Học TậpLớp 9

Hình ảnh người mẹ trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ (6 mẫu)

Hình ảnh người mẹ trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ lớp 9 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 6 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.

Đề bài: Hình ảnh người mẹ trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ

Hình ảnh người mẹ trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ
Hình ảnh người mẹ trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ

Mục lục

Dàn ý Hình ảnh người mẹ trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ chi tiết

1. Mở bài

Bạn đang xem: Hình ảnh người mẹ trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ (6 mẫu)

* Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

– Giới thiệu tác giả: Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của giai đoạn kháng chiến chống Mỹ với một hồn thơ giàu suy tư với những cảm xúc dồn nén chất chứa trong từng câu thơ.

– Giới thiệu tác phẩm: “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ của ông.

– Giới thiệu vấn đề nghị luận: Xuyên suốt bài thơ người ta thấy hiện lên hình ảnh bà mẹ Tà ôi như một biểu tượng về người mẹ Việt Nam anh hung.

2. Thân bài

* Hình ảnh người mẹ hiện lên gắn liền với cuộc sống lao động thường ngày

– “Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội” công việc của người mẹ không chỉ chăm lo cho cuộc sống gia đình mà còn là hậu phương phục vụ bộ đội kháng chiến.

– “Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng” mẹ và em bé như đang cùng chung một nhịp đập, cùng nhau chia sẻ công việc khó nhọc.

– Cùng với các hình “lưng mẹ gầy”, “lưng đưa nôi”… thể hiện sự vất vả cũng như tình cảm của người mẹ.

* Hình ảnh người mẹ vẫn tiếp tục gắn liền với công việc lao động, tăng gia sản xuất

– Nghệ thuật tương phản không gian rộng lớn của núi rừng cũng như sự vất vả của người mẹ.

– Hình ảnh ẩn dụ “mặt trời” vừa thể hiện rằng đứa con như là nguồn sống của người mẹ vừa khẳng định rằng đây chính là nguồn năng lượng lớn nhất, tiếp sức cho mẹ vượt qua biết bao gian truân, khó nhọc.

* Hình ảnh người mẹ được hiện lên nơi chiến trường

– Mẹ góp sức mình vào việc “chuyển lán”, “đạp rừng”… công việc gian lao, vất vả.

– Hình ảnh em Cu – tai vẫn xuất hiện trên lưng mẹ giấc ngủ của em theo chân mẹ tới mọi nẻo đường, cùng mẹ trải qua mọi khó khăn, gian khó.

3. Kết bài

– Bài thơ vừa thể hiện được tình cảm của tác giả vừa khiến người đọc thêm yêu những bà mẹ Việt Nam anh hung.

6 mẫu hình ảnh người mẹ trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ hay nhất

Hình ảnh người mẹ trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ- Mẫu 1

Văn học Việt Nam đã dựng lên nhiều tượng đài về hình ảnh người mẹ Việt Nam anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang. Đó là “Mẹ suốt” của Tố Hữu, “Người mẹ cầm súng” của Nguyễn Đình Thi, “Hơi ấm ổ rơm” của Nguyễn Duy… và không thể không nhắc tới người mẹ dân tộc Tà ôi trong “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm. Bài thơ sáng tác năm 1971 là lời hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ. Hình tượng trung tâm của bài thơ là người mẹ bền bỉ, gắn bó với kháng chiến, nặng lòng với quê hương đất nước và yêu con tha thiết.

Văn học Việt Nam đã dựng lên nhiều tượng đài về hình ảnh người mẹ Việt Nam anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang. Đó là “Mẹ suốt” của Tố Hữu, “Người mẹ cầm súng” của Nguyễn Đình Thi, “Hơi ấm ổ rơm” của Nguyễn Duy… và không thể không nhắc tới người mẹ dân tộc Tà ôi trong “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm. Bài thơ sáng tác năm 1971 là lời hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ. Hình tượng trung tâm của bài thơ là người mẹ bền bỉ, gắn bó với kháng chiến, nặng lòng với quê hương đất nước và yêu con tha thiết.

“Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” viết về hình ảnh người mẹ dân tộc Tà ôi. Bài thơ được chia làm ba khúc hát ru. Cùng với hình tượng người mẹ cứ lớn dần lên qua mỗi khúc hát. Khát vọng của người mẹ hòa trong khát vọng của cả dân tộc, ở đó là tình yêu quê hương đất nước, ý chí chiến đấu cho độc lập tự do, ước mơ cháy bỏng về thống nhất nước nhà. Đó cũng chính là hình tượng điển hình của người mẹ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Hình ảnh người mẹ Tà ôi đảm đang, giầu nghị lực. Mẹ đang nuôi con nhỏ, vừa phải địu con trên lưng vừa phải làm công việc lao động sản xuất ở chiến khu như giã gạo nuôi bộ đội, tỉa bắp trên núi, chuyển lán đạp rừng – công việc rất vất vả đầy gian khổ. Mang con trên lưng, nỗi vất vả của mẹ càng nhân lên gấp bội. Nhà thơ đã cảm nhận được nỗi vất vả ấy và ghi lại bằng những hình ảnh thơ đầy xúc động:

“Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi

Hình ảnh đôi vai gầy, giấc ngủ của em bé gợi nhiều thương cảm nói lên những gian khổ của cả người mẹ và cả em bé trên lưng.

Khi mẹ tỉa bắp trên núi:

“Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ”

Một hình ảnh tương phản giữa cái rộng lớn mênh mông của núi rừng với sự nhỏ bé gầy guộc của mẹ gợi cho chúng ta cảng heo hút hoang sơ của rừng núi và nỗi vất vả của người mẹ Tà ôi. Đó là hình ảnh thơ hàm súc nói lên sự gian khổ đồng thời khẳng định sự bền bỉ lòng quyết tâm chịu đựng, nghị lực phi thường của người mẹ.

Tình yêu con tha thiết, yêu nước sâu nặng, khát khao cháy bỏng về tương lai chiến thắng

Lời ru của mẹ đã mở ra một thế giới tâm hồn cao cả. Trước hết, đó là tình yêu con vô bờ, người mẹ không thể ngồi bên cánh võng để hát ru mà lời hát ru cất lên lại từ những công việc nhọc nhằn gian khó. Những lời hát ru cho con và tình cảm cháy bỏng từ trái tim: “Lưng đưa nôi mà tim hát thành lời”. Tiếng hát tư trái tim mẹ là tiếng hát cháy bỏng, tình yêu thương, tiếng hát ấy cất lên từ sâu thẳm đáy lòng giành cho đưa con vô cùng yêu quý của mình.

Tình yêu thương con được nhà thơ thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ thật độc đá

“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, con nằm trên lưng”

Nếu mặt trời của vũ trụ là nguồn sống che vạn vật dưới thế gian, thì đứa con cũng giống như mặt trời vậy, là nguồn sống của mẹ.

Mặt trời ở câu thơ thứ hai là hình ảnh ẩn dụ, đứa con trở thành niềm hạnh phúc, niềm tin, hi vọng, đứa con là tất cả những gì của cuộc đời mẹ, nó tỏa sáng ấm nóng, tiếp cho mẹ nguồn sức mạnh và niềm tin để vượt qua bao thử thách.

Nét mới trong tình cảm của người mẹ là gắn tình yêu con với tình yêu quê hương, đất nước, tình cảm riêng hòa trong tình cảm lớn mang tính chất thời đại, dân tộc. Có thể nói, đó là tình yêu nước cao cả của người mẹ Tà ôi. Từ chỗ giã gạo ở sân nhà, tỉa bắp trên nương rẫy nay mẹ đã đến chiến trường: “Mẹ đi chuyển lán mẹ đi đạp rừng”.

Và rồi chúng ta thấy cùng với đứa con:

“Từ trên lưng mẹ tới chiến trường
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn”

Người mẹ xuất hiện trong những tư thế của người chiến sĩ, hòa trong nhịp sống chung của đất nước. Đứa con cùng mẹ sẻ chia những gian lao, vất vả, người mẹ lúc này thực sự đã đi đánh giặc, đã cùng bộ đội chuyển lán đạp rừng, đã giã từ ngôi nhà thân yêu của mình cùng nương rẫy để vào chiến trường. Hình tượng người mẹ đã trở nên vĩ đại và cao cả hơn.

Người mẹ khát khao cháy bỏng về một tương lai cho đứa con thân yêu của mình. Từ chỗ mẹ mơ ước con lớn lên khỏe mạnh “Mai sau con lớn vung chày lún sân” đến mơ ước một cuộc sống no đủ “Hạt bắp lên đều” và “phát mười ka-lư” đến mơ ước lớn lao hơn là con được sống một cuộc đời tự do độc lập.

“Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người tự do

Khát vọng của mẹ được nâng cao, không chỉ có khát vọng về một cuộc sống khỏe, no đủ của con mà còn khát vọng cháy bỏng là con sẽ được hưởng một cuộc sống độc lập. Khát vọng của mẹ cũng là khát vọng của dân tộc. Vì vậy, mẹ không chỉ lao động sản xuất mà mẹ còn trực tiếp tham gia vào chiến đấu, mẹ có một niềm tin mãnh liệt vào ngày mai chiến thắng vì thế:

“Mẹ địu em đi để giành trận cuối”

Hình ảnh người mẹ lúc này trong tư thế của người chiến sỹ trở nên phi thường, lớn lao. Có thể nói hình ảnh người mẹ Tà ôi được thể hiện qua rất nhiều các công việc khác nhau, không gian khác nhau và sự trưởng thành về hình thức và hành động.

Người mẹ trong bài thơ hiện lên vừa có nét đẹp truyền thống vừa mang tinh thần thời đại, vừa yêu thương con vừa yêu đất nước và giầu tinh thần chiến đấu. Bài thơ xứng đáng là một tượng đài kỉ niệm bằng thơ về hình ảnh người mẹ Việt Nam.

Hình ảnh người mẹ trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ- Mẫu 2

Một trong những tình cảm thiêng liêng, cao quý, thắm thiết sâu nặng nhất của con người không gì ngoài tình mẫu tử. Vẻ đẹp của thứ tình cảm thiêng liêng sâu sắc ấy đã từng được nhiều nhà văn, nhà thơ đưa vào trong tác phẩm của mình như một chủ đề quen thuộc, gần gũi và nhiều ý nghĩa. Cùng chung mạch cảm xúc ấy, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại có những hướng đi riêng, những sáng tạo mới, khơi nguồn những miền cảm xúc mới để đưa vào tác phẩm của mình, đó là là bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, mà cốt lõi là hình ảnh người mẹ Tà-ôi đi xuyên suốt cả tác phẩm.

Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, tại Huế, ông là một nhà thơ, nhà chính trị Việt Nam. Sáng tác của ông bao gồm một số tác phẩm tiêu biểu như tập thơ Đất và khát vọng, Đất ngoại ô, Mặt đường khát vọng,… Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu của các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ, thơ của ông là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng về đất nước về nhân dân, về những con người bình dị không ai nhớ mặt đạt tên đã làm ra đất nước.

Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác ở chiến khu phía Tây Thừa Thiên vào ngày 25/3/1971, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang dần đi đến thắng lợi, tuy nhiên đời sống chiến đấu của quân dân ta còn nhiều khó khăn gian khổ. Bài thơ được in trong tập Đất và khát vọng (1984), là sự kết hợp giữa thể thơ tám chữ và một số câu 7 chữ, âm điệu của bài thơ nhẹ nhàng, như ôm ấp, vỗ về của một lời ru, chính giọng điệu trữ tình này đã thể hiện được tình cảm thiết tha trìu mến cảu người mẹ đối với con, đối với cách mạng, với đất nước, quê hương.

Bài thơ là những lời ru thiết tha trìu mến, những lời ru như thủ thỉ, tâm tình như vỗ về ôm ấp, giấc ngủ của em cu Tai và cũng là giấc ngủ của biết bao nhiêu đứa trẻ lớn trên lưng mẹ. Nhưng điều đặc sắc hơn cả đó là thông qua những lời ru dịu êm, thiết tha, trìu mến ấy đã làm hiện dần lên hình ảnh người mẹ Tà-ôi. Người mẹ hiện lên trong biết bao công việc trong cuộc sống lao động thường ngày.

“Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội,
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng.
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi,
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối,
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời:”

Đầu tiên là hình ảnh người mẹ Tà-ôi hiện lên trong công việc giã gạo nuôi bộ đội kháng chiến, đây là một công việc hết sức vất vả và nặng nhọc, để có thể làm ra được hạt hạo trắng ngần, thơm tho những người dân đã phải đổ biết bao mồ hôi công sức. Người mẹ Tà-ôi ở đây trong công việc giã gạo không chỉ là làm ra hạt gạo nuôi sống chính bản thân mà còn là những hạt gạo được chắt chiu trân trọng để nuôi bộ đội, đóng góp cho cuộc kháng chiến sắp đi đến thắng lợi của nhân dân ta. Như vậy, chỉ trong một công việc tưởng chừng như hết sức bình dị này thì người mẹ Tà-ôi đã hiện lên với một hình ảnh lớn lao, cao cả khi biết đóng góp những thứ vật chất nhỏ bé cho kháng chiến, trở thành hậu phương vững chắc cho cách mạng, điều đó là đáng quý biết bao. Hình ảnh “nhịp chày nghiêng” và “giấc ngủ em nghiêng” cho ta cảm giác dường như cả hai mẹ con đều cùng chung một nhịp, đó là nhịp chày giã gạo, nhịp điệu lao động của người mẹ. Giấc ngủ của em cu Tai luôn gắn liền với công cuộc lao động vất vả, chịu thương chịu khó, tần tảo sớm trưa của mẹ mình. Đặc biệt có những chi tiết tác giả dùng đặc tả nỗi vất vả của người mẹ như “Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi”, ta như cảm nhận được những giọt mồ hôi như mưa, mặn đắng nỗi vất vả nhọc nhằn mà cả chính em cu Tai cũng cảm nhận được. Hình ảnh “Vai mẹ gầy” như đã bộc lộ cả cái cảm nhận của những đứa trẻ trong ngủ trên lưng mẹ, cũng là tình thương trước cái nỗi vất vả, nhọc nhằn, kham khổ, vắt kiệt sức lực khiến người mẹ phải gầy gò, lam lũ. Người mẹ ấy hi sinh nhiều vô kể, mang nặng đẻ đau, đôi tay tảo tần giã gạo, đôi làm chiếc gối, tấm lưng làm chiếc nôi và hát ru con ngủ bằng cả trái tim yêu thương tràn đầy.

Hơn thế nữa, người mẹ cũng là một trong những người dân tham gia lao động sản xuất ở chiến khu, đang bám từng tấc đất để vừa lao động tăng gia sản xuất, vừa phục vụ kháng chiến. Nguyễn Khoa Điềm đã gợi lên hình ảnh ảnh người mẹ thông qua những câu thơ sau:

-” Mẹ đang trỉa bắp trên núi Ka-lư
Lưng núi thì to, mà lưng mẹ nhỏ,”

-” Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi,
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.”

Ở đây, nhà thơ đã vận dụng rất thành công thủ pháp tương phản để làm nổi bật sự lớn lao mênh manh của núi rừng, đồng thời làm nổi bật được hình ảnh vất vả tảo tần của người mẹ. Tấm lưng mẹ tuy nhỏ nhắn nhưng bền bỉ thậm chí còn kiêu hãnh hơn lưng núi, bởi trên lưng mẹ có “mặt trời” là người con yêu thương, đây là hình ảnh ẩn dụ gợi lên thật sâu sắc, cảm động tình mẹ yêu con. Con là nguồn sống, là năng lượng tiếp sức cho mẹ trong công việc lao động vất vả, cũng giống như ánh mặt trời là nguồn sống, chiếu sáng cho cây bắp được sinh tồn và phát triển.

Đặc biệt hơn hết, ta còn thấy hình ảnh của người mẹ hiện lên trên chiến trường, hình ảnh này là một sự phát triển tất yếu của người mẹ từ vị trí hậu phương, phục vụ kháng chiến thầm lặng, thì hôm nay mẹ tham gia vào cuộc kháng chiến một cách mạnh mẽ hơn, trực tiếp hơn, mẹ giúp bộ đội “chuyển lán”, “đạp rừng”, “giành trận cuối” với quân Mỹ trong kháng chiến.

Hình ảnh người mẹ trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ- Mẫu 3

Chúng ta biết đến Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu trưởng thành trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Thơ của Nguyễn Khoa Điềm là một hồn thơ giàu suy tư với những cảm xúc dồn nén chất chứa trong từng câu thơ. “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ của ông. Xuyên suốt bài thơ người ta thấy hiện lên hình ảnh bà mẹ Tà ôi như một biểu tượng về người mẹ Việt Nam anh hung.

“Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” được sáng tác vào năm 1971 khi Nguyễn Khoa Điềm đang ở chiến khu phía Tây Thừa Thiên. Đến năm 1984, bài thơ được in trong tập “Đất và khát vọng”. Với giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết như một lời ru đã giúp người đọc thấy được tình cảm trìu mến của người mẹ dành cho con của mình.

Trong “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” hình ảnh người mẹ hiện lên gắn liền với cuộc sống lao động thường ngày:

Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội,
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng.
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi,
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối,
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời:”

Đầu tiên hình ảnh người mẹ gắn liền với công việc làm nương rẫy, chăm lo cho cuộc sống của bộ đội kháng chiến. Để có được hạt gạo trắng ngần, có được những bữa cơm nóng hổi nuôi bộ đội, người mẹ phải làm lụng vất vả, phải đổ biết bao mồ hôi công sức. Dù không trực tiếp tham gia chiến trường thế nhưng người mẹ đã làm hết sức mình nơi hậu phương để có thể góp phần làm nên chiến thắng của nhân dân ta. Cái hay, cái đẹp của đoạn thơ còn ở chỗ hình ảnh lao động của người mẹ gắn liền với giấc ngủ của con thơ “nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng”. Đây vừa là hình ảnh tả thực em bé được địu trên lưng mẹ vừa vô cùng ấm áp, thiêng liêng bởi nó đem đến cho người đọc cảm giác người mẹ và em bé như đang cùng chung một nhịp đập, cùng nhau chia sẻ công việc khó nhọc này. Dù đang ngủ say giấc nhưng dường như em Cu – tai cũng đang cảm nhận được sự vất vả của mẹ: “Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi”. Đặc biệt hình ảnh tả thực đôi vai gầy của mẹ cũng thể hiện được tình thương, nỗi vất vả của mẹ. Người mẹ ấy vừa phải chăm lo cho đứa con thơ của mình, vừa phải gánh trên vai trọng trách tiếp tế lương thực nơi chiến trường vậy mà trái tim của mẹ vẫn dành cho con tình yêu thương hết mực, vẫn hang say lao động bằng tất cả tình thương của mình.

Ở những câu thơ sau hình ảnh người mẹ vẫn tiếp tục là hình ảnh người mẹ gắn liền với lao động sản xuất:

-” Mẹ đang trỉa bắp trên núi Ka-lưi
Lưng núi thì to, mà lưng mẹ nhỏ,”

-” Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi,
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.”

Trước hết, ta có thể thấy Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rất thành công thủ pháp tương phản để vừa làm nổi bật không gian mênh mông rộng lớn của núi rừng vừa thể hiện sự vất vả khó nhọc của người mẹ. So với không gian mênh mông rộng lớn kia thì hình ảnh người mẹ trông thật nhỏ bé ấy vậy mà nó vẫn bừng sáng khắp không gian. Người mẹ không chỉ tích cực tham gia tang gia sản xuất mà còn mang trên vai “mặt trời” của mẹ với tất cả tình cảm yêu thương, chăm sóc. Hình ảnh ẩn dụ này vừa thể hiện rằng đứa con như là nguồn sống của người mẹ vừa khẳng định rằng đây chính là nguồn năng lượng lớn nhất, tiếp sức cho mẹ vượt qua biết bao gian truân, khó nhọc.

Và rồi từ vị trí hậu phương vững chắc ta đã thấy hình ảnh người mẹ được hiện lên nơi chiến trường, được tham gia vào kháng chiến một cách trực tiếp hơn:

“Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng.
Thằng Mỹ đuổi ta phải rời con suối
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông,
Mẹ địu em đi để dành trận cuối.
Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường,
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn.”

Khi cuộc kháng chiến của nhân dân ta bước vào giai đoạn ác liệt nhất thì mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp không phân biệt già, trẻ, lớn, bé đều đứng dậy cầm súng ra trận thì người mẹ ấy cũng góp sức mình vào việc “chuyển lán”, “đạp rừng”… Đây là những công việc còn khó khăn gấp trăm lần vậy mà hình ảnh đứa con vẫn xuất hiện trên lưng mẹ. Giấc ngủ của em theo chân mẹ tới mọi nẻo đường, cùng mẹ trải qua mọi khó khăn, gian khó. Lúc này đây đứa con không chỉ là nguồn sống, là nguồn sức mạnh mà nó còn như một người bạn cùng mẹ vượt qua mọi nẻo đường.

Có thể thấy hình ảnh người mẹ Tà – ôi hiện lên thật chân thực nhưng cũng rất tình trong những vần thơ của Nguyễn Khoa Điềm. Đó là một người mẹ tần tảo sớm hôm, một người mẹ sẵn sàng hy sinh cho kháng chiến, một người mẹ với niềm tin mãnh liệt vào sự toàn thắng của dân tộc, một người mẹ với tình yêu thương con hết mực – một người mẹ anh hung.

Qua “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” ta không chỉ thấy được tình cảm của nhà thơ mà còn thấy yêu thêm biết bao bà mẹ Việt Nam hung khác trên khắp dải đất hình chữ S này.

Hình ảnh người mẹ trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ- Mẫu 4

“Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác vào ngày 25 tháng 3 năm 1971, là một trong số những bài thơ hay của ông. Nổi bật trong bài là hình ảnh người mẹ Tà Ôi như là biểu tượng về người mẹ Việt Nam anh hùng. Đó là một con người rất mực thương con nhưng cũng vô cùng yêu nước. Dường như đứa con yêu quí và đất nước thân thương nuôi con nên người và đánh giặc giải phóng quê hương là những gì trọng đại nhất cao quí nhất của người mẹ này trong những năm đất nước phải gồng mình chống đế quốc Mĩ xâm lược.

Bài thơ đồng thời là lời hát ru. Tác giả ru em Cu Tai ngủ ngoan (đồng thời miêu tả hình ảnh người mẹ). Người mẹ trong bài ru em ngủ ngoan nhưng đó là lời ru thầm, lời ru trong tim (Lưng đưa nôi và tim hát thành lời). Lời ru của tác giả và lời ru của người mẹ nối tiếp nhau, đan cài, hoà quyện vào nhau làm nên những khúc hát ru vừa đằm thắm, dịu dàng, vừa trầm tư, sâu lắng. Vì kết cấu bài thơ như những khúc hát ru nên bài thơ cứ trở đi trở lại một số khúc giống nhau như những nét nhạc chủ đạo trong một bài hát. Bài thơ có ba khúc ru. Mỗi khúc hát ru là một đoạn thơ. Ở đoạn thơ thứ nhất, người mẹ ru con khi địu con trên lưng và giã gạo nuôi bộ đội. Giấc ngủ của em nghiêng nghiêng theo nhịp chày, thấm mồ hôi lao động vất cả của mẹ. Người mẹ Tà Ôi thương con nhất mực không lúc nào chịu rời con đã lấy lưng làm nôi và đôi vai gầy làm gối cho con. Và lời ru con của mẹ cất lên bên cối gạo giữa sàn nhà cũng chính là lời tâm sự, lời tự nhủ, lời mẹ thầm nói với chính mình. Lòng yêu con của mẹ gắn liền với tình thương yêu bộ đội:

“Mẹ thương A Kay, mẹ thương bộ đội
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân…”

Ước mơ của người mẹ nối liền với giấc mơ của con và cùng hội tụ lại trong tình thương yêu sâu sắc những anh bộ đội. Trong đoạn thơ thứ hai, bà mẹ Tà Ôi địu con đi tỉa bắp trên núi Ka Lưi. Tình thương yêu và niềm hi vọng vô bờ của người mẹ đối với đứa con được thể hiện bằng lời và những hình ảnh độc đáo:

“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ con nằm trên lưng.”

Trong câu thơ trên hình ảnh mặt trời là một hình ảnh thực. Mặt trời đem lại ánh sáng, sự sống cho cây cỏ, làm cho cây cỏ thêm tươi tốt, như cây ngô bắp to, hạt mẩy. Hình ảnh mặt trời ở câu thơ sau là ẩn dụ. Tác giả so sánh ngầm Cu Tai là mặt trời của mẹ. Coi con như mặt trời thì quả là lòng mẹ yêu quí con vô hạn, mong đợi ở con rất nhiều. Đó là ánh sáng, là nguồn sống, là niềm vui, là niềm hạnh phúc, là tất cả tương lai của mẹ. Hai câu thơ, hai hình ảnh tôn nhau lên, đối ý với nhau, đã làm nổi bật tình thương yêu sâu sắc và niềm hi vọng lớn lao của người mẹ đối với đứa con. Lời ru của người mẹ Tà Ôi ngân nga trong trái tim mẹ khi mẹ địu con đi tỉa bắp vẫn hướng về đứa con thơ yêu quí của mình. Lòng thương yêu con của mẹ trong hoàn cảnh này gắn liền với tình thương yêu dân làng – những người dân lao động nghèo đói:

“Mẹ thương A Kay, Mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hạy bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka Lưi”.

Trong đoạn thơ thứ ba, người mẹ địu con trong tư thế đang “chuyển lán”, “đạp rừng”. Bà mẹ băng rừng, địu con trên lưng đưa con đi “để giành trận cuối”. Lòng yêu con của mẹ đến đây gắn liền với lòng yêu nước: “Mẹ thương A Kay mẹ thương đất nước”. Người mẹ gửi gắm vào giấc mơ của con niềm khao khát được gặp Bác Hồ và mong đất nước được độc lập tự do:

“Con mơ cho mẹ được gặp Bác Hồ
Mai sau con lớn thành người tự do”.

Tiếng hát ru con của người mẹ Tà Ôi không phải được cất lên bên cánh võng hay trên giường ấm nệm êm trong phòng ngủ. Tiếng hát ru ấy ngân lên trong trái tim của mẹ khi mẹ địu con giã gạo, tỉa bắp trên núi, khi mẹ “chuyển lán”, “đạp rừng” hoặc trên đường ra chiến trường để giành trận cuối. Như vậy, bà mẹ Tà Ôi là một người mẹ lao động, trực tiếp sản xuất, phục vụ cho chiến đấu của toàn dân tộc. Tình thương con, thương bộ đội, thương dân làng, thương đất nước hoà quyện vào nhau trong tấm lòng của một người mẹ miền núi yêu nước trong những năm tháng chống Mĩ khó khăn, gian khổ.

“Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác vào ngày 25 tháng 3 năm 1971, là một trong số những bài thơ hay của ông. Nổi bật trong bài là hình ảnh người mẹ Tà Ôi như là biểu tượng về người mẹ Việt Nam anh hùng. Đó là một con người rất mực thương con nhưng cũng vô cùng yêu nước. Dường như đứa con yêu quí và đất nước thân thương nuôi con nên người và đánh giặc giải phóng quê hương là những gì trọng đại nhất cao quí nhất của người mẹ này trong những năm đất nước phải gồng mình chống đế quốc Mĩ xâm lược.

Bài thơ đồng thời là lời hát ru. Tác giả ru em Cu Tai ngủ ngoan (đồng thời miêu tả hình ảnh người mẹ). Người mẹ trong bài ru em ngủ ngoan nhưng đó là lời ru thầm, lời ru trong tim (Lưng đưa nôi và tim hát thành lời). Lời ru của tác giả và lời ru của người mẹ nối tiếp nhau, đan cài, hoà quyện vào nhau làm nên những khúc hát ru vừa đằm thắm, dịu dàng, vừa trầm tư, sâu lắng. Vì kết cấu bài thơ như những khúc hát ru nên bài thơ cứ trở đi trở lại một số khúc giống nhau như những nét nhạc chủ đạo trong một bài hát. Bài thơ có ba khúc ru. Mỗi khúc hát ru là một đoạn thơ. Ở đoạn thơ thứ nhất, người mẹ ru con khi địu con trên lưng và giã gạo nuôi bộ đội. Giấc ngủ của em nghiêng nghiêng theo nhịp chày, thấm mồ hôi lao động vất cả của mẹ. Người mẹ Tà Ôi thương con nhất mực không lúc nào chịu rời con đã lấy lưng làm nôi và đôi vai gầy làm gối cho con. Và lời ru con của mẹ cất lên bên cối gạo giữa sàn nhà cũng chính là lời tâm sự, lời tự nhủ, lời mẹ thầm nói với chính mình. Lòng yêu con của mẹ gắn liền với tình thương yêu bộ đội:

“Mẹ thương A Kay, mẹ thương bộ đội
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân…”

Ước mơ của người mẹ nối liền với giấc mơ của con và cùng hội tụ lại trong tình thương yêu sâu sắc những anh bộ đội. Trong đoạn thơ thứ hai, bà mẹ Tà Ôi địu con đi tỉa bắp trên núi Ka Lưi. Tình thương yêu và niềm hi vọng vô bờ của người mẹ đối với đứa con được thể hiện bằng lời và những hình ảnh độc đáo:

“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ con nằm trên lưng.”

Trong câu thơ trên hình ảnh mặt trời là một hình ảnh thực. Mặt trời đem lại ánh sáng, sự sống cho cây cỏ, làm cho cây cỏ thêm tươi tốt, như cây ngô bắp to, hạt mẩy. Hình ảnh mặt trời ở câu thơ sau là ẩn dụ. Tác giả so sánh ngầm Cu Tai là mặt trời của mẹ. Coi con như mặt trời thì quả là lòng mẹ yêu quí con vô hạn, mong đợi ở con rất nhiều. Đó là ánh sáng, là nguồn sống, là niềm vui, là niềm hạnh phúc, là tất cả tương lai của mẹ. Hai câu thơ, hai hình ảnh tôn nhau lên, đối ý với nhau, đã làm nổi bật tình thương yêu sâu sắc và niềm hi vọng lớn lao của người mẹ đối với đứa con. Lời ru của người mẹ Tà Ôi ngân nga trong trái tim mẹ khi mẹ địu con đi tỉa bắp vẫn hướng về đứa con thơ yêu quí của mình. Lòng thương yêu con của mẹ trong hoàn cảnh này gắn liền với tình thương yêu dân làng – những người dân lao động nghèo đói:

“Mẹ thương A Kay, Mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hạy bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka Lưi”.

Trong đoạn thơ thứ ba, người mẹ địu con trong tư thế đang “chuyển lán”, “đạp rừng”. Bà mẹ băng rừng, địu con trên lưng đưa con đi “để giành trận cuối”. Lòng yêu con của mẹ đến đây gắn liền với lòng yêu nước: “Mẹ thương A Kay mẹ thương đất nước”. Người mẹ gửi gắm vào giấc mơ của con niềm khao khát được gặp Bác Hồ và mong đất nước được độc lập tự do:

“Con mơ cho mẹ được gặp Bác Hồ
Mai sau con lớn thành người tự do”.

Tiếng hát ru con của người mẹ Tà Ôi không phải được cất lên bên cánh võng hay trên giường ấm nệm êm trong phòng ngủ. Tiếng hát ru ấy ngân lên trong trái tim của mẹ khi mẹ địu con giã gạo, tỉa bắp trên núi, khi mẹ “chuyển lán”, “đạp rừng” hoặc trên đường ra chiến trường để giành trận cuối. Như vậy, bà mẹ Tà Ôi là một người mẹ lao động, trực tiếp sản xuất, phục vụ cho chiến đấu của toàn dân tộc. Tình thương con, thương bộ đội, thương dân làng, thương đất nước hoà quyện vào nhau trong tấm lòng của một người mẹ miền núi yêu nước trong những năm tháng chống Mĩ khó khăn, gian khổ.

Hình ảnh người mẹ trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ- Mẫu 5

Bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đời giữa những năm tháng quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên cả hai miền Bắc-Nam. Thời kì này, cuộc sống của cán bộ, nhân dân ta trên các chiến khu (phần lớn là những vùng miền núi) rất gian nan, thiếu thốn.

Cán bộ, nhân dân ta phải bám rẫy, bám đất để tăng gia sản xuất, vừa sẳn sàng chiến đấu bảo vệ căn cứ. Bài thơ là lời hát ru những em bé dân tộc Tà-ôi lớn trên lưng mẹ ở vùng chiến khu Trị – Thiên trong thời kì chiến tranh chống Mỹ.

Hình ảnh người mẹ Tà-ôi trong bài thơ, qua từng đoạn thơ với từng khúc hát ru được gắn với hoàn cảnh, công việc cụ thể.

Ở khúc thứ nhất, người mẹ hiện lên với dáng tần tảo, lam lũ, vất vả với công việc giả gạo nuôi bộ đội. Mẹ giã gao, con vẫn trên lưng mẹ. Câu thơ: “Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối” thật cảm động. Mẹ gầy vì công việc giúp nuôi bộ đội đánh giặc. Mẹ gầy vì nuôi cho con nhanh lớn. Nhưng trái tim của mẹ vẫn hát về ước mơ:

“Mai sau con lớn vung chày lún sân”

Trong khúc ru thứ hai, diễn tả công việc mẹ lên núi trỉa bắp. Câu thơ: “Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ” hình thành theo kết cấu đối lập làm nổi bật hình ảnh me với công việc vất vả. Núi thì to, nương bắp thì rộng, mà sức mẹ có hạn. Trên lưng mẹ, em vẫn ngủ say:

“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi

Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”

Hình ảnh “Mặt trời” trong câu thơ sau được chuyển nghĩa (ẩn dụ): Cu Tai là mặt trời của mẹ. Em còn là tất cả của mẹ, là lí tưởng, là hi vọng của mẹ. Mẹ mơ ước về con:

“Mai sau lớn lên phát mười Ka-lưi”

Đến khổ thứ ba, lời ru đồn đập, mạnh mẻ, gấp rút, bởi “giặc Mỹ đến đánh”, đuổi ta phải rời suối rời nương “Thằng Mỹ đuổi ta phải rời con suối”. Mẹ phải chuyển lán, đạp rừng , cùng tham gia đánh giặc. Mẹ đến chiến trường, em vẩn trên lưng:

“Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường

Từ trong đói khổ em vào Trương Sơn”

Trong khói lửa của chiến tranh mẹ mong ước: “Mai sau con lớn làm người tự do”.

Ba khúc hát ru cũng là ba đoạn thơ điển tả công việc cùng tấm lòng của mẹ ở trong chiến khu gian khổ, người mẹ Tà-ôi trong bài thơ còn thắm thiết yêu con và cũng nặng tình thương buôn làng, quê hương, bộ đội và khao khát mong cho đất nước độc lập, tự do.

Lời ru gắn với tình yêu con tha thiết của người mẹ dân tộc Tà-ôi.

Lời ru thủ thỉ những điều đang diển tả trong thực tại mà người con chưa thể biết:

“Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội

Lưng đưa nôi và tim hát thành lời”

Lời ru theo nhịp giã gạo, mỗi câu bị ngắt nhịp làm hai như theo nhịp chày, nhịp thở. Hai mẹ con cùng chung một nhịp, mẹ làm việc, con ngủ ngon “Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng”. Hai từ “Nghiêng” đứng trong một câu thơ thể hiện niềm say mê của mẹ hoà cùng giấc ngủ của bé. Mẹ làm việc khổ cực trong hiện tại, nhưng lời ru của mẹ cao vút đến ngày mai. “Mai sau con lớn vung chày lún sân!

Lời ru trên nương khi trỉa bắp ở trên núi Ka-lưi, vẫn theo nhịp “chọc lỗ” trỉa bắp nhưng hình ảnh lúc này thiên về đối lập “Lưng núi to- lưng mẹ nhỏ” và đối xứng “Mặt trời của bắp- mặt trời của mẹ”, tất cả toát lên tình thương vô hạn của người mẹ nghèo vẫn thương con, thương cách mạng, “mặt trời của mẹ em nằm trên lưng” người mẹ vừa chịu đựng cái nóng vừa tha thiết yêu thương.

Lời ru của mẹ không chỉ hướng vào thực tại mà còn hướng về tương lai:

Ngủ ngoan A-kay ơi, ngủ ngoan A-kay hỡi

Mai sau con lớn phát mười Ka-Lưi”

Khi chuyển lán, trong lời ru thứ ba, nhịp thơ vẫn ngắt đôi, mỗi dòng theo bước chân đi nhưng lời thơ xếp theo lối hùn điệp, đuổi nhau giục giã, khẩn trương:

“Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng

Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn”.

Cũng như đoạn thơ trên, lời ru của mẹ hướng vào đất nước, hướng vào tương lai chiến thắng”

“ Ngủ ngoan A-kay ơi, ngủ ngoan A-kay hỡi

Mai sau con lớn làm người tự do”.

Tình yêu thương con của người mẹ gắn liền với tình cảm đối với cán bộ, xóm làng, đất nước. Tình yêu của người mẹ Tà- ôi gắn liền với tình cảm cao đẹp khác. Đó là lòng thương yêu bộ đội, yêu thương dân làng, yêu thương đất nước. Những lời ru của người mẹ còn thể hiện ước mơ và ý chí của nhân dân ta. Người mẹ mong con lớn lên giúp mẹ giã gạo “vung chày lún sân”, giúp mẹ trỉa ngô, làm rẫy “phát mười Ka-lưi”. Đó là niềm mong ước mọi người được sống ấm no “hạt gạo trắng ngần, hạt bắp lên đều”. Lời hát ru còn thể hiện ý chí chiến đấu, khát vọng tự do và niềm tin vào thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ:

“Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ

Mai sau con lớn làm người tự do…”

Bài thơ xây dựng hình ảnh người mẹ Tà-ôi, nuôi con thơ mà làm đủ mọi việc cho công cuộc chống Mỹ, góp phần vào thắng lợi chung cho đất nước. Một người mẹ tuy lao động nhọc nhằn mà ước mơ bay bổng, toát lên một niềm tin vững chắc cho tương lai. Đây là một hình tượng hiếm có trong thơ ca cách mạng hiện đại, sánh cùng với những hình tượng khác hình ảnh người mẹ khác trong hai cuộc chiến của dân tộc ta đó là: mẹ Tơm, mẹ Suốt, người mẹ người cầm súng Út Tịch…..đã góp nên một bài ca của những người mẹ Việt Nam anh hùng: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” với tám chữ vàng mà Bác Hồ trao tặng.

Hình ảnh người mẹ trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ- Mẫu 6

Nguyễn Khoa Điềm – một nhà thơ có phong cách viết bình dị, tự nhiên và giàu cảm xúc. Một trong số những bài thơ tiêu biểu của ông phải kể đến “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”. Bài thơ không chỉ thành công về mặt nghệ thuật mà còn thành công trong việc khắc hoạ hình ảnh người mẹ miền núi Tà- ôi đầy đẹp đẽ. Một người mẹ với tình thương con vô bờ bến và tình yêu ấy hòa trong tình yêu quê hương, yêu đất nước mình.

Hình ảnh người mẹ qua mỗi khúc ru hiện lên thật bình dị. Dù làm gì, dù ở bất cứ nơi đâu, dù là khi nào thì mẹ vẫn thế, vẫn trao trọn sự yêu thương mình nơi con. Trong khúc ru đầu tiên, ta thấy bóng dáng mẹ trong cuộc sống thường ngày:

“Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời”.

Hàng ngày, khi em còn chìm sâu trong giấc ngủ cũng là lúc mẹ tranh thủ giã gạo. Từng hạt gạo trắng ngần qua bàn tay mẹ giã không chỉ phục vụ cho bữa ăn con, bữa cơm của gia đình mà còn phục vụ cho bộ đội nơi tuyền tuyến. Những vất vả mà mẹ làm không chỉ vì con yêu mà còn vì đất nước, công việc giã gạo tuy bình dị đấy, tuy chẳng phải to lớn gì nhưng nó có ý nghĩa biết bao khi chiến trường lương thực đang cạn, khi người lính đang phải nhịn cơm từng bữa. Ở hậu phương, mẹ vẫn góp sức mình cho chiến thắng mai này. Và dường như em cũng cảm nhận được những vất vả nơi mẹ qua từng giọt mồ hôi nóng rơi trên má mà em ngủ ngoan hơn. Em ngủ ngoan cũng là giúp mẹ, cũng là cùng mẹ sẻ chia, gánh vác trách nhiệm của mình đối với đất nước, cho dân tộc.

Khúc hát ru thứ hai, một lần nữa ta lại thấy người mẹ ấy thật đẹp đẽ trong lao động, sản xuất. Từng khoảnh đất trống, từng mảnh nương hoang mẹ đều tận dụng gieo trồng mang lại nguồn lương thực cho chiến trận. Mẹ làm việc miệt mài chẳng ngại nắng gió để tăng gia sản xuất nuôi làng đói, nuôi bộ đội:

“Mẹ đang trỉa bắp trên núi Ka-lưi
Lưng núi thì to, mà lưng mẹ nhỏ
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi,
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.”

Núi rừng mênh mang rộng lớn, bóng lưng núi bao la bạt ngàn, mẹ cõng em trên lưng gầy bé. Sự tương phản ấy khiến ta không khỏi thương mẹ, xót xa và cảm phục mẹ làm chủ trước đất trời, biết bao vất vả, bao khó nhọc mẹ chẳng ngần ngại. Có em, mẹ vẫn luôn kiêu hãnh, vì em, vì sự nghiệp cách mạng mẹ có thể chịu được mọi gian khổ, hi sinh. Ánh mặt trời của thiên nhiên mang lại sự sống, mang lại nguồn ánh sáng cho cỏ cây tươi tốt, cho bắp vàng đều hạt, ánh mặt trời của mẹ là em trong đó, có em mẹ có thêm động lực để cố gắng, để lao động, em chính là nguồn năng lượng xua tan những mệt mỏi, nhọc nhằn nơi mẹ.

Và mẹ đâu chỉ bên em trong lao động, trong sản xuất, mẹ còn bên em trong chiến trận. Mẹ đâu chỉ là hậu phương vững chắc, mẹ còn ra tuyền tuyến đánh giặc cứu nước:

Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng.
Thằng Mỹ đuổi ta phải rời con suối
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông,
Mẹ địu em đi để dành trận cuối.
Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường,
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn.”

Chiến trận đất nước ngày một khó khăn hơn, kháng chiến ác liệt hơn rất nhiều. Giờ đây ai ai cũng là chiến sĩ, anh trai cầm súng, chị gái cầm chông đều đứng lên giết giặc. Mẹ cũng không nằm ngoài tinh thần ấy, dũng cảm vượt rừng chuyển lán, đạp rừng, rời suối, phá tan quân thù quyết giành trận cuối. Con cũng cùng mẹ đồng hành trên mọi mặt trận, dũng cảm rời làng quê vào chiến đấu, mong một ngày đất nước giải phóng an vui.

Và trên tất cả, người mẹ anh hùng ấy còn có một trái tim yêu con dạt dào. Trong mỗi lời ru, mẹ đều ước mong, trông chờ con khôn lớn, trưởng thành, giúp làng, cứu nước.

“Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi…”

” Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ,
Mai sau con lớn làm người Tự Do…”

Những giấc mơ con gói trọn niềm mong ước của mẹ. Rồi mai này còn sẽ sống thật trọn vẹn trên đất nước mình, một đất nước tự do, độc lập và giàu mạnh.

Hình ảnh người mẹ Tà- ôi là đại diện tiêu biểu cho bao người mẹ anh hùng trong kháng chiến nói riêng và bao người phụ nữ Việt Nam nói chung. Họ lúc nào cũng yêu thương con cái, họ giàu đức hy sinh, cần mẫn, nhân hậu và khi cần họ cũng rất kiên quyết, dũng cảm. Đó là những phẩm chất thật đáng trân trọng mà Nguyễn Khoa Điềm đã dùng lời thơ của mình để ca ngợi vẻ đẹp ấy.

Trên đây là nội dung bài học Hình ảnh người mẹ trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ (6 mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập

5/5 - (5 bình chọn)


Nguyễn Thanh Tùng

Trường THCS Bình Chánh với mục tiêu chung là tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh có thể phát triển khả năng và đạt được thành công trong quá trình học tập. Chúng tôi cam kết xây dựng một không gian học tập đầy thách thức, sáng tạo và linh hoạt, nơi mà học sinh được khuyến khích khám phá, rèn luyện kỹ năng và trở thành những người học suốt đời.

Bài viết liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button