Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà lớp 12 ngắn gọn bao gồm dàn ý chi tiết cùng 15 bài mẫu hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp từ các bài văn đạt điểm cao trên toàn quốc. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các bạn tham khảo để từ đó hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình
Đề bài: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
Dàn ý Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà lớp 12
1. Mở bài
Bạn đang xem: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà ngắn gọn, hay nhất (15 Mẫu)
– Nói đôi nét về tác giả và tác phẩm
Nguyễn Tuân được biết đến là một trong những tác giả có một phong cách độc đáo hiếm hoi của Văn học Việt Nam từ trước đến nay. Bằng vốn kiến thức văn hóa sâu rộng và tài năng văn chương của mình thì Nguyễn Tuân đã cho ra đời rất nhiều các kiệt tác nghệ thuật mang đậm phong cách tài hoa và uyên bác, trong đó phải kể đến tác phẩm “Người lái đò sông Đà” như đã thể hiện rõ phong cách của ông.
2. Thân bài
Đặc điểm của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
– Tùy bút Người lái đò Sông Đà đã thể hiện rõ nét các đặc điểm của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.
* Khám phá, phát hiện sự vật ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ: con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình.
Tác giả đã miêu tả Sông Đà bằng những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị. Từ ngữ trong bài tùy bút thật phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao.
– Câu văn của tác giả rất đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi thì chậm rãi, trữ tình. Con Sông Đà vô tri, dưới ngòi bút của nhà văn đã trở thành một sinh thể có tâm hồn, tâm trạng.
Tựu chung lại thì với nghệ thuật độc đáo thì hình tượng Sông Đà được tác giả khắc họa rất nổi bật với hai đặc điểm: vừa hùng vĩ, hung bạo, vừa thơ mộng, trữ tình. Qua con Sông Đà, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, thể hiện tình cảm tha thiết của mình với đất nước. Dường như hình tượng con Sông Đà trong bài tùy bút gợi lên ở người đọc suy nghĩ về trách nhiệm bảo vệ môi trường cho những dòng sông, bởi đó là quà tặng vô giá của thiên nhiên dành cho con người hơn.
*Nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ: Ông lái đò được miêu tả như một dũng tướng tài năng nhưng có phong thái của một nghệ sĩ tài hoa.
*Tác giả như điểm tô đậm nét những nét phi thường, tuyệt vời của cảnh vật, con người: Con Sông Đà hung bạo. hiểm ác, ông lái đò tài hoa.
Vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau về đối tượng sáng tác để tạo hình tượng: Con Sông Đà hung bạo và những trận thủy chiến của ông lái đò được ghi lại bằng kiến thức của văn chương, hội họa, điện ảnh, địa lí, lịch sử, quân sự, võ thuật.
Ngôn ngữ trong tác phẩm:
* Từ ngữ được sử dụng sắc sảo in đậm dấu ấn riêng. Ngữ nghĩa, ngữ điệu biến đổi, chuyển hóa: sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ, nắng giòn tan, nỗi niềm cổ tích tuổi xưa, để thơ vào sông nước… Tác giả còn sáng tạo những từ ngữ mới, cô đọng, giàu ý nghĩa: luôn gân, luôn tim, bờm sóng…
* Tác giải đã diễn tả đa dạng, nhiều góc cạnh. Câu văn rất đỗi ngắn gọn phối hợp với câu thật dài: đoạn tả chặng cuối vượt vòng vây thứ ba, đang viết câu chất chồng ý (… Cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền… xuyên nhanh, vừa xuyên vừa…), đã kết lại bằng một câu rất gọn, biểu thị ý hoàn thành: Thế là hết thác.
* Nét độc đáo trong việc miêu tả con sông Đà là vừa có khi vừa thể hiện mặt hung dữ, vừa gợi lên khía cạnh thơ mộng của đối tượng miêu tả, vừa lại như ném ra những chi tiết rất tự nhiên, không trau chuốt (con sông đánh đòn hiểm độc nhất với con đò) vừa chắt lọc những chi tiết, những hình ảnh rất trữ tình, rất thơ (ven Sông Đà lặng tờ).
3. Kết bài
– Khẳng định lại một lần nữa tài năng văn chương bậc thầy của Nguyễn Tuân
– Chính việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật linh hoạt đã tạo nên sự hấp dẫn cho tác phẩm “Người lái đò sông Đà”.
15 Bài mẫu Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà lớp 12 hay nhất đạt điểm 9, 10
Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà – Mẫu 1
Hơn mười năm đã trôi qua, kể từ khi Nguyễn Tuân vào cõi vĩnh hằng; có lẽ con người “suốt đời đi tìm cái Đẹp” ấy không phải băn khoăn, hối tiếc điều gì nữa. Bởi những gì ông đã cống hiến cho nền văn học Việt Nam hiện đại không ai thay thế được. Đọc tùy bút “Người lái đò sông Đà” của ông, ta càng thấm thía lời nhận xét của Anh Đức: “Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng”.
Có thể nói Nguyễn Tuân là người viết tuỳ bút nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam hiện đại. Với các tập “Tùy bút I” (1941); “Tùy bút II” (1943), ông đã làm sống lại khái niệm tùy bút trong văn học, đồng thời “định nghĩa” lại thể tuỳ bút. Phạm Đình Hổ (1768 – 1839) đã từng nêu lên khái niệm về thể loại này trong “Vũ Trung tuỳ bút”. Theo ông, tuỳ bút đề cập đến những vấn đề rất đa dạng, không theo một trình tự nào, từ chuyện thân thế, gia đình đến chuyện xã hội, thời cuộc, lịch sử … Tuỳ theo hứng thú, sự quan tâm của người viết mà thể hiện các đề tài ấy. Trong văn học hiện đại, tuỳ bút là khái niệm được dùng để chỉ những tác phẩm viết một cách phóng khoáng, tự do, theo dòng suy nghĩ, liên tưởng của người viết. Tuỳ bút cũng là kí, là ghi chép, nhưng không chỉ ghi chép sự việc mà trong đó có cả suy nghĩ, cảm xúc người viết khi tiếp xúc với thực tế. Theo “định nghĩa” mới của Nguyễn Tuân, phần trình bày suy nghĩ, nhận xét, liên tưởng, tưởng tượng của người viết chiếm một tỷ trọng lớn, do đó chất trữ tình thường khá đậm nét. “Người lái đò sông Đà” thể hiện đầy đủ những điểm đặc sắc nghệ thuật tùy bút của Nguyễn Tuân. Có thể nói thể tùy bút đã tạo đất cho nhà văn dụng võ, ngược lại, với Nguyễn Tuân, thể tuỳ bút cũng đã có một bước phát triển mới.
Trước hết phong cách nghệ thuật tùy bút của ông thể hiện những trang viết tài hoa và uyên bác. Tài hoa và uyên bác trong kể và tả. Ở Nguyễn Tuân, kể và tả đều kỹ càng, tỉ mỉ, có ngọn ngành, thông kim bác cổ. Mỗi liên tưởng, liên hệ trong tư duy, tư tưởng rất rộng, rất sâu. Cho nên những trang viết của ông đưa lại cho người đọc nhiều kiến thức văn hoá. Chính vì thế, đến với thiên tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”, ta như được chứng kiến một công trình khảo cứu công phu, một áng văn trữ tình giàu tính thẩm mĩ về sông Đà và những gì sinh sống trên con sông đó. Tôi nhìn bìa sách văn 12, trên đó có một bức tranh mà tôi đoán là minh hoạ cho tác phẩm “Người lái đò sông Đà”. Nếu quả thực là như vậy thì thật thất vọng quá. Con sông Đà trên bức tranh chẳng khác nào một khe suối nhỏ. Sông Đà, như tôi biết qua sự miêu tả của Nguyễn Tuân, có một vẻ đẹp vừa hung bạo vừa trữ tình, được thể hiện qua cái nhìn từ nhiều góc độ của tác giả. Đặc biệt là bằng vốn từ vựng phong phú và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của ông. Nói như nhà văn Anh Đức: “mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút như có đóng một dấu triện riêng”. Tại sao khi ta gọi Nguyễn Tuân là “một bậc thầy của ngôn từ, ta không hề thấy ngại miệng”?. Bởi lẽ đọc “Người lái đò sông Đà” của ông ta nhận thấy văn Nguyễn Tuân là thứ ngôn từ nóng rẫy sự sống. Sức nóng trong ngôn ngữ của ông phát ra từ mọi hướng. Nhà nghệ sĩ “độc đáo vô song” ấy đã sáng tạo ra hàng loạt từ ngữ mới cho từ điển tiếng Việt. Chỉ trong vài trang kí, mà có biết bao động từ trong đó. Tả tiếng thác nước, Nguyễn Tuân đem lại cho người đọc cả một hệ thống động từ được xếp cạnh nhau theo cấp tăng tiến: Lúc đầu là “tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên” rồi “nghe như là oán trách”; “van xin”, “khiêu khích”; “giọng gằn mà chế nhạo”. “Thế rồi nó rống lên”, “lồng lộn”, “gầm thét”. Ngôn ngữ sinh động lại được kết hợp một cách tài tình khiến ta như cảm nhận cái hồn thác đang gầm lên giận dữ. Hết thác rồi đến đá, đội quân đá đang mai phục, sẵn sàng dưới sự chỉ huy của thác. Chúng đang chờ “có chiếc thuyền nào xuất hiện” là “nhổm cả dậy để vồ lấy”. Thật thú vị khi chứng kiến sự bày binh bố” trận của những hòn đá “nhăn nhúm méo mó” kia. “Đám tảng, đám hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền”. Trận địa đá gồm “hàng tiền vệ, có hai hòn cánh cửa đá trông như là sơ hở” để “dụ đối phương đi vào sâu nữa” rồi “đánh khuýp quật vu hồi lại”. Nếu chọc thủng được tuyến hai thì nhiệm vụ của những boongke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên. Hấp dẫn nhất phải kể đến cuộc chiến đấu một mất một còn giữa người lái đò và thác sông Đà.
Bằng cái nhìn chứa đựng đầy tính điện ảnh cũng như hiểu biết uyên bác của mình, Nguyễn Tuân đã cho người đọc xem một đoạn phim bằng ngôn từ có một không hai: “Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thành viện” và “hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt” trông “y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. “Một hòn khác” thì “thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”. Trí tưởng tượng sinh động của tác giả khiến người đọc vô cùng ngỡ ngàng và thú vị. Trận chiến đã bắt đầu “Trùng vi thạch trận vòng thứ nhất” có “mặt nước hò la vang dậy quanh mình”, “sóng nước như thế quân liều mạng” “có lúc chúng đội cả thuyền lên” … Nào là “đòn độc hiểm nhất, đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm” …Trùng vi thạch trận thứ hai không kém phần ác liệt. Có nhiều “cửa tử” để hòng đánh lừa con thuyền. Dòng nước cuồn cuộn của sông Đà được Nguyễn Tuân ví như “hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông Đà”. Ta có thế thấy sự biến hóa khôn lường trong cách sử dụng ngôn ngữ của tác giả. Đoạn trên, ông tả tiếng thác như tiếng “một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn” thì đến đoạn sau dòng thác hiện lên như “hùm beo”. Cuộc chiến ở cửa ải thứ hai với ưu thế nghiêng hẳn về người lái đò. Dường như Nguyễn Tuân ưa dùng những động từ sắc lạnh. Ông lái đò hiện hình như một dũng tướng hiên ngang xông pha trận mạc “nắm chắc lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, “bám chắc”, “phóng nhanh’’, “lái miết”… Niềm vui hân hoan của tác giả khi ông lái vượt qua được vòng chiến thứ hai như lan toả trong những câu văn tiếp theo: “Chỉ còn vẳng lại tiếng hò của sóng thác. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Tâm hồn của người đọc như bị cuốn theo lối kể và tả đầy hấp dẫn của người viết. Chi tiết “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng” của “cái thằng đá tướng” khiến người đọc như cùng cảm nhận sự khoái chí của tác giả. Trùng vi thứ ba diễn ra nhanh hơn “Con thuyền vút qua cổng đá mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn được”. Cuộc chiến kết thúc, “thế là hết thác”. Dòng sông đột ngột hiện lên thanh bình, hiền hoà với sự bắt đầu bằng một hình ảnh vừa chân thực, vừa lãng mạn: “Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Câu văn miêu tả rất sinh động những đám bọt trắng xóa của dòng thác rơi từ trên cao và khi chạm đến cái đích cuối cùng là dòng sông thì vỡ ra, tạo thành âm thanh “xèo xèo tan..”. Nó có thể tan trong trí nhớ người lái đò bởi “cuộc sống của họ ngày nào cũng chiến đấu với sóng nước sông Đà dữ dội”, ngày nào cũng biết đến cảm giác “xèo xèo tan” của sóng thác. Nhưng âm thanh ấy in sâu vào tâm trí người đọc. Dòng thác đổ qua miền nhớ và để lại những nét chạm khắc không thể nào quên. Sức nóng trong ngôn ngữ Nguyễn Tuân còn phát ra từ màu sắc con sông Đà mà ông miêu tả. Tất cả đều là gam màu nóng chói, và thể hiện một óc quan sát, liên tưởng, so sánh vô cùng tinh tế. Con sông Tây Bắc khi thì được miêu tả như “một cái mặt giếng mà thành giếng xây bằng nước sông xanh xe một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan”; khi thì “xanh ngọc bích” vào mùa xuân, “lừ lừ chín đỏ” vào mùa thu. Có lúc sông như “miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi”. Cái “dấu triện riêng” mà mỗi dòng, mỗi chữ, mỗi câu văn Nguyễn Tuân đều được in vào đấy, phải chăng chính là kho ngôn ngữ vô cùng phong phú và đặc sắc của ông? Bởi có ai nhìn thấy “cái mặt xanh lè, tiu nghỉu” của đá; cái màu “lừ lừ chín đỏ” của sông, nghe thấy âm thanh “xèo xèo tan” của bọt thác? Gọi Nguyễn Tuân là “bậc thầy ngôn ngữ” quả là không sai. Chỉ nói về con sông Đà mà ông đã sử dụng bao nhiêu từ đồng nghĩa. Khi thì gọi sông Đà là “con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình”, khi thì bảo “cái dây thừng ngoằn ngoèo”, lúc lại như “áng tóc trữ tình”… ông còn gọi sông Đà là “cố nhân”, là “cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi”, rồi “một áng tóc trên mảng đầu Tây Bắc”, “một con cá bị chúa đất từng vùng đem cắt ra từng khúc nhỏ”… Chỉ riêng điều đó thôi cũng cho ta thấy vốn từ vựng của Nguyễn Tuân vô cùng phong phú. Nguyễn Tuân viết như lấy chữ từ trong túi ra, thổi vào mỗi chữ một linh hồn sống và tạo nên những trang viết tài hoa.
Nói đến Nguyễn Tuân, người ta thường nghĩ đến chủ nghĩa xê dịch. Con người thích “chơi ngông” ấy “đi không cần mục đích, không cần đến nơi, cốt là cứ được lăn cái vỏ mình mãi mãi trên mặt đất này” (Nguyễn Đăng Mạnh). Mặc dù thế, văn chương là tâm huyết thực sự của đời ông. Và điều làm nên linh hồn của những áng văn xê dịch ấy là tấm lòng gắn bó thiết tha với quê hương, đất nước của ông. Tôi chưa đọc được nhiều những trang văn của Nguyễn Tuân, nhưng ấn tượng của tôi về ông gói trọn trong chữ “ngông” độc đáo, vô song ấy. Dù trước hay sau cách mạng thì vẫn là con người ấy. Đằng sau sự uyên bác về kiến thức, sự cầu kì, tỉ mỉ trong từng câu chữ, là một tấm lòng tha thiết yêu quê hương xứ sở. Không có tấm lòng ấy, không thể nhìn thấy con sông Đà như “một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai”. Không yêu quê hương, làm sao ông có được nhận xét: “người cố nhân ấy biết mình lắm bệnh, lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bản tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”. Ông đâu chỉ miêu tả sông Đà, với ông “áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải” ấy như một cố nhân. Từ lòng yêu nước tha thiết cùng với tài hoa độc đáo của mình, Nguyễn Tuân đã để lại cho đời những trang văn tuyệt bút.
Trở lại nhận xét của Anh Đức về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, người đọc tự hỏi thế nào là phong cách nghệ thuật? Đó hẳn phải là một cái nhìn mới mẻ, một sự khám phá độc đáo, có tính phát hiện đối với đời sống. Cái nhìn mới mẻ ấy được thể hiện bằng một bút pháp nghệ thuật đặc sắc mang dấu ấn riêng, vẻ đẹp riêng của mỗi nhà văn. Những nhà văn thực tài mới có phong cách. Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách sâu sắc và độc đáo. Sự độc đáo của phong cách Nguyễn Tuân thể hiện ở những tư tưởng mới lạ được nhìn nhận và khám phá từ những gì rất bình thường, giản dị, thậm chí ngay cả ở những gì người đời coi là “tầm thường”, thấp kém. Những tư tưởng mới mẻ ấy lại được thể hiện và diễn đạt bằng một kho tàng ngôn ngữ hết sức phong phú và linh hoạt với nhiều sáng tạo trong dùng từ, đặt câu. Cũng như Nguyễn Du đã làm giàu và làm sang cho ngôn ngữ dân tộc bằng truyện Kiều, Nguyễn Tuân cũng thế. Những trang văn của ông không chỉ thấm đượm linh hồn quê hương mà còn là sự thể hiện sự giàu có của tiếng nói dân tộc Việt. Có nhà nghiên cứu nhận xét rất đúng về ngôn ngữ Nguyễn Tuân, đó là “sự giàu có và giá trị tạo hình cao, như muốn ganh đua cùng tạo hoá”.
Nhà văn Macxim Gorki đã từng nói “con người, tiếng ấy thật tuyệt diệu, nó vang lên kiêu hãnh và hùng tráng xiết bao”. Sự uyên bác, tài hoa, đầy sáng tạo bất ngờ trong những trang văn của Nguyễn Tuân nồng ấm một tình yêu và lòng tự hào về con người. Từ hình tượng Huấn Cao “Vang bóng một thời” đến “Người lái đò trên sông Đà” có một sự chuyển biến trong tư tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Song cả hai nhân vật đều có điểm chung: họ đều là những người có phẩm chất nghệ sĩ, chiến sĩ, vẻ đẹp thăng hoa của con người. Họ đều là sản phẩm của sự kết hợp cái Tâm và cái Tài của người viết. Nhà nghệ sĩ lớn ấy đi săn tìm cái đẹp suốt cả cuộc đời để rồi mang lại cho ta “chất vàng mười” của nghệ thuật. Đọc Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, chúng ta thực sự bị cuốn hút vào dòng thác của cuồn cuộn của sông chữ, sống đời; thực sự như bị lạc vào “bờ sông hoang dại như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa”. Từng câu, từng chữ mà ông đặt lên trang giấy là cả một quá trình sáng tạo công phu, cẩn trọng và thiêng liêng. Nguyễn Tuân thích sáng tạo, độc đáo cả trong đời thực lẫn trong văn chương. Ông thích Đốtxtôiépxki và dường như chính ông là một minh hoạ cho cái định nghĩa nổi tiếng của Đốt: “Tài nghệ vĩ đại nhất của nhà văn là ở chỗ biết xoá bỏ”. Phải chăng trong suốt cuộc đời lao động nghệ thuật cần cù, miệt mài, trau chuốt từng câu, từng chữ, Nguyễn Tuân đã biết tự “xoá bỏ” để tồn tại và trở thành một nghệ sĩ lớn.
Nguyễn Tuân đã ra đi vào ngày 28 tháng 7 năm 1987. Biết bao nhớ tiếc, ngẩn ngơ đã để lại trong lòng người đọc. “Không biết chừng nào lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng , mỗi chữ như có đóng một dấu triện riêng”. Đến bao giờ mới có một nhà văn như thế?
Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà – Mẫu 2
Tùy bút Người lái đò sông Đà là sự chắt lọc tinh hoa ngôn từ của nhà văn Nguyễn Tuân. Tùy bút pha bút kí, kết cấu linh hoạt, vận dụng được nhiều tri thức văn hóa và nghệ thuật vào trong tác phẩm:
Nhân vật ông lái đò mang phong thái của người dũng cảm khi vượt những xoáy nước, trở thành người anh hùng trên mặt trận sông Đà nhưng khi trở về đời thường lại vô cùng giản dị.
Nguyễn Tuân đã khéo léo kết hợp hài hòa giữa chất hiện thực và lãng mạn: hình ảnh con sông hùng vĩ, dữ dội nhưng lại thơ mộng trữ tình.
Ngôn ngữ Nguyễn Tuân kết hợp giữa hiện đại với cổ xưa bổ sung cho nhau tạo nên một bài kí trọn vẹn.
Bên cạnh đó, Nguyễn Tuân sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật độc đáo: liên tưởng, tưởng tượng thú vị; so sánh nhân hóa quái dị, mới lạ.
Tác phẩm Người lái đò sông Đà giàu chất thông tin, thời sự. Tác giả đã huy động vốn tri thức chuyên môn của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật khác nhau cùng với những lối so sánh, liên tưởng độc đáo.
→ Tác phẩm thể hiện được một số đặc trưng cơ bản của phong cách Nguyễn Tuân: cảm hứng đặc biệt với những hiện tượng đập mạnh vào giác quan nghệ sĩ, tiếp cận con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ, sử dụng tùy bút pha bút kí rất phóng túng.
Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà – Mẫu 3
Người lái đò Sông Đà trích trong tập tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân, sáng tác năm 1960. Đây là kết quả chuyến đi thực tế của tác giả ở Tây Bắc năm 1958. Phong cách, con người Tây Bắc đã đi vào trang sách với một niềm vui sống bao trùm lên tất cả, xen lẫn những cảm tưởng và xúc cảm trữ tình trước vẻ đẹp kì vĩ, lạ lùng của non sống Tây Bắc.
Tác phẩm lấy người lái đò làm nhân vật chủ thể của câu chuyện về Sông Đà nhưng thực chất là cảm nghĩ, nghe nhìn, quan sát, nghiền ngẫm và sáng tạo của Nguyễn Tuân. Mượn lời ông lái đò già nhưng chính là tác giả miêu tả con sống từ nhiều góc độ khác nhau, qua đó bộc lộ tâm tư tình cảm của mình đối với con sông đại diện cho thiên nhiên và con người Tây Bắc.
Với lối viết của Nguyễn Tuân, Sông Đà đã trở thành Sông Đà – Nguyễn Tuân. Đó là con sông có độ dày lịch sử, tạo ra những con người anh hùng của riêng nó. Sông Đà được vẽ nên bằng ngòi bút biến hóa tài tình, độc đáo, thể hiện sự gắn bó với đất nước đến mức sâu xa nhất của tâm hồn tác giả.
Sông Đà dữ, Sông Đà anh hùng ca, bản chất của Sông Đà là vậy. Tài ba của nhà văn càng làm cho bản chất ấy nổi bật lên. Sông Đà hung bạo ở những đoạn có thác dữ, những quãng lòng sông hẹp, bị kẹp giữa hai vách núi cao hay những chỗ có xoáy nước khủng khiếp, hút tất cả những gì sa vào đó và dìm xuống đáy sông.
Ở đoạn này có nhiều chi tiết chính xác, khoa học xen lẫn cảm xúc dạt dào tính trữ tình của tác giả. Sông Đà khi thì dữ dội, nguy hiểm trong cái hùng vĩ không ngờ: nào là chét lại thành cái yết hầu, nào là vách đá dựng đứng cao vút, đúng ngọ mới thấy mặt giời… mùa hè vẫn lạnh… Khi thì pha chút huyền thoại trong những nét nên thơ như con nai, con hổ vọt từ bờ này sang bờ kia, tưởng như lòng sông chỉ còn là dải yếm trong ca dao xưa.
Cái gì của Sông Đà cũng dữ. Cát, gió, đá, thác ghềnh, sóng nước phối hợp với nhau : Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió và gió cứ cuồn cuộn từng luồng. Chỉ nghe tiếng nước ở những quãng lắm thác cũng đã đủ ghê người. Tiếng reo của nước lúc nghe như là oán trách, rồi lại như là van xin, rồi lại là như khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo… Rồi bỗng dưng không biết chuyện gì mà nó rống lên như một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn. Hoặc có lúc nó reo như đun sôi lên một trăm độ muốn hất tung đi một cái thuyền đang phải đóng vai một cái nắp ấm một ấm nước sôi khổng lồ. Nhưng không đâu tiếng nước nghe lạ như ở những cái hút xoáy. Ở đó nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.
Tiếng nước đã ghê, sức nước còn đáng sợ gấp bội. Mặt sóng cũng có ổ gà như mặt đường cạn, đi vào ổ gà sống là thuyền bị giật xuống bị trồi lên. Thuyền đi vào luồng nước thì chết ngay, hoặc đi không trúng tim luồng thì cũng vẫn có thể là thập tử nhất sinh. Những quãng hiểm trở của Sông Đà mang diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một của con người: hung hãn, nham hiểm và xảo quyệt.
Sông Đà dữ quả là không sai với tiếng đồn. Cát, đá, nước, gió, sóng hùa nhau bẫy người vào chỗ chết. Nguyễn Tuân đã dùng ngòi bút trăm màu để miêu tả hàng loạt những hình ảnh khác nhau mà luôn luôn đắc sách, vừa có chất trí tuệ vừa có tính tạo hình, vượt xa những thủ pháp mà người ta quen gọi là nhân hóa, đi vào bản chất sâu xa nhất, độc đáo nhất của sự vật, tạo thành những trang viết biến hóa khôn lường. Do thế mà cái dữ dội của Sông Đà trở nên môi trường anh hùng ca vô cùng độc đáo.
Sông Đà dữ dội nhưng Sông Đà cũng rất trữ tình. Đó là ở những đoạn xuôi chèo êm ả. Nhìn từ máy bay xuống, Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.
Nước Sông Đà màu sắc thay đổi theo mùa: Mùa xuân dòng xanh ngọc bích,… mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ. Trên sông, những chiếc thuyền then đuôi én xuôi dòng, tạo cho sông vẻ thơ mộng riêng của nó. Là sông mà nó nói với con người bao điều. Nguyễn Tuân nhìn Sông Đà như nhìn một cố nhân, một người thân cũ lâu ngày gặp lại. Nhà văn say mê ngắm màu nắng giòn tan vàng như hổ phách trên sông mà chợt liên tưởng tới màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu” trong bài thơ Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng của thi hào Lý Bạch đời Đường bên Trung Quốc.
Bên trên là thái độ đối với Sông Đà, còn đây là tình cảm của tác giả đối với con người, sản phẩm của dòng sống ấy. Ông lái đò là sản phẩm của Sông Đà được tác giả tập trung mô tả trong cuộc vật lộn với thác nước Sông Đà. Cái dữ dội của Sông Đà đã có ông lái trị được. Hình ảnh ông lái đò: cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái, mặt méo bệch đi mà vẫn cưỡi lên con thác, nắm chặt lấy bờm sóng, ghì cương, đè sấn lên mà chặt đôi con thác… rất sinh động và ấn tượng.
Lên thác phải chống bằng sào. Trên vai người lái đò, đầu sào in vào một khoanh bầm, đó là hình ảnh thực. Tác giả bình thêm: Cái đồng tiền tụ máu cũng là cái hình ảnh quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng tặng cho người lái đò Sông Đà. Con người dũng cảm, thông minh đã chiến thắng được thiên nhiên dữ dội. Ở người lái đò này, có cái gì mà không in dấu con sông, không là sản phẩm của Sông Đà? Sông Đà đối với ông lái đò quả là một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm câu và những đoạn xuống dòng, ông lái đò đã trở thành một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật vượt thác ghềnh. Nguyễn Tuân gọi tài nghệ của ông là tay lái ra hoa.
Đọc văn Nguyễn Tuân, nhất là tùy bút, có người cho rằng như soi trong Ống kính trăm màu. Thực ra, ngòi bút tác giả không chỉ bảy màu mà trăm ngàn màu sắc. Nguyễn Tuân đi rất sâu vào bản chất của sự vật, sự việc, con người để tìm hiểu, khám phá và nắm bắt kì được cái cốt lõi, tinh túy, cái hồn của nó. Đồng thời có sự kết hợp giữa trình độ hiểu biết uyên bác, tác phong làm việc nhanh nhạy, tỉ mỉ, khoa học, giấu chất trí tuệ và cảm xúc đậm đà chất trữ tình được thể hiện dưới những hình thức ngôn ngữ sáng tạo rất độc đáo, rất Nguyễn Tuân, không thể lẫn với bất kì ai khác.
Tùy bút Sông Đà phần nào chứng tỏ bút lực già dặn cùng phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân – cây đại thụ của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà – Mẫu 4
Hơn mười năm đã trôi qua, kể từ khi Nguyễn Tuân vào cõi vĩnh hằng; có lẽ con người “suốt đời đi tìm cái Đẹp” ấy không phải băn khoăn, hối tiếc điều gì nữa. Bởi những gì ông đã cống hiến cho nền văn học Việt Nam hiện đại không ai thay thế được. Đọc tùy bút “Người lái đò sông Đà” của ông, ta càng thấm thía lời nhận xét của Anh Đức: “Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng”.
Có thể nói Nguyễn Tuân là người viết tuỳ bút nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam hiện đại. Với các tập “Tùy bút I” (1941); “Tùy bút II” (1943), ông đã làm sống lại khái niệm tùy bút trong văn học, đồng thời “định nghĩa” lại thể tuỳ bút. Phạm Đình Hổ (1768 – 1839) đã từng nêu lên khái niệm về thể loại này trong “Vũ Trung tuỳ bút”. Theo ông, tuỳ bút đề cập đến những vấn đề rất đa dạng, không theo một trình tự nào, từ chuyện thân thế, gia đình đến chuyện xã hội, thời cuộc, lịch sử … Tuỳ theo hứng thú, sự quan tâm của người viết mà thể hiện các đề tài ấy. Trong văn học hiện đại, tuỳ bút là khái niệm được dùng để chỉ những tác phẩm viết một cách phóng khoáng, tự do, theo dòng suy nghĩ, liên tưởng của người viết. Tuỳ bút cũng là kí, là ghi chép, nhưng không chỉ ghi chép sự việc mà trong đó có cả suy nghĩ, cảm xúc người viết khi tiếp xúc với thực tế. Theo “định nghĩa” mới của Nguyễn Tuân, phần trình bày suy nghĩ, nhận xét, liên tưởng, tưởng tượng của người viết chiếm một tỷ trọng lớn, do đó chất trữ tình thường khá đậm nét. “Người lái đò sông Đà” thể hiện đầy đủ những điểm đặc sắc nghệ thuật tùy bút của Nguyễn Tuân. Có thể nói thể tùy bút đã tạo đất cho nhà văn dụng võ, ngược lại, với Nguyễn Tuân, thể tuỳ bút cũng đã có một bước phát triển mới.
Trước hết phong cách nghệ thuật tùy bút của ông thể hiện những trang viết tài hoa và uyên bác. Tài hoa và uyên bác trong kể và tả. Ở Nguyễn Tuân, kể và tả đều kỹ càng, tỉ mỉ, có ngọn ngành, thông kim bác cổ. Mỗi liên tưởng, liên hệ trong tư duy, tư tưởng rất rộng, rất sâu. Cho nên những trang viết của ông đưa lại cho người đọc nhiều kiến thức văn hoá. Chính vì thế, đến với thiên tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”, ta như được chứng kiến một công trình khảo cứu công phu, một áng văn trữ tình giàu tính thẩm mĩ về sông Đà và những gì sinh sống trên con sông đó. Tôi nhìn bìa sách văn 12, trên đó có một bức tranh mà tôi đoán là minh hoạ cho tác phẩm “Người lái đò sông Đà”. Nếu quả thực là như vậy thì thật thất vọng quá. Con sông Đà trên bức tranh chẳng khác nào một khe suối nhỏ. Sông Đà, như tôi biết qua sự miêu tả của Nguyễn Tuân, có một vẻ đẹp vừa hung bạo vừa trữ tình, được thể hiện qua cái nhìn từ nhiều góc độ của tác giả. Đặc biệt là bằng vốn từ vựng phong phú và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của ông. Nói như nhà văn Anh Đức: “mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút như có đóng một dấu triện riêng”. Tại sao khi ta gọi Nguyễn Tuân là “một bậc thầy của ngôn từ, ta không hề thấy ngại miệng”?. Bởi lẽ đọc “Người lái đò sông Đà” của ông ta nhận thấy văn Nguyễn Tuân là thứ ngôn từ nóng rẫy sự sống. Sức nóng trong ngôn ngữ của ông phát ra từ mọi hướng. Nhà nghệ sĩ “độc đáo vô song” ấy đã sáng tạo ra hàng loạt từ ngữ mới cho từ điển tiếng Việt. Chỉ trong vài trang kí, mà có biết bao động từ trong đó. Tả tiếng thác nước, Nguyễn Tuân đem lại cho người đọc cả một hệ thống động từ được xếp cạnh nhau theo cấp tăng tiến: Lúc đầu là “tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên” rồi “nghe như là oán trách”; “van xin”, “khiêu khích”; “giọng gằn mà chế nhạo”. “Thế rồi nó rống lên”, “lồng lộn”, “gầm thét”. Ngôn ngữ sinh động lại được kết hợp một cách tài tình khiến ta như cảm nhận cái hồn thác đang gầm lên giận dữ. Hết thác rồi đến đá, đội quân đá đang mai phục, sẵn sàng dưới sự chỉ huy của thác. Chúng đang chờ “có chiếc thuyền nào xuất hiện” là “nhổm cả dậy để vồ lấy”. Thật thú vị khi chứng kiến sự bày binh bố” trận của những hòn đá “nhăn nhúm méo mó” kia. “Đám tảng, đám hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền”. Trận địa đá gồm “hàng tiền vệ, có hai hòn cánh cửa đá trông như là sơ hở” để “dụ đối phương đi vào sâu nữa” rồi “đánh khuýp quật vu hồi lại”. Nếu chọc thủng được tuyến hai thì nhiệm vụ của những boongke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên. Hấp dẫn nhất phải kể đến cuộc chiến đấu một mất một còn giữa người lái đò và thác sông Đà.
Bằng cái nhìn chứa đựng đầy tính điện ảnh cũng như hiểu biết uyên bác của mình, Nguyễn Tuân đã cho người đọc xem một đoạn phim bằng ngôn từ có một không hai: “Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thành viện” và “hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt” trông “y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. “Một hòn khác” thì “thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”. Trí tưởng tượng sinh động của tác giả khiến người đọc vô cùng ngỡ ngàng và thú vị. Trận chiến đã bắt đầu “Trùng vi thạch trận vòng thứ nhất” có “mặt nước hò la vang dậy quanh mình”, “sóng nước như thế quân liều mạng” “có lúc chúng đội cả thuyền lên” … Nào là “đòn độc hiểm nhất, đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm” …Trùng vi thạch trận thứ hai không kém phần ác liệt. Có nhiều “cửa tử” để hòng đánh lừa con thuyền. Dòng nước cuồn cuộn của sông Đà được Nguyễn Tuân ví như “hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông Đà”. Ta có thế thấy sự biến hóa khôn lường trong cách sử dụng ngôn ngữ của tác giả. Đoạn trên, ông tả tiếng thác như tiếng “một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn” thì đến đoạn sau dòng thác hiện lên như “hùm beo”. Cuộc chiến ở cửa ải thứ hai với ưu thế nghiêng hẳn về người lái đò. Dường như Nguyễn Tuân ưa dùng những động từ sắc lạnh. Ông lái đò hiện hình như một dũng tướng hiên ngang xông pha trận mạc “nắm chắc lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, “bám chắc”, “phóng nhanh’’, “lái miết”… Niềm vui hân hoan của tác giả khi ông lái vượt qua được vòng chiến thứ hai như lan toả trong những câu văn tiếp theo: “Chỉ còn vẳng lại tiếng hò của sóng thác. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Tâm hồn của người đọc như bị cuốn theo lối kể và tả đầy hấp dẫn của người viết. Chi tiết “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng” của “cái thằng đá tướng” khiến người đọc như cùng cảm nhận sự khoái chí của tác giả. Trùng vi thứ ba diễn ra nhanh hơn “Con thuyền vút qua cổng đá mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn được”. Cuộc chiến kết thúc, “thế là hết thác”. Dòng sông đột ngột hiện lên thanh bình, hiền hoà với sự bắt đầu bằng một hình ảnh vừa chân thực, vừa lãng mạn: “Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Câu văn miêu tả rất sinh động những đám bọt trắng xóa của dòng thác rơi từ trên cao và khi chạm đến cái đích cuối cùng là dòng sông thì vỡ ra, tạo thành âm thanh “xèo xèo tan..”. Nó có thể tan trong trí nhớ người lái đò bởi “cuộc sống của họ ngày nào cũng chiến đấu với sóng nước sông Đà dữ dội”, ngày nào cũng biết đến cảm giác “xèo xèo tan” của sóng thác. Nhưng âm thanh ấy in sâu vào tâm trí người đọc. Dòng thác đổ qua miền nhớ và để lại những nét chạm khắc không thể nào quên. Sức nóng trong ngôn ngữ Nguyễn Tuân còn phát ra từ màu sắc con sông Đà mà ông miêu tả. Tất cả đều là gam màu nóng chói, và thể hiện một óc quan sát, liên tưởng, so sánh vô cùng tinh tế. Con sông Tây Bắc khi thì được miêu tả như “một cái mặt giếng mà thành giếng xây bằng nước sông xanh xe một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan”; khi thì “xanh ngọc bích” vào mùa xuân, “lừ lừ chín đỏ” vào mùa thu. Có lúc sông như “miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi”. Cái “dấu triện riêng” mà mỗi dòng, mỗi chữ, mỗi câu văn Nguyễn Tuân đều được in vào đấy, phải chăng chính là kho ngôn ngữ vô cùng phong phú và đặc sắc của ông? Bởi có ai nhìn thấy “cái mặt xanh lè, tiu nghỉu” của đá; cái màu “lừ lừ chín đỏ” của sông, nghe thấy âm thanh “xèo xèo tan” của bọt thác? Gọi Nguyễn Tuân là “bậc thầy ngôn ngữ” quả là không sai. Chỉ nói về con sông Đà mà ông đã sử dụng bao nhiêu từ đồng nghĩa. Khi thì gọi sông Đà là “con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình”, khi thì bảo “cái dây thừng ngoằn ngoèo”, lúc lại như “áng tóc trữ tình”… ông còn gọi sông Đà là “cố nhân”, là “cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi”, rồi “một áng tóc trên mảng đầu Tây Bắc”, “một con cá bị chúa đất từng vùng đem cắt ra từng khúc nhỏ”… Chỉ riêng điều đó thôi cũng cho ta thấy vốn từ vựng của Nguyễn Tuân vô cùng phong phú. Nguyễn Tuân viết như lấy chữ từ trong túi ra, thổi vào mỗi chữ một linh hồn sống và tạo nên những trang viết tài hoa.
Nói đến Nguyễn Tuân, người ta thường nghĩ đến chủ nghĩa xê dịch. Con người thích “chơi ngông” ấy “đi không cần mục đích, không cần đến nơi, cốt là cứ được lăn cái vỏ mình mãi mãi trên mặt đất này” (Nguyễn Đăng Mạnh). Mặc dù thế, văn chương là tâm huyết thực sự của đời ông. Và điều làm nên linh hồn của những áng văn xê dịch ấy là tấm lòng gắn bó thiết tha với quê hương, đất nước của ông. Tôi chưa đọc được nhiều những trang văn của Nguyễn Tuân, nhưng ấn tượng của tôi về ông gói trọn trong chữ “ngông” độc đáo, vô song ấy. Dù trước hay sau cách mạng thì vẫn là con người ấy. Đằng sau sự uyên bác về kiến thức, sự cầu kì, tỉ mỉ trong từng câu chữ, là một tấm lòng tha thiết yêu quê hương xứ sở. Không có tấm lòng ấy, không thể nhìn thấy con sông Đà như “một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai”. Không yêu quê hương, làm sao ông có được nhận xét: “người cố nhân ấy biết mình lắm bệnh, lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bản tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”. Ông đâu chỉ miêu tả sông Đà, với ông “áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải” ấy như một cố nhân. Từ lòng yêu nước tha thiết cùng với tài hoa độc đáo của mình, Nguyễn Tuân đã để lại cho đời những trang văn tuyệt bút.
Trở lại nhận xét của Anh Đức về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, người đọc tự hỏi thế nào là phong cách nghệ thuật? Đó hẳn phải là một cái nhìn mới mẻ, một sự khám phá độc đáo, có tính phát hiện đối với đời sống. Cái nhìn mới mẻ ấy được thể hiện bằng một bút pháp nghệ thuật đặc sắc mang dấu ấn riêng, vẻ đẹp riêng của mỗi nhà văn. Những nhà văn thực tài mới có phong cách. Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách sâu sắc và độc đáo. Sự độc đáo của phong cách Nguyễn Tuân thể hiện ở những tư tưởng mới lạ được nhìn nhận và khám phá từ những gì rất bình thường, giản dị, thậm chí ngay cả ở những gì người đời coi là “tầm thường”, thấp kém. Những tư tưởng mới mẻ ấy lại được thể hiện và diễn đạt bằng một kho tàng ngôn ngữ hết sức phong phú và linh hoạt với nhiều sáng tạo trong dùng từ, đặt câu. Cũng như Nguyễn Du đã làm giàu và làm sang cho ngôn ngữ dân tộc bằng truyện Kiều, Nguyễn Tuân cũng thế. Những trang văn của ông không chỉ thấm đượm linh hồn quê hương mà còn là sự thể hiện sự giàu có của tiếng nói dân tộc Việt. Có nhà nghiên cứu nhận xét rất đúng về ngôn ngữ Nguyễn Tuân, đó là “sự giàu có và giá trị tạo hình cao, như muốn ganh đua cùng tạo hoá”.
Nhà văn Macxim Gorki đã từng nói “con người, tiếng ấy thật tuyệt diệu, nó vang lên kiêu hãnh và hùng tráng xiết bao”. Sự uyên bác, tài hoa, đầy sáng tạo bất ngờ trong những trang văn của Nguyễn Tuân nồng ấm một tình yêu và lòng tự hào về con người. Từ hình tượng Huấn Cao “Vang bóng một thời” đến “Người lái đò trên sông Đà” có một sự chuyển biến trong tư tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Song cả hai nhân vật đều có điểm chung: họ đều là những người có phẩm chất nghệ sĩ, chiến sĩ, vẻ đẹp thăng hoa của con người. Họ đều là sản phẩm của sự kết hợp cái Tâm và cái Tài của người viết. Nhà nghệ sĩ lớn ấy đi săn tìm cái đẹp suốt cả cuộc đời để rồi mang lại cho ta “chất vàng mười” của nghệ thuật. Đọc Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, chúng ta thực sự bị cuốn hút vào dòng thác của cuồn cuộn của sông chữ, sống đời; thực sự như bị lạc vào “bờ sông hoang dại như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa”. Từng câu, từng chữ mà ông đặt lên trang giấy là cả một quá trình sáng tạo công phu, cẩn trọng và thiêng liêng. Nguyễn Tuân thích sáng tạo, độc đáo cả trong đời thực lẫn trong văn chương. Ông thích Đốtxtôiépxki và dường như chính ông là một minh hoạ cho cái định nghĩa nổi tiếng của Đốt: “Tài nghệ vĩ đại nhất của nhà văn là ở chỗ biết xoá bỏ”. Phải chăng trong suốt cuộc đời lao động nghệ thuật cần cù, miệt mài, trau chuốt từng câu, từng chữ, Nguyễn Tuân đã biết tự “xoá bỏ” để tồn tại và trở thành một nghệ sĩ lớn.
Nguyễn Tuân đã ra đi vào ngày 28 tháng 7 năm 1987. Biết bao nhớ tiếc, ngẩn ngơ đã để lại trong lòng người đọc. “Không biết chừng nào lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng , mỗi chữ như có đóng một dấu triện riêng”. Đến bao giờ mới có một nhà văn như thế?
Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà – Mẫu 5
Nguyễn Tuân chắc hẳn đã tâm đắc lắm với những vần thơ sông của nhà thơ Ba Lan nọ. Chẳng vậy mà sông nước xứ mình đã chảy trên không biết bao nhiêu trang văn đẹp của ông, trong đó có sông Đà, con sông đã trao tên cho một công trình văn xuôi tuyệt tác. Tôi đoán chắc rằng không thể chỉ có nhu cầu săn tìm cảm giác hay cái máu phiêu lãng giang hồ đã xui khiến bước chân Nguyễn Tuân tìm đến dòng chảy vĩ đại này của núi rừng Tây Bắc. Nhất định phải có một tiên cảm, tiên giác nghệ thuật sáng suốt nào mách cho người nghệ sĩ tài hoa về nguồn cảm hứng sông Đà hàng chục năm trước khi “dòng sông ánh sáng” đó thực sự trở thành một địa chỉ lớn của nhạc, hoạ, sân khấu, thơ, văn. Và từ ấy đến nay, cho dù đã có biết bao người khắc, vẽ và kể chuyện về sông Đà, làm thơ và ca hát với sông Đà thì có lẽ vẫn chưa ai vượt hơn được Nguyễn Tuân trong việc biến vùng sông nước ấy thành nghệ thuật, thành một gợi cảm mênh mông.
Song để làm nên một niềm gợi cảm sông Đà có tầm cỡ, vóc dáng như của Nguyễn Tuân thì cảm xúc và tài quan sát vẫn còn chưa đủ. Nhớ lại, Xuân Diệu từng thiết tha nói đến sự rất cần thiết phải uyên bác ngay trong một lĩnh vực trữ tình nhất là thơ. Tôi nghĩ Nguyễn Tuân cũng có thẩm quyền như thế, có khi còn hơn thế – dĩ nhiên trong phạm vi lãnh thổ của ông là kí, là tuỳ bút – để chỉ ra rằng sự uyên bác ấy có thể nâng đỡ đến thế nào cho đôi cánh của hào hoa. Càng đọc văn Nguyễn Tuân, lại càng nghiệm ra rằng, nhà văn độc đáo ấy luôn luôn độc đáo trong sự uyên bác, rằng con người tài hoa, tài tình hiếm ai bì kịp ấy cũng đồng thời là con người luôn luôn có những hiểu biết khôn lường, khôn sánh về những gì được nói tới ở văn minh. Trường hợp sông Đà là vậy. Phải là Nguyễn Tuân và có lẽ chỉ có Nguyễn Tuân mới không ngại nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh của sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đông và thoạt kì thuỷ, dòng sông mang những cái tên Trung Hoa mà âm thanh dẫu sao cũng gợi ra khá nhiều thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Và cũng không dễ có người như Nguyễn, để có thể hạ bút viết đúng ba câu về sắc nước Đà giang đã phải mấy lần bay ngang trên miền sông ấy. Để rồi sau đó, mới nói chắc như đinh đóng cột rằng nước sông Đà không hề đen; trái lại, nó xanh màu ngọc bích dưới trời xuân, khác với sông Gấm sông Lô nước “xanh canh hến” (tác giả mới kì công làm sao trong quan sát và chọn tìm từ!), còn mỗi độ thu về, nước sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Cứ theo đây thì ai dám bảo các đấng tài hoa viết văn không khó nhọc? Ai dám bảo rằng cái cốt cách phong lưu tài tử như của Nguyễn Tuân cho phép nhà văn cứ việc thả sức rong chơi, chờ khi thần hứng đến với mình thì chỉ cần một lần phất bút là đã đủ làm nên tấm lụa ngôn ngữ đẹp mê hồn?
Nhưng chớ nên quên Nguyễn Tuân còn là một bản ngã vãn chương không hề giống với một ai, và cũng không thể có một ai mong bắt chước. Những trang viết trong Người lái đò Sông Đà đẹp còn vì tác giả đã in cái bản ngã độc đáo ấy vào sông nước Đà giang, đã thêm cái vẻ đẹp rất chủ quan của tâm hồn và tưởng tượng vào cái vẻ đẹp rất khách quan của dòng sông, để dần dần làm cho dưới ngòi bút, tuôn chảy một con sông Đà mang dấu ấn thật riêng của nhà văn, một con sông Đà đã được chinh phục và chi phối bởi thứ quyền năng riêng của người cầm bút mà Nguyễn Tuân vốn có nhiều hơn ai hết – tôi muốn nói đến thứ quyền năng của ngôn từ.
Hãy thử lấy ra đây một trong rất nhiều ví dụ. Ở đầu trích đoạn Người lái đò Sông Đà trong sách Văn học 12 có đoạn tả “cảnh đá bờ sông dựng vách thành” và những bức thành vách đá cao chẹt chật lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp ấy của lòng sông, tác giả đã tả nó ra theo đủ cách: Nào là “Mặt sông lúc ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt giời”. Nào là con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ này sang bên kia vách. Những ý văn như thế kể cũng đã thú lắm. nhưng vẫn còn chưa khiến ta phải thán phục, phải ghê gớm cho tài nghệ của Nguyễn Tuân như trong câu cuối đoạn này: “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Một sức hút bình thường làm sao có nổi một cái so sánh vừa chính xác, tinh tế, lại vừa bất ngờ và lạ lùng đến thế. Bên cạnh những câu viết thế này, tôi chắc nhiều người sẽ nhận ra mình nghèo nàn biết bao nhiêu cả về từ ngữ và ý tưởng. Có cảm giác cái bậc văn nhân hằng biết sợ cái cảnh “mình bỗng chốc trở thành người cùng đường bên dòng sông chữ quạnh trắng thê lương” ấy luôn luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái khó ấn tượng đầy ăm ắp để tìm cho bằng ra một cách nói có sức kinh động hồn trí con người.
Nguyễn Tuân đang nói với ta về một sông Đà hung bạo. Một nhận xét như thế sẽ không có nhiều khả năng gây sự ngạc nhiên, nếu chúng ta không tận mắt thấy nhà văn đã hao tổn công phu đến thế nào để bắt sự hung bạo kia phải nổi hẳn lên thành hình khối và gào thét lên trong muôn vạn âm thanh.
Người đọc đã như được tác giả đặt cưỡi lên con thuyền đang vun vút phăng phăng xuống thác để cảm thấy quanh mình nước thác hò reo bốn mặt và những hòn đá ngỗ ngược phía trước kia như nhất tẽ “nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.
Không khó khăn gì để thấy trong đoạn này, nhà văn đã sử dụng rất nhiều nhân hoá, để nhờ đó, đọc ra từng sắc diện người trong những hình thù đá vô tri. Ống đã cổ dùng thật hết sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để truyền hồn sống vào từng thớ đá. Dễ mấy ai nhìn ra những khuôn mặt đá kiểu thế này: “Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”. Tồi chắc những chữ như “hất hàm”, được viết tài đến thế, thì hoặc phải xoẹt đến trong óc nhà văn như một ánh chớp thiêng của luồng cảm hứng và lập tức định vị ngay trong câu viết, nếu không thì phải gò lấy nó bằng cả một “từ công phu”.
Cái dáng đá hất hàm ấy trông nó xấc xược, hỗn hào, du côn một cách rất là hiện đại. Nhưng đọc cả đoạn văn, vẫn cảm tưởng thấy tác giả Người lái đò Sông Đà cứ như muốn vừa tìm sự hoà ứng vừa như muốn tranh đua với ca khúc thứ XII của Ô-đi-xê bất hủ, đoạn tả chiếc thuyền của Uy-lit-xơ vượt qua khoảng giữa hai con quái thạch Karip và Xila. Hãy nghe lại âm vang hào tráng của Hô-me-rơ từ bao nhiêu nghìn năm trước: “Chúng tôi… chèo thuyền tiến thẳng vào eo biển hiểm nghèo một bên là Xila, một bên là Karip ùng ục ngốn nước biển. Mỗi lần nó nhả nước ra, cả biển khơi đều chuyển động, sôi lên như nước trong chảo đặt trên một bếp lửa hồng… Rồi khi nó lại nuốt nước mặn vào thì làm biển sùng sục cuộn lên; vách đá xung quanh kêu réo ghê sợ, và đáy biển lộ ra với mặt cát đen thẫm… Có phải là ta đã gặp lại trong cái hung bạo của sông Đà hôm nay rất nhiều thần thái cái hung bạo của chốn eo biển nào rất xa xôi tận thời cổ đại?
Người ta bảo trong các nhà văn thật lớn thường vẫn còn một đứa trẻ thơ, và đứa trẻ ấy giúp nhà văn giữ được cái nhìn cảm tính trong trẻo hồn nhiên mà người lớn vẫn để cằn cỗi héo tàn đi trên đường đời khó nhọc. Trường hợp Người lái đò Sông Đà có lẽ cho phép ta được nghĩ thêm: trong đôi mắt của nhà văn lớn hôm nay hình như vẫn lấp lánh tia mắt không chỉ của tuổi thơ đời người mà còn của cả thời ấu thơ nhân loại. Và của cả những giai đoạn vẫn cổ xưa nhưng có gần gũi chúng ta hơn. Đọc những dòng viết về thạch trận Đà giang, tôi cứ cảm thấy nó phảng phất những trận đổ trường xà, bát quái cũng có đủ cửa tử cửa sinh trong truyện cũ. Rồi lại chợt nhớ ra Gia Cát Khổng Minh cũng đã có lần lấy đá làm binh. Cứ thế, sự dữ dội của sông Đà được nhân mãi lên trong trùng trùng liên tưởng.
Nhưng đoạn văn tả đá thác sông Đà bủa vây, chận bắt một chiếc thuyền xuôi đơn độc tôi thấy không chỉ có một màu hung tợn. Còn có thể cảm nhận ở đây bóng dáng của Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá. Ban đầu, tác giả mới để cất lên khúc dạo đầu với những cung bậc nỉ non của một dòng nước thác “nghe như là oán trách gì, rói lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích”. Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ ,các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại, trong đó âm vang cuồng loạn của núi rừng được đưa vào để thanh viện cho sự diễn tả con thác giận dữ ầm ầm va đập vào bờ đá. Tiếng sóng thác – nhà văn viết – “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Dám lấy lửa để tả cái vốn đối lập với lửa là dòng nước, dám lấy rừng để tả sông. Nguyễn Tuân quả đã chơi ngông lắm trong nghệ thuật. Nhưng ông chơi ngông mà ta thì được: ta được một cái nhìn tổng quan hơn và thú vị hơn về sự tương giao sức mạnh giữa các lực lượng tự nhiên. Cũng vậy, tôi cho rằng rất nên chiêm ngưỡng vẻ đẹp kì vĩ của tạo hoá trong những câu viết thế này: “Ngoặt khúc sông lượn thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân giời đá”. Và tôi nghĩ lòng Nguyễn Tuân chắc cũng sảng khoái hào hứng lắm khi nó rung lên với “trận nước vang trời thanh la não bạt”.
Trên đây là hình ảnh của một thiên nhiên mà Nguyễn Tuân từng đã muốn “trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Nhưng cũng rất đúng nếu nói rằng thiên nhiên ấy cũng chính là kẻ tôn vinh số một giá trị của con người.
Thật thế, người lái đò sông Đà kia sẽ là ai, nếu con thuyền của ông không phải vật lộn với “dòng thác hùm beo đang hồng hộc thế mạnh trên sông đá”? Có thể người ấy sẽ mang một vẻ đẹp nào đó của một loại ông ngư, ông chài, ông lái… nhưng sẽ không thể trở thành đối tượng của một khúc hùng ca. Trái lại, chính cái hùng vĩ của sóng của thác, của sông nước Đà giang sẽ đưa con người dám đương đầu và chiến thắng thần đá thần sông lên hàng oai linh tối thượng.
Người xưa vẫn coi “cưỡi cơn gió mạnh, đạp đầu sóng dữ” là biểu trưng cho một lí tưởng sống anh hùng. Thì ông lái đò sông Đà này, dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân cũng chính là con người cưỡi gió đạp sóng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng đấy còn gì! Nhà văn đã dùng tâm diễn tả cuộc chiến giữa ông lái với dòng sông theo hướng: thoạt đầu tưởng như hai bên rất không cân sức. Nào là, quanh con người đơn độc, “mặt nước hò la vang dậy…ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”. Nào là “sóng nước như thế quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng vào hông thuyển”, để đội thuyền lên, để lật ngửa mình thuyền giữa vang trời thác réo. Các luồng sóng thì thi nhau “đánh hổi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm” vào chỗ dễ tổn thương nhất của con người… Sẽ tốn khá giấy mực đấy, nếu muốn kể hết ra đấy cái khối lượng hùng hậu các từ ngữ mà Nguyễn Tuân đã trở về từ bên nhà võ để hào phóng vốc tung ra trên các trang văn!
Vậy mà đối địch lại, ông đò có những gì? Một chiếc thuyền mỏng manh, trên đó, con người thật nhỏ bé biết bao giữa luồng thác đang giận dữ, hai tay ghì níu lấy mái chèo, đôi chân kẹp chặt vào cuống lái, mặt méo bệch hẳn đi do “cố nén vết thương” (Xin được lưu ý rằng Nguyễn Tuân không viết “méo xệch” mà viết là “méo bệch”. Ra cái đau đớn tàn bạo của dòng nước nó còn làm cho bợt bạt cả sắc mặt người).
Thế nhưng ba lớp trùng vi của một thạch trận đầy cửa tử đã không ăn chết được một con thuyền đơn độc hết chỗ lùi. Các dũng tướng phá trận ngày xưa, nếu vào đúng cửa sinh và đánh thốc ra đúng cửa sinh là đối phương tan tành thế trận. Ông đò của Nguyễn Tuân cũng thế. Nhà văn như muốn, qua trường hợp ông đồ, cùng mỗi chúng ta nghiền ngẫm điều triết lí: giữa cái thế giới của độc dữ và nham hiểm, cái thế giới đầy sức mạnh mạn dại và lập lờ cạm bẫy, con người vẫn đủ khả năng tìm thấy luồng sinh. Người lái đò của Nguyễn Tuân không có phép màu. Ông đâu có đôi cánh tay Hecquyn nào để sánh được với sức lực của Thuỷ Tinh. Nhưng ông “đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá”. Và cái kinh nghiệm đò giang sông nước, lên thác xuống ghềnh, không, phải nói là cái trí tuệ của người lao động ấy đã khiến cho ông lái, dù trong tay chỉ có cây chèo (cái que nhỏ giữa nguy nga sóng thác!) vẫn có thể phá thành vượt ải như một chiến tướng bách thắng trong sự nghiệp đấu tranh chống thiên nhiên. Một cảm hứng hào hùng đã khiến ngòi bút Nguyễn Tuân tả một cuộc vượt thác sông Đà vẫn diễn ra thường nhật thành một trận đánh biến ảo, hấp dẫn, một khúc hát ca ngợi chiến công của một bậc anh hùng. Có quá lời, có đáng ngạc nhiên chăng, nhất là ở một nhà văn văn có tiếng là kiêu bạc? Tôi không cho là như thế. Theo tôi, đừng nghĩ Nguyễn Tuân chỉ ca ngợi một người. Ông ca ngợi Lao Động, ca ngợi Con Người, ông theo cách của mình làm cho “hai tiếng Con Người vang lên kiêu hãnh biết bao!”. Người lái đò sông Đà – nhà văn muốn vậy – thể hiện cái tư thế ngự trị của Con Người trước Thiên Nhiên thần thánh.
Và khi trong thiên tùy bút của Nguyễn Tuân mái chèo của ông đò vừa ngừng chống nhau cùng thác đá thì dòng sông Đà bỗng nhiên đổi vẻ. Lời văn của Nguyễn bây giờ cũng bềnh bồng với bầu trời mùa xuân mùa thu, nơi tác giả từ trên tàu bay mà nhìn xuống “từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình”. Để từ đó, bậc du tử tài hoa đã vẫy bút vẽ ra cả một bức tranh thuỷ mặc chỉ trong một câu văn, cái câu sẽ còn vương vấn mãi trong hồn bao bạn đọc: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.
Nếu được phép tỏ bày ý thích riêng, thì quả thực, cảm tình của tôi có phần được đặt nhiều hơn vào đoạn tả con sông Đà trữ tình này. Làm sao có thể không yêu lối viết của Nguyễn trong cái khúc nói về cái lần nhà văn “nhìn Sông Đà như một cố nhân”. Lúc đầu, chỉ là cảm giác còn mơ hồ về một sự “thèm chỗ thoáng”, do “ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu”, thậm chí còn “quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà”. Rồi con sông hiện ra, nhưng chỉ một chút thôi, loang loáng như nghịch ngợm, đúng là cảm giác về cái nhìn con sông thấp thoáng, xa xa của con người còn phải bộ hành trong rừng cây, trên đèo dốc. Chợt kịp khi nhận ra được dòng sông – người bạn cũ thì sao mà nó sâu xa, ngơ ngẩn thế, trong cái ánh “yên hoa tam nguyệt” đọng sắc hoe hoe vàng tự thuở Đường thi. ít nhiều còn hiểu được vì sao cái vui gặp lại sông Đà cố nhân nó giống như “nối lại chiêm bao đứt quãng”. Nhưng thật khổng biết tại làm sao tác giả lại cảm giác được “nắng giòn tan… ”? Chỉ biết khi ba chữ ấy đã viết ra rồi thì rõ là không thể nào đúng hơn, hay hơn, không thể nào đổi khác. Và cứ thế, cái “đằm đằm âm ấm” của nắng mùa xuân trên dòng sông xuân lâu ngày gặp lại nó dư sức làm thấm thía thêm niềm hạnh phúc được sống trên mặt đất này.
Nhưng kì diệu hơn nữa, theo tôi, là đoạn văn bắt đầu từ câu viết: “thuyền tôi trôi trên Sông Đà”. Câu văn viết toàn thanh bằng, đẹp như một lời thơ. Mà đoạn văn xuôi ấy, sao tôi thấy nó thơ hơn nhiều lắm so với bao nhiêu bài thơ tôi đã đọc. Chắc phải có người thơ nào thèm muốn tạo được sự lặng lẽ đầy mơ mộng của một mũi đò lừ lừ trôi giữa đôi bờ hoang dại, cái lặng lẽ tuyệt đối để ru hồn người vào cái ảo giác về bờ sông tiền sử, về một nỗi niềm cổ tích hay hoài niệm về thời Lí thời Lê… Và là cái lặng lẽ mơ màng đến độ con người chờ mong một sự giật mình để rũ mình ra khỏi giấc mơ xưa mà không được. Mùa xuân dòng Đà giang được nhà văn cho e ấp tỏ mình qua mấy lá non nhú lên trên một nương ngô và những nõn búp cỏ gianh đồi núi. Rồi con hươu, mới tuyệt làm sao hình ảnh “con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương”. Nhẩm lại lúc viết Sông Đà, Nguyễn Tuân đã đến bờ tuổi ngũ tuần, và kể thì hồn văn ấy đã già từ Vang bóng một thời, từ Một chuyến đi. Nghĩ thế lại càng thấy quý cái bờ ngỡ non tơ đến tuổi năm mươi lại nảy lộc trong nhà văn bên một dòng sông, một cuộc đời mới mẻ.
Và cảm xúc đáng quý ấy cứ du dương mãi trong tôi với những âm thanh văn xuôi rất đáng gọi là “nên câu tuyệt diệu”: “Hỡi ông khách Sông Đà có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi… Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”… Tôi cảm thấy chiếc bè thơ kết bằng những câu văn xuôi ấy đem lại cho mình một thứ nhã thú văn chương mà phải nói rằng cũng còn hiếm gặp ở trong đời.
Nhưng tác giả Người lái đò Sông Đà cũng không phải con người duy mĩ. Ta trọng sự tinh tế của ông trong cảm thức về cái đẹp. Nhưng qua thiên tuỳ bút, ta hiểu rằng cái còn đáng trọng hơn nữa của ông vẫn là tình yêu thiết tha thiên nhiên đất nước, là sự tôn kính công sức lao động của con người.
Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà – Mẫu 6
Thú vị! Đó là cảm giác của tôi sau khi được tìm hiểu về tác gia Nguyễn Tuân. Nguyên nhân ư? Một là vì lối sống tự do phóng túng đã gây rất nhiều “biến cố” trong cuộc sống của ông. Một là vì cá tính độc đáo và những nỗ lực để khẳng định cá tính độc đáo ấy. Cùng với các tác phẩm như “Một chuyến đi”, “Vang bóng một thời”… tùy bút “Người lái đò sông Đà” (in lần đầu có tên “Sông Đà”) rút từ tập tùy bút “Sông Đà” (1960) viết sau chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958 của Nguyễn Tuân là một minh chứng cho điều ấy.
Như trên tôi đã viết, hai điều mà tôi thấy thú vị ở Nguyễn Tuân, chính hai điều này đã đưa Nguyễn Tuân đến với thể tùy bút và thành công xuất sắc sau khi đã thử bút qua nhiều thể loại như thơ, bút ký, truyện ngắn hiện thực trào phúng. Nhận ra sở trường của mình, Nguyễn Tuân đã không ngừng nỗ lực hơn nữa để phát triển nó, rồi cuối cùng trở thành một nhà tùy bút lớn. Giữa ông và thể tùy bút đã có sự gắn bó bền chặt bởi những nét tương đồng về sự tự do, phóng túng. Đây là một thể loại hầu như không có phép tắc, quy phạm gì chặt chẽ. Nó mang tính chủ quan và chất trữ tình rất đậm. Và đặc biệt, nó là “lối văn độc tấu” được hấp dẫn chủ yếu bởi cá tính của chính người cầm bút. Đối với một con người mà ý thức cá nhân phát triển rất cao như Nguyễn Tuân thì thật không còn một thể loại nào thích hợp hơn.
Nhưng không phải mọi cá tính đều đươc yêu quý. Thể loại này, nghe qua tên gọi của nó thì tưởng là dễ viết, nhưng viết cho hay, cho cuốn hút thì chẳng dễ chút nào; bởi vì, để hấp dẫn độc giả, cá tính mà nó đòi hỏi phải là một cá tính độc đáo, phong phú và tài hoa thực sự. Những điều này Nguyễn Tuân đều có cả. Vì thế mà thiên tùy bút “Người lái đò sông Đà”, một trong những áng văn tiêu biểu nhất của tập “Sông Đà” đã mau chóng đi vào lòng người đọc với những ấn tượng khó phai về một nét thiên nhiên và con người Tây Bắc. Đồng thời, qua tác phẩm này, ta còn thấy được một nét có lẽ là rất riêng của phong cách tùy bút Nguyễn Tuân: tùy bút giàu chất ký, kết hợp nhuần nhuyễn cả tính chủ quan và chất trữ tình rất đậm của thể tùy bút với tính khách quan tỉ mỉ và chất trí tuệ, tự sự của thể ký. Tác phẩm giúp độc giả không chỉ được thưởng thức vẻ đẹp văn chương mà còn được tiếp cận với kho tri thức khổng lồ của nhà văn.
Chỉ một đoạn trích trong sách giáo khoa, nhưng ta thấy sự am hiểu của Nguyễn Tuân về nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác cùng với văn chương. Nguyễn Tuân luôn có ý thức vận dụng con mắt của các ngành văn hóa nghệ thuật đó để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật ngôn từ. Ông còn sáng tạo nên những hình ảnh tinh tế, tài hoa, độc đáo dựa trên sự quan sát tỉ mỉ, trí tưởng tượng độc đáo, những liên tưởng, so sánh mới lạ được diễn đạt bằng một vốn ngôn ngữ phong phú, có giá trị tạo hình và biểu cảm cao. Tất cả những điều này được minh chứng rất rõ qua đoạn trích “Người lái đò sông Đà” (đoạn trích thuộc sách giáo khoa).
Thoạt tiên là tri thức về âm nhạc với bản hợp âm náo loạn, kinh khiếp của thác dữ: “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”, “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”… Những cách ví von mới lạ, độc đáo cùng ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, giàu sức gợi và nhịp điệu câu văn nhanh, gấp, đã tác động mạnh vào tâm trí người đọc, liên tục đẩy âm thanh thác dữ đến hồi cao trào, quyết liệt nhất, để rồi, khi tất cả đã qua đi, người ta có cảm giác đầu óc mình đã căng quá độ, bây giờ thừ ra nghe “Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. “Sông nước lại thanh bình”.
Nếu như vẽ một cái biểu đồ tần số âm thanh sông Đà thì ta đã có một đường lên rất cao rồi đột ngột trở về với thanh ngang ghi âm của biểu đồ. Sau đó, ngòi bút tinh tế của Nguyễn Tuân lại giúp ta vẽ tiếp một đường đi xuống để diễn tả cái “lặng tờ” của cảnh vật ven sông Đà ở hạ lưu. Trong trường liên tưởng của mình, nhà văn như có thể xuyên thời gian, trở về quá khứ để cảm nhận: “Hình như từ đời Lý đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”, đến mức “thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê” để trở về với thực tại đôi bờ. Nhịp điệu câu văn như cũng trải ra theo cái vắng lặng rất nên thơ của dòng sông. Nguyễn Tuân, bằng tài nghệ và cá tính của mình đã lôi kéo tâm thức người đọc miên man theo rồi bất ngờ đánh thức họ bằng tiếng cá đập nước, âm thanh không phải dễ nghe thấy trong cuộc sống thường ngày. Chỉ có trong không gian tĩnh lặng này, nó mới có thể “đuổi mất đàn hươu vụt biến” và làm chúng ta choàng tỉnh. Tiếng động ấy đã khiến đường ghi âm nhích lên một chút, tạo một điểm nhấn thanh nhẹ rồi lại trả con sông ở hạ lưu về với vẻ “lặng tờ” vốn dĩ.
Song hành với âm thanh là hình ảnh. Bằng vốn hiểu biết phong phú về hội họa và điêu khắc, cùng trí tưởng tượng độc đáo và óc quan sát sắc sảo được diễn tả bằng vốn ngôn ngữ phong phú, điêu luyện, giàu giá trị tạo hình, nhà văn đã giúp ta mường tượng về độ cao hun hút khôn cùng của “đá bờ sông dựng vách thành” gợi lên nét hùng vĩ, hoang sơ, và cả sự ghê rợn nữa. Đặc biệt là khi “chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu” thì sức nước hẳn phải ghê gớm, dữ dằn lắm! Cách so sánh, liên tưởng mới mẻ, bất ngờ của Nguyễn Tuân quả khiến người đọc cũng “thấy lạnh” như đang ngồi chung khoang đò qua quãng ấy với Nguyễn Tuân vậy. Vài nét vẽ mà thật giàu sức gợi!
Nước đã dữ, đá thác còn khó ưa hơn. Sức tưởng tượng đã được Nguyễn Tuân phát huy để tạo dáng hình cho từng khuôn mặt đá: đá to đá bé “Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”, lại có “những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt” hay “tiu nghỉu cái mặt xanh lè”.
Khắc xong lại tô vẽ. Nhà văn lôi hộp màu ngôn từ ra, mong truyền tải lại được một cách chân thực, sống động nhất vẻ đẹp con sông mà ông đã để tâm quan sát rất kĩ lưỡng. Nếu cái dữ dằn của đá khiến nó trở nên xấu xí, khó ưa thì cái dữ dằn của nước sông lại vô tình phát huy tác dụng của nắng khiến nó mang vẻ đẹp sang trọng, lấp lánh huyền ảo của một “Mặt sông trắng xóa”, “lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng”, lại “loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”, hay “sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi”. Chẳng hiểu sao đọc những dòng mô tả của Nguyễn Tuân, trong trí tôi lại liên tưởng đến chiếc váy lộng lẫy của Nữ thần mặt trời trong sử thi “Đam Săn”. Vả chăng lúc này, dòng sông cũng đẹp như thế!? Một vẻ đẹp khiến ta trầm trồ ngưỡng mộ. Rồi, nó lại khiến ta thương thầm trong những sắc màu bình dị nhưng mặn mà, mỗi mùa mỗi khác: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà từ từ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”.
Thảo nào Nguyễn Tuân không xót xa và phẫn nộ cho được khi “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ”. Con sông lại hớp hồn ta bởi cái vẻ “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Đẹp dịu dàng mà lại có vẻ như e ấp. Yêu quá đi thôi! Nhà văn hẳn cũng đã yêu tha thiết sông Đà nên mới sáng tạo được hình ảnh đẹp với liên tưởng độc đáo, tài hoa như thế. Lại còn tinh tế phát hiện những cảnh sắc tươi non, thơ mộng ven sông Đà khi đã về đến hạ lưu nữa chứ: “nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, “Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”, “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”. Còn cái so sánh này thì thật táo bạo, bất ngờ: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
Đẹp quá phải không? Hấp dẫn quá phải không? Một bức tranh có hồn được dựng bởi ngòi bút văn chương. Cái chúng ta đang chiêm ngưỡng không chỉ là tác phẩm âm nhạc, hội họa, điêu khắc mà còn là một tác phẩm điện ảnh. Nhà văn khi thì “Ngồi trong khoang đò” quay cảnh đá bờ sông, chẹt lòng sông, khi thì “ngồi tàu bay” chiếu ống kính xuống để bao quát toàn cảnh. Còn với những cảnh quá nguy hiểm, không thể quay trực tiếp được, nhà văn lại huy động đến trí tưởng tượng để “ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy hút sông Đà” mà lia ngược ống kính lên để quay cận cảnh “một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp cả máy cả người quay phim cả người đang xem”. Ấy vậy mà đã truyền được cái hồn cốt của nó đến với độc giả. Điều này thật chỉ có “nhà quay phim” tài ba như Nguyễn Tuân mới làm nổi.
Ngoài ra, ông còn đưa vào tác phẩm của mình cả tri thức về văn học với những câu thơ của Wladyslaw Broniewski, Nguyễn Quang Bích, Lí Bạch, Tản Đà để góp phần khẳng định và tôn vinh vẻ đẹp sông Đà; đồng thời, khoác cho nó chút sắc màu bí ẩn qua câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh. Qua tất cả những nguồn tri thức đã huy động, có thể nói, nhà văn đã đầu tư rất kĩ vào con sông Đà. Nhưng xét đến cùng, bao vốn liếng đổ vào nó chẳng qua là để làm nền cho bức tượng đài về người lao động mới_ông lái đò_ hiện lên thật sừng sững, vững chãi. Thiên nhiên càng khắc nghiệt thì tác giả càng khắc họa được sinh động sự từng trải, mưu mẹo và gan dạ của ông lái đò. Lần này, tác giả đã sử dụng đến tri thức về khoa học quân sự và võ thuật để miêu tả thạch trận và cuộc vượt thác đầy cam go của ông lái. Người đọc tưởng thấy trước mắt một “trùng vi thạch trận” được bày bố công phu bởi những “chiến binh đá” hung ác và lão luyện.
Chúng biết dàn trận với “hàng tiền vệ” rồi “tuyến giữa”, “tuyến hai”…; thông thạo những chiến thuật đánh trận như “mai phục”, “dụ”, “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm”…; đánh trận cũng rất xông xáo, dũng mãnh: “nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”; lại còn ngạo mạn “hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi”, thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”… Đó là chưa kể chúng còn có sự hợp sức của nước thác cũng hiếu chiến, hung dữ và ma mãnh không kém: “Mặt nước hò la vang dậy… ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình… liều mạng vào sát nách mà đá trải mà thúc gối vào bụng và hông thuyền… đội cả thuyền lên… bám lấy thuyền như đô vật túm thắt não bạt”… Thế này thì ông lái nguy mất! Người đọc không khỏi băn khoăn lo lắng. Nhưng chứng kiến trọn vẹn cảnh vượt thác mới thấy ông không phải dễ bị “bắt nạt”. Sức dẻo dai của cơ thể cùng cái đầu cứng cỏi, bình tĩnh, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”, “thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở” đã giúp ông lái “xung trận” như một võ sĩ “trí dũng song toàn” lần lượt bẻ gãy các cuộc vây ráp, các đòn tấn công.
Từng động tác của ông mới nhanh gọn, dứt khoát làm sao: “tránh”, “đè sấn”, “lái miết một đường chéo”, “phóng thẳng”… Ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình, nhiều từ dùng mới mẻ cùng những ví von bất ngờ mà vô cùng chính xác đã được sử dụng để miêu tả thạch trận, đá thác, sóng thác, nước thác, bây giờ lại tiếp tục được vận dụng để tả những vận động không kém phần dữ dội, quyết liệt của ông lái và con thuyền: “nắm chặt lấy được cái bờm sóng… ông đò ghì cương lái”, “thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”…
Bảo Nguyễn Tuân là nhà văn có cảm hứng đặc biệt đối với những gì gây cảm giác mãnh liệt quả không sai. Cứ xem cuộc vượt thác cam go mới rồi và một đối tượng mà ông miêu tả là con sông Đà thì biết. Nếu như cuộc vượt thác đã kéo căng dây thần kinh của ta trong một sự tập trung cao độ thì con sông Đà lại gây ấn tượng về sự “hung bạo và trữ tình” mà ở khía cạnh nào cũng lên đến trạng thái đỉnh điểm: ở thượng lưu thì tột đỉnh “hung bạo” với sự hợp sức của “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, những muốn quật cho “tan tác” thuyền bè đi ngang, là thách thức vô cùng to lớn đối với những con người sông nước nơi đây; ấy thế mà, về đến hạ lưu nó lại tạo một phong cảnh tuyệt mĩ làm say đắm lòng người. Ngòi bút tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân đã thổi hồn vào con sông vô tri vô giác, để nó sống dậy, mang cả tính cách và tâm trạng, trở thành một “nhân vật” cụ thể với những tính cách đối lập nhau gay gắt, khi được ví như “thứ kẻ thù số một”, lúc lại như một “cố nhân”.
Thế rồi, đâu phải chỉ có con sông Đà là giành được niềm ưu ái của tác giả. Trên nền cảnh sông Đà, Nguyễn Tuân tiếp tục sử dụng những so sánh, liên tưởng tài hoa, ngôn ngữ phong phú, điêu luyện, giàu giá trị tạo hình, cùng sự vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác, đặc biệt là tri thức về quân sự và võ thuật trong quan sát, miêu tả hiện thực để xây tạo bức tượng đài về người lao động mới_ông lái đò_biết làm chủ thiên nhiên. Tuy là một người dân bình thường, nhưng trong công việc “bình thường” của mình, ông lái đã thực sự đạt đến độ điêu luyện, trở thành một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh. Vẫn khám phá con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ, nhưng Nguyễn Tuân đã không chỉ nhìn thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở những nhân vật xuất chúng như Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” ông viết trước Cách mạng tháng Tám 1945, mà còn phát hiện thấy phẩm chất đó ở những con người bình thường nhất như ông lái đò trong “Người lái đò sông Đà” viết sau Cách mạng. Đây là sự ổn định lẫn sự vận động của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân ở hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám.
Một nét vận động khác của phong cách Nguyễn Tuân sau Cách mạng trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” là ông không đối lập xưa với nay, cổ với kim nữa, mà tìm thấy sự gắn bó giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Điều này đã được thể hiện phần nào qua sự suy tưởng của nhà văn trên mạch tĩnh lặng của cảnh vật trên sông Đà nơi hạ lưu. Nhà văn men theo bờ tĩnh lặng của hiện tại để tìm về quá khứ nhận thấy sự gắn bó: “Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”; rồi cũng lại từ cái tĩnh lặng của hiện tại mà hướng đến tương lai với “tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ_Yên Bái_Lai Châu”. Câu hỏi của “con hươu thơ ngộ”: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?” còn như gián tiếp nói lên niềm tin của Nguyễn Tuân vào tương lai ấy, cái niềm tin mà trước Cách mạng Nguyễn Tuân chưa bao giờ có được.
Chẳng biết tôi có đủ năng lực để ưa thích văn Nguyễn Tuân_một lối văn kén chọn độc giả? Nhưng “Người lái đò sông Đà” quả đã thể hiện khá đầy đủ về phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân; đồng thời, qua đó, ta còn thấy được tình yêu của ông đối với thiên nhiên và con người Tây Bắc, mà sâu hơn là lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Mặc dù một số bài viết của ông còn có nhược điểm như mạch văn quá phóng túng theo lối tùy hứng, khó theo dõi; nhiều đoạn ham phô bày kiến thức và tư liệu khiến người đọc cảm thấy nặng nề, nhưng điều đó cũng không ngăn được sức hấp dẫn của văn Nguyễn Tuân đối với rất nhiều độc giả, bởi mỗi tác phẩm ra đời đều chất chứa bao tâm huyết, mang cả trái tim và khối óc của nhà văn.
Vì sự đầu tư kĩ lưỡng, công phu ấy, Nguyễn Tuân quả đã xem nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc, và cũng chẳng có gì là khó hiểu nếu một nhà văn tài ba như ông thấy đó là một sự “khổ hạnh”. Nguyễn Tuân đã có đóng góp không nhỏ cả về mặt thể loại và ngôn từ cho văn học Việt Nam.
Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà – Mẫu 7
Nguyễn Tuân là một tác giả nổi tiếng của nền văn học Việt Nam hiện đại, ở ông thấy hiện lên khái niệm về một kẻ sĩ, với ông văn chương và nghệ thuật đều phải có phong cách riêng, phải có những sáng tạo đột phá chứ không phải những gì đã đi vào lối mòn xưa cũ. Nguyễn Tuân viết văn bằng một ngòi bút tinh tế, tài hoa và uyên bác, ông không coi trọng hình thức mà thường chú tâm vào bản chất, vào cái “chất vàng” của sự vật, sự việc. Con người ông là giao hòa của cái tâm đi đôi với cái tài, trong đó lòng yêu quê hương, đất nước hiện lên thật sâu sắc, mạnh mẽ. Tác phẩm Người lái đò sông Đà là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân, mà qua hình tượng con sông Đà, phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện một cách tương đối đầy đủ.
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét: “Nguyễn Tuân – một cây bút vốn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm…”, đúng là vậy, Nguyễn Tuân cho rằng lao động nghệ thuật cần phải cực kỳ tận tâm và nghiêm túc, thậm chí là “khổ hạnh” thì mới có thể cho ra đời những tác phẩm có giá trị. Chuyến đi ngược về miền Tây Bắc đầy gian nan, vất vả đã thể hiện cái khao khát được “xê dịch” của Nguyễn Tuân, ông muốn tìm thấy những cái mới lạ, hoang sơ nơi rừng núi Tây Bắc, từ đó hình tượng con sông Đà hiện ra thật hùng vĩ, hoang dại cũng thật trữ tình thơ mộng, thông qua ngòi bút tài năng uyên bác của Nguyễn Tuân.
Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước hết được bộc lộ ở khía cạnh nhà văn luôn say mê những điều độc đáo của cuộc sống, của thiên nhiên cũng như vẻ đẹp của cuộc đời. Trong Người lái đò sông Đà, niềm say mê hơn người đó được thể hiện ở việc nhà văn đã phát hiện và đặc biệt say mê cái hướng chảy độc đáo của sông Đà, ông không viết rõ về nó mà lại khéo léo mượn lời thơ của Nguyễn Quang Bích làm lời đề từ cho tác phẩm cũng là lời ca ngợi cho hướng chảy độc đáo của sông Đà. Đó là câu “Chúng thủy giai đông tẩ, Đà giang độc bắc lưu”, mọi dòng sông đều chảy về Đông chỉ riêng sông Đà lại ngược về phương Bắc, như vậy ngay từ trong cái nhìn của Nguyễn Quang Bích, hiện tại là Nguyễn Tuân thì ấn tượng của ông về sông Đà đó là một dòng sông mạnh mẽ, có cá tính, độc lập dám lựa chọn cho mình một hướng đi riêng. Có thể nói tùy bút Người lái đò sông Đà là cuộc hội ngộ của những điều độc đáo, là phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân bắt gặp say mê cái nét độc láo, mới lạ của con sông Đà. Thêm nữa cái nhìn say mê độc đáo của Nguyễn Tuân còn được khắc họa cái sự đổi màu đầy độc đáo của sắc nước sông Đà qua từng thời điểm, “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”, có thể thấy trong đôi mắt tinh tế của Nguyễn Tuân, màu xuân màu nước của sông Đà là màu xanh tươi trẻ, lấp lánh ánh sáng, chứ không phải cái màu u buồn, lờ đờ các con sông khác.
Về góc nhìn thẩm mỹ, ở văn chương của Nguyễn Tuân, dù khắc họa hình ảnh con người hay thiên nhiên ông luôn tìm và khai thác những cái đẹp đẽ, điều đó thể hiện ở trong tác phẩm với hình ảnh ông lái đò hiện lên như một người nghệ sĩ tài ba còn con sông Đà thì hiện lên với tất cả những vẻ đẹp trữ tình hiện hữu, thơ mộng, hùng vĩ và hoang sơ trong cái nét cá tính quyến rũ của riêng nó. Phong cách nghệ thuật này của Nguyễn Tuân thể hiện rõ nhất qua hình tượng con sông Đà, đầu tiên từ tàu bay nhìn xuống, Nguyễn Tuân đã lập tức cảm nhận vẻ đẹp của con sông Đà “như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”, toàn bộ núi non Tây Bắc như mái đầu xanh của một thiếu nữ đầy sức sống với mái tóc dài xinh, với những đóa hoa cài tô điểm. Ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân đã khiến con sông Đà hiện lên với vẻ đẹp thật nữ tính, thi vị và quyến rũ biết bao. Ngoài ra, Nguyễn Tuân còn phát hiện ra vẻ đẹp độc đáo của dòng sông Đà qua sự đổi màu của sắc nước, điều này ta cũng đã nhắc tới ở phần trên, thể hiện cái góc nhìn thẩm mỹ độc đáo, nắm bắt cái đẹp một cách chuẩn xác và sáng tạo của nhà văn. Cái nhìn thẩm mỹ của Nguyễn Tuân còn thể hiện qua chuyện nhà văn đi rừng lâu ngày và bắt gặp dòng sông Đà, lúc này đây trong tâm hồn tác giả là niềm vui sướng, tựa như gặp lại cố nhân, một niềm vui ấm áp, tin cậy. Ngay trong niềm vui ấy, nhà văn còn phát hiện ra vẻ đẹp cổ kính, hồn nhiên của dòng sông từ “cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”, từ mặt sông. Điều tiếp nữa thể hiện góc nhìn thẩm mỹ của Nguyễn Tuân, ấy là cái cảm nhận của nhà văn về một quãng sông Đà phía dưới hạ du, một vẻ đẹp thiên nhiên trữ tình, thơ mộng, trầm lắng, “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Giữa cái vẻ đẹp hoang sơ thơ mộng ấy, nhà văn lấy một câu thơ của Tản Đà để chỉ sông Đà như “một người tình nhân chưa quen biết”, “Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”.
Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân còn được nhấn mạnh ở cái tính say mê cảm giác mạnh, thông qua việc miêu tả những khúc sông ở thượng nguồn đầy hung hiểm dữ tợn. Ở mặt ghềnh Hát Loóng với hàng cây số “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào đã tóm được qua đấy”, đầy nham hiểm và dữ dội, dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân ngay cả những thực thể vốn vô tri vô giác cũng trở nên sống động. Cái tính chất hung bạo dữ dội của sông Đà còng được bộc lộ rõ hơn ở khúc Tà Mường Vát, nhà văn đặc biệt chú ý làm nổi bật cái âm thanh của sóng nước “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như một loài thủy quái dữ tợn, đang bị gông cùm, đói khát lồng lộn. Trong cảm nhận của nhà văn, những cái hút xoáy giống như những cái bẫy nguy hiểm mà sông Đà đã giăng sẵn chỉ đợi người lái đò nào vô tình lạc vào. Một điều đặc biệt ở Nguyễn Tuân mà ít ai biết chính là ông còn là một đạo diễn phim điện ảnh, rất ham mê những cảm giác mạnh. Chính vì thế mới có cái chi tiết đầy táo bạo mà nhà văn tưởng tượng ra một anh phó nháy, ôm chiếc máy chụp ảnh rồi ngồi thuyền thúng cứ thế rơi mình vào cái hút nước sâu hoắm, cốt chỉ để chụp lấy một khoảnh khắc để đời đậm chất điện ảnh. Đây là cách hành văn rất độc đáo của Nguyễn Tuân, đưa điện ảnh vào để làm nổi bật hình tượng trong văn chương của mình. Nhưng có lẽ đặc sắc nhất phải kể đến trận địa thác đá của con sông Đà, ông không miêu tả hết các thác đá của sông Đà mà chỉ chọn một thác đá có vẻ hung hiểm nhất để đặc tả nhằm làm nổi bật lên tất cả cái diện mạo của thác dữ sông Đà. Hình ảnh thác hiện lên từ xa tới gần, từ thính giác tới thị giác, ban đầu từ rất xa, ta chủ yếu nghe thấy âm thanh của tiếng thác dữ vang động cả núi rừng, để lại một ấn tượng rất mạnh mẽ cho nhà văn. Trong tùy bút có khúc “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.” Có thể thấy rằng, Nguyễn Tuân đã rất tinh tế lợi dụng cái không gian rộng lớn của núi rừng để làm nổi bật cường độ của tiếng thác, giác quan tinh tế của nhà văn còn cảm nhận được những cung bậc và sắc thái khác nhau của tiếng thác. Càng đến gần trận địa thác đá càng hiện lên với vẻ khó chịu, cả một “chân trời đá” rộng lớn, hòn nào hòn nấy đều mang những dáng vẻ nhăn nhó, khó ưa, như đang bực tức, giận dỗi gì với những người lái đò qua nó. Với cái nhìn từ góc độ quân sự, Nguyễn Tuân đã phát hiện ra rằng ở trận địa này đang có sự mai phục vô cùng đông đảo, với vô vàn bong ghe chìm, pháo đài đá nổi, hàng tiền vệ, hàng hậu vệ, luồng sống, luồng chết, cửa tử, cửa sinh, đá quân, đá tướng. Tất cả đã tổ chức thành một vòng vây với ba trận địa thác đá cực kỳ nham hiểm, trùng trùng điệp điệp, trận sau nguy hiểm hơn trận trước nhiều lần, đòi hỏi người lái đò phải cực kỳ bản lĩnh và gan dạ mới dám đi qua khúc sông đó.
Cuối cùng trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân chúng ta phải nhấn mạnh vào sự say mê sáng tạo, ông được ví là bậc thầy của sự sáng tạo, được thể hiện ở rất nhiều phương diện. Trước hết, Nguyễn Tuân đã góp phần đưa thể loại tùy bút lên hàng đỉnh cao nghệ thuật, về hình ảnh, ông là bậc thầy sáng tạo hình ảnh với rất nhiều hình ảnh độc đáo, giàu sức gợi. Trong việc sử dụng ngôn ngữ, Nguyễn Tuân cũng là bậc thầy của ngôn ngữ với cách sử dụng ngôn ngữ độc đáo, góc cạnh, tài ba, nhà văn Anh Đức từng ca ngợi Nguyễn Tuân như sau: “Không biết đến chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng”. Về giọng điệu, nếu trước cách mạng Nguyễn Tuân là nhà văn nổi tiếng với giọng điệu khinh bạc thì với tùy bút Người lái đò sông Đà và các tác phẩm sau cách mạng giọng điệu của nhà văn đã chuyển sang trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp của những người lao động mới, vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước.
Qủa thật Nguyễn Tuân là một nhà văn xuất sắc, bởi ở ông có những phong cách nghệ thuật độc đáo và mới lạ, có cái tinh thần ham mê sáng tạo, tìm tòi cái mới, cái duy mỹ xung quanh cuộc sống. Đó là một trong những yêu cầu bức thiết ở người nghệ sĩ và văn chương mà như Nam Cao đã đề cập đến trong tác phẩm Đời thừa: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi. khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”, Nguyễn Tuân đã hoàn toàn đáp ứng được những tiêu chí ấy, vượt lên để trở thành một trong 9 nhà văn tiêu biểu trong văn học Việt Nam hiện đại.
Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà – Mẫu 8
“Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”.
Con sông Đà thân yêu ngày nay đã cho nhân dân ta thủy điện, đem ánh sáng đến mọi miền đất nước. Cách đây trên bốn thập kỉ, nhà văn Nguyễn Tuân, đã viết “Sông Đà”, trong đó có bài kí “Người lái đò sông Đà” ngợi ca cảnh sắc hùng vĩ, tráng lệ của sông núi và sự dũng cảm, tài hoa của con người Tây Bắc. Áng văn này đích thực là một “Tờ hoa”, một “Trang hoa”, thể hiện những nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân – một nghệ sĩ lớn, tiêu biểu cho nền văn xuôi Việt Nam hiện đại: uyên bác, tài hoa, độc đáo.
Bài kí có hai nhân vật – hình tượng để lại cho người đọc nhiều cảm xúc thẩm mĩ, đó là hình ảnh con sông Đà và người lái đò trên Đà giang.
Mấy thế kỉ trước, đường lên Tây Bắc chủ yếu đi theo đường sông Đà, ca dao có câu:
“Đường lên Mường Lễ bao xa,
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”.
Sông Đà hùng vĩ, vừa hung dữ, vừa thơ mộng xinh đẹp. Nguyễn Tuân coi sông Đà là người bạn thân thiết, một “cố nhân”với nhiều thương nhớ, bồi hồi. Đọc một em học sinh biết thêm: Li Tiên và Bả Biên giang là hai cái tên xa xưa của Đà giang. Và độ dài của nó là 883 nghìn mét, riêng từ đoạn biên giới Việt – Trung đến ngã ba Trung Hà dài đúng 500 cây số lượng rồng rắn.
Sông Đà hung dữ có lắm thác nhiều ghềnh. Nguyễn Tuân như một nhà thám hiểm – du lịch đi xa biết nhiều, đến sơn cùng thủy tận, kể cho ta nghe tên bao nhiêu con thác dữ, những cái tên là lạ hay: thác En, thác Giăng, Mó Tôm, Mó Nàng, Suối Hoa, Hót Gió, thác Tiếu, thác Bờ,… Nhà văn cho biết từ thác Tiếu trở xuống sông Đà êm ả, bình yên; người Thái mới có câu tục ngữ: “Qua thác Tiếu trải chiếu mà nằm”.
Ở thượng nguồn, lòng sông Đà có đoạn thắt lại “như cái yết hầu”, đôi bờ vách đá dựng thành “con nai, con hổ có thể vọt từ bờ này sang bờ kia”. Ở ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn gùn ghè….” dài hàng mấy cây số! Có những cái vực với những hút nước sâu thẳm như giếng bê tông “nước thở và kêu ặc ặc như cửa cống cái bị sặc”, ở phía trên lừ lừ những cánh quạ đàn đang chờ mồi. Âm thanh tiếng thác mới ghê rợn, lạ lùng như tiếng rống của hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng tre, rừng vầu bị cháy. Nguyễn Tuân tạo nên những so sánh và liên tưởng rất “đắt” cho thấy óc quan sát, cách nghĩ cách cảm của ông về thác, ghềnh Đà giang. Có lúc ông ví sông Đà hung dữ có “diện mạo và tâm địa” một thứ kẻ thù số một của con người. Nó hung hãn, nham hiểm, xảo quyệt, độc ác với bao “thạch trận”, bao “trùng vi” có những ông tướng đá dữ tợn, lạnh lùng đứng trấn giữ lớp lớp “cửa tử” và “cửa sinh” với những boong ke chìm mai phục khắp lòng sông, sẵn sàng nhấn chìm, bẻ gãy tan tành những con thuyền đi qua. Sông Đà lại có mùa, có đoạn đẹp một cách hữu tình: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích… Mùa thu nước sông Đà đỏ mặt một người bầm đi vì rượu bữa…”. Cuối tháng hai đầu tháng ba, hoa ban hoa gạo nở bung núi rừng Tây Bắc “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình…”. Hình ảnh những đàn hươu ngốn cỏ gianh, những nương ngô xanh rờn, những con cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt nước sông “bụng trắng như bạc rơi thoi” gợi lên vẻ đẹp kì thú, hoang sơ của Đà giang.
Nguyễn Tuân đã viết nên những đoạn văn tuyệt hay và tuyệt đẹp nói lên vẻ hoang sơ của sông Đà: ‘Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ… Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồng ngày xưa”. Sông Đà càng trở nên thơ mộng với “những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển” ở vùng trung lưu và “những con đò mình nở chạy buồm vải” vùng hạ lưu. Đọc “Người lái đò Sông Đà”, hơn bao giờ hết ta cảm nhận một cách sâu sắc câu thơ đề từ: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”. Với tình yêu sông núi của một con người tài hoa, Nguyễn Tuân đã tả sông Đà một cách đa dạng, biến hóa muôn màu muôn vẻ. Không gian nghệ thuật và thời gian thẩm mĩ vừa thực vừa mộng, đã khơi gợi trong lòng người đọc tình yêu thiết đối với Đà giang – mảnh hồn Tổ quốc thiêng liêng.
Hình ảnh người lái đò sông Đà được khắc hoạ khá độc đáo. Con người này như dẫn ta đi xuôi ngược dòng sông, lúc vượt thác, lúc cưỡi ghềnh. Đó là một người làm ăn giỏi, thạo nghề sông nước. Với con thuyền sáu mái chèo, ông tung hoành xuôi ngược trên chiến trường sông nước, “nắm chắc binh pháp của thần Sông, thần Đá”. Ông đã đưa con thuyền vượt qua nhiều cửa tử để đi vào cửa sinh, xuôi dòng bình yên. Hơn mười năm liền chở đò xuôi ngược trên sông Đà, tiếng nói của ông “ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông”. Mái tóc nay đã bạc “cái đầu quắc thước đặt một thân cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun”. Cánh tay ông “trẻ tráng” quá; nhìn ông lão bảy mươi tuổi mà ta tưởng như mình đang đứng trước một chàng trai vạm vỡ. Bả vai và ngực ông nổi lên những “củ nâu” dấu vết của những tháng ngày chèo đò vượt thác. Nguyễn Tuân gọi đó là thứ “Huân chương lao động siêu hạng”.
Nhà văn đi sâu miêu tả ông lái đò đưa thuyền qua ba thạch trận trên chiến trường sông nước. Cảnh ghềnh thác cực kì dữ dội, ghê sợ. Lúc thì ông tả thác qua âm thanh nước nghe được, lúc thì ông tả cái hút nước mắt nhìn thấy được như một đoạn phim cận cảnh quay nhanh. Cảm hứng được khơi dậy, nhà văn tung ra một kho ngôn từ giàu có, phong phủ để diễn tả cuộc chiến đấu của người lái đò với thần Đá thần Sông. Cảnh tượng vượt thác ghềnh với bao hình thù và sắc thái, với bao bộ mặt và âm thanh, xa gần ẩn hiện, nhiều tình huống gay cấn nhất, oái oăm nhất được khắc hoạ trên quy mô và tầm vóc hoành tráng, đã làm nổi bật vai trò vị thuyền trưởng dũng cảm tài hoa, chiến thắng những mưu mô xảo quyệt của thần Sông, thần Đá. Mưu trí dũng cảm, quyết đoán làm nên bản lĩnh cao cường của ông lái đò. Có lúc con đò như một mũi tên tre “vút vút” xuyên qua hơi nước của trùng vi thạch trận. Có lúc ông đã “nắm chặt cái bờm sóng”, nắm chắc lấy luồng nước, vút qua mọi cửa tử lao thẳng đến cửa sinh,… Cũng có trường hợp ông bị luồng nước “vô sở bất chí” đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, đôi mắt nổ đom đóm hoa lên, nhưng ông lái đò vẫn tỉnh táo đưa con đò thoát hiểm!
Nguyễn Tuân không chỉ tả ông lái đò trong lúc vượt thác băng ghềnh mà còn miêu tả ông sau một ngày giao tranh với thần Sông thần Đá, để làm nổi bật cái trầm tĩnh, sự thư thái ung dung của một vị thuyền trưởng lão luyện, dạn dày sông nước. Lúc ngừng chèo, đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, ông lái đò chỉ nói chuyện “cá anh vũ, cá dầm xanh”, những hầm cá về mùa hè tiếng nổ to như mìn, bộc phá. Còn cái chuyện vượt thác đối với ông chẳng có gì là hồi hộp, đáng nhớ.
Nguyễn Tuân là một nhà văn bậc thầy về ngôn ngữ. Tiếng thác nước được ông tả biến hóa, sinh động bằng một vốn từ ngữ giàu có kì lạ. Trên mặt ghềnh thác thì “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”… Hút nước kêu “ặc ặc như rót dầu sôi vào”. Tiếng thác nghe từ xa vô cùng ghê rợn “như oán trách … như van xin…. như khiêu khích… giọng gằn mà chế nhạo”, có lúc rống lên như đàn trâu mộng hàng ngàn con đang lồng lộn giữa rừng cháy!
Nguyễn Tuân đã sử dụng vốn hiểu biết sâu rộng về địa lí, lịch sử, về quân sự, thể dục thể thao, về các môn nghệ thuật như điện ảnh, âm nhạc, hội hoạ… cả tiếng lóng của nghề sông nước để tạo nên những đoạn văn đẹp, hấp dẫn lạ. Nào là đòn tỉa đòn âm, đánh hồi lùng, phục kích, vu hồi. Nào là trùng vi thạch trận, boong ke, cửa sinh, cửa tử, pháo đài… Nào là thanh viên, giáp lá cà, tiền vệ, hậu vệ tuyến giữa, tuyến hai… Chữ dùng thật đắt, lối đặt câu co duỗi dài ngắn, vừa đa dạng, uyển chuyển, vừa thú vị.
Các từ tượng thanh, nhóm từ đồng nghĩa, những so sánh liên tưởng, lối nhân hóa… rất sáng tạo, mới mẻ, ý vị và hay. Hồ Xuân Hương viết: “Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn” (“Tự tình”) hoặc “Hòn đá xanh rì lún phún rêu (“Đèo Ba Dội”). Bà Huyện Thanh Quan lại có câu thơ: “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt – Nước còn cau mặt với tang thương”. Đó là những vần thơ tuyệt bút viết vé đá mang tính hàm nghĩa. Nguyễn Tuân cũng có những câu văn hay viết về đá, về thạch trận nơi sông Đà: “Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt…”.
Nguyễn Tuân là một nhà văn uyên bác, tài hoa trong cách sử dụng vốn hiểu biết sâu rộng vẻ văn chương. Một câu thơ nước ngoài, một câu cổ thi được ông dùng làm đề từ, đã mấy ai biết xuất xứ của nó? – Và đã tạo nên cốt cách sang trọng cho bài kí. Ông nhắc lại câu đồng dao để nói về huyền thoại Sơn Tinh – Thủy Tinh tranh giành người đẹp, để yêu thêm núi Tản sông Đà:
“Núi cao sông hãy còn dài,
Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen”.
Tác giả mượn câu thơ Tản Đà để làm đẹp thêm cái thơ mộng của Đà giang:
“Dải sông Đà bọt nước lênh đênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”.
Cảnh mùa xuân trên sông Đà cũng là cảnh đẹp hoa khói như con sông Trường Giang hơn nghìn năm về trước trong đời Đường khi thi tiên Lý Bạch tiễn bạn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”.
Nói về truyền thống anh hùng của đồng bào Tây Bắc, nhà văn đã không quên chọn hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích – bậc sĩ phu kiên cường chống Pháp cuối thế kỉ XIX – để đưa vào bài kí:
“Lòng trung không nỡ bỏ Tây Châu,
Giữ lấy Thao Đà dải thượng lưu”.
Nhờ thế mà đọc bài kí “Người lái đò Sông Đà”, ta hiểu được nhiều điều bổ ích về cảnh sắc thiên nhiên Tây Bắc, về địa lí, lịch sử, về truyền thống cách mạng của các dân tộc xung quanh con sông Đà, về hình thức, ghềnh sông, về tài nguyên Tổ quốc bao la, về những câu thơ đẹp – tinh hoa văn hóa cổ kim Đông Tây mà Nguyễn Tuân chọn lọc đưa vào. Tâm hồn người như được nâng lên, trí tuệ được khơi dậy, bừng sáng và trở nên giàu có. “Người lái đò Sông Đà” đúng là một giai phẩm mà Nguyễn Tuân đã góp vào, làm đẹp thêm vườn hoa văn nghệ Việt Nam.
Ai đã từng đọc “Vang bóng một thời” chắc cảm nhận được cái sắc sảo, tài hoa và lịch lãm của nhà văn Nguyễn Tuân khi ông nói về chuyện uống trà, thưởng hoa, trồng cây cảnh, chơi chữ, đánh thơ, thả thơ, chơi đèn trung thu… của những nhà nho thuở trước, những thứ ăn chơi tao nhã, sang trọng, thể hiện một phong cách sống đẹp, khẳng định bản sắc của nền văn hóa Việt Nam với độ dày hàng nghìn năm lịch sử.
Đọc “Người lái đò Sông đà”, ta biết thêm một Nguyễn Tuân uyên bác, tài hoa, độc đáo. Tả cảnh thì biến hóa, trong bốn mùa, trong mọi thời gian và không gian, đa thanh và phức điệu lúc nói về thác, ghềnh… Bao liên tưởng đầy thi vị, với bao cảm giác mạnh đầy màu sắc và góc cạnh với một kho chữ nghĩa giàu có. Văn của Nguyễn Tuân đúng là những giọt mật của con ong yêu hoa, cần mẫn và sáng tạo, đem thơm thảo cho đời. Câu văn xuôi tài hoa, lúc thì vang vọng âm ba của thác ghềnh, lúc thì mênh mang dư vị của hương nguồn hoa núi.
Đọc “Người lái đò Sông Đà” ta yêu thêm con người Việt Nam dũng cảm, cần cù và tài hoa; ta tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là quà tặng của thiên nhiên:
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về đến Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát – khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà – Mẫu 9
Nhắc đến Nguyễn Tuân ta nhớ đến bậc thầy của ngôn ngữ văn chương. Người ta cũng nghĩ ngay đến hiện thân của chủ nghĩa “xê dịch”. Ham cái gọi là “xê dịch” ông cũng thường viết về những cái gì không đứng yên: xe cộ, tàu thuyền, những con người có máu giang hồ, thích ngao du đây đó. Ông cũng thích tả những cái gì mãnh liệt, dữ dội: đèo cao, vực sâu, biển rộng, gió bão, thác dữ và cả cái đẹp tuyệt đỉnh, tuyệt vời, đẹp làm lí trí của con người như tê dại. Đi nhiều, ông cũng là người gần gũi với thiên nhiên, yêu thiên nhiên tha thiết đồng thời cũng khám phá nhiều vẻ đẹp, nét đặc biệt của núi sông, cây cỏ trên nhiều miền đất nước. Tập bút ký Sông Đà và bài ký “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm như thế.
Sông Đà quả là một con sông vừa đẹp tuyệt vời vừa cực kì hung dữ. Tác giả gọi là “hung bạo và trữ tình”’: hung bạo là ở những đoạn có thác dữ, có những quãng hẹp kẹp giữa hai thành vách núi cao, hay những hút nước khủng khiếp chết người… Ở đây, sông Đà có “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù của con người: hung hãn, nham hiểm, xảo quyệt, độc ác… Trữ tình là ở những đoạn xuôi chèo êm ả. Dòng sông như một “áng tóc trữ tình”, nước sông thay màu sắc theo mùa rất đẹp, phong cảnh nên thơ, những con thuyền đuôi én đáo… về phương diện này, sông Đà trở thành nỗi nhớ và người bạn thân của con người, một “cố nhân” (tức người bạn cũ).
“Người lái đò sông Đà” thì được tập trung mô tả trong cuộc vật lộn với nước sông Đà. Một quang cảnh thật dữ dội. Đây là những cảnh tượng kích thích mạnh giác quan nghệ sĩ của Nguyễn Tuân, cảm hứng được khơi dậy, nhà bèn tung ra cả một kho ngôn từ phong phú và đầy giá trị tạo hình của mình diễn tả cho được mọi sắc thái, mọi hình thù, mọi bộ mặt, mọi âm thanh, tình huống phức tạp, oái oăm nhất của trận chiến đấu giữa ông lái đò trí dũng tuyệt vời và thác nước sông Đà hung hãn, đầy mưu mô xảo quyệt. Chỉ nói riêng về âm thanh của con thác đã thấy rõ ngôn từ phong phú của Nguyễn Tuân tiếng nước thác lúc như “oán trách” lúc như “van xin” lúc như “khiêu khí “giọng gằn mà chế nhạo”, rồi “rống lên như tiếng một ngàn con trâu đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa”… Còn hình ảnh ông lái đò “cố nén vết thương, hai chân kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo sệch đi”, “ lên thác”, “nắm chặt lấy được cái bờm sóng”, “ghì cương”, “phóng nhanh”, miết một đường chèo”, “rảo bơi chèo lên”, “đè sân lên mà chặt đôi” con thác…
Một nét phong cách khác của Nguyễn Tuân là thường quan sát, khám phá sự vật ở phương diện mĩ thuật và con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, sông Đà quả là một công trình nghệ thuật tuyệt vời cùa tạo hóa “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”. Màu sắc sông Đà mùa xuân là “dòng xanh ngọc bích”, mùa thu thì “lừ lừ chín đỏ” có lúc lại lên cái “màu tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt hạ Dương Châu”…
Còn ông lái đò sông Đà thì trở thành một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật vượt thác ghềnh, đã nắm chắc được “binh pháp của thần sông thần đá”, thuộc lòng các luồng sinh luồng tử của các con thác dữ nên chủ động trong mọi huống, có thể lái con thuyền vun vút qua hàng trăm ghềnh đá ngổn ngang, hiểm hóc… Nguyễn Tuân gọi thế là “tay lái ra hoa”.
Nguyễn Tuân còn là một cây bút rất mực tài hoa, lịch lãm. Mô tả mội tượng nào đấy, ông không chỉ vận dụng những hiểu biết về nghệ thuật văn chương mà còn kết hợp thích đáng những lợi thế của kĩ thuật khác như: hội họa, điêu khắc, âm nhạc, sân khấu, vũ đạo, điện ảnh. Bài kí Người lái đò sông Đà ng là một bằng chứng rất tiêu biểu của nét phong cách trên.
Chẳng hạn ông tả một cái hút khủng khiếp của sông Đà bằne kĩ thuật phim ảnh: “Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vạnh rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà. từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cái cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu ống quay tít, cái máy lia ngược (…) lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây tràn bằng nước sông xanh ve một áng thủy linh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem”.
Ở bài ký sông Đà này, Nguyễn Tuân còn vận dụng cả những nghệ thuật, kĩ thuật rất ít khi thấy được vận dụng trong văn chương: nghệ thuật quân sự và võ thuật. Nào là cửa sinh cửa tử, đánh khuýp vu hồi, đánh du kích, phục kích, đánh giáp lá cà, nào là đòn tỉa, đòn âm, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng… Ngoài ra ông còn vận dụng những tri thức của nhiều bộ môn khoa học trong tác phẩm của mình – một vốn văn hóa phong phú lịch lãm hiếm thấy – làm cho những bài kí của ông có giá trị văn hóa cao. Bài kí Người lái đò sông Đà nhờ thế đã giúp người đọc hiểu được rất nhiều điều bổ ích về lịch sử, địa lý sông Đà, về lịch sử cách mạng xung quanh con sông này, về địa hình địa thế của nó, về những con thác đủ loại, về các tài nguyên đất nước vùng sông Đà, về những bài thơ của Nguyễn Quang Bích, của Tản Đà…, về con sông ở miền Tây Tổ quốc này.
Chúng ta đều biết rằng Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách độc đáo, tài sử dụng ngôn ngữ đến mức điêu luyện. Đọc “Người lái đò sông Đà” ta cảm nhận rõ thêm sự sắc sảo của giác quan người nghệ sĩ bậc thầy và kho từ vựng giàu giá trị tạo hình, lối văn rất mực tài hoa. Bởi thế bài ký vừa có giá trị văn học vừa đem đến cho người đọc những thông tin thú vị về sông Đà, con sông ở vùng Tây bắc Tổ quốc.
Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà – Mẫu 10
Nguyễn Tuân là nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam, ông có rất nhiều những tác phẩm hay và nổi bật lên là tác phẩm Người lái đò sông đà ông đã thể hiện được những phong cách nghệ thuật tài tình của mình trong tác phẩm đó.
Nguyễn Tuân đã rất tài hoa khi thể hiện phong cách của mình trong thể loại bút ký, bút ký đó là những tâm huyết của ông vì vậy ông đã giành tâm huyết và cả những niềm đam mê của mình vào thể loại này, ông đã chứng minh cho người đọc những tài năng trong phong cách thơ ca của mình, ông tài hoa bởi chất ký giàu chất suy tư chính sự, có sự đan xen giữa các yếu tố tạo nên một phong cách đẹp và thơ mộng, niềm tự hào của cả dân tộc bởi có một tài năng về bút ký như ông, ông đã tạo nên một phong cách nghệ thuật đặc sắc trong con người của mình, với tài năng của mình ông đã tạo nên một phong cách bút ký đặc sắc và chỉ có ở ông mới có.
Với tình yêu thiên nhiên đất nước Nguyễn Tuân đã thể hiện lối viết phóng túng của mình trong tùy bút người lái đò sông đà, một tình yêu mãnh liệt đã tạo cho ông rất nhiều cảm xúc để thăng hoa vẻ lên một bức tranh với đầy đủ màu sắc về sông đà, sông đà hiện lên với những tinh cách hung bạo, dưới ngòi bút của mình Nguyễn Tuân đã thể hiện dòng sông đó với những tính cách rất đa dạng, những nét khắc họa của mình đã được thể hiện qua hình tượng sông đà và hình tượng người lái đò sông đà. Người đọc hình dung được những vẻ đẹp đó qua lối viết linh hoạt, nó thể hiện sông đà với đa dạng những màu sắc và tính cách có lúc cũng dịu êm và lúc thì ầm ầm hung dữ như những con vật dữ, sông đà là minh chứng lịch sử là dòng sông hào hùng của dân tộc, dưới ngòi bút của mình, Nguyễn Tuân đã tạo nên cho người đọc những cảm xúc khó diễn tả ở hình tượng sông đà.
Nguyễn Tuân đã phát hiện ra những vẻ đẹp của thiên nhiên trên mảnh đất của mình, với tình yêu quê hương da diết ông đã viết lên hình tượng sông đà thật phóng túng biết bao, với đa dạng cảm xúc, chắc hẳn ai đã từng đọc qua tác phẩm này cũng đều tự hào về phong cách viết phóng túng giàu sức truyền cảm của Nguyễn Tuân, ông là nhà văn tài ba có có sự tinh tế trong việc cảm nhận những vẻ đẹp mà ẩn dấu bên trong rất nhiều những cảm xúc, cảm xúc của những con người có tình yêu thương thiên nhiên sâu sắc. Sự tinh tế trong phong cách cảm nhận thiên nhiên của mình càng góp phần làm cho phong cách của ông đậm nét qua những hình tượng độc đáo và người đọc cảm thụ được trong đó một tác giả của tình yêu, với nét bút đậm đà những tài hoa và cả những tinh tế, tác giả không chần chừ khi vẽ lên những vẻ đẹp tài hoa đó.
Với những cảm xúc được thể hiện tùy hứng của Nguyễn Tuân đã tạo ra một sông đà với một vẻ đẹp khó theo dõi nhiều những tình huống khiến người đọc khó quan sát nhanh nhạy được, văn của Nguyễn Tuân không thể hiện lên trên bề mặt câu chữ mà nó ẩn dấu dưới câu chữ những tài hoa và uyên bác, ông đã chứng tỏ cái ngông, cái chất văn chương của mình tới độc giả, người đọc sẽ không thể bỏ qua một vị nhân tài trong lối tùy bút, ông đã thể hiện lối viết phong phú tới những vẻ đẹp hoàn mĩ, đối với sông đà ông đã miêu tả sông đà với những hình ảnh thu hút đắm say lòng người sông đà được so sánh với những hình ảnh ấn tượng thu hút lòng người bởi tài năng sử dụng phong cách của mình trong thể loại tùy bút người lái đò sông đà.
Những nét đặc sắc được lặp đi lặp lại, chúng ta đều có thể cảm nhận được những đặc sắc nghệ thuật đó, tác giả đã cảm nhận được cuộc sống của người lao động thông qua nhân vật người lái đò, ông đã nêu lên tinh thần anh dũng và kiên cường của người lái đò sông đà, với chất ngông của ông trước cách mạng tháng tám ông đã có những sáng tác mang đậm tính chất cá nhân và những nét độc đáo đó đã tạo lên phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân một cách đặc sắc và tiêu biểu.
Với những tài năng của mình Nguyễn Tuân đã thể hiện phong cách nghệ thuật của mình thật đặc sắc trong tác phẩm với những nét bút tài hoa ông đã vẻ lên một con sông đà với bao nhiêu tính cách và chắc hẳn người đọc ấn tượng với hai tính cách nổi bật đó là nét hung bạo và những lúc cũng dịu êm, dòng sông hiện lên trong mắt người đọc hai trạng thái trái ngược nhau khi dữ dội hung bạo thì sông đà đã cuộn sóng và làm cho người đọc ngạc nhiên bởi khung cảnh thiên nhiên này, và đôi khi tác giả còn thể hiện những nét dịu êm của những cô gái DiGan, hai tính cách điển hình trong tùy bút người lái đò sông đà của Nguyễn Tuân. Tác giả còn vẻ ra hình tượng người lái đò cũng vô cùng hiên ngang và anh dũng đã vượt qua những luồng sóng vô hình để lái vững những chiếc thuyền đò đây là một trong những đặc sắc nghệ thuật của tác giả, với những tài năng đó Nguyễn Tuân đã tạo nên một tác phẩm để lại rất nhiều cảm xúc trong lòng người đọc.
Mỗi chúng ta nếu ai đã từng đào sâu và tìm hiểu về Nguyễn Tuân thì đều nhận thấy ông là một con người tài hoa và có một nhân cách cao đẹp ở ông không chỉ nhìn nhận thấy một con người với tình yêu thiên nhiên lòng cháy mà con nhận thấy một con người với tài năng sử dụng chất ngông của mình, sau cách mạng tháng tám ông đã càng chứng tỏ chất ngông của mình, nhưng tình cảm mà Nguyễn Tuân thể hiện trong bài này cũng rất đặc sắc khi tác giả so sánh con sông đà như những áng tóc trữ tình …. Qua đó ta thấy được sự đa dạng trong phong cách của Nguyễn Tuân, một con người có cái nhìn đa chiều nhiều phương diện, đã nhìn sông đà không chỉ ở một góc cạnh mà nhìn sông đà ở nhiều chiều nhiều mặt của một lối văn trữ tình.
Nguyễn Tuân nhà văn tài ba chúng ta bắt gặp ông với một người giàu chất suy tư, tài năng của ông được ông thể hiện đậm nét qua hình tượng sông đà với áng tóc trữ tình thu hút lòng người.
Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà – Mẫu 11
Nguyễn Tuân là một cây bút tài hoa, lịch lãm “thông kim bác cổ”. Những trang viết của ông đem đến cho người đọc rất nhiều kiến thức: văn hóa, hội họa, điêu khắc, điện ảnh, quân sự, võ thuật và cả những thông tin khoa học. Tùy bút Người lái đò sông Đà làm sống dậy cảm nhận của người đọc về sông Đà như nó vốn có. Bài tùy bút ngoài việc đem lại những rung cảm thẩm mĩ còn giúp người đọc hiểu nhiều điều bổ ích về lịch sử, địa lí, địa thể, đặc biệt là những con thác đủ loại, những tài nguyên của đất nước những bài thơ về sông Đà của Nguyễn Quang Bích, Tản Đà, thơ Đường…
Những trang miêu tả thạch trận thủy quái sông Đà và nghệ thuật vượt thác của ông lái đò có giá trị tạo hình cao giống như một cuốn phim quay cận cảnh. Vốn từ ngữ quân sự phong phú được sử dụng điêu luyện lại xen vào những từ ngữ cổ (vu hồi, giao chiến, thanh la, đòn tỉa…) tạo cho người đọc cảm tưởng trận thủy chiến đã diễn ra từ muôn xưa đến nay. Phong cách Nguyễn Tuân bộc lộ qua tùy bút Người lái đò sông Đà ở cách nhìn, cách miêu tả thiên nhiên. Nguyễn Tuân thích cái độc đáo duy nhất, thích tô đậm cái phi thường, thích gây cho người đọc cảm giác choáng ngợp. Điều đó đã khiến ông tìm đến sông Đà. Sự dữ dội mãnh liệt và cái tuyệt mĩ, thơ mộng của sông Đà đã thu hút nhà văn.
Ngòi bút Nguyễn Tuân được thỏa sức tung hoành trong môi trường yêu thích của mình khiến cho nhiều lúc dường như ông quên mất độc giả. Ông chỉ biết có sông Đà và chú tâm vào mỗi việc đem tài hoa của mình ra làm cho sông Đà dậy sóng, dậy đá. Sông Đà cũng vậy, dường như chỉ một mực quấn vào câu văn Nguyễn Tuân mà vùng vẫy, reo cười. Với lối viết riết riêng, sông Đà đã trở thành sông Đà – Nguyễn Tuân. Sông Đà được vẽ lên bằng ngòi bút biến hóa tài tình độc đáo. Sông Đà – dữ dội, sông Đà – anh hùng ca, sông Đà – nên thơ. Bản chất sông Đà là vậy. Tài năng của nhà văn đã làm cho bản chất ấy sắc nhọn thêm. Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, sông Đà không phải là một cảnh trí thiên nhiên vô tri giác mà là một sinh thể sống động, một nhân vật đầy sức sống, có cá tính, có tâm trạng khá phức tạp.
Tác giả gọi đó là tính cách vừa “hung bạo” vừa “trữ tình”. Sông Đà “hung bạo” là sông Đà hiểm trở, dữ dội, nguy hiểm đến chết người với những đoạn bờ sông dựng thành vách cao vút, những thác nước hung dữ, “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”, “sẵn sàng quật ngửa bụng những thuyền đi qua”, với những hút nước “sâu như lòng giếng, nước xoáy tít ằng ặc có thể lôi tuột những bè gỗ lớn xuống tận đáy và đánh cho tan xác”… Nguyễn Tuân đã dùng ngòi bút trăm màu để miêu tả hàng loạt những hình ảnh khác nhau vừa có tính trí tuệ vừa có tính tạo hình vượt xa những thủ pháp nhân hóa thông thường. Cái dữ dội của con sông Đà trở nên môi trường anh hùng ca hoàn toàn độc đáo. Sông Đà cũng là con sông đạt đến mức trữ tình tuyệt vời.
Dưới con mắt khám phá sự vật ở phương diện mĩ thuật, Nguyễn Tuân nhìn dòng sông Đà như một công trình nghệ thuật thiên thạo tạo tuyệt vời. Sông Đà như một “áng tóc trữ tình tuôn dài mà đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo”. Nguyễn Tuân nhìn dòng sông Đà và truyền cho độc giả nhìn nó qua làn mây mùa xuân, ánh nắng mùa thu, chăm chú theo dõi những biến đổi sắc màu của nó khi thì “xanh màu ngọc bích”, khi thì “lừ lừ chín đỏ”. Ông phát hiện ra sự phong phú của chất thơ ở vẻ đẹp sông Đà lúc như “nỗi niềm cổ tích”, lúc “lóe sáng ánh sáng tháng ba Đường thi”, lúc như “người tình nhân chưa quen biết”. Nguyễn Tuân luôn nhìn và miêu tả con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Nếu như trước Cách mạng, Nguyễn Tuân nhìn những con người tài hoa nghệ sĩ chỉ ở một số ít người thì sau Cách mạng, họ được ông nhìn thấy trên mọi lĩnh vực đời sống.
Những trang viết của nhà văn đem đến cho người đọc niềm tự hào, chúng ta không chỉ là con em của một dân tộc cần cù trong lao động, dũng cảm trong chiến đấu mà còn là con em của một dân tộc tài hoa – nghệ sĩ. Người lái đò dưới con mắt Nguyễn Tuân được xem như một nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác sông Đà. Tài nghệ của người lái đò là nắm chắc được quy luật của dòng nước sông Đà, thuộc lòng các luồng sinh, luồng tử của những con thác dữ. Người lái đò thực hiện nghề nghiệp của mình một cách tuyệt vời, đạt đến trình độ nghệ sĩ tinh vi, nghệ thuật cao cường, một tay lái “ra hoa”. Quy luật của thác nước sông Đà là một quy luật hết sức khắc nghiệt. Một chút thiếu chính xác, một tích tắc thiếu bình tĩnh, lóa mắt, lỡ tay là phải trả giá bằng sinh mạng của mình. Trong cuộc vượt thác, ông đò như một lão tướng dày dặn kinh nghiệm. Trận địa thủy chiến được bố trí sẵn với những cạm bẫy, với những vòng vây, hết vòng vây này đến vòng vây khác, mỗi vòng đều có những viên tướng đá nham hiểm, quái ác chờ sẵn.
Hình ảnh ông lái đò “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái”, mặt méo bệch đi mà vẫn “cưỡi lên con sóng, nắm chắc lấy bờm sóng ghì cương đè sấn lên và chặt đôi con thác” quả là một thiên anh hùng ca, là cả một pho nghệ thuật tuyệt vời. Phong cách Nguyễn Tuân còn được biểu hiện đặc sắc qua nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Có người nói: đọc văn Nguyễn Tuân như soi kính trăm màu. Nguyễn Tuân đi sâu tìm hiểu, khám phá sự vật, nắm bắt cho được cái cốt lõi, cái tinh túy, cái thần thái của nó rồi kết hợp với cảm xúc chủ quan, uyên bác giàu chất trí tuệ và chất trữ tình, diễn đạt, thể hiện dưới những hình thức ngôn ngữ sáng tạo độc đáo rất Nguyễn Tuân. Khi ông miêu tả, sự vật hiện lên với đầy đủ “khí chất” của nó thì văn mới hết “chất Nguyễn”. Ngược lại, văn ông càng bộc lộ hết “chất Nguyễn” thì sự vật càng nổi hình nổi nét, cựa quậy xôn xao.
Đọc một đoạn văn khá dài miêu tả cảnh sông Đà “bày thạch trận để đòi ăn chết cái thuyền” nhưng rồi phải thu sự chèo chống tài ba, dũng cảm của người lái đò, ta đâu chỉ thấy sông Đà “quẫy sóng” mà còn thấy câu văn “quẫy sóng” sảng khoái vô cùng. Biết bao thách thức trong cảnh này, thách thức với người lái đò và thách thức với cả nhà văn. Liệu nhà văn có đủ tài nghệ, đủ chữ nghĩa để bắt sông Đà hiện lên với tất cả sự bạo liệt của nói:? Liệu nhà văn có đủ tài nghệ miêu tả nghệ thuật siêu phàm của người lái đò trong cuộc vượt thác? Nguyễn Tuân đã vượt lên được thách thức ấy. “Thạch trận vừa bày xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đối phương. Hòn đá bệ vệ, oai phong, lẫm liệt. Một hòn trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì cứ tiến gần vào”.
Nguyễn Tuân đã lột tả được cái lì lợm, nham hiểm của những “viên tướng đá”, cái âm thanh hung bạo của tiếng thác và sự dữ dội của nước thác đá trong việc uy hiếp con người. Ông lái đò đã vượt qua được thác, văn Nguyễn Tuân cũng vượt qua được thách thức. Phải là một cây bút tài hoa như Nguyễn Tuân mới làm sống dậy được thác nước sông Đà và bộc lộ được một tay lái “ra hoa” trên những con thác hung dữ và bạo liệt. Với Nguyễn Tuân, ngôn ngữ nghệ thuật vừa là phương tiện vừa là cứu cánh của người nghệ sĩ. Qua bàn tay Nguyễn Tuân, tiếng Việt như một khối vuông ru bích biến hóa liên tục và dậy lên sắc màu nghệ thuật. Miêu tả âm thanh những thác nước sông Đà, Nguyễn Tuân thấy “tiếng thác nước lúc như than vãn oán trách”, lúc như “van xin”, lúc “khiêu khích chế nhạo”, lúc “rống lên như tiếng ngàn con trâu mộng”… Với Nguyễn Tuân, ngôn ngữ thực sự là một đối tượng thẩm mĩ không thể thiếu trong văn phẩm của mình. Ông sử dụng ngôn ngữ như một nghệ sĩ xiếc điêu luyện, thuần thục
. Nguyễn Tuân quả là một nghệ sĩ xiếc của ngôn từ. Đoạn miêu tả cuộc giao tranh giữa thác dữ với người lái đò là một đoạn tiêu biểu. Nguyễn Tuân say sưa hăm hở khoe hết sự tài hoa uyên bác và muốn dốc cả vốn từ vựng giàu có của mình để ganh đua với tạo vật. Nhà văn đã tạo cho con sông Đà tính cách của một loài thủy quái hung ác và nham hiểm. Ông dùng ngôn ngữ để dựng dậy và thổi sống những hòn đá vô tri vô giác, có hòn “bệ vệ oai phong”, có hòn “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm méo mó”, có hòn “trông nghiêng như hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”, có hòn “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”… Nguyễn Tuân đã ném vào cuộc giao tranh giữa người với thiên nhiên bao nhiêu chữ nghĩa góc cạnh, đem lại cho người đọc những liên tưởng độc đáo, chính xác.
Tác phẩm của Nguyễn Tuân thường gây cảm giác mãnh liệt, nâng cảm xúc của người đọc khi tiếp cận với sự vật được miêu tả để thưởng thức những cảnh trí hoặc dữ dội khủng khiếp hoặc thơ mộng, tuyệt mĩ, hoặc cái tài hoa phải đạt đến trình độ siêu phàm không gì sánh kịp. Phong cách Nguyễn Tuân vừa độc đáo vừa phong phú. Với Người lái đò sông Đà, phong cách nhà văn thể hiện rõ nhất ở sự sắc nhọn của giác quan nghệ sĩ đi với một kho chữ nghĩa giàu có và đầy màu sắc, góc cạnh. Bài tùy bút Người lái đò sông Đà cũng thể hiện một Nguyễn Tuân với vốn văn hóa phong phú, lịch lãm, một Nguyễn Tuân tài hoa với con mắt của nhiều ngành nghệ thuật.
Phong cách Nguyễn Tuân đã mang lại cho tác phẩm những giá trị độc đáo: vừa có giá trị văn học vừa có giá trị văn hóa vừa có giá trị thông tin, đồng thời giúp người đọc thêm yêu cảnh trí thiên nhiên đất nước, tự hào về những người lao động tài hoa và thêm quí, thêm yêu sự giàu đẹp của tiếng Việt.
Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà – Mẫu 12
Nguyễn Tuân được xem là một người nghệ sĩ tài hoa và uyên bác, đối với sự nghiệp văn chương ông có những nét đặc sắc tiêu biểu riêng và có thể khẳng định không phải người nghệ sĩ nào cũng có. Đó chính là những vẻ đẹp trong phong cách nghệ thuật, thật riêng biệt và độc đáo tiêu biểu trong phong cách sáng tác của ông tiêu biểu nó thể hiện qua tác phẩm “Người Lái Đò Sông Đà” .
Nguyễn Tuân với năng năng nghệ thuật độc đáo nhất nhì trong văn học Việt Nam hiện đại. Ông là một người nghệ sĩ tài hoa và cả đời của ông luôn phấn đấu để đi tìm những điểm riêng biệt những nét “khuất lấp” và những cái đẹp trong phong cách nghệ thuật của mình. Phần lớn các tác phẩm của ông thi đều thể hiện được sự uyên bác cũng như người tài hoa “chỉ đạo những con chữ”. Trong bài tùy bút “Người lái đò sông đà” ông đã thể hiện rõ được phong cách riêng của mình qua những điều đó. Có lẽ, bởi đây là bài mà ông rất tâm huyết và ông đã dùng chính tài năng và phẩm hạnh của mình để sáng tác lên những tác phẩm đậm chất bi tráng này, dòng sông của người lái đò là dòng sông mà ông đã quan sát và ông có cái nhìn sâu sắc về nó, nó không chỉ là một dòng sông biểu hiện cho sức mạnh mẽ của con người mà đó là dòng sông của minh chứng lịch sử. Với tài năng nghệ thuật độc đáo mang tính riêng biệt ông đã tạo nên cho mình những sáng tác riêng và đó là những sáng tác cổ xưa và mang biết bao dấu ấn mạnh mẽ tác giả không chỉ dừng chân ở đây để có những quan sát thấu đáo mà ông đã dùng những cảm xúc thật của mình để viết lên bài thơ này.
Dường như hình ảnh của người lái đò sông đà đã được thể hiện rất sinh động và tài tình qua phong cách nghệ thuật của ông, ông đã dùng những sáng tạo nghệ thuật đó để áp vào cho những con người ở nơi đây, hình ảnh về dòng sông của quê hương đất nước đã tạo nên những dâu ấn mạnh mẽ trong lòng tác giả, ông đang thể hiện những điều đó rất nổi bật trong cách sáng tác của chính mình. Hình ảnh đẹp về dòng sông của quê hương như đã thôi thúc khiến cho ông cảm hứng để viết lên bài tùy bút hay như thế này. Tác giả như có phương án tạo ấn tượng rất đặc sắc qua cách giới thiệu về dòng sông nó đã tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ cho người nghe, tác giả không khỏi hình dung ra những chi tiết đặc sắc khác thể hiện trong tác phẩm này. Những hình ảnh về dòng sông còn mang những tính cách của con người đời thực nhưng đã được nhìn qua lăng kính của Nguyễn Tuân nên mọi thứ đều trở lên đẹp đẽ và có phí phách riêng. Dòng sông Đà hiện lên dưới ngòi bút khám phá của ông cũng có lúc hung bạo và cũng có lúc trữ tình nó đã làm xoay chuyển mọi tính cách qua những hoàn cảnh khác nhau, hình ảnh về dòng sông cũng giống như về con người, tác giả đã miêu tả và quan sát dòng sông qua những tính cách điển hình và tiêu biểu đó. Trong bài tùy bút thành công này của tác giả đã như đã thể hiện, bộc bạch rõ hàng loạt những chi tiết thể hiện dòng sông hung bạo đó là có những vách đá ngăn thành chết lòng sông đà như một cái yết hầu..
Tất cả các chi tiết khác cũng thể hiện rõ điều đó dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn…, các chi tiết đó cứ như ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre… hơn nữa các chi tiết đó đã thể hiện được hình ảnh về dòng sông quê hương đất nước, tác giả đã dùng tài năng của mình để sáng tác lên những hình ảnh hay và sinh động như vậy, hình ảnh đó thật mang dại và chính với khả năng và tài năng bậc thầy của mình ông đã vẻ lên một hình ảnh về dòng sông với vẻ đẹp thật hùng vĩ, với cách so sánh sinh động đã tạo nên cho ông một bài tùy bút hay và nó để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Với cách so sánh ví von nhưng hợp tình và hợp lý như vậy hình ảnh về dòng sông cũng đã thể hiện rất chi tiết và đặc sắc nó mang ấn tượng cho người đọc, bởi hàng loạt những hình ảnh tạo ấn tượng riêng biệt,hình ảnh về quê hương của chúng ta đã hiện lên những hình ảnh tuyệt đẹp và như ngày càng thu hút mạnh mẽ tầm quan sát của người đọc, những hình ảnh trên cũng đã mang cho người đọc những cái nhìn sâu rộng và nó trở thành một niềm tin sáng lóe trong cái nhìn của tác giả về chính sản phẩm mà ông đã tạo ra.
Ông là một người có trí tưởng tượng phải nói vô cùng phong phú, cũng có lúc ông đã sử dụng những hình ảnh kĩ thuật của bộ môn nghệ thuật thứ 7- điện ảnh của âm thanh hội họa để thể hiện được những chi tiết tiêu biểu qua tác phẩm này, ông cũng nhân hóa những hình ảnh của dòng sông để miêu tả và có thể cảm nhận được tính cách hung bạo của dòng sông đó. Tưởng như những hình ảnh về dòng sông nó mang những dấu ấn mạnh mẽ trong cách sáng tác của tác giả, những thác gập ghềnh và nó mang cho chúng ta cái nhìn sâu sắc hơn về những hình ảnh đó, hình ảnh của dòng sông đà đã được tác giả thể hiện sinh động và vô cùng ấn tượng cho người đọc, nó không chỉ mạnh mẽ trong đường khối mà nó cũng đã tạo nên những tính cách khác cho người đọc, hình ảnh của dòng sông đã tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ trong lòng tác giả bởi tính cách và những nét riêng biệt mạnh mẽ.
Những hình ảnh thật khó phai mờ về một dòng sông hoang dại và hung dữ cũng đã được thể hiện sâu sắc trong nhà văn, ông đã dùng tài năng của mình để nói về những hình ảnh đó, cảm xúc của nhà văn cũng thật sâu sắc và sinh động khi ông nói về cảm xúc của chính mình và dòng sông đó đã mang dại và chúng ta nhìn thấy tài năng của tác giả được thể hiện mạnh mẽ trong đó, Nguyễn Tuân như đã ca ngợi dòng sông này và nó hiện lên thật độc đáo và sinh động, tính cách của dòng sông đó là dòng sông trữ tình và yêu thương nó đã hiện hữu trong con người của tác giả. Bên cạnh hình ảnh dòng sông hung dữ thì hình ảnh của dòng sông hiền hòa cũng được tác giả thể hiện sâu sắc trong bài tùy bút này, dòng sông được tác giả miêu tả như người con gái có mái tóc dài, màu sắc cũng được thay đổi đặc sắc trong bài thơ, với những nét phong phú và đặc sắc của bài thơ tác giả đã thể hiện được những chi tiết đặc sắc và mang những dấu ấn mạnh mẽ trong lòng của tác giả
Có thể nói nghệ thuật xây dựng hình tượng người lái đò của tác giả Nguyễn Tuân đã điển hình và nó thể hiện những không khí hào hùng và man dại trong cái nhìn của nhà văn, Nguyễn Tuân là nhà văn đã biết và tận dụng tốt các hình ảnh, chi tiết để tạo lên hình tượng của dòng sông qua những chi tiết thật và không khí hiện lên cũng mang rợ và có những ấn tượng sâu sắc và vang nhộn. Những hình ảnh về một dòng sông có những chi tiết rất đặc sắc và nó đúng với không khí và chi tiết mà tác giả đã và đang sử dụng ở đây. Với cái nhìn đầy chứa đựng đầy thiện cảm và nó đã tạo nên những sâu sắc riêng trong con mắt nhìn của tác giả về cái nhìn và cách quan sát của tác giả cũng thật toàn diện và như nó đang mang những dấu ấn mạnh mẽ và trang nghiêm, những chi tiết tuyệt vời mà tác giả thể hiện trong tác phẩm này là tác giả đã miêu tả rõ ràng và chi tiết và hình tượng tiêu biểu của tác giả về những hình ảnh đó, hình ảnh về quê hương và với tình yêu quê hương thắm thiết đã tạo nên cho tác giả cái nhìn sâu sắc hơn, ông đã miêu tả dòng sông qua con mắt thấu đáo của mình.
Với những tài năng không thể phủ nhận và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ ông đã thể hiện rất nhiều những câu văn nhẹ nhàng và nó đã thể hiện một tình cảm đặc biệt của tác giả đối với dòng sông đà, dưới ngòi bút thần của tác giả thì hình ảnh đó trở lên thật mĩ lệ và không có gì sánh bằng. Có thể nói những hình ảnh về thiên nhiên cũng được tác giả thể hiện sinh động và hình ảnh về người lái đò sông đà cũng được thể hiện rất chi tiết và đặc sắc nhà văn đã ví thiên nhiên Tây Bắc như một thứ vàng mười, và nó thật quý giá trong con mắt nhìn người và cách quan sát của tác giả về những chi tiết nổi bật đó.
Tài năng và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ hết sức phong phú cũng như đậm chất tài hoa của mình thì nó đã mang cho tác giả một cái nhìn toàn diện hơn về phong cách sáng tác của nhà văn, nhà văn không chỉ mang một vẻ đẹp của người nghệ sĩ tài hoa mà ông còn mang những vẻ đẹp của một người có cái nhìn đời sâu sắc.
Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà – Mẫu 13
Nguyễn Tuân là nhà văn nổi tiếng với nhiều thể loại trong đó bút ký là một trong những thể loại xuất sắc và thành công nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông. Với những cố gắng nổ lực không ngừng, Nguyễn Tuân đã thể hiện đặc sắc đó qua thể loại truyện ngắn, thơ, bút ký, nó thể hiện được hiện thực trào phúng, qua sự phát triển của dòng sự kiện xuất hiện trong tác phẩm. Và một trong những tác phẩm tiêu biểu cho đặc sắc nghệ thuật đó là tác phẩm Người Lái Đò Sông Đà.
Với nét tinh tế trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, truyện ngắn, bút ký của ông mang những nét đặc sắc, tiêu biểu trong hiện thực trào phóng thể hiện qua nhân vật, bút ký và hiện thực. Với sự phóng khoáng trong cách viết, tùy bút Người Lái Đò Sông Đà đã có nhiều nét chấm phá thể hiện sự tự do, phóng khoáng trong cách viết, đó là thể loại trữ tình, đậm nét, phóng khoáng trong cách thể hiện của tác giả.
Với nghệ thuật tinh tế, mỗi thể loại đều biểu hiện những nét riêng trong cách sáng tạo, đều được mọi người yêu quý bởi nghệ thuật xây dựng hình tượng, với cách viết độc đáo, cuốn hút, lời văn đã thể hiện được nét cá tính về đề tài, tác phẩm. Với sự phong phú trong cách thể hiện, mỗi chi tiết đều được thể hiện với những nét riêng, tiêu biểu, xuất sắc trong giá trị miêu tả.
Với cách viết phóng khoáng, việc miêu tả chi tiết, hình ảnh đó biểu hiện những nét riêng trong sự sáng tạo nghệ thuật, đậm nét phong cách, chính luận sâu sắc, mỗi chi tiết đều biểu hiện những nét cá tính riêng, đậm đà, sâu sắc trong cách biểu hiện, tinh tế qua từng chi tiết, lời văn, mỗi chi tiết đều thể hiện những nét riêng.
Với phong cách riêng, tùy bút của Nguyễn Tuân là thể loại đậm chất ký, với sự kết hợp nhuần nhuyễn cá tính chủ quan và tính trữ tình, thể loại này đã mang chất trí tuệ, tự sự của thể ký. Tác phẩm khắc họa sâu sắc được lối văn chương, cách thể hiện sâu sắc với thể loại ký, lối suy tư, cùng cách viết phóng khoáng đã để lại những đặc sắc nghệ thuật tiêu biểu, xuất sắc.
Nguyễn Tuân có tài năng trong việc sử dụng ngôn ngữ, từ ngữ mang tính chính luận, cách thể hiện đó đã mang những nét đặc trưng riêng trong cách biểu hiện, giá trị đó mang lại những điều tốt nhất cho độc giả, với sự kết hợp tinh tế, cách thể hiện sâu sắc, mỗi chi tiết là một hình ảnh, đường nét riêng trong cách thể hiện, là âm hưởng dịu nhẹ, thoáng hiện mang những cái riêng cá nhân, những đường nét, khả năng kết hợp của tác giả vào tác phẩm.
Với sự tinh tế trong cách quan sát, tác giả đã thể hiện những nét khấm phá trong tâm hồn của độc giả, với những đường nét cảm nhận riêng, tinh tế, thể hiện sâu sắc qua cách nhìn, biểu tượng về không gian, thời gian, qua cách biểu hiện tinh tế về không gian và thời gian của con người, chính vì thế. Với sự tinh tế trong cách thể hiện mọi đường nét, âm thanh sự sắc sảo trong ngôn ngữ được biểu hiện sự tinh tế, điệu luyện với những ngôn ngữ giàu tính gợi cảm, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo.
Mỗi chi tiết đều biểu hiện những nét riêng trong sự sáng tạo, sự quan sát đó đã đem lại cho tác phẩm những đường nét tinh tế, cách biểu hiện nhẹ nhàng, mang màu sắc tươi tắn, khẳng định lại giá trị, sức sống, mang đến những giá trị đích thực trong tác phẩm, dòng sông Đà mang những đường nét hấp dẫn, giá trị biểu hiện của nó nhẹ nhàng, tinh tế, thể hiện sự điêu luyện trong cách sử dụng từ ngữ, cách thể hiện ngôn ngữ, nhẹ nhàng, giàu sức tưởng tượng.
Nguyễn Tuân đã dùng tài năng của mình để sáng tác lên những tác phẩm hay, nó thể hiện những nét chấm phá trong phong cách nghệ thuật, sự sáng tạo trong cách thể hiện của tác giả về từ ngữ, nhân vật, cách biểu hiện sâu sắc, tinh tế, đem lại sự thành công đặc biệt cho tác giả.
Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà – Mẫu 14
Nguyễn Tuân là nhà văn có tài tạo dựng không khí, đem đến cho tác phẩm bằng nghệ thuật miêu tả một sự sống động như sự việc đang diễn ra thật, lối thuật kể đầy kịch tính, mạch văn dồn dập, từ ngữ biến hoá làm cho người đọc thấy lôi cuốn, hấp dẫn có cảm giác như đang trực tiếp chứng kiến sự việc. Nhà văn đã thể hiện một cách tài hoa tất cả các tâm, trí, lực, tất cả sự điêu luyện, tinh xảo nhà nghề của người lái đò. Theo Nguyễn Tuân, chỉ có thứ huân chương lao động siêu hạng của cuộc sống tặng cho ông đò mới thực sự xứng đáng (dấu tròn ở ngực).
Trong thiên tùy bút, tác giả đã dùng những biện pháp nghệ thuật nào để khắc họa một cách ẩn tượng hình ảnh con sông Đà hung bạo?
Tìm đến sông Đà, Nguyễn Tuân trước hết phát hiện ở con sông vẻ đẹp hung bạo, dữ dội. Đoạn văn trích tập trung miêu tả cái hung bạo của con sông qua cảnh thác nước và trận địa đá trên sông Đà. Cảnh đá bờ sông dựng vách thành: Mặt sông quảng ấy lúc đúng ngọ mới thấy mặt trời (so sánh: vách đá chẹt lòng sông như một cái yết hầu; quan sát hình dung: khoảng cách nhẹ nhàng tưởng như đứng từ bờ này ném nhẹ hòn đá sang bờ bên kia… Những cảm giác tác giả muốn truyền cho người đọc rất ấn tượng: ngồi trong khoang đò quãng ấy, mùa hè cũng cảm thấy lạnh, nhà văn nói cái đẹp, cái tối của vách đá bờ sông để tôn lên sự hùng vĩ hiểm trở của sông Đà quãng lòng sông hẹp…). Tác giả đã sử dụng biện pháp tô đậm, cường điệu.
Khi miêu tả ghềnh sông, Nguyễn Tuân sử dụng cấu trúc câu trùng điệp nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô sóng, cuồn cuộn lòng gùn ghè suốt năm như đòi nợ xuýt bất kỳ người lái đò nào qua đây. Tác giả dùng biện pháp vừa cường điệu vừa nhân hóa.
Đoạn miêu tả những hút nước trên sông được Nguyễn Tuân tái hiện những cảm giác mạnh dành cho kỹ xảo điện ảnh… Tất cả chứng tỏ khả năng quan sát và sự hình dung, liên tưởng tuyệt vời. Ở đây tác giả dùng biện pháp so sánh, thể nghiệm…
Đoạn miêu tả “thác nước” và “thạch trận” sông Đà. Âm thanh dữ dội, đầy những tiếng réo gào. “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo, gần mãi lại réo to mãi lên”. Tiếng thác được ví như tiếng rống của “một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Người đọc có thể cảm nhận được sự lồng lộn, giận dữ của con sông qua một thứ ngôn từ có sức nóng, có màu sắc. Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh.
Hình ảnh: “Sóng bọt trắng xóa cả một chân trời đã’ cho thấy sự mịt mùng của sóng nước. Đá: ngàn năm mai phục, khi con thuyền tới thì chồm cả dậy, vồ lấy thuyền, mặt hòn nào cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó đến dữ tợn; đá bày “thạch trận”, sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn với đá tướng, đá quân, những tường vây mà sóng nước tạo ra chỉ chờ con thuyền sơ hở để đưa vào cửa tử chết chóc… Nước: reo hò vang dậy, làm thành viên đá để bẻ gãy cán chèo vũ khí trên tay ông đò, đánh đến mòn đòn độc hiểm. Khi đối mặt, sông tích tắc sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng sà xuống mà châm lửa vào đầu sóng làm hoa mắt. Ngay cả khi đã thua thì mặt các hòn đá cũng hết sức đáng sợ: cái mặt xanh lè vì thất vọng.
Tóm lại, bằng các biện pháp nhân hoá, so sánh, tô đậm, phối hợp với việc sử dụng ngôn ngữ giàu chất tạo hình, gợi hình, những liên tưởng kỳ thú,táo bạo, khả năng vận dụng tổng hợp kiến thức của nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực: nghệ thuật, võ thuật, quân sự những câu văn có sức nén, sức dồn, độ căng, độ giãn đã giúp Nguyễn Tuân khắc họa một cách ấn tượng về một con sông hung bạo, người đọc có thể hình dung sông Đà như có một linh hồn, một thứ thiên nhiên mà có nhiều lúc như Nguyễn Tuân nói: trông nó ra thành “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một” của con người Tây Bắc, gợi liên tưởng tới câu đồng dao về thần sông, thần núi trong truyện cổ:
Núi cao sông hãy còn dài
Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen
Ở đây người đọc vẫn nhận ra “chất Nguyễn” (tức phong cách riêng của Nguyễn Tuân) trong nhân vật của Nguyễn Tuân: có chút gì đó hơi khinh bạc tài tử. Như vậy, chính cái hùng vĩ, dữ dội của sóng, thác, nước Đà là yếu tố tôn ông lái đò lên hàng “oai phong tối thượng”. Đó là điều kiện để nhân vật Nguyễn Tuân thể hiện các ngón nghề của mình. Thiên nhiên Tây Bắc đẹp đẽ, kỳ thú, những con người Tây Bắc thực sự là thứ “vàng mười” của đất nước, tài hoa như vậy mới “trị” được con sông này, bắt nó phục vụ cho cuộc sống của mình.
Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà – Mẫu 15
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc.
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.”
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
Trong những ngày tháng cả nước rộn ràng lên đường theo tiếng gọi của “tâm hồn Tây Bắc” để xây dựng lại một miền quê của Tổ quốc, có biết bao nhà văn, nhà thơ đã thực hiện quá trình lột xác để đến với cách mạng. Một trong những nghệ sĩ yêu nước ấy là Nguyễn Tuân – cây độc huyền cầm của nền văn học Việt Nam, người đã mang lại những tờ hoa thơm thảo cho đời. Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc qua tùy bút Người lái đò Sông Đà – một tác phẩm thể hiện rõ nét và sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.
Đến với nghệ thuật, đối với Nguyễn, là đến với sự tìm tòi và sáng tạo. Bởi vì “nhà văn là người sáng tạo lại thế giới”. Nguyễn Tuân sợ mình của ngày hôm nay giống với mình của ngày hôm qua, sợ sự trùng lặp tầm thường. Chính vì thế, ông đã lấy “chủ nghĩa xê dịch” làm đề tài cho tác phẩm, làm mục đích cho cuộc đời mình. Sống là để đi, để tìm hiểu những điều mới lạ. Trước cách mạng, một mình với chiếc vali, Nguyễn đã bôn ba trên nhiều miền quê đất nước nhưng với tâm trạng của kẻ “thiếu quê hương”, bất mãn với cuộc đời. Đó cũng là tâm trạng chung của thời đại. Sau cách mạng, ông cũng xuôi ngược nhiều nơi nhưng với tinh thần của người yêu quê hương xứ sở, muốn góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Chính nhà văn đã từng nói, đến Tây Bắc là để “đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc song núi Tây Bắc, và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa tươi vui và bền vững”. Với tình yêu quê hương sâu nặng và bầu nhiệt huyết sôi nổi ấy, Nguyễn Tuân đã sử dụng uyển chuyển, tinh vi vốn ngôn ngữ phong phú của mình để viết nên những tờ hoa thơm thảo về con người và thiên nhiên của miền sông núi này…
Tác giả hay đi tìm cảm giác mạnh cho các giác quan. Vì vậy, những trang văn của ông thường mang theo âm điệu của những trận cuồng phong, bão tố. Nhưng không vì thế mà chúng mất đi nét dịu hiền, thơ mộng. Qua ngòi bút Nguyễn Tuân, Sông Đà hiện lên vừa hung bạo nhưng cũng vừa trữ tình. Nó mang tâm địa xảo quyệt của thứ kẻ thù số một, có thể cướp đi mạng sống của bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch trận”… ”Nước Sông Đà reo như đun sôi lên một trăm độ…đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông” và khi thấy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng “nhỏm cả dậy để vồ lấy”… Nhưng cái hung hãn dữ tợn ấy vẫn không làm mất đi được nét trữ tình ở Sông Đà. Miêu tả con sông ở những đoạn xuôi dòng, ngòi bút Nguyễn Tuân bỗng trở nên mềm mại, uyển chuyển, mang đậm chất thơ.
“Con Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”… Trên con sông ấy, ông lái đò xuất hiện, dữ dội và phi thường. Trong cuộc chiến đấu “một mất, một còn” với thác nước, tác giả cho ta thấy được cái tài hoa, trí dũng tuyệt vời của ông lái. Người lái đò Sông Đà là hiện thân của tác giả, chỉ thích lao vào những cuộc chiến đấu nguy hiểm với thác nước dữ dội mà không ưa xuôi thuyền trên dòng sông êm ả… Giọng văn Nguyễn Tuân thật tự nhiên và phóng túng khi miêu tả hai trạng thái đối lập của cùng một sự vật. Sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, vừa là “kẻ thù , vừa là “cố nhân”. Dưới ngòi bút tác giả, con sông không chết cứng mà vận động một cách mạnh mẽ, sôi nổi bằng những từ ngữ gợi hình ảnh, tác động mạnh vào giác quan người đọc. Ông lái đò cũng thế cũng xuất hiện một cách sinh động, rõ nét và sắc sảo….
Đối với Nguyễn Tuân, “đã là văn thì trước hết phải là văn”. Văn phải đẹp, phải trau chuốt. Cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn của tác giả trên toàn bộ tác phẩm. Con người và sự vật, qua ngòi bút Nguyễn Tuân, đều được khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài hoa nghệ sĩ. Nét đẹp Sông Đà là một công trình dày công sáng tạo của tạo hóa. Nó vừa hùng vĩ vừa nên thơ. Nó đẹp từ dáng dấp đến màu sắc. Cái áng tóc trữ tình của người thiếu nữ ấy là nguồn cảm hứng cho biết bao nhà thơ, nhà văn. Nước Sông Đà cũng thế. “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, “Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”. Con sông ấy đối với tác giả không chỉ đơn thuần là một cảnh đẹp thiên nhiên mà nó thật gợi cảm. Nó gây nên nỗi nhớ da diết cho những ai đã từng một lần gặp gỡ rồi lại đi xa. Gặp lại Sông Đà, tác giả cảm thấy tâm hồn lâng lâng vui sướng như gặp lại cố nhân. “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.
Và trong cái đẹp đẽ, thơ mộng của đất trời thiên nhiên, con người xuất hiện như một nghệ sĩ tài hoa. Ông lái điều khiển con thuyền một cách chủ động và thuần thục. Ông bao giờ cũng đứng trên thác sóng dữ dội mà bắt chúng phải quy hàng. “Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy”. Nguyễn Tuân miêu tả hình ảnh ông lái điều khiển chiếc thuyền cứ như một nhạc sĩ đang kéo đàn viôlông. “Người lái đò Sông Đà” là một bước chuyển lớn trong phong cách Nguyễn Tuân. Trước cách mạng, nhà văn thường đi tìm đề tài cho tác phẩm bằng cách quay về với quá khứ, với một thời vang bóng đã qua. Nhân vật của Nguyễn là những Huấn Cao, quản ngục mang tâm trạng của kẻ “nào biết trên đầu có ai”. Nhân vật “vang bóng một thời” là những vị anh hùng ngang dọc, “khinh bạc đến điều”.
Nhưng sau cách mạng, Nguyễn đã tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở những con người lao động hết sức bình dị, gần gũi. Huấn Cao giờ đây đã lùi vào dĩ vãng chỉ còn đây một ông lái đò cả đời gắn bó với công việc, với cuộc sống. Hình ảnh ông lái lênh đênh trên sóng nước, chiến đấu với tử thần bằng cây sào bé nhỏ gây xiết bao xúc động trong lòng người đọc. Nguyễn Tuân đã trao tặng ông chiếc huy chương anh hùng lao động trên ngực như một niềm hãnh diện thiêng liêng. Ông lái xuất hiện trước mắt chúng ta như những người nghệ sĩ tài hoa trí dũng song toàn. Miêu tả hình ảnh người đời thường lái đò, Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng trân trọng, cảm phục những con người góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc.
Trong việc tái hiện lại hình ảnh sông núi Tây Bắc và người lái đò, Nguyễn Tuân đã kết hợp nhiều phương tiện của nhiều ngành nghệ thuật: hội họa, điêu khắc, điện ảnh, âm nhạc… Mọi vật, mọi sự như hiện ra trước mắt ta sừng sững và sinh động. “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Âm thanh sóng vỗ vào đá, vào mạn thuyền, sóng dậy lên thành thác núi, “một anh bạn quay phim táo tợn…đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròng trành” rồi lao xuống “đáy hút Sông Đà” để quay phim… Tất cả những gì nhà văn viết ra, những gì nhà văn tưởng tượng và sáng tạo nên đều như được dựng lại trước người đọc. Tiếp xúc với tác phẩm Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân, ta như đang đứng trước con sông ấy, chứng kiến cuộc vật lộn giữa ông lái với thác nước, chứng kiến từng đoạn sông dữ tợn, lởm chởm những đá ngầm, đá nổi và cả những đoạn sông êm ả, trữ tình.
Trong đoạn văn, Nguyễn Tuân dùng cả những kiến thức về quân sự, võ học… Cuộc chiến đấu giữa người lái với thạch trận Sông Đà diễn ra thật hấp dẫn, li kì: “Mặt nước hò la”, sóng nước “đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Nó “bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra”… Tất cả những từ ngữ và hình ảnh mang đậm nét “quân sự, võ thuật” ấy như gợi lại trước mắt ta quang cảnh một cuộc hỗn chiến nguy hiểm, đầy hồi hộp hấp dẫn. Nguyễn Tuân từng được mệnh danh là nhà văn của sự tài hoa và uyên bác. Nguồn tri thức khổng lồ của ông về lịch sử, khoa học, địa lí, sinh học… thường được tuôn trào dào dạt trong tác phẩm. Với Người lái đò Sông Đà, tác giả đã đưa ta đến với một miền quê hương Tổ quốc. Vị trí Sông Đà, lịch sử Sông Đà đã được Nguyễn Tuân giới thiệu bằng những trang viết đầy tính “uyên bác”. Nhiều địa danh được tác giả nhắc đến trong tác phẩm như Tà Mường Vát, Sơn La, Hát Loóng… Tất cả, tất cả chứng tỏ sự hiểu biết rất rộng và rất sâu của tác giả khi viết về Sông Đà…
Khả năng diễn đạt và vốn ngôn ngữ của Nguyễn Tuân thật phong phú. Mỗi từ ngữ khi đưa vào câu văn dường như đã được chắt lọc, gọt giũa cẩn thận. Ông đã sáng tạo nên nhiều từ ngữ mới lạ, độc đáo. Giọng văn đôi khi có vẻ thô kệch, dàn trải nhưng lại hết sức cô đúc và tự nhiên. Nguyễn Tuân không những viết nên những trang văn đầy tài hoa và lịch lãm mà ông còn sáng tạo nên những trang thơ cho đời. Đọc những dòng viết về con Sông Đà trữ tình, ta không khỏi ngỡ ngàng, ngạc nhiên trước giọng văn êm ái, dịu dàng như thơ của Nguyễn Tuân. Viết về người lái đò Sông Đà, viết về một vùng quê hương Tổ quốc, Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết đối với người lao động và thiên nhiên đất nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh động, ông lái càng anh dũng, ngoan cường trong công việc ta càng thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn – Người lao động trong tác phẩm Nguyễn Tuân thật bình dị từ công việc đến hình dáng, cách ăn nói. Nhưng ông ta lại là người anh hùng trước mắt Nguyễn Tuân. Nhà văn đã phát hiện ra trong con người bình dị ấy chất nghệ sĩ tài hoa, dám đương đầu với sóng to gió lớn để chèo chống con thuyền qua sông. Ông lái hiện lên trong tác phẩm là người lao động hăng hái, quên mình vì công việc.
Giữa cuộc sống bình dị này, chính nhà văn là người mang lại cho ta một thế giới mới, tinh khôi, kì diệu. Nguyễn Tuân cũng là một nhà văn, một người góp phần sáng tạo lại thế giới. Văn chương của Nguyễn Tuân đã mang đến cho chúng ta một chân trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp, của sự tài hoa và uyên bác…
*****
Trên đây là 15 bài mẫu Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà lớp 12 ngắn gọn hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình với điểm số cao nhất.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học tập
- Cảm nhận của anh (chị) về vùng đất và con người miền cực nam của Tổ quốc qua truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh Hạ lớp 12 (9 Mẫu)
- Anh (chị) hãy bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra” lớp 12 (10 Mẫu)
- Buy-phông, nhà văn Pháp nổi tiếng, có viết: “Phong cách chính là người”. Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? lớp 12 (12 Mẫu)
- Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên lớp 12 (7 Mẫu)
- Viết bài văn trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận, theo chủ đề: một tác phẩm văn học mới ra đời và đáng được nhiều người quan tâm bàn luận lớp 12
- Viết bài văn nghị luận trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận khác nhau lớp 12 (3 Mẫu)