Học TậpTổng hợp

Phân tích 4 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính (6 mẫu)

Phân tích 4 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính lớp 9 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 6 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.

Đề bài: Phân tích 4 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Phân tích 4 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Phân tích 4 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Mục lục

Dàn ý Phân tích 4 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính chi tiết

1. Mở bài

Bạn đang xem: Phân tích 4 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính (6 mẫu)

  • Phạm Tiến Duật là nhà thơ được rèn luyện, trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ gian khổ và oanh liệt của dân tộc.
  • Bài thơ về Tiểu đội xe không kính nằm trong chùm thơ ba bài được Giải nhất của báo Văn Nghệ 1969.
    Giới thiệu bốn khổ thơ đầu

2. Thân bài

– Hai câu đầu

  • Một lời hỏi – đáp rất hồn nhiên tự nhiên của người lính. Chiếc xe vận tải vốn có kính nhưng trong bom đạn “kính vỡ đi rồi”.
  • Các điệp ngữ: “không có…không phải… không có”, “bom giật, bom rung” đã làm cho âm điệu thơ hùng tráng, gợi tả không khí ác liệt chiến trường.
  • Một tư thế chiến đấu rất đẹp: Cái ngồi “ung dung” đàng hoàng làm chủ tình thế. Một cái nhìn khoáng đạt bao la giữa chiến trường: “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.
  • Nhịp thơ 2/2/2 với điệp từ “nhìn” đã thể hiện tuyệt đẹp một tư thế chiến đấu rất đĩnh đạc hào hùng của người lính trẻ trong mưa bom bão đạn của giặc Mỹ.

– Khổ thơ thứ hai

  • Mở ra một không gian rộng lớn, những cung đường chiến lược phía trước
    Các điệp ngữ: “Nhìn thấy gió…”, “nhìn thấy con đường…”, rồi “nhìn thấy sao trời…”: có giá trị gợi tả tiểu đội xe không kính, nối đuôi nhau hành quân ra chiến trường.
  • Tiểu đội xe không kính đã xông pha trong cảnh “bom giật bom rung”, đã nếm trải nhiều gió bụi, vô cùng gian khổ, các anh còn hành quân trong mưa.

– Nghệ thuật:

Đoạn thơ trên đây hội tụ bao vẻ đẹp nghệ thuật. Câu thơ mang màu sắc văn xuôi thể hiện “chất lính” thời máu lửa.

Các điệp từ, điệp ngữ, các hình ảnh về chiếc xe không kính, về tư thế lái xe, về cái nhìn, mái tóc, nụ cười,… đã diễn tả thật đẹp chí khí anh hùng của tiểu đội xe không kính, đồng thời làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, hào hùng mang âm điệu ành hùng ca.

3. Kết bài

  • Tóm lược lại nội dung và nghệ thuật của 4 khổ thơ đầu.
  • Gợi mở vấn đề.

6 mẫu Phân tích 4 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Phân tích 4 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 1

Trải suốt chiều dài lịch sử văn học, hình tượng đất nước đã bắt nhịp trái tim của không biết bao nhiêu nghệ sĩ để đi vào thơ với vẻ đẹp thiêng liêng và niềm tin yêu sâu sắc. Hồn thiêng đất nước, tinh thần dân tộc hào hùng được bắt nguồn từ “Nam quốc sơn hà”, “Hịch tướng sĩ”… tiếp nối bền vững qua mỗi thời kỳ. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật mang nhựa sống của đời lính trẻ trên những đoàn xe bon bon trên dặm đường đã chấm phá một nét họa tươi đẹp về chủ đề người bộ đội cụ Hồ.

Phạm Tiến Duật là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Ông thường viết về đề tài người lính và những cô gái thanh niên xung phong. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là bài thơ được sáng tác vào năm 1969, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra vô cùng ác liệt, đặc biệt tuyến đường Trường Sơn đã trở thành trọng điểm bắn phá của máy bay Mỹ. Bài thơ được in trong tập “vầng trăng quầng lửa”.

Xưa nay, tàu xe khi đưa vào thơ ca thường lãng mạn hoá, mĩ lệ hoá nhưng khi đến với thơ Phạm Tiến Duật, ta lại thấy những chiếc xe trần trụi hơn bao giờ hết.

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

Câu thơ đầu với điệp từ “không” liên tiếp như một lời thông báo xe không kính không phải là do nhà sản xuất tạo ra, vốn dĩ nó cũng có kính. Xe bị tàn phá bởi bom của kẻ thù, bởi sự khốc liệt của chiến tranh.

Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

Phép đảo ngữ đặt từ “ung dung” lên đầu làm nổi bật tư thế vững chãi của người lính lái xe. Tâm thế điềm tĩnh, tự tin của họ không phải tự nhiên mà có, họ phải trải qua gian lao, thử thách, rèn luyện mới có được. Điệp từ “nhìn” cùng nhịp thơ đều đặn 2/2/2 một lần nữa khẳng định tinh thần dũng cảm, hiên ngang, bất khuất của những người lính lái xe. Đặc biệt là cái nhìn thẳng- cái nhìn không hề né tránh, run sợ trước khó khăn, thử thách.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái

Bởi vì xe không có kính chắn gió nên các chiến sĩ phải đối mặt với bao khó khăn thử thách của thiên nhiên: nào là gió lùa mắt đắng, nào là cánh chim trời đột ngột bất ngờ. Điệp từ “nhìn” kết hợp với nghệ thuật nhân hóa ẩn dụ đã tô đậm những khó khăn gian khổ mà người lính phải trải qua trên những cung đường Trường Sơn. Đồng thời cũng nhấn mạnh sự thiếu thốn của những chiếc xe ngày đêm băng ra chiến trường.

“Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”

Thiên nhiên đó là sự khắc nghiệt của gió, mưa, bụi. Không có kính chắn gió, các anh phải đối mặt với tất cả những khó khăn thử thách ấy: nào gió lùa mất đắng, nào cánh chim trời đột ngột bất ngờ. Điệp từ “nhìn” kết hợp với những động từ “sa, ùa” càng tô đậm những khó khăn gian khổ mà người lính phải trải qua trên cung đường Trường Sơn. Nhưng với một thái độ ngang tàn bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần quả cảm những người lính lái xe buông những lời chắc gọn “không có… ờ thì” như một lời nói thường, biến những khó khăn thành điều thú vị. Bằng giọng thơ tiểu táo và nghệ thuật nhân hóa ẩn dụ “Gió xoa mắt đắng” đã làm cho hiện thực gian khổ bị mờ đi, hóa ra không có kính không phải là dở mà lại là cái hay bởi qua ô cửa kính vỡ người lính được giao hoà trực tiếp với thiên nhiên, họ không hề cô đơn mà hình như cả đất trời, cả những ánh sao, cả thiên nhiên, cả vũ trụ đang cùng người lính băng qua tiền tuyến.

Nghệ thuật điệp cấu trúc “không có kính Ừ thì” đã nhấn mạnh thái độ ngang tàn, thách thức, xem nhẹ bất chấp khó khăn gian khổ của những chàng trai trẻ. Bom đạn của kẻ thù không làm các anh chùn bước thì gió bụi mưa sa của đáng kể gì. Giọng ngang tàn đó còn thể hiện rõ qua các hình ảnh thơ “phì phèo châm điếu thuốc”, “cười haha”. Những người lính đã bình thường hóa những điều tưởng chừng không bình thường, họ chấp nhận gian khổ như một điều tất yếu. Hình ảnh thơ so sánh “bụi phun tóc trắng như người già” và “mưa tuôn mưa xối như ngoài trời” là cách ví von đầy dí dỏm, vui tươi, sôi nổi: trên con đường ra trận những mái đầu xanh của các chàng trai trẻ đã bị bụi đường nhuộm trắng, đã bị mưa làm ướt như đứng giữa trời. Đây chắc chắn hình ảnh của những chàng trai trẻ ở độ tuổi mười tám, đôi mươi. Họ vô cùng tếu hóm “phì phèo châm điếu thuốc”, “cười haha”. Tâm hồn sôi nổi ấy gợi một cảm giác nhẹ nhõm thanh thản, xua tan mọi khó khăn.

Hòa bình dân tộc được lấp đầy bằng bom đạn, giết chóc và hy sinh. Quả đúng như vậy, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã mang đến cho người đọc“con người và thời đại” của một thời chống Mĩ oanh liệt, hào hùng. Qua đó, ta thấy được tinh thần người chiến sĩ bất tử, một thời đại bất tử. Cảm ơn nhà thơ Phạm Tiến Duật – người đã tạc tháng năm lịch sử vào hồn người.

Phân tích 4 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 2

Nhớ khi mình ốm giữa rừng
Vị thuốc Hùng tìm qua ba trái núi
Quả khế rừng nấu con cá suối
Thương mình Hùng hóa trẻ đi câu.
(Nấm mộ và cây trầm, thơ Nguyễn Đức Mậu)

Những câu thơ trên nói về sự gian khổ, hi sinh, vượt lên tất cả những thiếu thốn về vật chất là tình đồng chí, đồng đội. Với những người lính ở rừng, những năm tháng ấy, tình đồng chí đồng đội thật ít nơi nào sánh bằng. Sau này, Phạm Tiến Duật cũng đã viết về những khó khăn, gian lao vất vả mà những người lính phải trải qua. Họ vượt qua những khó khăn ấy bằng niềm tin yêu, lạc quan. Trong bốn khổ thơ đầu bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” ta có thể thấy rõ những khó khăn, vất vả mà người lính Trường Sơn phải băng qua.

Nhan đề bài thơ thu hút người đọc ở cái vẻ lạ, độc đáo. Nhìn vào nhan đề ta đã thấy nổi bật lên hình ảnh những chiếc xe không kính, những chiếc xe ấy xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Hai chữ “bài thơ” thêm vào cho ta thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả – muốn nói về chất thơ của hiện thực khốc liệt thời chiến tranh, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm vượt lên những gian khổ của thời chiến.

Trong bài thơ nổi bật lên hình ảnh những chiếc xe không kính vẫn băng ra chiến trường. Hai câu thơ đầu là lời giải thích cho sự cố có phần không bình thường ấy:

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.

Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm. Chất thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của ngôn từ. Câu thơ rất gần với văn xuôi lại có giọng thản nhiên, ngang tàng giúp thu hút người đọc vào vẻ đẹp khác lạ của nó. Hình ảnh “bom giật, bom rung” vừa giúp ta hình dung được một vùng đất từng được mệnh danh là “túi bom” của địch vừa giúp ta thấy được sự khốc liệt của chiến tranh và đó chính là nguyên nhân để những chiếc xe vận tải không có kính. Các điệp ngữ không có… không phải… không có, bom giật, bom rung đã làm cho âm điệu thơ hùng tráng, gợi tả không khí chiến trường ác liệt. Vần thơ đã gợi nên những chiếc xe vận tải quân sự mang đầy thương tích chiến tranh, và hình ảnh người chiến sĩ can trường trong khói lửa.

Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi bật hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn. Thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là hoàn cảnh để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ, khó khăn.

Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Họ là chủ nhân của những chiếc xe không kính nên khi miêu tả về họ, nhà thơ đã khắc hoạ họ với những ấn tượng, cảm giác cụ thể, sinh động khi ngồi trên những chiếc xe không kính trong tư thể “nhìn trời, nhìn đất, nhìn thẳng” qua khung cửa xe đã không còn kính chắn gió. Cái ngồi “ung dung” đàng hoàng làm chủ tình thế. Một cái nhìn khoáng đạt, bao la giữa chiến trường “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Nhịp thơ 2/2/2 kết hợp với điệp từ “nhìn” đã thể hiện tuyệt đẹp một tư thế chiến đấu rất đĩnh đạc, hào hùng của người lính trẻ trong mưa bom, bão đạn. Người lái xe như được tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài:

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.

Những câu thơ tả thực tới từng chi tiết, diễn tả cảm giác về tốc độ của những chiếc xe đang lao nhanh trên đường. Không có kính chắn gió, các anh đối mặt với bao khó khăn, nguy hiểm, nào “gió vào xoa mắt đắng” rồi “sao trên trời”, “chim dưới đất” đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa – rơi rụng, va đạp, quăng ném… vào buồng lái, vào mặt mũi, thân mình. Những hình ảnh gió, con đường, sao trời, cánh chim vừa thực vừa thơ, là cái thi vị nảy sinh trên những con đường bom rơi đạn nổ. Hiện thực thì khốc liệt, nhưng người chiến sĩ cảm nhận nó bằng một tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, nhạy cảm với cái đẹp – một nghị lực, một bản lĩnh phi thường. Đặc biệt hình ảnh “Con đường chạy thẳng vào tim” là một khái quát đặc sắc của con đường trái tim. Đường Trường Sơn, con đường giải phóng miền Nam, chính là con đường của trái tim. Những câu thơ trên hé lộ diện mạo tinh thần thầm kín của người chiến sĩ.

Sau gió xoa mắt đắng là bụi. Bốn chữ “ừ thì có bụi” như một tiếng mặc kệ cất lên, biểu thị một thái độ sẵn sàng chấp nhận. Bụi làm những mái tóc xanh trở nên trắng như người già, bụi làm mặt lấm cũng chẳng cần rửa:

Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già,
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!

Giọng ngang tàn, bất chấp giữa đường Trường Sơn đầy bom đạn, đèo dốc, gió bụi, mưa có thể gây bao khó khăn. Tình cảnh của các anh được miêu tả rất chân thực: “mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời”, nhưng người chiến sĩ đã bình thường hóa cái không bình thường đó và vượt lên cùng tất cả sự cố gắng, và tinh thần trách nhiệm rất cao. Họ chấp nhận gian khổ như một điều tất yếu, khó khăn không mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của họ. Hình ảnh của họ mang một vẻ đẹp kiên cường. Những chi tiết nghệ thuật hóm hỉnh thể hiện tinh thần lạc quan, hồn nhiên, yêu đời của tiểu đội xe không kính.

Vậy đấy, hai khổ thơ mở đầu tả thực những khó khăn, gian khổ mà những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn đã trải qua. Trong khó khăn, các anh vẫn ung dung, hiên ngang, bình tĩnh nêu cao tinh thần trách nhiệm, quyết tâm gan góc chuyển hàng ra tiền tuyến. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, đoàn xe vẫn lăn bánh bình thường. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe vun vút chạy trên đường.

Tiểu đội xe không kính đã xông pha trong cảnh “bom giật, bom rung” đã nếm trải nhiều gió bụi, vô cùng gian khổ, các anh còn hành quân trong mưa:

Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

Trước thử thách mới, người chiến sĩ vẫn không nao núng. Các anh càng bình tĩnh, dũng cảm hơn, “mưa tuôn, mưa xối xả”, thời tiết khắc nghiệt, dữ dội nhưng đối với họ tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”, chẳng đáng bận tâm, chúng lại như đem lại niềm vui cho người lính. Chấp nhận thực tế, câu thơ vẫn vút lên tràn đầy niềm lạc quan sôi nổi: “không có kính ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo”. Những tiếng “ừ thì” vang lên như một thách thức, một chấp nhận khó khăn đầy chủ động, một thái độ cứng cỏi. Dường như gian khổ hiểm nguy của chiến tranh chưa làm mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của họ, trái lại họ xem đây là một dịp để thử sức mình như người xưa xem hoạn nạn, khó khăn để chứng tỏ chí làm trai.

Những vần thơ ít chất thơ nhưng càng đọc thì lại càng thấy thích thú, giọng thơ có chút gì nghịch ngợm, lính tráng. Ta nghe như họ đương cười đùa, tếu táo với nhau vậy. Có lẽ với những năm tháng sống trên tuyến đường Trường Sơn, là một người lính thực thụ đã giúp Phạm tiến Duật đưa hiện thực đời sống vào thơ ca – một hiện thực bộn bề, một hiện thực thô ráp, trần trụi, không hề trau chuốt, gọt rũa. Đấy phải chăng chính là nét độc đáo trong thơ Phạm Tiến Duật. Và những câu thơ gần gũi với lời nói hằng ngày ấy càng làm nổi bật lên tính cách ngang tàng của những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời, trẻ trung. Đó cũng là một nét rất ấn tượng của người lính lái xe Trường Sơn. Cái cười sảng khoái vô tư, khác với cái cười buốt giá trong bài thơ “Đồng chí”, nụ cười hồn nhiên ấy rất hiếm khi gặp trong thơ ca chống Pháp, nụ cười ngạo nghễ của những con người luôn luôn chiến thắng và tràn đầy niềm tin.

Như vậy, những người lính Trường Sơn đã băng qua những gian nan, vất vả, những chông gai để tiến vào miền Nam phía trước, để chi viện cho chiến trường thân yêu. Họ quên đi cái nhọc nhằn của bản thân, trên môi họ lúc nào cũng nở nụ cười tươi thắm, nụ cười tin vào chiến thắng ngày mai.

Phân tích 4 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 3

Từ nơi em gửi đến nơi anh
Những đoàn quân trùng trùng ra trận
Như tình yêu nối lời vô tận
Đông Trường Sơn, nối tây Trường Sơn…

“Những đoàn quân trùng trùng ra trận” được nhà thơ Phạm Tiến Duật nói đến trong bài thơ Trường Sơn đông, Trường Sơn tây và hàng ngàn, hàng vạn thanh niên, thanh nữ Việt Nam ào ào ra trận với khí thế ” xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” thời chống Mỹ, trong đó có những tiểu đội xe không kính trên con đường mòn Hồ Chí Minh.

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được Phạm Tiến Duật viết năm 1969, hơn 40 năm sau người đọc vẫn cảm thấy hừng hực không khí chiến trường và khí thế ra trận của những chiến sĩ trong binh đoàn vận tải quân sự. Đây là bốn khổ thơ đầu. Giọng thơ mạnh mẽ hùng hồn vang lên như một tráng ca anh hùng.

“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”

Hai cầu đầu như một lời hỏi – đáp rất hồn nhiên của người lính. Chiếc xe vận tải vốn có kính nhưng trong bom đạn “kính vỡ đi rồi”. Các điệp ngữ: “không có.. không phải… không có”, “bom giật, bom rung” đã làm cho âm điệu thơ hùng tráng gợi tả không khí ác liệt chiến trường. Vần thơ đã làm hiện lên những chiếc xe vận tải quân sự mang đầy thương tích chiến tranh, và hình ảnh người chiến sĩ can trường, dày dạn kinh nghiêm trong khói lửa.

Một tư thế chiến đấu rất đẹp:

“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất. nhìn trời, nhìn thẳng”

Cái ngồi “ung dung” đàng hoàng làm chủ tình thế. Một cái nhìn khoáng đạt bao la giữa chiến trường: “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Nhịp thơ 2/2/2 với điệp từ ”nhìn” đã thể hiện tuyệt đẹp một tư thế chiến đấu rất đĩnh đạc hào hùng của người lính trẻ trong mưa bom bão đạn của giặc Mỹ.

Khổ thơ thứ hai mở ra một không gian rộng lớn, những cung đường chiến lược phía trước. “Nhìn thấy gió…”, “nhìn thấy con đường…”, rồi “nhìn thấy sao trời…” các điệp ngữ ấy có giá trị gợi tả tiểu đội xe không kính, nối đuôi nhau hành quân ra chiến trường. Xe không kính, xe phóng băng băng, nên “gió vào xoa mắt đắng”. Chữ “đắng” chuyển đổi cảm giác, một cách viết tài hoa. Sao trời và cánh chim mà người chiến sĩ “thấy” tưởng “như sa vào buồng lái” đã diễn tả thật hay tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính ra trận trong mọi thời gian đêm ngày, trên mọi địa hình gian khổ:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”

Sau gió “xoa mắt đắng” là bụi. Bốn chữ “ừ thì có bụi” như một tiếng “mặc kệ” cất lên, biểu thị một thái độ sẵn sàng chấp nhận. Bụi làm cho những mái tóc xanh trở thành ” tóc trắng như người già”. “Mặt lấm” cũng chẳng cần vội rửa. Cách hút thuốc “phì phèo”, tiếng “cười ha ha” là những chi tiết nghệ thuật hóm hỉnh thể hiện tinh thần lạc quan, hồn nhiên, yêu đời của tiểu đội xe không kính:

“Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già,
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.”

Tiểu đội xe không kính đã xông pha trong cảnh “bom giật bom rung”, đã nếm trải nhiều gió bụi, vô cùng gian khổ, các anh còn hành quân trong mưa. Hai câu thơ nối tiếp xuất hiện như tiếng nói của người lính coi thường mọi thử thách:

– Không có kính, ừ thì có bụi,
– Không có kính, ừ thì ướt áo.

Mưa rừng dữ dội, vả lại xe không kính, gian khổ không thể nào kể xiết: “Mưa tuôn, mưu xối như ngoài trời”. Trong gian khổ các anh vẫn hiên ngang xông tới chi viện cho chiến trường miền Nam phía trước:

“Không có kính, ừ thì ướt áo,
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”

Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. Con người và thời đại được nói đến trong đoạn thơ trên là những chiến sĩ lái xe can trường và dũng cảm, lạc quan và yêu đời, trẻ trung và hồn nhiên trong gian khổ và nguy hiểm trên con đường chiến lược Trường Sơn thời đánh Mỹ. Tiểu đội xe không kính tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng của tuổi trẻ Việt Nam trong chống Mỹ cứu nước.

Đoạn thơ trên đây hội tụ bao vẻ đẹp nghệ thuật. Câu thơ mang màu sắc văn xuôi thể hiện “chất lính” thời máu lửa. Các điệp từ, điệp ngữ, các hình ảnh về chiếc xe không kính, về tư thế lái xe, về cái nhìn, mái tóc, nụ cười,… đã diễn tả thật đẹp chí khí anh hùng của tiểu đội xe không kính, đồng thời làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, hào hùng mang âm điệu anh hùng ca.

Bom, gió, bụi, mưa được nhà thơ nói đến đã diễn tả đầy ấn tượng về sư gian khổ, ác liệt của chiến trường. Trên cái nền ấy, hình tượng tiểu đội xe không kính sừng sững hiện lên trong tầm vóc những anh hùng cho ta nhiều ngưỡng mộ.

Phân tích 4 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 4

Phạm Tiến Duật là một cây bút lớn trong thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong những thi phẩm đặc sắc của ông. Bốn khổ đầu bài thơ đã phác họa những nét vẽ đầu tiên về hiện thực chiến tranh và làm nổi bật hình tượng người lính hào hùng, dũng cảm.

“Không có kính không phải vì không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.

Hai câu thơ đầu như một cách lý giải ngộ nghĩnh và hồn nhiên của người lính về hình tượng “chiếc xe không kính”. Điệp từ “không” được lặp đi lặp lại ba lần với cấu trúc câu “Không có…không phải…không có…” kết hợp với các động từ mạnh “giật”, “rung” đã thể hiện rõ thực tàn khốc của chiến tranh.Trong hiện thực như vậy, hình ảnh những người lính hiện lên như một tượng đài đẹp đẽ nhất với tư thế “ung dung” cùng với chữ “ta” khẳng định sự làm chủ của mình. Mặc mưa bom bão đạn, họ vẫn sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng đi về phía trước. Nhịp thơ 2/2/2 cùng điệp ngữ “nhìn” đã thể hiện rõ thái độ tự tin, tư thế hiên ngang, anh dũng của họ.

Khổ thơ thứ hai tiếp tục mạch cảm xúc với cái “nhìn thẳng” quyết tâm từ khổ một:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chảy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”.

Điệp ngữ “nhìn thấy” đã vẽ ra một không gian rộng lớn và liên tục của những con đường hành quân gian khổ. Có gió bụi, có sao trời và có cả cánh chim,… Bởi vì xe không có kính mà tất cả như “đột ngột” “chảy thẳng vào tim”, “ùa vào buồng lái” với một vận tốc nhanh chóng. Họ trải qua mọi khó khăn, băng qua mọi địa hình hiểm trở không một chút ngần ngại. Họ tiêu biểu cho những người chiến sỹ với tinh thần sẵn sàng hi sinh để bảo vệ tổ quốc, chiến đấu vì một phần máu thịt của dân tộc.

Không chỉ đối mặt với gió “xoa mắt đắng” – một sự chuyển đổi cảm giác tinh tế, mà họ còn phải đối mặt với mưa bụi khắc nghiệt:

Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi”.

Phạm Tiến Duật tài tình khi sử dụng biện pháp điệp cấu trúc “Không có kính, ừ thì…” ở hai khổ thơ liên tục để thể hiện rõ tinh thần lạc quan của những người lính. Dù “bom giật bom rung” hay “bụi phun mưa xối thì họ vẫn sẵn sàng vượt qua, xem nhẹ mọi gian truân vất vả. Không những thế, họ sống cùng khó khăn thử thách với một cái nhìn lạc quan, nhẹ nhõm, hóm hỉnh: “Bụi phun tóc trắng như người già”, “Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi”. Chẳng cần lo nghĩ nhiều, cứ vậy mà “phì phèo châm điếu thuốc” để tận hưởng những phút giây bình dị và vui vẻ trên đường chiến đấu. Tiếng cười “ha ha” của họ một lần nữa cho thấy thái độ lạc quan đầy “chất lính” của những con người hiên ngang trong khói lửa chiến tranh. Đối lập với những cái “không”, ở họ có cả trái tim nhiệt huyết và tinh thần sắt thép, dũng cảm tiến lên chi viện cho miền Nam tổ quốc. Đó chính là tình yêu nước bất diệt trong lòng những người lính.

Bằng thể thơ tự do, câu thơ đậm chất văn xuôi cùng nhịp thơ linh hoạt, ngôn ngữ giản dị, hình ảnh độc đáo kết hợp nhuần nhuyễn với bút pháp điệp ngữ và so sánh, bốn khổ thơ đầu đã làm nổi bật lên hiện thực khốc liệt của chiến tranh và từ đó tô đậm vẻ đẹp của người lính với tư thế hiên ngang, tinh thần chủ động, lạc quan và dũng cảm.

Như vậy, bốn khổ đầu bài thơ như khúc dạo đầu cho bản hòa ca hào hùng về người lính. Cả đoạn thơ mặc dù nói về sự thiếu thốn của chiến tranh nhưng không mang âm hưởng của sự mất mát, đau thương mà ngược lại. Đó chính là nét riêng trong ngòi bút lạc quan và không kém phần hóm hỉnh, hài hước của Phạm Tiến Duật.

Phân tích 4 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 5

Phạm Tiến Duật là cây bút lớn trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong những tập thơ tiêu biểu của ông. Bốn khổ thơ đầu của bài thơ đã phác họa những nét đầu tiên về hiện thực chiến tranh và làm nổi bật hình ảnh người lính anh dũng, dũng cảm.

“Không có kính không phải vì không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.

Hai câu thơ đầu như một lời giải thích ngộ nghĩnh, hồn nhiên của người lính về hình ảnh “chiếc xe không kính”. Từ “không” được lặp lại ba lần với cấu trúc câu “Không…không…không…” kết hợp với các động từ mạnh “giật”, “rung” thể hiện rõ nét hiện thực tàn khốc của chiến tranh của người lính hiện lên như một tượng đài đẹp nhất với tư thế “điềm tĩnh” với chữ “ta” khẳng định bản lĩnh làm chủ của họ. Bất chấp mưa bom bão đạn, họ vẫn sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng bước tiếp. Ở vế 2, 2 câu thơ có từ láy “trông” thể hiện rõ phong thái tự tin, tư thế hào hùng, hiên ngang.

Khổ thơ thứ hai nối tiếp mạch cảm xúc bằng một “cái nhìn thẳng” đầy quyết đoán của khổ thơ thứ nhất:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chảy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”.

Điệp ngữ “nhìn thấy” đã vẽ ra một không gian rộng lớn, liên hoàn của những cuộc hành quân gian khổ. Có gió bụi, có sao trời chim muông,… Vì xe không có kính nên mọi thứ như “bỗng dưng” “chảy thẳng vào tim”, “lao vào khoang lái” với tốc độ chóng mặt. Họ đã vượt qua mọi khó khăn, vượt qua mọi địa hình hiểm trở không một giây phút nao núng. Họ đại diện cho những người lính với tinh thần sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc, chiến đấu vì một phần máu thịt của dân tộc.

Họ không chỉ đối mặt với cơn gió “khủng” – một sự chuyển đổi cảm giác tinh tế, mà còn phải đối mặt với cơn mưa bụi khắc nghiệt:

“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi”.

Phạm Tiến Duật đã khéo léo sử dụng biện pháp kết cấu “Không kính, cũng…” ở hai khổ thơ liên tiếp, thể hiện rõ tinh thần lạc quan của người lính. Dù là “bom rung” hay ” mưa”, họ vẫn sẵn sàng vượt qua, bất chấp mọi gian khổ. Không chỉ vậy, họ sống với khó khăn, thử thách bằng cái nhìn lạc quan, nhẹ nhõm và hóm hỉnh: “Bụi phun tóc trắng như ông già”, “Mưa tạnh, gió mau khô”, vậy hãy “châm một điếu” để tận hưởng những giây phút bình dị và hạnh phúc trên đường ra trận. Tiếng cười “ha ha” của lũ trẻ một lần nữa cho thấy thái độ “lính” lạc quan của con người dũng cảm trong khói lửa chiến tranh. Trái ngược với hai chữ “không”, họ có cả một trái tim nồng nàn và một tinh thần sắt đá, dũng cảm tiến lên cứu đồng bào. Ở miền Nam Tổ quốc, đó chính là lòng yêu nước bất diệt trong lòng người chiến sĩ.

Với thể thơ tự do, giàu chất văn xuôi, câu thơ linh hoạt, ngôn ngữ giản dị, hình ảnh độc đáo kết hợp với phép điệp ngữ, so sánh, bốn khổ thơ đầu đã làm nổi bật hiện thực khốc liệt của chiến tranh và qua đó làm nổi bật vẻ đẹp của người lính với tư thế hào hoa, chủ động, lạc quan và dũng cảm.

Như vậy, bốn khổ thơ đầu của bài thơ như khúc dạo đầu của một bản giao hưởng hào hùng về người lính. Cả bài thơ tuy nói về sự thiếu thốn của chiến tranh nhưng không mang âm hưởng đau thương mất mát mà ngược lại. Đó chính là nét độc đáo trong ngòi bút lạc quan nhưng không kém phần dí dỏm, hóm hỉnh của Phạm Tiến Duật.

Phân tích 4 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 6

Từ nơi em gửi đến nơi anh
Những đoàn quân trùng trùng ra trận
Như tình yêu nối lời vô tận
Đông Trường Sơn, nối tây Trường Sơn…

“Những đoàn quân trùng trùng ” đã được nhà thơ Phạm Tiến Duật nhắc đến trong bài thơ Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây và hàng nghìn, hàng vạn nam nữ thanh niên Việt Nam xông pha trận mạc với tinh thần “xung đột”. Trường Sơn đi cứu nước” trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, trong đó có những tiểu đội xe không kính trên đường mòn Hồ Chí Minh.

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được Phạm Tiến Duật viết năm 1969, hơn 40 năm sau người đọc vẫn còn cảm nhận được sự rạo rực của không khí chiến trường và tinh thần chiến đấu của những người lính trong đoàn binh vận. Đây là bốn khổ thơ đầu. Giọng thơ mạnh mẽ, hùng hồn vang lên như một bản trường ca hào hùng.

“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”

Hai cây cầu đầu tiên như một câu hỏi đáp rất hồn nhiên của người lính. Chiếc xe tải có kính, nhưng trong bom đạn “vỡ kính”. Các phép điệp ngữ: “không.. không.. không”, “bom giật, bom rung” làm cho giọng điệu thơ gợi lên không khí ác liệt của chiến trường. Đoạn thơ đã thể hiện những đoàn xe vận tải quân sự mang đầy thương tích chiến tranh, hình ảnh người lính dũng cảm, dày dạn kinh nghiệm trong khói lửa.

Một tư thế chiến đấu rất đẹp:

“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất. nhìn trời, nhìn thẳng”

Cái dáng “ung dung” ngồi đúng cách kiểm soát tình hình. Một tầm nhìn bao quát giữa chiến trường: “Trông đất, ngó trời, mắt nhìn thẳng”. Câu thơ 2/2/2 với điệp ngữ “trông” thật đẹp đã thể hiện tư thế chiến đấu rất đĩnh đạc, anh dũng của người lính trẻ dưới mưa bom, bão đạn của giặc Mỹ.

Khổ thơ thứ hai mở ra một không gian rộng lớn, những con đường chiến lược phía trước. “Thấy gió…”, “thấy đường…”, rồi “thấy sao trời…” Những cụm từ này có giá trị diễn tả một đoàn xe không kính nối đuôi nhau diễu hành. Xe không có kính, xe phóng băng băng nên “gió lùa vào dụi mắt cay xè”. Từ “cay đắng” chuyển đổi cảm giác, một cách hành văn tài tình. Sao trời, cánh chim mà người lính “thấy” như “rơi vào buồng lái” diễn tả tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính xông pha trận mạc mọi lúc, mọi đêm, trên mọi địa hình hiểm trở:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”

Bộ đội xe không kính lao đi trong cảnh “bom đạn rung chuyển”, trải qua biết bao gió bụi, gian khổ vô cùng, các anh vẫn hành quân dưới mưa. Hai câu thơ sau xuất hiện như tiếng nói của người lính coi thường mọi thử thách:

Không có kính, ừ thì có bụi,
– Không có kính, ừ thì ướt áo.

Mưa lâm thâm, xe không kính thì khổ không thể tả: “Trời mưa mà cứ như ở ngoài trời”. Giữa gian khổ, các anh vẫn anh dũng xông lên chi viện cho chiến trường miền Nam phía trước:

“Không có kính, ừ thì ướt áo,
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”

Thơ là biểu hiện đẹp đẽ của con người và thời đại. Những con người và thời đại được nhắc đến trong bài thơ trên là những người lái xe gan dạ, dũng cảm, lạc quan, yêu trẻ, hồn nhiên trong gian khổ, hiểm nguy trên con đường chiến lược Trường Sơn trong chiến tranh Việt Nam. Đội hình không kính tiêu biểu cho tinh thần anh dũng của tuổi trẻ Việt Nam trong chống Mỹ cứu nước.

Đoạn thơ trên đầy vẻ đẹp nghệ thuật. Bài thơ nhuốm màu văn xuôi thể hiện “phẩm chất lính” của thời đại đẫm máu. Những từ ngữ, cách nói ám chỉ, hình ảnh chiếc xe không kính, dáng ngồi lái xe, dáng vẻ, mái tóc, nụ cười… đã khắc họa đẹp đẽ khí thế hào hùng của đội xe không kính. Đồng thời làm cho giọng thơ khỏe khoắn, hào hùng mang âm hưởng sử thi.

Bom, gió, bụi, mưa được nhà thơ nhắc đến đã gợi tả đầy ấn tượng về sự gian khổ, ác liệt của chiến trường. Trên cái nền đó, hình ảnh tiểu đội xe tăng anh dũng gây cho chúng ta nhiều cảm phục.

Trên đây là nội dung bài học Phân tích 4 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính (6 mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập

5/5 - (4 bình chọn)

Nguyễn Thanh Tùng

Trường THCS Bình Chánh với mục tiêu chung là tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh có thể phát triển khả năng và đạt được thành công trong quá trình học tập. Chúng tôi cam kết xây dựng một không gian học tập đầy thách thức, sáng tạo và linh hoạt, nơi mà học sinh được khuyến khích khám phá, rèn luyện kỹ năng và trở thành những người học suốt đời.

Bài viết liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button