người với người đã thắp lên hy vọng, niềm tin vào một ngày mai tươi đẹp!

Với tác phẩm “Vợ nhặt”, Kim Lân một lần nữa khẳng định tài năng, sức sáng tạo và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của mình. Cái vốn liếng ngôn ngữ giàu có và đặc sắc, cái lối viết tưởng chừng như dễ nhưng rất khó phỏng theo, giản dị nhưng ánh lên một vẻ hào hoa lạ kỳ của nhà văn. Nhưng có lẽ cái đọng lại trong tôi là cách nhìn đời, nhìn người đầy xót xa, thương yêu của tác giả, là niềm tin mà ông muốn trao gửi qua thiên truyện ngắn. Tràng không may mắn khi tạo hóa ban cho ngoại hình chẳng mấy ưa nhìn, bị cuộc sống bùi dập đến đường cùng nhưng anh vẫn luôn khát khao được sống hạnh phúc, vẫn vững tin vào tương lai trong cái tối tăm, đói kém của xã hội bấy giờ. Viết về nạn đói, nhà văn muốn gửi đến thông điệp: Không có khát khao nào chính đáng bằng khát khao được sống như một con người, sống cho ra người, dù cuộc đời có bi thảm đến đâu thì vẫn hướng về ánh sáng, niềm tin vào tương lai.

Viết về đề tài người nông dân, ta đã từng bắt gặp nhiều sáng tác của các nhà văn trước năm 1945. Đó là Nam Cao với hình ảnh “Chí phèo” bị tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính nhưng vẫn khát khao được làm người, nhà văn Ngô Tất Tố với hình ảnh chị Dậu phải hy sinh những gì quý giá nhất cuộc đời để duy trì sự sống cho gia đình. Điểm chung của các nhân vật này và Tràng là đều có số phận hết sức bi thảm nhưng vẫn khát khao vươn lên. Nhưng có lẽ, vì hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ mà chị Dậu, Chí Phèo…. đều phải bước vào đường cùng khi không tìm ra ánh sáng. Còn Tràng, khi được sống trong tình yêu anh đã ý thức tìm thấy ánh sáng của cách mạng, của Đảng. Song đó cũng là dụng ý của nhà văn Kim Lân khi mở con đường mới cho nhân vật, đó là theo cách mạng. Và cũng qua câu chuyện của Tràng chúng ta thấm thía nhiều bài học quý giá. Chúng ta được sinh ra trong điều kiện tốt hơn, được đón nhận nhiều điều tốt đẹp, vậy chẳng có lý do gì mà chúng ta không yêu thương lẫn nhau? Chưa nói đến làm gì lớn lao, hãy bắt đầu từ những việc nhỏ như quan tâm sức khỏe bố mẹ, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, tích cực tham gia các hoạt động thiện nguyện…. Mỗi hành động nhỏ sẽ góp phần cho toàn xã hội ngày một tốt đẹp hơn, yêu thêm cuộc sống này hơn. Còn gì tuyệt vời hơn khi mỗi sáng mai thức dậy, ta được làm thêm nhiều việc tốt! Và thấm thía hơn, ta học được bài học về cách nhìn người, nhìn đời – cái nhìn đầy yêu thương, bao dung, trìu mến và lạc quan, tin tưởng. Chúng ta chỉ được sống có một lần trong đời, vậy hãy chọn sống tích cực và ý nghĩa!

Mỗi lần đọc trang văn của Kim Lân, ta lại cảm thấy như đang đón nhận một bài học nhân đạo sâu sắc qua từng nhân vật mà ông xây dựng. Thành công trong cách xây dựng nhân vật đã đưa Vợ nhặt đứng vào hàng kiệt tác của truyện ngắn Việt Nam hiện đại, đưa tên tuổi của Kim Lân lên một tầm cao mới – trở thành một tượng đài trong làng văn học Việt Nam. Và đặc biệt Kim Lân sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc yêu văn chương, yêu thêm những giá trị bất diệt trong cuộc sống – đó là tình người!

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt – Mẫu 5

Kim Lân là cây bút thành công về đề tài nông thôn và người nông dân, có một số tác phẩm có giá trị về đề tài này. Thấp thoáng trong các tác phẩm của Kim Lân là cuộc sống và con người của làng quê Việt Nam nghèo khó, thiếu thốn mà vẫn yêu đời, thật thà, hóm hỉnh, thông minh. Trong sự nghiệp sáng tác của mình ông để lại khối lượng tác phẩm khá đồ sộ. Nhưng tiêu biểu nhất là tác phẩm “ Vợ nhặt”. Qua tác phẩm, tác giả không chỉ khắc họa thành công diễn biến tâm lí nhân vật Thị mà còn khắc họa thành công diễn biến tâm lí nhân vật Tràng.

Truyện “Vợ nhặt” có tiền thân là tiểu thuyết xóm ngụ cư, tác phẩm được viết ngay sau Cách mạng tháng tám nhưng còn dở dang và mất bản thảo. Hòa bình được lập lại ( 1954) dựa trên một phần cốt truyện cũ, Kim Lân đã viết truyện “ Vợ nhặt”. Tác phẩm được in trong tập “ Con chó xấu xí” năm 1962.

Tràng là một người lao động nghèo khổ nhưng giàu tình yêu thương, tốt bụng, chân thành và cởi mở. Tràng có ngoại hình thô kệch, xấu xí và xoàng xĩnh với “thân hình to lớn, lưng to như gấu”, cái mặt ấn tượng bởi “hai con mắt nhỏ tý gà gà”. Là người không bình thường ăn nói thì cộc cằn, thô lỗ “làm đếch gì có vợ”. Tràng là người hiền lành, vui vẻ hay gần gũi với trẻ con và được bọn chúng yêu quý, nên tính cách có phần trẻ con. Anh là dân ngụ cư làm nghề đánh xe bò thuê. Sống cùng với mẹ già trong một căn nhà rúm ró, xiêu vẹo. Tràng là người cởi mở và tốt bụng, Tràng đùa vui với các cô gái xa lạ, xưng hô thân mật cũng là người nhân hậu, giữa lúc đói, anh sẵn sàng đãi người đàn bà xa lạ bốn bát bánh đúc. Tràng cho thị ăn không phải vì để trả ơn mà đơn giản là sự cảm thông.

Tràng nhặt vợ về rất đơn giản, chỉ bằng câu nói nửa đùa nửa thật “này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuôn hàng lên xe rồi cùng về”. Câu nói ấy ẩn chứa niềm khao khát tổ ấm gia đình. Trước cái cười tít mắt của thị, Tràng thích lắm và cảm nhận được niềm vui sướng và hạnh phúc. Lúc đầu thì có ý định đưa người đàn bà xa lạ về nhà Tràng cũng có chút phân vân, anh nghĩ “ thóc gạo thế này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Thế mà cuối cùng anh vẫn quyết định dắt thị về nhà, phải chăng sự khát khao hạnh phúc gia đình bấy lâu nay ẩn dấu trong tâm hồn hôm này được thực hiện.

Trên đường về nhà thái độ của Tràng có nhiều khác lạ: “ mặt hắn có một vẻ gì phởn phở khác thường, hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Đó là niềm vui mộc mạc của người đàn ông nghèo, lần đầu được đi bên một người phụ nữ.Mặc dù người vợ được hắn nhặt về nhưng Tràng không hề rẻ rúng,khinh miệt thị.Trái lại, Tràng vô cùng trân trọng coi chuyện lấy Thị là một điều nghiêm túc nên đã đưa Thị vào chợ mua cho Thị cái thúng, đãi một bữa cơm và mua hai hào dầu.Trước con mắt tò mò của dân xóm ngụ cư thì vênh vênh tự đắc. Anh rất vui, lòng lâng lâng khó tả.

Khi về đến nhà, Tràng ăn nói có văn hóa hơn, biết quan tâm đến Thị, thắc mắc “quái, sao nó lại buồn thế nhỉ”? Tràng sốt ruột “ chạy ra chạy vào”, ngóng chờ lúc mẹ về. Tràng hồi hộp lo lắng mong chờ câu trả lời của mẹ. Khi mẹ đồng ý thì thở phào một cái như nhẹ hẳn đi.

Buổi sáng đầu tiên khi có vợ, Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, nhận ra mọi thứ xung quanh thay đổi, thấy mình trưởng thành, hạnh phúc và có trách nhiệm với vợ con “bỗng hẳn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Với Tràng căn nhà này sẽ là cái “ tổ ấm che mưa che nắng… anh cùng vợ sinh con ở đây” và anh cảm thấy “ bây giờ Tràng nên người, có bốn phận lo lắng cho vợ con sau này”.

Những suy nghĩ của Tràng biểu hiện niềm khao khát một mái ấm gia đình thực sự, một ước mơ chính đáng của con người khi trưởng thành là thể hiện cách sống đẹp của Tràng. Bữa cơm đầu tiên đạm bạc, thảm hại nhưng vẫn tràn đầy yêu thương. Tràng cũng nghĩ tới sự thay đổi dù vẫn chưa ý thức được đầy đủ “ trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” là biểu tượng của niềm tin và hi vọng, rồi đây nhân dân lao khổ sẽ cùng đứng lên đấu tranh giành lại cuộc đời mình, đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt. Gieo hạt giống hi vọng mãnh liệt của tâm hồn Tràng, gia đình Tràng và tất cả bạn đọc. Tràng là biểu tượng của niềm khao khát hạnh phúc gia đình, niềm tin vào cuộc sống vào tương lại của những người nghèo khổ ngay trên bờ vực của cái chết.

Qua diễn biến tâm lí của nhân vật Tràng trong tác phẩm “ Vợ nhặt” tác giả không chỉ thành công về nội dung mà còn thành công về nghệ thuật khi xây dựng được tình huống truyện độc đáo. Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh động có nhiều chi tiết đặc sắc, ngôn ngữ mộc mạc giản dị nhưng có sự chắt lọc kỹ lưỡng và giàu sức gợi kết hợp với nhân vật được khắc họa sinh động, đối thoại hấp dẫn, ấn tượng thể hiện tâm lí nhân vật tinh tế.

Nhà văn đã khắc họa thành công nhân vật Tràng và tố cáo tội ác của bọn thực dân phát xít đã gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945 và khẳng định ngay trên bờ vực cái chết vẫn luôn hướng về sự sống, tin tưởng ở tương lai, khát khao tổ ấm gia đình và yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Hình ảnh nhân vật Tràng sẽ sống mãi trong lòng người đọc.

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt – Mẫu 6

Nói đến các nhà văn trong nền văn học hiện đại thì không thể không nói đến nhà văn  Kim Lân. Và khi nói đến nhà văn  Kim Lân thì người đọc sẽ nhớ ngay đến “Vợ nhặt”. Một trong những tác phẩm được xem là một trong những tác phẩm điển hình của văn học Việt Nam. Với “Vợ nhặt” nhà văn  Kim Lân đã làm nổi bật nhân vật Tràng- hình tượng người nông dân hiền lành chất phác và giàu lòng yêu thương trong hoàn cảnh hết sức éo le ngang trái.

Dẫn dắt vào trong  tác phẩm, thoạt tiên tác giả Kim Lân đã cho chúng  ta biết được một vài nét về thân phận và địa vị của nhân vật. Tràng vốn là một  người dân nghèo trong xóm ngụ cư sống cùng người mẹ già trong một căn nhà xiêu quẹo và  rách nát. Và hằng ngày anh phải ra sức đẩy xe bò chở thóc mướn. Anh có vẻ ngoài xấu và thô kệch cùng  đôi mắt nhỏ tí và  thân hình vậm vạp. Trong xã hội cùng cực đau thương tủi nhục và  với thân phận và địa vị như thế chắc chắn rồi cuộc đời của Tràng sẽ kết thúc trong sự cô đơn và  tủi nhục.

Nhưng trong diễn biến của câu chuyện Tràng lại có vợ và  có một gia đình hạnh phúc mà đến chính anh cũng ngỡ ngàng như đó không phải là sự thật. Nói cho đúng hơn là chính lòng thương người không đắn đo và  toan tính đã trao tặng anh món quà “hạnh phúc”. Nhà văn  Kim Lân đã xây dựng một tình huống hết sức độc đáo: Tràng đã “nhặt” được một cô vợ qua hai lần gặp gỡ. Lần thứ nhất khi anh đẩy xe bò lên một cái  dốc. Anh hò chơi một câu cho đỡ mệt “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”. Chủ tâm của anh không phải là  để chọc ghẹo cô nào, nhưng không ngờ có một chị lại cong cớn lại  chạy ra và giúp Tràng đẩy xe lên dốc. Lần thứ hai khi đang ngồi uống nước ở trên  cổng chợ tỉnh thì người đàn bà xuất hiện và mắng Tràng “điêu”. Trong tình huống đó anh không biết làm sao cho hợp tình hợp lý. Anh mời chị ăn trầu nhưng chị lại  không ăn trầu mà đòi ăn thứ khác. Tràng đành mời liều “muốn ăn gì thì ăn” thế là thị sà xuống ăn một lúc hết bốn bát bánh đúc. Ăn xong, Tràng nói một

câu mà như thể  nói tầm phơ tầm phào “Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Nói đùa thế thôi và  ai ngờ thị về thật. Lúc đầu Tràng phảng phất lo sợ về cái đói và cái chết “mới đầu anh cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình còn chả biết có nuôi nổi không mà  lại còn đèo bòng”. Đó là một nỗi sợ hãi có thật nhất lại là thời đói kém như thế này. Nhưng có lẽ tình thương người và khát vọng hạnh phúc đã lớn hơn cái  nỗi sợ hãi nên sau đó anh chặc lưỡi” Chậc kệ!”. Chỉ một  từ là  “kệ” thôi, Tràng như đã bỏ lại sau lưng mình tất cả những  nỗi sợ hãi và  mọi lo nghĩ để vun vén cho cái hạnh phúc của mình.

Đọc lướt qua câu chuyện ta thấy  ngỡ như việc “nhặt vợ” của Tràng là tình cờ nhưng nghĩ cho kĩ ta sẽ thấy rằng việc làm ấy xuất phát từ tình yêu thương của con người chân chính và tình thương người đã cho anh quyết định dứt khoát là đưa người đàn bà xa lạ về chung sống. Hành động ấy của Tràng còn tiềm ẩn rất nhiều  khát vọng hạnh phúc lứa đôi và  hạnh phúc gia đình mà trước đây anh không dám ao ước.

Chính những  khát vọng và tình thương đã làm cho Tràng biến đổi từ dáng vẻ bên ngoài đến bên trong tâm hồn. “Mặt hắn có một vẻ gì hớn hở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Với cách miêu tả đó dường như trước mắt người đọc là một anh Tràng khác hẳn. Từ một con người mang mặc cảm về thân phận và  một trái tim cằn cỗi nay lại hồi sinh.

Về đến nhà thì  lúc đầu Tràng thấy “ngượng nghịu” rồi cứ thế “đứng tây ngây ra giữa nhà và  chợt hắn thấy sờ sợ”. Nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua thôi. Hạnh phúc lớn lao quá đã khiến Tràng lại lấy lại được thăng bằng nhanh chóng và lúc sau Tràng tủm tỉm cười một mình với ý nghĩ có phần ngạc nhiên sửng sốt và  không dám tin đó là sự thật: “hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư ?”. Đó là sự ngạc nhiên trong sự  sung sướng.

Khi đã có vợ rồi niềm vui sướng trong anh tràn ngập và dường như anh đã quên đi cuộc sống tối tăm thường nhật và cảm nhận một sự thay đổi. Hắn ý thức được trách nhiệm, bổn phận của người chồng và  người chủ gia đình “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu và gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng…Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người và  hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”.

Từ một con người cục mịch và  sống vô tư, chỉ biết việc trước mắt, hắn  đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự được đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã và  dồn dập, thì  Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi và  đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ của anh ta lại vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi để cướp kho thóc của Nhật Bản  và đằng trước là lá cờ đỏ. Hắn nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận và  tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới…

Có thể nói  truyện ngắn “Vợ nhặt” đã xây dựng rất  thành công nhân vật Tràng-một anh nông dân nghèo khó  nhưng giàu lòng yêu thương và đồng thời qua Tràng tác giả còn cho thấy sức sống mãnh liệt và  diệu kì của con người Việt Nam trong khó khăn cuộc sống. Dường như càng đau khổ và mất mát người ta lại yêu thương nhau nhiều hơn. Và cũng lí giải được  vì sao dân tộc ta làm làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt – Mẫu 7

Sinh thời, nhà văn Kim Lân đã từng tâm sự về những tác phẩm của mình: “Tôi muốn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình người vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình người là có cuộc sống. Có tình người là có hi vọng vào tương lai”. Tâm niệm ấy đã được ông gửi gắm vào những đứa con tinh thần của mình, trong đó có “Vợ nhặt”. Tác phẩm viết trên cái nền u tối của nạn đói thảm khốc năm 1945 nhưng lại ngời sáng lên những vẻ đẹp, khát khao và những tình cảm cao cả của con người – trong đó nổi bật là nhân vật Tràng.

Nhân vật Tràng được ngòi bút Kim Lân khắc họa trong bối cảnh làng quê Việt Nam vào những ngày đói “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào”. Kim Lân đã lựa chọn những chi tiết, hình ảnh tiêu biểu giàu chất hiện thực về nạn đói: không gian là một xóm chợ nghèo xơ xác, tối om trong thời khắc ánh chiều chạng vạng; hình ảnh của những người sống “lũ lượt bồng bế. dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma … nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, “dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì những bóng người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”. Bầu không khí được miêu tả bởi “mùi ẩm thối của rác rưởi và mui gây của xác người” – một không khí ảm đạm, chất chứa sự chết chóc đang bao trùm lên cái không gian sống nơi đây, bao trùm những người đã chết, những xác chết và bao trùm lên cả những con người còn sống. Thêm vào đó là âm thanh của bầy quạ không biết từ đâu bay về đậu kín ở cây gạo ngoài bãi chợ đang “gào lên từng hồi thê thiết” như đưa tiễn buổi hoàng hôn của đời để bước vào đêm tối của địa ngục. Với những chi tiết trên, Kim Lân đã tạo nên một phông nền xã hội của nông thôn Việt Nam trước sự đe dọa của cái đói, cái chết – một hiện thực kinh hoàng về nạn đói năm 1945. Đặt nhân vật vào bối cảnh ngày đói, Kim Lân là rõ hơn thân phận và diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng.

Là một trong ba nhân vật chính của truyện ngắn, cũng là chủ thể của hành động nhặt vợ hi hữu và cảm động, Tràng đã được Kim Lân khắc họa tương đối đậm nét trong cả ngoại hình, dáng vẻ, tâm trạng và tính cách. Anh có tên là Tràng (một dụng cụ trong nghề mộc) – một tên gọi giản dị, mộc mạc, là dân ngụ cư có địa vị thấp kém trong xã hội. Dân ngụ cư là những người từ nơi khác đến, không có ruộng đất, lại bị phân biệt đối xử, thường phải ở bìa làng hoặc nơi hẻo lánh:

“Trai làng ở góa còn đông

Cớ sao em lại lấy chồng ngụ cư”

Nhà Tràng có 4 người nhưng bố và em gái đã mất, Tràng sống cùng mẹ trong một căn nhà “vắng teo, đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại” và Tràng làm nghề kéo xe thóc thuê cho Liên đoàn – công việc bấp bênh, nặng nhọc, vất vả. Tất cả những hình ảnh đó gợi ra gia cảnh tột cùng nghèo khó của Tràng. Tràng xuất hiện ngay từ đầu truyện ngắn với dáng vẻ thô tháp, vụng về của một anh chàng xấu trai và hơi dở tính với khuôn mặt thô kệch, đôi mắt gà gà đắm vào bóng chiều. Sự ám ảnh của cái đói đã hiện rõ trong mỗi buổi chiều về khi Tràng “vừa đi vừa ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch nữa, bây giờ, hắn đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về phía trước”.

Tính cách nhân vật Tràng được thể hiện rõ nhất qua tình huống “nhặt vợ”. Từ việc chia sẻ miếng ăn với một người đàn bà đang đói khát đến việc nhặt vợ bị động, bất ngờ, Tràng đã thể hiện những nét tính cách đầu tiên của con người liều lĩnh, chất phác, nhân hâu và hào hiệp. Thoạt nhìn, việc mời một người đàn bà xa lạ giữa đường ăn bốn bát bánh đúc ngay khi bản thân mình đang đói khổ có vẻ như bốc đồng và việc đưa thị về nhà làm vợ có vẻ như liều lĩnh; nhưng cũng có thể thấy sâu xa trong sự bốc đồng là một tấm lòng nhân hậu, một tính cách hào hiệp và sâu xa trong sự liều lĩnh không chỉ là tình thương mà còn là những khát vọng âm thầm về một tổ ấm gia đình. Tràng đã hoàn toàn ý thức được hoàn cảnh của mình quá đói nghèo, biết có nuôi được thân mình không và thậm chí khi nghĩ đến sự đèo bòng, Tràng cũng thấy chợn, nhưng rồi sau cái tặc lưỡi là một quyết định bất chấp tất cả để có một cuộc sống lứa đôi, một mái ấm gia đình, một người vợ – dẫu có là vợ nhặt.

Sau quyết định bất ngờ, đột ngột của chính mình, “Tràng vẫn ngờ ngợ… sờ sợ…”, không tin nổi mình đã lấy được vợ một cách quá dễ dàng, chóng vánh đến thế, lại trong một tình cảnh đói khát éo le đến thế, không thể tin nổi mình – một anh chàng từng nói một cách thản nhiên: “Làm đếch gì có vợ”, nay bỗng nhiên lại có một người vợ thực sự, thậm chí tới sáng hôm sau tỉnh dậy, Tràng vẫn “ngỡ ngàng như đang trong một giấc mơ”. Cảm giác ngạc nhiên đến mức tội nghiệp ấy là nét tâm lí chân thực của một người đàn ông quá nghèo khổ, bất hạnh đến mức không dám tin vào hạnh phúc bất ngờ của mình.

Sau sự ngạc nhiên, lo lắng, Tràng bay bổng trong cảm giác hạnh phúc: Trên đường đưa vợ về nhà, Tràng như trở thành một con người khác hẳn: “Mặt hắn có vẻ gì phớn phở khác thường”, “hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh” – hạnh phúc như một thứ ánh sáng kì diệu từ bên trong tâm hồn Tràng, rạng ngời trên khuôn mặt đang nở ra vì sung sướng, trong ánh mắt lấp lánh không kiềm chế được niềm hân hoan, xúc động. Trước những tò mò, ngạc nhiên phỏng đoán của dân làng, Tràng càng hãnh diện, sung sướng “hắn lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh vênh tự đắc”.

Hạnh phúc đã làm Tràng biến đổi sâu sắc – anh con trai vô tâm, ngộc nghệch trước đây nay đã nên người, đã trở thành một người đàn ông sống có trách nhiệm, nghĩa tình. Sự biến đổi đầu tiên của Tràng được thể hiện trong thái độ đối với người vợ nhặt. Khi dẫn vợ về nhà, Tràng đã thấy trong lòng hắn bấy giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên… Với Tràng, người đàn bà khốn khổ, đói khát, lăn xả vào hắn để kiếm miếng ăn, bám chặt lấy hắn để chạy trốn cái đói tuyệt nhiên không phải vợ theo, vợ nhặt mà là người vợ thực sự theo đúng ý nghĩa thiêng liêng nhất. Vì thế, dù nghèo khổ, Tràng cũng muốn đánh dấu cái ngày đặc biệt trọng đại trong cuộc đời mình, muốn thể hiện sự trân trọng với vợ bằng một lần được coi thường đồng tiền, một lần được xa xỉ với hai hào dầu cho sáng sủa trong ngày đón vợ về. Từ việc làm có vẻ hơi bốc đồng khi mua cho vợ cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê trước khi về nhà, đó là thái độ trân trọng cuộc sống, cũng là sự trân trọng hạnh phúc của chính mình, đó cũng là cách ứng xử chu đáo, nghiêm túc của một con người đã thực sự trưởng thành.

Vốn vô tâm, bộc tuệch, vậy mà bây giờ, Tràng cứ băn khoăn, áy náy đến xót xa vì vẻ buồn bã của vợ khi thị ngồi bần thần trong gian nhà lạ rúm ró. Có tới hai lần. Tràng tự hỏi: Sao nó buồn thế nhỉ? Sao hôm nay nó buồn thể nhỉ? Có lẽ sâu xa trong lòng mình, Tràng cũng phần nào hiểu được nguyên nhân nỗi buồn tủi, chua xót của người vợ mới đang thất vọng, bẽ bàng khi nhận thức sâu sắc tình cảnh thê thảm của cả hai người. Nỗi xót xa của Tràng vì thế không chỉ là tình thương và sự quan tâm mà đã hàm chứa cảm giác có lỗi của một người chồng ý thức được trách nhiệm của mình với gia đình, vợ con mà lực bất tòng tâm. Tràng đã bồn chồn lo lắng chờ mẹ về, đã giới thiệu người vợ nhặt với mẹ một cách trân trọng, thậm chí hàm ơn: Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi…, Tràng đã thở phào nhẹ nhõm trước câu nói đầu tiên của mẹ, câu nói chấp nhận người vợ mình nhặt về một cách đường đột, éo le – đó là những trạng thái tâm lí chân thực và cảm động thể hiện thái độtrân trọng cùng tình thương yêu của Tràng với người đàn bà mới sáng nay vẫn còn xa lạ, còn từ bây giờ gắn bó với hắn suốt đời.

“Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy”. Anh vẫn còn đọng lại cảm giác êm ái, lửng lơ như “người trong giấc mơ đi ra”, anh vẫn còn “ngỡ ngàng như không phải” với việc mình đã có vợ – bởi niềm hạnh phúc ấy thật quá lớn lao, anh chưa thể tin vào mắt mình. Thế rồi, Tràng “lững thững bước ra sân”, một vệt nắng dài của mùa hè sáng lóa, xóa đi những u tối của đói khổ. Qua luồng sáng ấy, Tràng chợt nhận ra xung quanh mình có gì đấy thật khác lạ. Khác lạ không chỉ trong suy nghĩ mà còn trong những đổi thay từ nhà cửa, sân vườn đến không khí đầm ấm, tươi mới của gia đình mình.

Trong buổi sáng hôm ấy, Tràng đã thấm thía cảm động trước cảnh tượng đầm ấm của gia đình khi nhìn thấy mẹ và vợ cùng thu dọn nhà cửa, sân vườn. Ngôi nhà sạch sẽ, quang quẻ, những đống rác mùn trong sân đã được hót gọn, dây quần áo vắt khươm mươi niên được phơi hong khô ráo, hai cái ang khô cong bây giờ nước đầy ăm ắp… đó là hình ảnh của sự sống, là cái sinh khí mới mẻ của một mái ấm gia đình mà lần đầu tiên Tràng được cảm nhận. Không khí ấy khiến Tràng thấy mình như trưởng thành, với những ý thức sâu sắc về tình cảm, bổn phận, trách nhiệm: Bỗng nhiên, hắn thấy hắn thương yêu gắn bó… lạ lùng với cái tổ ấm nơi hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái…bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Từ anh Tràng vô tư, ngờ nghệch đã trở thành người đàn ông biết gánh vác, anh “xăm xăm” chạy ra giữa sân, muốn góp sức để phụ mẹ và vợ tu sửa lại căn nhà cho tươm tất, sạch đẹp đón chào cuộc sống mới. Bước chân “xăm xăm” ấy chính là bước chân của sự trưởng thành, trách nhiệm của người đàn ông biết yêu thương gia đình.

Biến đổi lớn lao, mới mẻ nhất của Tràng được Kim Lân miêu tả trong chi tiết: khi nghe vợ kể về những đoàn người đói rách đi theo Việt Minh phá kho thóc Nhật, Tràng có cảm giác tiếc rẻ vẩn vơ – cảm giác của Tràng cho thấy từ nay, khi có một gia đình phải lo, chắc chắn Tràng sẽ không bao giờ bỏ lỡ cơ hội đến với cách mạng, đi theo cách mạng để lo miếng cơm, manh áo cho vợ con. Và ở cuối truyện, ngay khi Tràng đang cố nuốt miếng cháo cám đắng chát vào miệng thì hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới trong tâm trí Tràng vẫn đem lại niềm tin sâu sắc cho người đọc: những người như Tràng sẽ đến với cách mạng một cách tích cực, nhanh chóng, triệt để nhất bởi chỉ có cách mạng mới có thể giúp họ thay đổi cuộc đời, mới có thể đem lại hạnh phúc và cuộc sống ấm no cho gia đình, vợ con họ.

Cuộc đời Tràng tiêu biểu cho số phận của người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám, nhưng Kim Lân không chỉ dừng lại ở việc khắc họa cái đói nghèo khiến cuộc đời con người ta thê thảm, ông đã tạo ra tình huống nhân đạo để nâng đỡ, mở cho họ những con đường đi mới tràn ngập ánh sáng của niềm tin, hạnh phúc và cách mạng. Nhà văn đã dành cho nhân vật của mình tấm lòng nhân đạo sâu sắc, niềm yêu thương len lỏi vào từng hành động, suy nghĩ và tâm trạng của nhân vật. Tất cả đã được Kim Lân thể hiện qua tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh thế và lối ngôn ngữ nhuần nhị, rất mực tự nhiên.

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt – Mẫu 8

Kim Lân – một nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi Việt Nam vào giai đoạn trước và sau cách mạng tháng Tám. Ông là một người yêu quê hương đất nước, giàu lòng thương người. Kim Lân đã khắc họa rất thành công bức tranh của nạn đói năm Ất Dậu, nạn đói lịch sử của nước ta năm 1945 qua tác phẩm truyện ngắn “Vợ nhặt”. Đặc biệt là qua hình ảnh nhân vật Tràng, một người nông dân nghèo đói, bất hạnh nhưng trong anh lại có một tấm lòng giàu tình thương người, giàu khát vọng hạnh phúc. Tất cả được thể hiện qua câu chuyện đầy bất ngờ của Tràng – câu chuyện nhặt vợ giữa ngày đói.

Tràng một thanh niên chất phác, anh chính là người đại diện cho tầng lớp nông dân nghèo khổ, sống ở xóm ngụ cư nuôi mẹ già, công việc hằng ngày kiếm sống chính là đẩy xe bò mướn. Người ta thường nói cuộc đời vốn dĩ công bằng, nhưng có lẽ đối với người thanh niên Tràng thì lại quá bất công, số phận khổ cực bần cùng của chàng trai đi đôi với ngoại hình xấu xí, thô kệch với cái đầu trọc lóc, cái lưng to bè như lưng gấu, đôi mắt thì nhỏ tí gà gà. Tính tình Tràng thì lại dở hơi nhưng cũng vô cùng tốt bụng, và rất mực yêu trẻ con, chàng thường hay vui đùa với những đứa trẻ trong xóm. Một người vô cùng bất hạnh và tội nghiệp.

Nhưng run rủi sao, một con người thấp hèn ấy, một hoàn cảnh cơ cực như thế lại trở thành một chú rể, đây có phải là một sự may mắn, là hạnh phúc của Tràng không. Bỗng dưng có vợ – Tràng nhặt được vợ chỉ sau hai lần gặp gỡ, chỉ qua vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc giữa ngày đói. Có thể nói, chuyện lấy vợ của Tràng giống như là một điều lạ nhưng thú vị, giống như đùa nhưng cũng là thật. Mới ban đầu, khi người phụ nữ đói nghèo, rách rưới là thị đồng ý lấy không Tràng, lúc đó, người thanh niên này cũng thấy hơi chột dạ, cũng biết chợn vì “Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”.

Nhưng rồi Tràng chặc lưỡi và suy nghĩ đến đâu hay đến đó. “Chậc, kệ!” – câu nói như đồng ý, như chấp nhận số phận, như bắt đầu một cuộc sống mới, một cuộc sống có vợ. Việc hai người này đến với nhau tuy ngẫu nhiên nhưng cũng là điều tất nhiên, Tràng cần một người vợ để biết đến hạnh phúc còn Thị – người đàn bà nghèo ấy cần một chỗ dựa để qua khỏi hoàn cảnh đói kém, một sự chở che. Đây chính là cuộc sống thường nhật trên đời.

Trên đường Tràng đưa thị về nhà, Tràng thật sự rất vui và hạnh phúc, Tràng quên đi hết cuộc sống cơ cực của mình với cảnh sống nghèo đói, tăm tối, đang đe dọa từng ngày, ở Tràng lúc này có một cái gì đó mới mẻ và lạ lẫm mà chưa bao giờ cảm thấy trước đây. Kim Lân đã hơn hai mươi lần nhắc đến và miêu tả niềm vui nụ cười thường trực trên môi của Tràng khi có vợ, ông sử dụng những từ ngữ vừa gợi tả vừa gợi cảm như: mặt phớn phở, mắt sáng lấp lánh, miệng cười tủm tỉm… Và sau một đêm tân hôn, nên vợ nên chồng, Tràng cảm thấy trong người đổi khác, êm ái, lửng lơ như bừng tỉnh từ giấc mơ, cảm thấy thương yêu và gắn bó với ngôi nhà của mình… Và cái thay đổi lớn nhất đó chính là Tràng cảm thấy mình cần phải làm gì đó, phải nên người để lo cho vợ con sau này, cảm thấy được trách nhiệm và bổn phận lớn lao của mình.

Đọc tác phẩm, chúng ta cảm thấy được một tình cảm chân thành và cảm động ở Tràng, một người vui vẻ như vừa bước ra từ giấc mơ. “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. Tràng đã khác so với ở đầu tác phẩm. Cưới Thị giống như một bước ngoặt quan trọng thay đổi cả cuộc đời lẫn tính cách Tràng, từ đau khổ sang hạnh phúc, từ chán đời sang vui vẻ yêu đời, từ một con người khờ khạo sang ý thức được trách nhiệm. Đây chính là giá trị lớn lao của hạnh phúc, một sự phục sinh tâm hồn.

Ở cuối tác phẩm, ta thấy trong suy nghĩ của Tràng xuất hiện cảnh những người nghèo đói khổ đang kéo nhau ầm ầm đi trên đê Sộp, ở đằng trước là một lá cờ đỏ sao vàng. Đoàn người đang đi phá kho thóc Nhật. Đây là một hiện thực và cũng là ước mơ tin về tương lai, tin về Đảng và cách mạng của Tràng cũng như của những người như Tràng. Kim Lân rất xuất sắc và thành công khi có thể lột tả được sự thay đổi cũng như miêu tả được tâm lí nhân vật bằng ngòi bút nhân đạo vô cùng sâu sắc của tác giả.

Tràng giống như một đứa con tinh thần của Kim Lân. Tình huống nhặt vợ đầy bất ngờ và đặc biệt nhưng đã thể hiện được tư tưởng sâu sắc của tác phẩm đó chính là dù người nghèo đói, cùng cực nhưng họ luôn nghĩ đến sự sống chứ không phải là cái chết, luôn có niềm tin vào tương lai tươi đẹp. Qua Tràng ta cũng đã cảm nhận được một tâm hồn trong sáng đẹp đẽ của người dân lao động nghèo đó chính là tình người và hi vọng.

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt – Mẫu 9

Kim Lân là một cây bút nằm trong danh sách những nhà văn viết truyện ngắn tài hoa của nền văn học đương đại Việt Nam. Ông thường viết về cuộc sống nông thôn và những người dân quê chất phác, giản dị nhưng chan chứa tình thương. “Vợ nhặt” là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã khắc họa thành công nhân vật Tràng, một người lao động nghèo nhưng hiền lành, nhân hậu, luôn khao khát hạnh phúc gia đình giản dị và biết hướng tới tương lai tươi đẹp.

Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân bộc lộ quan điểm nhân văn sâu sắc của mình. Tác giả tìm thấy vẻ đẹp kì diệu của người lao động giữa cảnh đói khổ cùng cực, trong mọi hoàn cảnh éo le họ vẫn vượt qua cái chết, tìm đến cuộc sống. Tiêu biểu trong đó chính là nhân vật Tràng của Kim Lân.

Tác giả đã mượn bối cảnh ngày đói vô cùng thê thảm ở nông thôn Việt Nam do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945 để khắc hoạ nổi bật lên hình tượng nhân vật Tràng. Những người năm đói được miêu tả với “khuôn mặt hốc hác u tối”, “Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”, và “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”. Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” cùng với “mùi gây của xác người” càng tô đậm cảm giác tang tóc thê lương. Không gian mà nhà văn Kim Lân xây dựng lên trong bối cảnh ấy thật khủng khiếp. Cả không gian dường như chỉ ảm đạm một màu u ám vì cái đói, cái chết, sự tang thương đang bủa vây. Tuy nhiên chính trong không gian u ám đến đáng sợ ấy, tác giả lại có thể vẽ lên một chuyện tình khá độc đáo. Đó là một mối tình táo bạo, dở khóc dở cười giữa Tràng và thị, một câu chuyện tình bắt đầu từ bốn bát bánh giữa một ngày đói. Đây được coi là tình huống truyện rất độc đáo, tưởng chừng như vô lý nhưng lại hợp lý vô cùng. Tình huống truyện này đã gợi ra một dòng tâm lí rất tinh tế ở mỗi nhân vật, đặc biệt là Tràng.

Anh cu Tràng ngốc nghếch, ngờ nghệch, bỗng nhiên trở thành người thực sự hạnh phúc. Nhưng niềm hạnh phúc quá lớn, lại đến quá đột ngột khiến Tràng rất đỗi bất ngờ “đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Đó là niềm hạnh phúc mà hắn và cả mẹ hắn hay tất cả người dân xóm ngụ cư đều coi là chỉ có trong cổ tích. Rồi cái ngỡ ngàng trước hạnh phúc kia cũng nhanh chóng đẩy thành niềm vui hữu hình cụ thể. Đó là niềm vui về hạnh phúc gia đình – một niềm vui giản dị nhưng đẹp đẽ và đáng quý đến mức không gì có thể sánh nổi. Người thanh niên ấy chợt thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.

Nhắc đến vợ, chúng ta vẫn hiểu đó là người phụ nữ sẽ gắn bó với gia đình cả đời, là người phụ nữ được cưới hỏi đàng hoàng và là người được hết mực trân trọng, yêu thương. Vì vậy, dù người vợ là do Tràng “nhặt” về, chẳng có cưới xin, dạm ngõ, nhưng Tràng cũng không hề rẻ rúng, khinh miệt thị. Trái lại, Tràng vô cùng trân trọng, coi chuyện lấy thị và xây dựng hạnh phúc gia đình với thị là một điều nghiêm túc. Khát vọng mái ấm gia đình đã khiến Tràng vượt qua lo lắng về cái đói “đến thân còn chẳng lo nổi, lại còn đèo bòng”. Tràng chậc lưỡi “kệ” cái đói, mua cho thị cái thúng con, vài xu dầu và dẫn thị về căn nhà lụp xụp rách nát của mẹ con mình. Tràng hồi hộp chờ câu đồng ý chấp thuận của bà cụ Tứ. Tâm lý và suy nghĩ của Tràng được tác giả xây dựng theo một diễn biến rất hợp lý. Tràng đưa thị về làm vợ không phải xuất phát từ suy nghĩ bốc đồng của một anh chàng ngờ nghệch. Tràng cũng đã thoáng lo về cái đói, lo lắng bản thân mình phải đèo bòng. Nhưng vì niềm khao khát hạnh phúc gia đình quá lớn nên Tràng đã gạt bỏ hết những nỗi lo ấy để tiến tới tương lai.

Sau khi lấy vợ, Tràng thấy khoan khoái như người từ trong giấc mơ đi ra. Hắn không ngờ rằng bản thân đã có một gia đình. Hắn nghĩ ra viễn cảnh tương lai sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Đó là một điều thật bình dị nhưng lại có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong cuộc đời Tràng. Hắn thấy hắn nên người và cần phải có trách nhiệm với gia đình nhiều lắm. Một nguồn vui rạo rực bỗng dâng tràn trong lòng. “Một niềm vui thật cảm động, lẫn cả hiện thực lẫn giấc mơ. Chi tiết: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà” đã thể hiện sự thay đổi lớn trong chính con người Tràng, là một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng. Từ một chàng trai ngờ nghệch, vụng về, Tràng đã có một ý thức bổn phận sâu sắc: “hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”.

Dường như câu chuyện đã có thể kết thúc tại thời điểm Tràng thực sự trưởng thành, nhận ra trách nhiệm của mình, nhưng với ngòi bút tài hoa của Kim Lân thì câu chuyện đã có một cái kết sâu sắc hơn. Câu kết truyện “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới chứa đựng bao sức nặng về nghệ thuật và nội dung cho thiên truyện. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là tín hiệu tích cực về một sự đổi thay trong xã hội, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người. Chi tiết này rất mới mẻ bởi những tác phẩm của nền văn học hiện thực vào thời điểm trước Cách mạng tháng Tám không thể nhìn thấy được. Đó là sự đổi thay và giác ngộ rất lớn trong tư tưởng cách mạng. Nền văn học mới sau Cách mạng tháng tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác, lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn.

Có thể nói, Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện thực, nhân đạo, là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người. Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tràng, một người lao động nghèo khổ dù có những nét ngốc nghếch, ngờ nghệch nhưng tâm hồn vẫn đẹp như một viên ngọc sáng.

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt – Mẫu 10

Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông thường viết về nông thôn và những con người dân quê, lam lũ hồn hậu, chất phác mà giàu tình yêu thương. Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã khắc hoạ thành công nhân vật Tràng, một người lao động nghèo khổ nhưng giàu tình yêu thương, luôn khao khát hạnh phúc gia đình giản dị, biết hướng tới tương lai tươi đẹp.

Kim Lân rất am hiểu nông thôn và đời sống của nhân dân nên ông có những trang viết sâu sắc, cảm động. Truyện Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí) được coi là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân. Thiên truyện có một quá trình sáng tác khá dài. Nó vốn được rút ra từ tiểu thuyết Xóm ngụ cư (cuốn tiểu thuyết viết dang dở ở thời kì trước Cách mạng). Hoà bình lập lại, Kim Lân viết lại. Vợ nhặt mang dấu ấn của cả một quá trình nghiền ngẫm lâu dài về nội dung và chiêm nghiệm kĩ lưỡng về nghệ thuật.

Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc của mình. Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai. Tiêu biểu cho những con người đó là nhân vật Tràng.

Đọc lướt qua câu chuyện ta ngỡ như việc “nhặt vợ” của Tràng là tình cờ nhưng nghĩ cho kĩ ta sẽ thấy rằng việc làm ấy xuất phát từ tình yêu thương của con người chân chính. Tình thương người đã cho anh quyết định dứt khoát là đưa người đàn bà xa lạ về chung sống. Hành động ấy của Tràng còn tiềm ẩn khát vọng hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình mà trước đây anh không dám ao ước.

Chính khát vọng và tình thương đã làm cho Tràng biến đổi từ dáng vẻ bên ngoài đến bên trong tâm hồn. “Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Với cách miêu tả ấy dường như trước mắt người đọc là một anh Tràng khác hẳn. Từ một con người mang mặc cảm về thân phận, một trái tim cằn cỗi nay lại hồi sinh.

Về đến nhà, lúc đầu Tràng thấy “ngượng nghịu” rồi cứ thế “đứng tây ngây ra giữa nhà, chợt hắn thấy sờ sợ”. Nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua thôi. Hạnh phúc lớn lao quá khiến Tràng lại lấy lại được thăng bằng nhanh chóng. Lúc sau Tràng tủm tỉm cười một mình với ý nghĩ có phần ngạc nhiên sửng sốt, không dám tin đó là sự thật: “hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Đó là sự ngạc nhiên trong sung sướng.

Khi đã có vợ rồi niềm vui sướng trong anh Tràng ngập. Dường như anh đã quên đi cuộc sống tối tăm thường nhật và cảm nhận một sự thay đổi. Tràng ý thức được trách nhiệm, bổn phận của người chồng, người chủ gia đình “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng… Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”.

Từ một con người cục mịch, sống vô tư, chỉ biết việc trước mắt, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ của anh lại vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới…

Tràng được khắc họa nổi bật trong bối cảnh ngày đói vô cùng thê thảm ở nông thôn Việt Nam do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945. Những người năm đói được miêu tả với “khuôn mặt hốc hác u tối”, “Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”, và “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”. Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” cùng với “mùi gây của xác người” càng tô đậm cảm giác tang tóc thê lương. Cái đói hủy diệt cuộc sống tới mức khủng khiếp. Trong một bối cảnh như thế Kim Lân đặt vào đó một mối tình thật là táo bạo, dở khóc, dở cười giữa Tràng và Thị, một mối duyên bắt nguồn từ bốn bát bánh đúc giữa ngày đói.

Kim Lân đã tạo nên một tình huống độc đáo: Tràng nhặt được vợ để từ đó làm nổi bật khao khát hạnh phúc, tình yêu thương, cưu mang đùm bọc lẫn nhau của những con người đói. Ngay cái nhan đề Vợ nhặt đã bao chứa một tình huống như thế: nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945, người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết, giá trị một con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ có mấy bát bánh đúc ngoài chợ. Như vậy thì cái thiêng liêng (vợ) đã trở thành rẻ rúng (nhặt). Nhưng tình huống truyện còn có một mạch khác: chủ thể của cái hành động “nhặt” kia là Tràng, một gã trai nghèo, xấu xí, dân ngụ cư, đang thời đói khát mà đột nhiên lấy được vợ, thậm chí được vợ theo thì quả là điều lạ. Lạ tới mức nó tạo nên hàng loạt những kinh ngạc cho hàng xóm, bà cụ Tứ – mẹ Tràng và chính bản thân Tràng nữa.

Tình huống truyện trên đã khơi ra mạch chảy tâm lí cực kì tinh tế ở mỗi nhân vật, đặc biệt là Tràng. Anh cu Tràng cục mịch, khù khờ, bỗng nhiên trở thành người thực sự hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc lớn quá, đột ngột quá, khiến Tràng rất đỗi ngỡ ngàng “đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Rồi cái ngỡ ngàng trước hạnh phúc kia cũng nhanh chóng đẩy thành niềm vui hữu hình cụ thể. Đó là niềm vui về hạnh phúc gia đình – một niềm vui giản dị nhưng lớn lao không gì sánh nổi. Chàng thanh niên nghèo khó “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”.

Mặc dù người vợ được hắn nhặt về, nhưng Tràng không hề rẻ rúng, khinh miệt thị. Trái lại, Tràng vô cùng trân trọng, coi chuyện lấy thị là một điều nghiêm túc. Khát vọng mái ấm gia đình đã khiến Tràng vượt qua lo lắng về cái đói “đến thân còn chẳng lo nổi, lại còn đèo bòng”. Tràng chậc lưỡi “kệ” cái đói, mua cho thị cái thúng con, vài xu dầu và dẫn thị về căn nhà lụp xụp rách nát của mẹ con mình. Tràng hồi hộp chờ câu đồng ý chấp thuận của bà cụ Tứ.

Buổi sáng hôm sau, Tràng thấy khoan khoái như người từ trong giấc mơ đi ra. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Đó là một điều thật bình dị nhưng có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong cuộc đời Tràng. Hắn thấy hắn nên người. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”. Một niềm vui thật cảm động, trong cả hiện thực lẫn giấc mơ.

Chi tiết: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà” là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Tràng đã có một ý thức bổn phận sâu sắc: “hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”. Tràng thật sự “phục sinh tâm hồn” đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc.

Câu kết truyện “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” chứa đựng bao sức nặng về nghệ thuật và nội dung cho thiên truyện. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là tín hiệu thật mới mẻ về một sự đổi thay xã hội rất lớn lao, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người. Đây là điều mà các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945 không nhìn thấy được. Nền văn học mới sau Cách mạng tháng Tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác, lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn.

Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện thực, nhân đạo; là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người. Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tràng, một người lao động nghèo khổ mà ấm áp tình thương, niềm hi vọng, lạc quan qua cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt – Mẫu 11

Nhà văn Kim Lân là một nhà văn tiêu biểu cho nền văn học hiện đại Việt Nam. Những tác phẩm của Kim Lân đều đi sâu vào đời sống của những người nông dân có hoàn cảnh éo le và  khổ cực, bị cái gọi là  nghèo  đói trong xã hội bủa vây. Thông qua những lời văn chân thành và mộc mạc của mình nhà văn Kim Lân muốn tố cáo tội ác của giặc và  của xã hội cũ, đề cao cuộc sống của con người.

Tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân được viết trong những năm 1945 khi mà nạn đói đang hoành hành tại miền Bắc của  nước ta làm chết 2 triệu đồng bào. Ngòi bút của ông đã hướng tới những người nông dân vì hoàn cảnh chiến tranh phải từ bỏ quê hương mình đi tản cư ở một  nơi khác. Những xóm làng mới đã được  tập hợp những người ngụ cư vì thế mà được hình thành. Từ mảnh đất mới này nhiều mảnh đời đã ghép lại với nhau để  trở thành những người thân và  gắn bó thân thiết với nhau.

Vợ nhặt xoay quanh nhân vật Tràng một con người lao động chất phác và  hiền lành, nhưng nghèo đói. Anh ta  sống với một bà mẹ già yếu tại xóm ngụ cư toàn những cư dân mới từ khắp nơi đổ về làng . Ngày ngày Tràng hay  làm nghề kéo xe bò chở hàng thuê cho người khác để kiếm ngày hai bữa. Cuộc sống mưu sinh vô cùng khốn khó đã  khiến anh không lấy nổi vợ, và chẳng cô nào muốn lấy anh vì anh  nghèo quá. Nhưng rồi một ngày tình cơ Tràng nhặt được một cô vợ rất  xinh xắn và ngoan ngoãn .

Câu chuyện tưởng đùa mà hóa lại là  thật. Chỉ một câu nói vui  đùa của Tràng với cô gái ấy  hoàn toàn xa lạ rằng “Muốn ăn cơm trắng với giò, thì lại đây đẩy xe bò với anh” chỉ một câu nói vui đùa vu vơ như vậy mà Tràng đã nhặt được môt cô  vợ. Cô gái không có người thân thích và sống bơ vơ một mình ngoan ngoãn ra đẩy xe cho anh rồi theo anh về nhà chung sống suốt  đời sống vợ chồng. Không có một đám cưới và cũng  không có một bữa tiệc ra mắt gia đình hai bên, không có giấy đăng ký kết hôn được chính quyền xác nhận. Họ đã thành vợ thành chồng như thế rất  đơn giản và  mộc mạc.

Qua những lời văn đầy cảm động của tác giả  Kim Lân muốn thể hiện sự xót xa cảm thông của mình với những con người thiệt thòi và  bất hạnh. Chuyện hệ trọng trăm năm mới có một lần nhưng trong hoàn cảnh đất nước quá nghèo khó và  giặc giã triền miên nên tất cả đều phải làm qua loa đại khái.

Nhân vật Tràng chính là nhân vật trung tâm xuyên suốt tác phẩm của Kim Lân, thông qua nhân vật Tràng nhà văn Kim Lân miêu tả những diễn biến tâm lý của nhân vật này từ những trạng thái này đến trạng thái khác. Tràng nghèo khổ và  làm những  công việc nặng nhọc, gia cảnh thì mẹ góa con côi. Tràng xuất hiện băng vài chi tiết “hắn bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào trong bến… hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra…bộ mặt thô kệch …”

Thông qua những chi tiết miêu tả về ngoại hình tính cách của Tràng đã  khiến cho người đọc cảm nhận được Tràng là người xấu xí về ngoại hình và  thô kệch về vóc dáng và là người có những  suy nghĩ khác người, không phải là người có học thức và ít nho nhã. Hắn nghèo và  gia đình thì chẳng có của ăn của để nào của ông cha đời trước. Hoàn cảnh gia đình rất là  éo le, chỉ có hai mẹ con tự  nương tựa vào nhau. Phải nói là Tràng đã nghèo lại còn xấu và không văn hay chữ tốt một người đàn ông như vậy làm sao mà có nổi vợ trong thời kỳ đất nước thái bình và  không có chiến tranh, chạy loạn thì chắc chắn Tràng ế vợ cả đời.

Hình ảnh của Trang đã  khiến cho người ta liên tưởng tới nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm của nhà văn  Nam Cao. Nhưng Tràng có ưu điểm hơn Chí Phèo đó là  ở chỗ dù cuộc sống nhiều khó khăn và  vất vả nhưng Tràng vẫn lao động kiếm miếng ăn từ mồ hôi công sức mình bỏ ra. Không như Chí Phèo làm cái nghề ai cũng coi thường mình là “Rạch mặt ăn vạ”

Người đọc có thể cảm nhận được một điểm chung đó là  của hai người đàn ông này là họ đều rất cô quạnh, bị xã hội nghèo đói xô đẩy. Cuộc sống khốn khổ đã khiến họ trở thành những con người khô cằn và  chai sần về mặt cảm xúc của con người.

Tuy nhiên thì  trong tác phẩm của mình và  trong bối cảnh éo le, bần cùng đó nhà thơ  Kim Lân đã mở ra những tình huống truyện tươi sáng và có lối thoát ,có những niềm  hy vọng mới cho người nông dân Việt Nam thời đó và không như trong tác phẩm của nhà văn  Nam Cao số phận của người nông dân thường vô cùng bế tắc và  cùng cực và có kết thúc bi thảm làm người đọc nghẹn lời.

Trong tác phẩm “Vợ nhặt” của mình giữa thời kỳ đói khổ và  tranh tối tranh sáng đó những con người bần cùng, xấu xí và  thô kệch như nhân vật Tràng lại lấy được vợ mà chẳng tốn một đồng xu nào cả , chẳng phải mất thời gian tán tỉnh hay  cưa cẩm,…Anh ta có được vợ như nhặt một viên đá ở  ngoài đường mang về.

Tình huống nhặt được vợ của nhân vật Tràng là tình huống truyện vô cùng đắt giá và  nó là cho câu chuyện của nhà văn  Kim Lân trở nên có sức sống thu hút hơn  người đọc. Và tạo niềm tin sống cho những con người khó khăn và  khốn khổ.

Chính những nghèo khó khăn và  cơ cực đã đẩy những con người cô đơn xích lại gần nhau gắn bó với nhau tạo thành những tổ ấm mới, xây dựng tương lai trong hoàn cảnh bần cùng của mình

Nhà văn đã vô cùng tinh tế khi miêu tả diễn biến tâm lý Tràng thay đổi trước và khi  sau khi nhặt được vợ.”Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên”.

Khi có vợ rồi Tràng trở nên hiền lành và  dễ thương hơn, hắn vui vẻ phởn phơ khác những  ngày thường. Khi nhìn thấy bóng dáng người vợ nhặt  của mình ngồi giữa nhà hắn còn chưa tỉnh cơn mà hắn  cứ tưởng nằm mơ “ngờ ngợ như không phải thế. Ra là hắn đã có vợ rồi đó  ư”. Sự thật là hắn đã có vợ dễ dàng thế sao và cho  đến chính hắn người trong cuộc mà còn không thể nào tin đó là sự thật, thì người ngoài đúng là khó lòng để  tin nổi. Nhưng rồi hắn thấy lâng lâng trong lòng và  cảm thấy có một nguồn sinh khí mới thổi vào trong tâm hồn héo úa bao nhiêu ngày tháng của hắn . Tràng cười và cảm thấy ngập tràn cảm giác mới mẻ.

Người vợ của hắn  cũng thế, cô nàng không có một cái tên nên cứ tạm gọi tên là thị. Trước khi làm vợ Tràng và  nhân vật Thị cong cớn, có chút chua ngoa của người phụ nữ trải qua nhiều khốn khổ và  nhiều thăng trầm trong cuộc sống. Thị có chút bất cần và  chút liều lĩnh, bởi nếu không bất cần và  liều lĩnh thì Thị sẽ không vì một câu nói bông đùa mà theo không một người đàn ông về nhà làm vợ như thế. Nhưng có lẽ cuộc sống của Thị cũng rất đáng thương, sự nghèo đói và cô đơn của xã hội lúc đó khiến Thị không có sự lựa chọn thế nên thị theo Tràng về làm vợ người ta dù không có một tiệc cưới hay là  một mâm cơm ra mắt họ hàng, không nhẫn cầu hôn, không đăng ký. Sự nghèo đói cô đơn đã tước đi của thị quá nhiều sự ưu ái mà bất kỳ người con gái nào khi theo chồng đều muốn có và đãng nhẽ phải có.

Duyên trời đã định đã xô đẩy những con người nghèo khổ nhất  đến với nhau. Bữa cơm đầu tiên sau đêm thành vợ thành chồng của hắn và cô gái lạ cũng khiến người đọc phải rơi nước mắt về  một bữa cơm quá giản dị nó chỉ là một nồi cháo cám và  đắng chát trong mồm, nhưng hắn vẫn ăn ngon lành tâm trạng của  hắn vẫn  phấn khởi lắm

Người phụ nữ làm vợ hắn cũng dịu dàng đoan trang hơn rất nhiều và  hai mảnh đời ghép lại với nhau để cùng hướng tới một tương lai tươi sáng. Hình ảnh kết thúc chuyện là lá cờ Việt Minh cướp kho thóc Nhật chia cho dân nghèo và  là con đường ánh sáng, niềm tin vào tương lai mới cho những số phận người nông dân nghèo khổ.

Bằng ngòi bút chân thực, mộc mạc và giản dị, tình huống truyện độc đáo và rất  hấp dẫn nhà văn Kim Lân đã khắc họa thành công nhân vật Tràng. Qua tác phẩm người đọc thấy được tinh thần nhân văn của nhà văn  trước những số phận người nông dân nghèo khó.

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt – Mẫu 12

Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn về nông thôn, hình tượng người nông dân lao động. “Vợ nhặt” được sáng tác năm 1955 đã khắc họa rất thành công bức tranh của nạn đói lịch sử năm 1945. Ban đầu, truyện ngắn này có tên ban đầu là Xóm ngụ cư. Truyện ngắn này đã chạm đến trái tim của người đọc, khi miêu tả chân thực về cuộc sống của người dân giữa nạn đói khủng khiếp, người chết như ngả rạ; vừa mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, ca ngợi tình yêu thương, vẻ đẹp người dân Việt Nam. Bên cạnh nhân vật bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân đã khắc họa chi tiết, chân thực, đặc sắc diễn biến tâm trạng Tràng – con trai bà cụ Tứ. Phân tích nhân vật Tràng cho thấy dù trong hoàn cảnh cùng quẫn, đói khát, nhưng Tràng – đại diện cho người lao động nghèo vẫn khao khát tình yêu, hạnh phúc gia đình và lấp lánh niềm tin vào cuộc sống, tương lai phía trước.

Tràng là một người lao động nghèo khổ, hơi bất bình thường, lại có ngoại hình xấu xí “hai con mắt nhỏ tí, gà gà”, “lưng to bè như lưng gấu”, “hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú, vừa dữ tợn… Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ”. Anh sống ở xóm ngụ cư nuôi mẹ già. Anh làm công việc đẩy xe bò mướn để kiếm sống. Dù nghèo khổ nhưng anh vô cùng tốt bụng, rất mực yêu trẻ con, thường hay vui đùa với những đứa trẻ trong xóm. Cuộc sống lao động vất vả nghèo khổ đã hằn lên ngoại hình của hắn: “Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàn vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về phía trước…”. Dưới ngòi bút tả thực của Kim Lân, nhân vật Tràng hiện lên thật đáng thương, tội nghiệp đến thắt lòng.

Tâm trạng của Tràng biến đổi từ khi bỗng “nhặt” được vợ ngoài đường trong nạn đói 1945. Lần gặp đầu tiên, lời nói đùa của Tràng chứ không hề có tình ý với cô gái đẩy xe cùng mình. Bởi hắn chẳng bao giờ nghĩ một người nghèo như Tràng lại có vợ cả. Ấy thế mà “hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thúc vào dốc đỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc”. Hắn hò: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, ni!…”. Ấy thế mà, người phụ nữ ra đẩy ra với hắn. Hôm sau gặp lại, hắn đãi người đàn bà ấy 4 bát bánh đúc và đồng ý theo hắn về làm vợ. Tâm trạng lúc đó của Tràng lúc đó “khiến hắn cũng không ngờ, hắn chỉ tầm pha tầm phào đâu có hai bận thế mà thành vợ thành chồng”.

Diễn biến tâm trạng của Tràng diễn ra từ bất ngờ cho đến vui vẻ, hạnh phúc, nhưng không thiếu nỗi lo về phía trước. Ở lần gặp 2, khi bị người đàn bà ấy mắng, Tràng toét miệng cười và mời ăn dù mình cũng không dư giả gì. Hành động đó chứng tỏ Tràng là một người nông dân hiền lành, tốt bụng, thương người.

Đặc biệt khi người đàn bà quyết định theo mình về thì Tràng bắt đầu thấy lo vì phải lo thêm miệng ăn giữa thời buổi người chết ngoài đường như ngả rạ. Nhưng rồi anh tặc lưỡi “chậc, kệ”. Hành động của Tràng không phải bồng bột, thiếu suy nghĩ, sĩ diện, mà đó là thái độ dung cảm, biết chấp nhận hoàn cảnh và cháy lên sự khát khao hạnh phúc, yêu thương con người cùng cảnh ngộ như mình.

Tràng nghiêm túc với quyết định của mình. Hắn đưa người “vợ nhặt” lên chợ tỉnh mua đồ. Tràng rất chu đáo và quan tâm đến người đàn bà của mình. Thế mới thấy, trong lúc nghèo đói như vậy, tình người thật đáng quý.

Kim Lân đã thành công khi miêu tả tâm trạng của Tràng ở nhiều cung bậc cảm xúc. Trên đường về, vẻ mặt Tràng “có cái gì phơn phởn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc” như thấy hãnh diện, hạnh phúc khi cưới được vợ giữa thời buổi khó khăn như thế này. Vì tâm trạng vui, hãnh diện nên Tràng mua dầu về thắp để khi vợ về đến nhà thì căn nhà trở nên sáng sủa.

Khi về đến nhà, Tràng “xăm xăm” dọn dẹp sơ qua, “ngượng nghịu” thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của người đàn bà. Sự chân thật của Tràng đến mộc mạc, khiến người đọc càng thêm thương cảm và dành sự cảm mến dành cho nhân vật này. Tràng cũng có cảm giác lo lắng vì sợ người đàn bà này thấy gia cảnh của mình sẽ bỏ đi. Bản than Tràng thấy “sờ sợ” vì hạnh phúc có thể rời bỏ mình đi.

Diễn biến tâm trạng của Tràng được mô tả chân thực khi diễn tả sự sốt ruột đợi bà cụ Tứ về để thưa chuyện. Tràng hiểu rằng cần phải xin phép ý kiến của mẹ, sợ mẹ không đồng ý. Điều này chứng tỏ Tràng là người con biết lễ nghĩa. Đặc biệt, khi bà cụ Tứ về, Tràng thưa chuyện một cách nghiêm túc, trịnh trọng. Khi nhận được sự đồng ý của mẹ, long Tràng thở phào nhẹ nhõm.

Kim Lân đã miêu tả tâm trạng thay đổi của Tràng qua việc miêu tả cảnh vật vào sáng hôm sau khi có vợ. Tràng nhận thấy sự thay đổi kỳ lạ của ngôi nhà. “Bỗng vừa chợt nhận ra xung quanh mình cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng…”. Tràng cảm thấy hạnh phúc khi thấy người mẹ đang lúi húi giẫy cỏ, vợ quét lại cái sân… Khuôn mặt Tràng tươi tỉnh hẳn lên “hắn cười khì khì” dù đêm hôm qua hắn nghe thấy “tiếng khóc tỉ tê”, “diều quạ trên mấy cây ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”.

Từ những điều giản dị, nhưng tràn đầy hạnh phúc như vậy về cuộc sống gia đình, trong lòng Tràng bỗng dưng thấy rõ bổn phận, trách nhiệm trong gia đình để gây dựng tương lai. “Bỗng nhiên hắn cảm thấy hắn yêu thương, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một niềm vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bốn phận lo lắng cho vợ con sau này …”.

Bữa ăn sáng hôm đó tuy trông thật thảm hại, chỉ có lưng bát cháo và món “chè đặc biệt” – đó chỉ là miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ, cảm thấy nỗi xót xa tủi hờn nhưng Tràng vẫn có niềm tin về phía trước “lá cờ đỏ bay phấp phới”.

Từ một người đàn ông thô kệch, Tràng đã thay đổi tâm trạng, suy nghĩ khi “nhặt” được vợ. Dường như Tràng quên đi những khó khăn hiện tại để có niềm tin sẽ vượt qua hướng đến tương lai tươi sáng hơn. Điều đó cho chúng ta thấy rõ, dù trong hoàn cảnh nào, đói kém có rình rập tính mạng, thì con người vẫn khao khát được yêu thương, được sống hạnh phúc của một gia đình, thậm chí còn bùng lên mãnh liệt hơn.

Kim Lân đã rất thành công khi miêu tả chi tiết diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng. Ông đã đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo, để nhân vật tự bộc lộ tâm trạng, tính cách một cách rõ nét, chân thực. Với nghệ thuật dẫn truyện sáng tạo, ngôn ngữ bình dị, gần gũi, ông đã chạm đến tâm khảm của người đọc, giúp họ đồng cảm với nhân vật, đồng thời lấy đi nước mắt về cuộc sống cơ cực của người dân lao động Việt Nam trong hoàn cảnh nạn đói lịch sự năm 1945. Nhân vật Tràng dù nghèo khổ nhưng tràn đầy ấm áp, yêu thương, niềm hy vọng, lạc quan vào cuộc sống, vào sự thay đổi xã hội. Đó cũng chính là giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc mà nhà văn Kim Lân muốn gửi tới bạn đọc.

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt – Mẫu 13

Nhắc đến nhà văn Kim Lân thì nhiều người sẽ nghĩ ngay tới “Vợ nhặt” – một tác phẩm nổi tiếng của ông. Bạn đọc biết đến “Vợ nhặt” như là một minh chứng chân thực nhất cho cuộc đời và số phận của con người trong nạn đói 1945 lịch sử. Trong tác phẩm này, nhà văn Kim Lân đã khắc họa nhân vật Tràng – một người đàn ông nghèo khổ tiêu biểu cho những người nghèo khổ và qua đó để làm nổi bật tinh thần nhân đạo nhân văn về tình yêu thương con người.

Truyện ngắn “Vợ nhặt” lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945, và cụ thể là ở một xóm ngụ cư tiêu điều xác xơ. Tình huống truyện ở đây là việc anh cu Tràng có vợ, nhưng không phải được cưới hỏi đàng hoàng mà là vô tình “nhặt” từ ngoài đường về. Qua sự kiện mang tính độc đáo và bất ngờ này, nhà văn đã đi sâu vào tâm lí từng nhân vật và qua cho làm nổi bật phẩm chất tốt đẹp bên trong những con người thấp cổ bé họng nghèo đói, bần cùng.

Để làm nổi bật tư tưởng ấy, Kim Lân đã lựa chọn mà khắc họa nhân vật Tràng xuyên suốt trong tác phẩm. Tràng là một anh con trai nghèo khổ, làm nghề kéo xe bò thuê, sống với mẹ già ở một cái “nhà” đứng rúm ró trên mảnh vườn lổn nhổn những búi cỏ dại cuối xóm ngụ cư. Chính vì là dân ngụ cư cho nên Tràng bị coi khinh, chẳng ai buồn nói chuyện, trừ lũ trẻ hay trêu chọc mỗi khi anh đi làm về.

Chỉ với nét miêu tả của nhà văn, người đọc đã thấy được hình ảnh một người đàn ông xấu xí, thô kệch. “Hắn bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào trong bến. Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai còn mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của bắn lúc nào cũng nhấp nhính những ý nghĩ gì vừa lí thú vừa dữ tợn…”. Cái điệu “vừa đi vừa tủm tỉm cười” khiến cho hình tượng nhân vật trở nên cô độc, lẻ loi giữa không gian xóm ngụ cư tiêu điều, xơ xác.

Thế nhưng, Tràng dường như chẳng hề thấy buồn, thấy cô độc. Mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong xóm “ùa ra vây lấy hắn, reo cười váng lên”. “Đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi. Khi ấy, Tràng chỉ ngửa mặt lên cười hềnh hệch”. Quả thật, tính tình Tràng vô tư chẳng khác đám trẻ con là mấy. Chính vì thế cho nên anh chơi đùa với chúng, làm “cái xóm ngụ cư ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một chút”.

Không những thế, Tràng cũng chẳng biết tính toán, suy nghĩ cũng giản đơn. Ngay cả chuyện trọng đại của đời người như lấy vợ cũng được anh quyết định rất nhanh chóng. Có lẽ từ trước nay chưa có ai lấy vợ nhanh như Tràng. Chỉ cần một câu hò và bốn bát bánh đúc, Tràng đã có một cô ả theo về làm vợ chồng. Một người xấu xí, nghèo đói và thô kệch như Tràng mà cũng có được vợ, nhất lại là trong lúc “chết đói” thì quả đúng là đám cưới có một không hai.

Thực ra ban đầu, Tràng chẳng chủ tâm đưa tình đẩy ý với cô nào trong đám con gái bên đường hôm ấy. Chẳng ngờ, chỉ vì một câu hò vui cho đỡ nhọc mà thị lon ton đến đẩy xe bò cho anh và đòi trả công. Thấy người đàn bà đói, Tràng cũng hào phóng mời thị ăn rồi ngỏ ý mời về cùng. Chỉ sau bốn bát bánh đúc và lời mời của Tràng, thị đã trở thành vợ của anh ta. Tràng có vợ, lấy được vợ trước hết là vì lòng thương nhân hậu đối với một con người cùng cảnh ngộ với mình, thậm chí đói khát hơn mình.

Lấy nhau không phải vì tình yêu, mà là vì bốn bát bánh đúc và hai câu nói bông đùa nhưng không vì thế mà Tràng coi thường vợ mình. “Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê”. Anh còn mua hai hào dầu thắp để “vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí”. Tràng cũng cảm thấy hạnh phúc, có điều gì đó kì lạ và mới mẻ chưa bao giờ anh thấy được: “Tràng quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên”.

Kể từ lúc anh biết mình đã có vợ, anh như thể trở thành một con người khác. Tràng đon đả, ngoan ngoãn với mẹ, với vợ anh trìu mến yêu thương. Sáng hôm sau trở dậy, Tràng cảm thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa trong mơ đi ra”. Việc có vợ với Tràng cho đến sáng hôm sau vẫn như là một giấc mơ. Nhưng nhìn thấy cửa nhà sạch sẽ tinh tươm, nhìn thấy mẹ và vợ mình, Tràng thấy mình cần có trách nhiệm hơn. “Hắn đã có một gia đình”. “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”. Hắn muốn sửa lại căn nhà để sau này “hắn cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy”.

Có thể thấy rằng, từ một anh phu xe cục mịch, chỉ biết sống vô tư, chơi đùa cùng lũ trẻ, Tràng đã trở thành người biết quan tâm đến người khác, đến những chuyện khác ngoài xã hội. Khi tiếng trống thúc thuế vang lên dồn dập, “Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi”. Hình ảnh về đoàn người đi phá kho thóc Nhật và lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới xuất hiện trong tâm trí anh như thể một tia sáng về những điều tốt đẹp đang chờ sẽ đến.

Trong nạn đói 1945, Tràng không phải là một cá biệt mà có rất nhiều những “anh cu Tràng” khốn khổ như vậy. Cuộc đời Tràng là một minh chứng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng tháng Tám. Nghèo đói nên bị người ta coi thường, khinh rẻ, nghèo đến nỗi không lấy được vợ mà khi lấy vợ thì hẳn là “nhặt vợ” chứ không phải là “cưới vợ”. Lấy vợ giữa cái đói quay đói quắt, cả anh cu Tràng cho đến vợ và bà cụ Tứ đều cảm thấy hạnh phúc đan xen lẫn chua xót. Bởi “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không?”.

Cũng như Tràng hay bất cứ người nghèo nào khác, nếu không có một sự thay đổi mang tính cách mạng thì có lẽ sẽ phải sống mãi trong sự tăm tối, đói rách. Ở nhân vật Tràng tuy chưa có sự thay đổi lớn lao đó, nhưng trong ý nghĩ của anh đã xuất hiện những tia sáng cho hướng đi mới của cuộc đời. Hình ảnh đoàn người vùng lên phá kho thóc Nhật dưới lá cờ đỏ sao vàng chính là con đường Tràng sẽ đi, và trong thực tế lịch sử người nông dân Việt Nam đã đi theo con đường cách mạng đó.

Bằng ngòi bút sắc sảo của mình, Kim Lân đã để lại ấn tượng trong lòng người đọc về một anh cu Tràng nghèo đói nhưng thật thà nhân hậu với đầy đủ những hành động, diễn biến tâm trạng phức tạp, đan xen. Anh chợn nghĩ, đôi chút lo lắng lẫn hãnh diện khi nhặt được vợ. Có lúc lại đon đả, lúng túng đi theo người đàn bà. Có khi lại hạnh phúc mơ màng quên hết những cảnh tăm tối trước kia. Anh vô tư nhưng không sỗ sàng, trái lại biết ngượng ngịu, chín chắn, biết lo nghĩ cho cuộc sống về sau.

Có thể nói rằng, “Vợ nhặt” là một bức tranh sống động về đời sống người nông dân trong nạn đói 1945. Tuy rằng ở đó, con người hãy còn chìm trong bóng tối, đói nghèo và chết chóc nhưng với con mắt tinh tường, nhà văn Kim Lân vẫn phát hiện ra chiều sâu tâm hồn tốt đẹp ẩn chứa bên trong họ. Đó là tình yêu thương con người, là ý thức trách trách nhiệm của mình đối với gia đình và và xã hội. Trên cái nền đen tối ấy, con người đã vượt lên và tỏa sáng những vẻ đẹp rực rỡ nhất. Đó cũng chính là giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc mà nhà văn Kim Lân muốn gửi gắm đến bạn đọc.

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt – Mẫu 14

Văn học chính là lăng kính chủ quan, phản ánh hiện thực một cách khách quan, chính xác nhất. Bởi vậy mà nhà văn Kim Lân đã dùng ngòi bút của mình để phác họa thành công bức tranh cuộc sống, sinh hoạt của người nông dân trong nạn đói năm Ất Dậu qua tác phẩm “Vợ nhặt”. Nhà văn đã đem vào thiên truyện của mình một điểm sáng mới, đó là niềm tin, niềm hi vọng vào một tương lai tốt đẹp dù hiện tại có khó khăn đến nhường nào.

Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn, ngòi bút của ông thật sắc sảo khi tập trung miêu tả những phong tục tập quán và đời sống làng quê với những “thú vui đồng quê hay phong lưu đồng ruộng”. “Vợ nhặt” là tác phẩm xuất sắc được in trong tập “Con chó xấu xí” của nhà văn, viết về người nông dân trong tình cảnh thê thảm của nạn đói với bản chất tốt đẹp, lương thiện. Bằng khả năng sáng tạo của mình, nhà văn đã thành công ở nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật và hàng loạt các biện pháp nghệ thuật đặc sắc khác khi xây dựng nhân vật của mình.

Có thể nói rằng Kim Lân đã thực sự xuất sắc khi dựng lên tình huống “nhặt vợ” của anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bồng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỷ hơn là vị tha và người ra rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại ở các nhân vật anh cu Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ.

Chúng ta từng kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đường”, “người lớn xanh xám như những bóng ma”, trước “không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi gây của xác người”, từng ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu gào thảm thiết” ấy nhưng lạ thay chúng ta thật không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và của người vợ Tràng nữa. Một thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng, một con người – thân xác vạm vỡ, lực lưỡng ấy dường như ngờ nghệch thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp.

Sự đói nghèo bần hàn, vây quanh lấy hắn, nhưng trong đầu hắn luôn hiện lên những suy nghĩ lạ lùng thỉnh thoảng lại thấy hắn ngửa mặt cười cười một cái gì đó. Tràng thật sự là một con người kỳ quái. Giữa khung cảnh nghèo đói, cùng cực ấy. Một con người xấu xí, thô kệch nghèo khổ như Tràng những tưởng vĩnh viễn phải sống kiếp cô độc vì chả có gì thu hút người khác thì làm sao mà lấy được vợ. Nhưng không ngờ Tràng vẫn lấy được vợ, mà con lấy được một cách dễ dàng “nhặt” được vợ như nhặt một cục đá mà thôi.

Chỉ bằng những câu nói bông đùa vu vơ, mà Tràng nhặt được vợ “Muốn ăn cơm trắng với giò, thì ra đây đẩy xe bò với anh nào” Chỉ có như thế thôi nhưng một cô gái ngoan ngoãn ra đẩy xe với hắn. Rồi theo hắn về nhà làm vợ. Tác giả Kim Lân đã xây dựng tình huống truyện vô cùng thú vị, độc đáo làm thay đổi số phận của nhân vật Tràng. Làm cho câu chuyển sang một hướng rẽ mới thú vị và thu hút người đọc. Hành động nhặt được vợ của Tràng khiến người ta phải suy nghĩ, bởi việc lấy vợ lấy chồng là việc vô cùng quan trọng trong đời người, bình thường người ta phải làm thật cẩn thận suy tính trước sau. Cô gái làm vợ Tràng cũng thật thiệt thòi biết bao, làm vợ người ta mà không có một lễ cưới, không được làm dăm ba mâm ra mắt họ hàng, không có giấy đăng ký kết hôn, không có chứng nhận của hai bên họ hàng.

Trước khi đưa cô vợ về nhà, Tràng rất chu đáo, mua cho vợ một chiếc thúng con mới, dẫn thị đi ăn một bữa thật no, mua những hai hào dầu để về thắp sáng trong nhà. Anh cu Tràng từ một kẻ thô kệch, lúc nào cũng nói chuyện một mình và cười hềnh hệch, hôm nay bỗng trở nên tâm lý và tinh tế lạ thường. Trên đường đi về Tràng vui sướng, hớn hở, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười. Khuôn mặt vừa hạnh phúc, rạng rỡ vừa vênh vênh tự đắc với chính mình. Cảnh sống cực khổ ê chề hàng ngày, Tràng đã quên hẳn, mà chỉ sống trong niềm vui, niềm hạnh phúc khi lấy được vợ.

Bước chân đến nhà Tràng bỗng ngượng nghịu, xấu hổ, đứng tây ngây giữa nhà, chợt thấy sờ sợ nhưng lại vừa hạnh phúc sung sướng khi việc mình lấy vợ đã trở thành hiện thực. Điều Tràng mong ngóng nhất là đợi mẹ mình về nhà, để ra mắt nàng dâu mới. Lời giới thiệu thị với mẹ cũng rất trân trọng, để nàng dâu bớt đi phần ngượng ngùng, xấu hổ. Tràng đã thay đổi là một con người khác hẳn, tâm lý, nhạy bén và rất khéo léo trong cách ăn nói. Dường như hạnh phúc mới này đã đem đến sự thay đổi lớn trong tâm lý, suy nghĩ của anh cu Tràng.

Bà đã chấp nhận người vợ nhặt của con trai. Tình huống khiến người đọc nhớ mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu đầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa”. Bà cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng, toàn nói những chuyện vui trong nhà, vì bà muốn mang lại không khí vui tươi hơn giữa cái nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo. Ai cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà có thể mang lại cho con.

Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật. Bà cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, Kim Lân đã cho chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các nhà văn muốn nhân vật nổi bật cá tính của mình thường đặt nhân vật ấy vào tình thế căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay trong chính nội tâm của mỗi nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình. Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức người mẹ nghèo vốn thương con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã “cúi đầu nín lặng”.

Cử chỉ, hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hoà lẫn vào nhau khiến bà thật căng thẳng. Sau khi thấu hiểu mọi điều bà nhìn cô con dâu đang “vân vê tà áo rách bợt bạt” mà lòng đầy xót thương. Bà thiết nghĩ “người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ”. Và thật xúc động, bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng “Thôi, chúng mày đã phải duyên phải kiếp với nhau thì u cũng mừng lòng”.

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt – Mẫu 15

Văn học chính là lăng kính chủ quan để phản ánh hiện thực một cách khách quan và chính xác nhất. Bởi vậy nên nhà văn Kim Lân đã dùng ngòi bút của mình để phác họa thành công bức tranh về  cuộc sống và  sinh hoạt của người nông dân trong nạn đói năm 1945 qua tác phẩm “Vợ nhặt”. Nhà văn đã đem vào thiên truyện của mình một điểm sáng mới, đó chính  là niềm tin và niềm hi vọng vào một tương lai tốt đẹp dù hiện tại có khó khăn đến nhường nào.

Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn và  ngòi bút của ông thật sắc sảo khi tập trung miêu tả những gì  phong tục tập quán và đời sống làng quê với những “thú vui đồng quê hay là  phong lưu đồng ruộng”. “Vợ nhặt” là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân được in trong tập “Con chó xấu xí”, viết về người nông dân trong tình cảnh thê thảm của nạn đói năm 1945 với bản chất tốt đẹp và  lương thiện. Bằng khả năng sáng tạo của mình nhà văn đã thành công về mặt nghệ thuật miêu tả về  tâm lí nhân vật và hàng loạt các biện pháp nghệ thuật đặc sắc khác khi xây dựng nhân vật của mình.

Có thể nói rằng Kim Lân đã thực sự xuất sắc khi dựng lên tình huống “nhặt vợ” của Tràng. Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ hết  nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta rất  dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của mình còn  chưa đủ thì làm sao có thể đèo bồng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, con người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỷ hơn là vị tha và người ta rất dễ đối xử tàn nhẫn lẫn nhau , làm cho nhau đau khổ. Nhưng tác giả Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại ở các nhân vật Tràng và  người vợ nhặt và bà cụ Tứ.

Chúng ta từng kinh hãi trước những  “xác người chết đói ngập đầy đường”, “người lớn xanh xám như những  bóng ma”, trước “không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và những  mùi gây của xác người chết và cả mùi ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu gào thảm thiết” ấy nhưng lại  lạ thay chúng ta không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường và  dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và của người vợ nhặt nữa. Một thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng và một con người – thân xác vạm vỡ, lực lưỡng ấy dường như ngờ nghệch thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng đầy những tình cao đẹp.

Sự đói nghèo bần hàn đó , vây quanh lấy hắn, nhưng trong đầu Tràng  luôn hiện lên những suy nghĩ lạ lùng thỉnh thoảng lại thấy Tràng  ngửa mặt cười một cái gì đó. Tràng thật sự là một con người kỳ lạ . Giữa khung cảnh nghèo đói và khổ cực ấy. Một con người xấu xí và  thô kệch nghèo khổ như Tràng những tưởng vĩnh viễn phải sống kiếp cô độc vì chả có gì thu hút người khác thì làm sao mà lấy được vợ cơ chứ . Nhưng không ngờ Tràng vẫn có thể  lấy được vợ, mà còn  lấy được một cách dễ dàng “nhặt” được vợ như nhặt một cục đá mà thôi.

Chỉ bằng những câu nói bông đùa vu vơ, mà Tràng lại  nhặt được vợ “Muốn ăn cơm trắng với giò, thì ra đây đẩy xe bò với anh , Chỉ có những câu nói  như thế thôi nhưng một cô gái ngoan ngoãn ra đẩy xe với hắn. Rồi theo hắn về nhà làm vợ. Kim Lân đã xây dựng tình huống truyện vô cùng thú vị, và độc đáo làm thay đổi số phận của nhân vật Tràng. Làm cho câu chuyển sang một hướng rẽ mới thú vị và thu hút người đọc. Hành động nhặt được vợ của Tràng khiến người ta phải suy nghĩ vì  bởi việc lấy vợ lấy chồng là việc quan trọng trong đời người, bình thường người ta phải làm thật cẩn thận suy tính nhiều thứ trước khi lấy vợ . Cô gái làm vợ Tràng cũng thật thiệt thòi biết bao và  làm vợ người ta mà không có một lễ cưới, không được làm dăm ba mâm ra mắt họ hàng cũng  không có giấy đăng ký kết hôn và cũng  không có chứng nhận của hai bên họ hàng.

Trước khi đưa  vợ về nhà, Tràng đã rất chu đáo, mua cho vợ một chiếc thúng con mới và  dẫn thị đi ăn một bữa thật no, mua những hai hào dầu để về thắp sáng trong nhà. Anh Tràng từ một kẻ thô kệch và  lúc nào cũng nói chuyện một mình và cười hềnh hệch, hôm nay bỗng trở nên tâm lý và tinh tế đến  lạ thường. Trên đường đi về Tràng vui sướng và hớn hở, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười. Khuôn mặt vừa hạnh phúc lại vừa  rạng rỡ , vênh vênh tự đắc với chính mình. Cảnh sống cực khổ ê chề hàng ngày, hắn  đã quên hẳn, mà chỉ sống trong niềm vui và niềm  niềm hạnh phúc khi lấy được vợ.

Bước chân đến nhà Tràng bỗng ngượng nghịu và  xấu hổ, đứng tây ngây giữa nhà, chợt thấy sợ sợ nhưng lại vừa hạnh phúc sung sướng khi việc mình lấy vợ đã trở thành sự  thực. Điều Tràng mong ngóng nhất lúc này  là đợi mẹ mình về nhà và  để ra mắt nàng dâu mới. Lời giới thiệu vợ nhặt với mẹ cũng rất trân trọng, để nàng dâu bớt đi phần ngượng ngùng và  xấu hổ. Tràng đã thay đổi là một con người khác hẳn, tâm lý và rất  nhạy bén và rất khéo léo trong cách ăn nói. Dường như hạnh phúc mới này đã đem đến sự thay đổi lớn trong tâm lý và  suy nghĩ của Tràng.

Bà đã chấp nhận người vợ nhặt của anh cu Tràng . Tình huống khiến người đọc nhớ mãi là  hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là những  hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu đầu tiên mà là hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái gọi là đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa”. Bà cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng và  toàn nói những câu  chuyện vui trong nhà, vì bà muốn mang lại không khí vui tươi hơn giữa cái nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên bình dị và đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo ấy . Ai cũng muốn có một bữa cơm để đón dâu có mâm cao và  cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn nên chỉ có , “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà có thể mang lại cho con dâu và Tràng .

Đến nhân vật này, tác giả  Kim Lân tỏ rõ bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật. Bà cụ Tứ đến mãi  giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này thì  tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, tác giả  Kim Lân đã cho chúng ta thấy rõ dàng  hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các tác giả  muốn nhân vật nổi bật và  cá tính của mình thường đặt nhân vật ấy vào tình thế rất  căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không ngừng nghỉ  không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay trong chính nội tâm của mỗi nhân vật đó . Bà cụ Tứ là một người  điển hình. Việc Tràng lấy được  vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức của người mẹ nghèo vốn thương con ấy. Bà rất  ngạc nhiên và  ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà của  mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng đến  ngạc nhiên bà cụ đã “cúi đầu nín lặng”.

Cử chỉ và hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn nhau giữa nỗi tủi cực và  nỗi lo và cả  niềm vui nỗi buồn cứ hoà quyện  vào nhau khiến bà thật căng thẳng. Sau khi thấu hiểu mọi điều bà nhìn cô con dâu đang “vân vê tà áo rách bợt bạt” mà lòng bà  đầy xót thương. Bà thiết nghĩ “người ta có gặp bước khó khăn này thì  người ta mới lấy đến con mình, mà con mình vì thế  mới có vợ”. Và thật xúc động, bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi nhưng đã  sâu xa và có ý nghĩa vô cùng “Thôi, chúng mày đã phải duyên phải kiếp với nhau thì u cũng mừng lòng”.

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt – Mẫu 16

Nhắc đến nhà văn Kim Lân thì nhiều người sẽ nghĩ ngay tới “Vợ nhặt” – một tác phẩm nổi tiếng của ông. Bạn đọc biết đến “Vợ nhặt” như là một minh chứng chân thực nhất cho cuộc đời và số phận của con người trong nạn đói 1945 lịch sử. Trong tác phẩm này, nhà văn Kim Lân là khắc họa nhân vật Tràng – một người đàn ông nghèo khổ tiêu biểu cho những người nghèo khổ và qua đó để làm nổi bật tinh thần nhân đạo nhân văn về tình yêu thương con người.

Truyện ngắn “Vợ nhặt” lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945, và cụ thể là ở một xóm ngụ cư tiêu điều xác xơ. Tình huống truyện ở đây là việc anh cu Tràng có vợ, nhưng không phải được cưới hỏi đàng hoàng mà là vô tình “nhặt” từ ngoài đường về. Qua sự kiện mang tính độc đáo và bất ngờ này, nhà văn đã đi sâu vào tâm lý từng nhân vật và qua cho làm nổi bật phẩm chất tốt đẹp bên trong những con người thấp cổ bé họng nghèo đói, bần cùng.

Để làm nổi bật tư tưởng ấy, Kim Lân đã lựa chọn mà khắc họa nhân vật Tràng xuyên suốt trong tác phẩm. Tràng là một anh con trai nghèo khổ, làm nghề kéo xe bò thuê, sống với mẹ già ở một cái “nhà” đứng rúm ró trên mảnh vườn lổn nhổn những búi cỏ dại cuối xóm ngụ cư. Chính vì là dân ngụ cư cho nên Tràng bị coi khinh, chẳng ai buồn nói chuyện, trừ lũ trẻ hay trêu chọc mỗi khi anh đi làm về.

Chỉ với nét miêu tả của nhà văn, người đọc đã thấy được hình ảnh một người đàn ông xấu xí, thô kệch. “Hắn bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào trong bến. Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai còn mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng có những ý nghĩ gì vừa lý thú vừa dữ tợn…”. Cái điệu “vừa đi vừa tủm tỉm cười” khiến cho hình tượng nhân vật trở nên cô độc, lẻ loi giữa không gian xóm ngụ cư tiêu điều, xơ xác.

Thế nhưng, Tràng dường như chẳng hề thấy buồn, thấy cô độc. Mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong xóm “ùa ra vây lấy hắn, reo cười váng lên”. “Đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi. Khi ấy, Tràng chỉ ngửa mặt lên cười hềnh hệch”. Quả thật, tính tình Tràng vô tư chẳng khác đám trẻ con là mấy. Chính vì thế cho nên anh chơi đùa với chúng, làm “cái xóm ngụ cư ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một chút”.

Không những thế, Tràng cũng chẳng biết tính toán, suy nghĩ cũng giản đơn. Ngay cả chuyện trọng đại của đời người như lấy vợ cũng được anh quyết định rất nhanh chóng. Có lẽ từ trước nay chưa có ai lấy vợ nhanh như Tràng. Chỉ cần một câu hò và bốn bát bánh đúc, Tràng đã có một cô ả theo về làm vợ chồng. Một người xấu xí, nghèo đói và thô kệch như Tràng mà cũng có được vợ, nhất lại là trong lúc “chết đói” thì quả đúng là đám cưới có một không hai.

Thực ra ban đầu, Tràng chẳng chủ tâm đưa tình đẩy ý với cô nào trong đám con gái bên đường hôm ấy. Chẳng ngờ, chỉ vì một câu hò vui cho đỡ nhọc mà thị lon ton đến đẩy xe bò cho anh và đòi trả công. Thấy người đàn bà đói, Tràng cũng hào phóng mời thị ăn rồi ngỏ ý mời về cùng. Chỉ sau bốn bát bánh đúc và lời mời của Tràng, thị đã trở thành vợ của anh ta. Tràng có vợ, lấy được vợ trước hết là vì lòng thương nhân hậu đối với một con người cùng cảnh ngộ với mình, thậm chí đói khát hơn mình.

Lấy nhau không phải vì tình yêu, mà là vì bốn bát bánh đúc và hai câu nói bông đùa nhưng không vì thế mà Tràng coi thường vợ mình. “Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê”. Anh còn mua 2 hào dầu thắp để “vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí”. Tràng cũng cảm thấy hạnh phúc, có điều gì đó kì lạ và mới mẻ chưa bao giờ anh thấy được: “Tràng quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên”.

Kể từ lúc anh biết mình đã có vợ, anh như thể trở thành một con người khác. Tràng đon đả, ngoan ngoãn với mẹ, với vợ anh trìu mến yêu thương. Sáng hôm sau trở dậy, Tràng cảm thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa trong mơ đi ra”. Việc có vợ với Tràng cho đến sáng hôm sau vẫn như là một giấc mơ. Nhưng nhìn thấy cửa nhà sạch sẽ tinh tươm, nhìn thấy mẹ và vợ mình, Tràng thấy mình cần có trách nhiệm hơn. “Hắn đã có một gia đình”. “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”. Hắn muốn sửa lại căn nhà để sau này “hắn cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy”.

Có thể thấy rằng, từ một anh phu xe cục mịch, chỉ biết sống vô tư, chơi đùa cùng lũ trẻ, Tràng đã trở thành người biết quan tâm đến người khác, đến những chuyện khác ngoài xã hội. Khi tiếng trống thúc thuế vang lên dồn dập, “Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi”. Hình ảnh về đoàn người đi phá kho thóc Nhật và lá cờ đỏ sao vàng bay phất phới xuất hiện trong tâm trí anh như thể một tia sáng về những điều tốt đẹp đang chờ sẽ đến.

Trong nạn đói 1945, Tràng không phải là một cá biệt mà có rất nhiều những “anh cu Tràng” khốn khổ như vậy. Cuộc đời Tràng là một minh chứng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng tháng Tám. Nghèo đói nên bị người ta coi thường, khinh rẻ, nghèo đến nỗi không lấy được vợ mà khi lấy vợ thì hẳn là “nhặt vợ” chứ không phải là “cưới vợ”. Lấy vợ giữa cái đói quay đói quắt, cả anh cu Tràng cho đến vợ và bà cụ Tứ đều cảm thấy hạnh phúc đan xen lẫn chua xót. Bởi “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không?”.

Cũng như Tràng hay bất cứ người nghèo nào khác, nếu không có một sự thay đổi mang tính cách mạng thì có lẽ sẽ phải sống mãi trong sự tăm tối, đói rách. Ở nhân vật Tràng tuy chưa có sự thay đổi lớn láo đó, nhưng trong ý nghĩ của anh đã xuất hiện những tia sáng cho hướng đi mới của cuộc đời. Hình ảnh đoàn người vùng lên phá kho thóc Nhật dưới lá cờ đỏ sao vàng chính là con đường Tràng sẽ đi, và trong thực tế lịch sự người nông dân Việt Nam đã đi theo con đường cách mạng đó.

Bằng ngòi bút sắc sảo của mình, Kim Lân đã để lại ấn tượng trong lòng người đọc về một anh cu Tràng nghèo đói nhưng thật thà nhân hậu với đầy đủ những hành động, diễn biến tâm trạng phức tạp, đan xen. Anh chợn nghĩ, đôi chút lo lắng lẫn hành diện khi nhặt được vợ. Có lúc lại đon đả, lúng túng đi theo người đàn bà. Có khi lại hạnh phúc mơ màng quên hết những cảnh tăm tối trước kia. Anh vô tư nhưng không sỗ sàng, trái lại biết ngượng chín chắn, biết lo nghĩ cho cuộc sống về sau.

Có thể nói rằng, “Vợ nhặt” là một bức tranh sống động về đời sống người nông dân trong nạn đói 1945. Tuy rằng ở đó, con người hãy còn chìm trong bóng tối, đói nghèo và chết chóc nhưng với con mắt tinh tường, nhà văn Kim Lân vẫn phát hiện ra chiều sâu tâm hồn tốt đẹp ẩn chứa bên trong họ. Đó là tình yêu thương con người, là ý thức trách trách nhiệm của mình đối với gia đình và và xã hội. Trên cái nền đen tối ấy, con người đã vượt lên và tỏa sáng những vẻ đẹp rực rỡ nhất. Đó cũng chính là giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc mà nhà văn Kim Lân muốn gửi gắm đến bạn đọc.

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt – Mẫu 17

Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân ban đầu có tên là Xóm ngụ cư. Truyện được Kim Lân viết sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, nhưng mãi đến khi hòa bình lập lại (1954), Kim Lân mới sửa lại và đưa tin chính thức. Truyện ngắn Vợ nhặt vừa tố cáo xã hội đẩy con người đến nạn đói khủng khiếp, khiến mạng người trở nên rẻ rúng như rơm rác; vừa có ý nghĩa nhân bản sâu sắc.

Trong truyện ngắn này, nhà văn Kim Lân muốn nói với chúng ta một vấn đề, đó là người dân lao động trong bất kì tình huống nào cũng khao khát tình yêu thương, khao khát hạnh phúc gia đình và vẫn tin vào cuộc sống tương lai Tràng là hình tượng nhân vật trung tâm của câu chuyện, thể hiện khá sâu sắc chủ đề của truyện ngắn này.

Truyện ngắn Vợ nhặt kể về một người đàn ông nghèo khổ, cơ cực ở xóm ngụ cư tên là Tràng. Một buổi chiều kia trong không khí thê lương, ảm đạm “vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, bởi “người chết như ngả rạ” vì đói khát, Tràng dẫn về một người phụ nữ. Đó là vợ anh – người vợ mà

Tràng nhặt được trong cảnh đói kém, do mời ăn bốn bát bánh đúc, kèm theo lời nói đùa vui mà thuận theo anh về nhà, làm vợ anh. Bà cụ Tứ – mẹ Tràng – lúc đầu không ngờ con lấy vợ nên không hiểu người đàn bà ở trong nhà mình là ai, vì bà cụ nghĩ tình cảnh con mình làm sao lấy được vợ, nhất là giữa nạn đói khủng khiếp này. Nhưng khi biết con mình “nhặt” được vợ về thì lòng bà mẹ nghèo khổ “hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự”: buồn lo, tủi cực, ai oán xót thương. Bà cụ thương con nên cũng thương dâu. Bà đã nhận người đàn bà ấy làm con dâu trong nỗi đau đớn và thương cảm. Để động viên hai con, bà nói toàn về những chuyện vui.

Tràng cảm thấy con người mình đổi khác. Từ niềm vui đến nỗi lo âu và Tràng thấy mình cần phải có trách nhiệm trong cuộc sống gia đình hiện tại và tương lai, dù đêm đầu tiên của đôi vợ chồng trẻ qua đi trong không khí khét lẹt mùi chết chóc và tiếng hờ khóc ai.

Bà mẹ Tràng đãi hai con ít cháo và “nồi chè đặc biệt”. Miếng cám chát bứ, nghẹn cổ nhưng mọi người đều thoáng thấy có một niềm vui. Cả mẹ con đều bắt tay vào việc dọn dẹp, quét tước nhà cửa, vườn tược cho quang quẻ, hướng về một cuộc sống đổi khác. Trong óc Tràng hiện ra đám người phá kho thóc của Nhật và lá cờ đỏ sao vàng bay phất phới.

Tràng là một con người lao động nghèo khổ, hởi bất bình thường lại có ngoại hình xấu xí “hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ gì vừa lí thú, vừa dữ tợn. Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ”. Cuộc sống lao động vất vả, nghèo đói đã in hằn dấu ấn trên từng bước đi của hắn đè nặng xuống cái lưng to nặng của hắn: “Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàn vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước. Hình như những lo lắng chật vật trong một ngày đè xuống cái lưng to rộng, như lưng gấu của hắn”. Trong hoàn cảnh ấy, Tràng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện mình sẽ có vợ. Nhưng rồi một hôm “hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thúc vào dốc đỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc”. Hắn hò rằng:

Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!

Lại đây mà đẩy xe bò với anh, ni!…

Thế mà lại có một người phụ nữ ra đẩy xe với hắn. Rồi mấy hôm sau gặp lại, hắn đãi người phụ nữ ấy bốn bát bánh đúc và người phụ nữ ấy đồng ý theo hắn về làm vợ hắn. Và “việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn cũng chỉ tầm pha tầm phào đâu có hai bận ấy thế mà thành vợ thành chồng”.

Trước tình cảnh ấy, lúc đầu Tràng đâm lo, đâm sợ nhưng rồi cái khát vọng về một mái ấm gia đình, một cuộc sống hạnh phúc bừng dậy mãnh liệt trong lòng Tràng, xua tan bao nỗi lo sợ ấy. Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. “Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng”.

Tràng đã tìm thấy niềm vui, niềm hạnh phúc bên người “vợ nhặt” của mình. Khuôn mặt của Tràng bây giờ tươi tỉnh hẳn lên “hắn cười khì khì” mặc dù cái đêm đầu tiên với người “vợ nhặt” ấy đi qua trong “tiếng hờ khóc tỉ tê” và “diều quạ trên mấy cây ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết” như tiếng gọi của thần chết. Và sáng ra, Tràng “bỗng vừa chợt nhận ra xung quanh mình cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng…”. Tràng nhìn người mẹ đang lúi húi giẫy cỏ, nhìn vợ quét lại cái sân. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đã gợi lên trong lòng Tràng một sự thấm thía cảm động. Tràng như chợt hiểu ra thế nào là hạnh phúc? Trong lòng Tràng lại dậy lên một lòng yêu thương, gắn bó với người vợ Tràng, với gia đình Tràng. Tràng lại nghĩ về tương lai và thấy rõ cái bổn phận và trách nhiệm của mình trong việc tạo lập cuộc sống hạnh phúc cho tương lai: “Bỗng nhiên hắn thấy hắn yêu thương, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưu che nắng. Một niềm vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bốn phận lo lắng cho vợ con sau này…”.

Bữa ăn ngày đói trông thật thảm hại, chỉ có lưng bát cháo và món “chè đặc biệt” – miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Tràng cảm thấy một nỗi xót xa tủi hờn len vào trong tâm trí, nhưng rồi “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”.

Điều đó cho ta thấy dù trong hoàn cảnh khó khăn, đói kém, niềm khao khát về một cuộc sống hạnh phúc gia đình vẫn không hề mờ đi trong tâm hồn Tràng và vẫn bùng lên mãnh liệt.

Tóm lại, Tràng là hình tượng nhân vật trung tâm của truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. Tràng là nhân vật điển hình cho người nông dân lao động nghèo khổ, dù bất cứ trong hoàn cảnh đen tối nào vẫn luôn luôn khao khát một cuộc sống hạnh phúc gia đình và tin vào cuộc sống ở tương lai. Kim Lân đã khá thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật Tràng. Ông đã mô tả tâm lí nhân vật thật sâu sắc. Ông đã đi sâu vào bên trong tâm hồn của mỗi nhân vật trong truyện nói chung và đối với nhân vật Tràng nói riêng, để phát hiện và mô tả những tình tiết cảm động và khát vọng mãnh liệt của những con người nghèo khổ về một cuộc sống hạnh phúc. Những tình tiết xoay quanh hình tượng nhân vật Tràng được nhà văn sắp xếp một cách chặt chẽ hợp lí, tập trung biểu hiện rõ chủ đề của câu chuyện.

Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn khá thành công của Kim Lân. Truyện vừa có giá trị hiện thực, vừa có giá trị nhân đạo sâu sắc.

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt – Mẫu 18

Kim Lân là  một trong những  cây bút chuyên viết truyện ngắn về nông thôn và  hình tượng người nông dân lao động. “Vợ nhặt” được sáng tác vào  năm 1955 đã khắc họa rất thành công bức tranh của nạn đói lịch sử năm 1945. Ban đầu, truyện ngắn này có tên là Xóm ngụ cư. Truyện ngắn này đã chạm đến đáy  trái tim của người đọc, khi miêu tả chân thực về cuộc sống của người dân giữa nạn đói khủng khiếp và người chết như ngả rạ; vừa mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc và lại  ca ngợi tình yêu thương về  vẻ đẹp người dân Việt Nam. Bên cạnh nhân vật bà cụ Tứ và  nhà văn Kim Lân đã khắc họa chi tiết và  chân thực, đặc sắc diễn biến tâm trạng Tràng – con trai bà cụ Tứ. Phân tích nhân vật Tràng cho thấy dù trong hoàn cảnh như thế nào cùng quẫn hay  đói khát, nhưng Tràng – đại diện cho người lao động nghèo vẫn khao khát tình yêu và  hạnh phúc gia đình , lấp lánh niềm tin vào cuộc sống, tương lai phía trước.

Tràng là một người lao động nghèo khổ nhất làng , hơi bất bình thường và anh   lại có ngoại hình xấu xí “hai con mắt nhỏ tí và  gà gà”, “lưng to bè bè  như lưng gấu”, “hai bên quai hàm bè ra, rung rung làm cho bộ mặt thô kệch của Tràng lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú lại  vừa dữ tợn… Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm nhảm và  than thở những điều hắn nghĩ”. Anh sống ở xóm ngụ cư để nuôi mẹ già. Anh làm công việc đẩy xe bò mướn để mưu sinh . Dù nghèo khổ nhưng anh vô cùng tốt bụng và hết  mực yêu trẻ con, thường hay vui đùa với những đứa trẻ trong xóm làng . Cuộc sống lao động vất vả nghèo khổ hàng ngày đã hằn lên ngoại hình của hắn: “Tràng đi từng bước mệt mỏi và  chiếc áo nâu tàn vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về phía trước…”. Dưới ngòi bút tả thực của Kim Lân về nhân vật Tràng hiện lên thật đáng thương và tội nghiệp đến thắt lòng.

Tâm trạng của Tràng biến đổi khi bất ngờ “nhặt” được vợ ngoài đường trong nạn đói 1945. Lần gặp đầu tiên, lời nói đùa của Tràng chứ không hề có tình ý nào  với cô gái đẩy xe cùng mình. Bởi hắn chẳng bao giờ nghĩ một người nghèo như hắn  lại có vợ cả. Ấy thế mà “hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thúc vào dốc đỉnh và  hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc”. Hắn hò: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh . Ấy thế mà, người phụ nữ lại  ra đẩy  với hắn. Hôm sau gặp lại, Tràng đãi người đàn bà ấy 4 bát bánh đúc và đồng ý theo hắn về làm vợ. Tâm trạng lúc đó của hắn lúc đó “khiến Tràng cũng không ngờ, Tràng chỉ tầm pha tầm phào đâu có hai bận thế mà thành vợ thành chồng”.

Diễn biến tâm trạng của Tràng diễn ra từ bất ngờ cho đến khi  vui vẻ, hạnh phúc, nhưng không thiếu nỗi lo về phía trước. Ở lần gặp thứ hai , khi bị người đàn bà ấy mắng, hắn toét miệng cười và mời ăn dù mình cũng không dư giả gì. Hành động đó chứng tỏ Tràng là một người nông dân hiền lành và  tốt bụng.

Đặc biệt khi người đàn bà quyết định theo mình về thì hắn bắt đầu thấy lo lắng vì phải lo thêm miệng ăn giữa thời buổi người chết ngoài đường như ngả rạ. Nhưng rồi anh cũng  lại tặc lưỡi “chậc, kệ”. Hành động của Tràng lúc đó  không phải bồng bột, thiếu suy nghĩ, sĩ diện, mà đó là thái độ dũng cảm và  biết chấp nhận hoàn cảnh và cháy lên sự khát khao hạnh phúc, yêu thương con người cùng cảnh ngộ như mình.

Tràng nghiêm túc với những  quyết định của mình. Hắn đưa người “vợ nhặt” lên trên chợ tỉnh mua đồ. Hắn rất chu đáo và quan tâm đến người đàn bà của mình. Thế mới thấy, trong lúc nghèo đói như vậy mà tình người thật đáng quý.

Kim Lân đã thành công khi miêu tả tâm trạng của Tràng ở nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau . Trên đường về, vẻ mặt hắn“có cái gì phơn phởn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc” như thấy hãnh diện và rất  hạnh phúc khi cưới được vợ giữa thời buổi khó khăn như thế này. Vì tâm trạng vui và  hãnh diện nên Tràng mua dầu về thắp để khi vợ về đến nhà thì căn nhà trở nên sáng sủa hơn.

Khi về đến nhà, Tràng “xăm xăm” dọn dẹp nhà , “ngượng nghịu” thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của người đàn bà. Sự chân thật của Tràng đến mộc mạc và  khiến người đọc càng thêm thương cảm và dành sự cảm mến dành cho nhân vật Tràng. Hắn cũng có cảm giác lo lắng vì sợ người đàn bà này thấy gia cảnh của mình sẽ bỏ đi và bản thân Tràng thấy “sờ sợ” vì hạnh phúc có thể rời bỏ mình đi.

Diễn biến tâm trạng của Tràng được mô tả chân thực nhất  khi diễn tả sự sốt ruột đợi bà cụ Tứ về để thưa chuyện.Hắn  hiểu rằng cần phải xin phép ý kiến của mẹ và sợ mẹ không đồng ý. Điều này chứng tỏ hắn là người con biết lễ nghĩa. Đặc biệt, khi bà cụ Tứ về, Tràng thưa chuyện một cách nghiêm túc và trịnh trọng. Khi nhận được sự đồng ý của mẹ Tràng thở phào nhẹ nhõm.

Kim Lân đã miêu tả rất rõ nét  tâm trạng thay đổi của Tràng qua việc miêu tả cảnh vật vào sáng hôm sau khi có vợ. Tràng nhận thấy sự thay đổi kỳ lạ trong  ngôi nhà của mình . “Bỗng vừa chợt nhận ra những thứ  xung quanh mình cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước và thu dọn sạch sẽ, gọn gàng…”. Tràng cảm thấy hạnh phúc khi thấy người mẹ đang lúi húi giẫy cỏ và vợ quét lại cái sân… Khuôn mặt hắn tươi tỉnh hẳn lên “hắn cười khì khì” mặc dù đêm hôm qua hắn nghe thấy “tiếng khóc tỉ tê”, “diều quạ trên mấy cây ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”.

Từ những điều giản dị đó , nhưng lại  tràn đầy hạnh phúc như vậy về cuộc sống gia đình, trong lòng Tràng bỗng dưng thấy rõ bổn phận và  trách nhiệm trong gia đình để gây dựng tương lai. “Bỗng nhiên hắn cảm thấy hắn yêu thương và  gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Tràng đã có gia đình. Tràng sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm để che mưa che nắng. Một niềm vui sung sướng và  phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người và hắn thấy hắn có bốn phận lo lắng cho vợ con sau này …”.

Bữa ăn sáng hôm đó tuy trông thật thảm hại và  chỉ có lưng bát cháo và món “chè đặc biệt” – đó chỉ là miếng cám đắng chát , nghẹn bứ trong cổ và cảm thấy nỗi xót xa tủi hờn nhưng Tràng vẫn có niềm tin về phía trước “lá cờ đỏ bay phấp phới”.

Từ một người đàn ông thô kệch, hắn đã thay đổi tâm trạng và suy nghĩ khi “nhặt” được vợ. Dường như Tràng đã  quên đi những khó khăn hiện tại để có niềm tin sẽ vượt qua hướng đến tương lai tươi sáng hơn. Và những  điều đó cho chúng ta thấy rõ, dù trong hoàn cảnh nào và  đói kém có rình rập tính mạng, thì con người vẫn khao khát tình yêu , được sống hạnh phúc của một gia đình và thậm chí còn bùng lên mãnh liệt hơn.

Kim Lân đã rất thành công khi miêu tả chi tiết về diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng. Ông đã đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo, để nhân vật tự bộc lộ tâm trạng và  tính cách một cách rõ nét, chân thực. Với nghệ thuật dẫn truyện sáng tạo và ngôn ngữ bình dị, gần gũi, ông đã chạm đến đáy lòng  của người đọc, giúp họ đồng cảm với nhân vật và đồng thời đã lấy đi nước mắt về cuộc sống cơ cực của người dân Việt Nam trong hoàn cảnh nạn đói lịch sự năm 1945. Nhân vật Tràng dù nghèo khổ nhưng tràn đầy ấm áp và  yêu thương, niềm hy vọng, lạc quan trong  cuộc sống, vào sự thay đổi xã hội. Đó cũng chính là giá trị nhân bản và  nhân văn sâu sắc mà nhà văn Kim Lân muốn gửi tới bạn đọc.

*****

Trên đây là 18 bài mẫu Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt lớp 12 ngắn gọn hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình với điểm số cao nhất.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học tập

5/5 - (59 bình chọn)


Cô Nguyễn Thanh Phương

Trường THCS Bình Chánh với mục tiêu chung là tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh có thể phát triển khả năng và đạt được thành công trong quá trình học tập. Chúng tôi cam kết xây dựng một không gian học tập đầy thách thức, sáng tạo và linh hoạt, nơi mà học sinh được khuyến khích khám phá, rèn luyện kỹ năng và trở thành những người học suốt đời.

Bài viết liên quan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button