Học TậpLớp 9

Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em chọn lọc hay nhất (20 bài mẫu)

Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em ngắn gọn, hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 20 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.

Đề bài: Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em

Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em
Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em

Mục lục

Dàn ý Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em chi tiết

Dàn ý Thuyết minh về con chó

I. Mở bài

Bạn đang xem: Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em chọn lọc hay nhất (20 bài mẫu)

– Giới thiệu về các loại vật nuôi phổ biến trong gia đình.

– Giới thiệu chung về loài chó.

II. Thân bài

1. Nguồn gốc

– Chó có nguồn gốc từ chó sói, sau đó được con người thuần hóa.

2. Đặc điểm

– Trọng lượng rất đa dạng, nhỏ nhất là từ 1 – 5kg, lớn nhất có thể lên đến hàng chục ki-lô-gam.

– Động vật có bốn chân, mỗi chân có bốn ngón, dưới chân có đệm mềm giúp giữ ấm và di chuyển nhanh chóng.

– Mắt chó cấu tạo ba mí: mí trên, mí dưới và mí thứ ba nằm sâu bên trong giúp che chắn cho mắt khỏi bụi.

– Tai chó rất thính, có thể nghe ngóng từ khoảng cách rất xa.

– Khứu giác (mũi) chó khá tốt nhưng không nhạy bằng tay.

– Cơ thể được của nó thường có hai lớp lông, mượt mà. Mỗi lớp đều có chức năng riêng.

– Chúng vẫy đuôi với con người hoặc loài vật khác chứ hiếm khi tự làm một mình.

3. Phân loại

Có khá nhiều giống chó khác nhau, nhưng chủ yếu nhấn mạng về giống chó nhà.

4. Vai trò

– Chó là vật nuôi trong các gia đình, giúp trông coi nhà cửa.

– Đối với người nước ngoài, họ coi chó như một người bạn.

– Đôi khi chó được huấn luyện để phục vụ cho các công tác đặc biệt như cứu hộ, truy vết tội phạm…

III. Kết bài

– Khẳng định vai trò của loài chó trong cuộc sống của con người.

Dàn ý Thuyết minh về con thỏ

I.Mở bài

– Giới thiệu con thỏ, một loài vật nhỏ bé với vẻ ngoài dễ thương.

II. Thân bài

– Giới thiệu khái quát:

+ Thỏ là loài động vật có vú, được nuôi nhốt, nuôi thả hoặc thỏ hoang sống tự do trong rừng.

+ Thỏ có lông mao dày, thích nghi tốt với điều kiện lạnh, khô.

– Nguồn gốc:

+ Động vật có vú, sinh sống ở nhiều nơi trên thế giới. Loài thỏ lần đầu được con người biết đến ở châu u, khoảng 1000 năm trước công nguyên.

+ Thỏ được phân thành bảy loại.

+ Tuổi thọ của thỏ kéo dài từ 4 – 10 năm, thời kỳ mang thai kéo dài 31 ngày.

+ Thỏ nhà thường yếu hơn thỏ rừng, sống trong các lồng lớn tránh bị đuổi bắt bởi thú ăn thịt.

– Cấu tạo:

+ Là động vật có tứ chi, chạy nhanh, lông dày, mềm, ấm, thường có màu trắng, đen hoặc nâu vàng.

+ Hai tai dài, bắt tín hiệu rất tốt. Khi săn mồi, thỏ thường dựng tai để lắng nghe chuyển động âm thanh. Khi nghỉ ngơi, tai thỏ cụp lại theo chiều dọc thân.

+ Mắt thỏ thường có màu đỏ, đen hoặc nâu, nhìn rõ trong điều kiện ánh sáng thường, có tuyến lệ hoạt động, phù hợp với việc sinh tồn trên cạn.

+ Mũi thỏ nhỏ và có khả năng đánh hơi.

+ Hàm răng sắc với hai răng cửa là răng chính, nhọn, bén và dài do tập tính gặm nhấm.

– Tập tính:

+ Thỏ uống nước sạch và ăn thực vật như bắp cải, cà rốt, cải xanh và các hoa quả có màu xanh lục khác.

+ Thỏ sống trong nhiệt độ mát mẻ, từ 10 – 25 độ là nhiệt độ thích hợp nhất để thỏ phát triển và sinh hoạt.

+ Thỏ thường có tập tính đào hang làm tổ để đẻ con và sinh sống.

– Vai trò:

+ Thỏ vừa được săn bắn hoặc nuôi lấy thịt. Da thỏ dùng để làm áo hoặc phụ kiện như mũ, khăn. Lông thỏ được đính lên quần áo. Chất thải của thỏ cũng là loại phân bón tốt cho cây trồng. Sữa thỏ dùng làm thuốc hoặc chế biến thành thực phẩm giàu dinh dưỡng.

+ Thỏ được nuôi làm thú cưng trong gia đình. Ngoài ra, thỏ được nuôi trong các vườn bách thú để tham quan.

+ Trong văn hóa Trung Quốc, thỏ là một trong số 12 con giáp.

+ Tuy nhiên, thỏ là một loài gây dịch bệnh cũng như phá hoại mùa màng do tập tính gặm nhấm. Tại Úc, người ta đánh bẫy và tiêu diệt thỏ để tránh ảnh hưởng xấu tới môi trường.

III. Kết bài:

Thỏ vẫn đang là loại động vật quen thuộc được khai thác phục vụ nhu cầu của con người. Nuôi nhốt, kiểm soát số lượng thỏ là cách tốt nhất để duy trì sự sống của loài vật này, đồng thời giảm thiểu tối đa tác động tiêu cực của thỏ tới môi trường tự nhiên.

Dàn ý Thuyết minh về con mèo

I. Mở bài: Giới thiệu về loài mèo, con vật gần gũi với chúng ta.

II. Thân bài:

– Đặc điểm:

+ Mèo là động vật 4 chân, thuộc lớp thú, lông dày, nhiều màu khác nhau.

+ Ria mép: Dài.

+ Tai: Có thể nghe âm thanh từ rất xa, nhạy cảm với âm thanh.

+ Mắt: Ban đêm, mắt mèo mở to như trăng rằm, mắt mèo có hình hạt táo.

+ Chân: Cũng như chó thì mèo có móng vuốt dài, bàn chân có đệm thịt dày.

+ Đuôi: Dài nhiệm vụ chính là giữ thăng bằng.

– Tập tính:

+ Mèo thích ấm áp, sợ rét.

+ Mèo rất thích bắt chuột.

+ Mèo rất thích leo trèo, bắt chuột.

+ Loài mèo thích được vuốt ve.

– Vai trò:

+ Con mèo loài vật có ích: Bắt chuột để bảo vệ mùa màng, giữ gìn đồ dùng tránh xa sự phá hoại của chuột.

+ Nhiều người nuôi để làm cảnh với nhiều giống mèo đẹp.

III. Kết bài: Nêu lên được vai trò, lợi ích của loài mèo đối với con người.

Dàn ý Thuyết minh về con trâu

I. Mở bài

– Giới thiệu chung về hình ảnh con trâu trên đồng ruộng, làng quê Việt Nam.

II. Thân bài

1. Nguồn gốc, đặc điểm của loài trâu:

– Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy.

– Là động vật thuộc lớp thú, lông trâu có màu xám, xám đen; thân hình vạm vỡ,thấp, ngắn; bụng to; mông dốc; đuôi dài thường xuyên phe phẩy; bầu vú nhỏ; sừng hình lưỡi liềm…

-Trâu mỗi năm chỉ đẻ từ một đến hai lứa, mỗi lứa một con…

2. Lợi ích của con trâu:

a. Trong đời sống vật chất:

– Trâu nuôi chủ yếu để kéo cày, bừa, giúp người nông dân làm ra hạt lúa, hạt gạo.

– Là tài sản quý giá của nhà nông.

– Cung cấp thịt; cung cấp da, sừng để làm đồ mỹ nghệ…

b. Trong đời sống tinh thần:

– Trâu là người bạn thân thiết với tuổi thơ của trẻ em ở nông thôn một buổi đi học, một buổi đi chăn trâu:thổi sáo, đọc sách, thả diều, đánh trận giả khi chăn trâu…

* Bổ sung hai câu thơ của nhà thơ Giang Nam viết về tuổi thơ chăn trâu:

  • Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
  • Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ:
  • “Ai bảo chăn trâu là khổ ?”
  • Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao

– Con trâu với lễ hội ở Việt Nam:

  • Hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng.
  • Lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên.
  • Là biểu tượng của Sea Game 22 Đông Nam Á được tổ chức tại Việt Nam.

III. Kết bài

– Khẳng định lại vai trò của con trâu trong đời sống người nông dân ở làng quê Việt Nam.

– Nêu suy nghĩ, tình cảm của bản thân.

Dàn ý Thuyết minh về con lợn

I. Mở bài:

– Dẫn dắt, giới thiệu đối tượng thuyết minh: Con lợn (theo cách gọi miền Bắc) hoặc con heo (theo cách gọi miền Nam)

– Giới thiệu đối tượng thuyết minh: con lợn (loài vật nuôi quen thuộc, được nuôi rộng rãi, có vai trò quan trọng,…).

II. Thân bài

– Nguồn gốc của loài lợn:

+ Có nguồn gốc từ lục địa Á – Âu.

+ Lợn nhà ngày nay xuất phát từ lợn rừng được thuần hóa.

Hình dáng và đặc điểm đặc trưng của con lợn:

– Hình dáng đặc trưng:

+ Có 4 chân, chân thấp, có móng guốc

+ Toàn thân phủ một lớp lông cứng bên ngoài

+ Có mõm to, mũi to.

+ Hai tai to và vểnh.

– Đặc điểm, tập tính vốn có của lợn (heo):

+ Là loài ăn tạp

+ Có khứu giác phát triển, thích đào + bới

+ Thích sống nơi râm mát, ẩm ướt

+ Sinh nhiều con, nhiều lứa.

– Vai trò của lợn trong cuộc sống:

+ Một số giống lợn được nuôi làm kiểng, thú cưng.

+ Cung cấp thịt, da làm thực phẩm.

+ Dùng để trao đổi, mua bán tăng nguồn thu nhập cho người chăn nuôi.

+ Lợn và thịt lợn thường được dùng trong các buổi lễ, tế, thờ cúng.

+ Lợn còn là nguồn cảm hứng cho sáng tác nghệ thuật (nó xuất hiện trong thơ ca, mỹ thuật, văn học,…).

III. Kết bài

– Khẳng định lại vai trò của lợn đối với cuộc sống con người và cảm nhận của em đối với con vần vô cùng quen thuộc và có ích này.

Dàn ý Thuyết minh về con gà

I. Mở bài:

Có một loài vật nuôi gắn bó với đời sống của người Việt Nam, đem lại nhiều lợi ích cho con người, không chỉ về vật chất mà cả về mặt tinh thần. Đó là loài gà. (Có thể từ những câu thơ của Xuân Quỳnh trong bài “Tiếng gà trưa” để dẫn đến việc giới thiệu loài gà)

II. Thân bài:

– Gà có nguồn gốc từ gà rừng, được con người đem về nuôi nên có tên là gà nhà.

– Khác với gà rừng, do được chăm sóc, nên gà nhà có thói quen trở về chuồng mỗi khi trời tối.

– Gà thuộc họ chim, nhóm lông vũ. Có nhiều loại gà như gà gô, gà ri, gà tam hoàng, gà ta,…

– Xét về giới tính, có gà mái và gà trống:

+ Gà trống có thân hình vạm vỡ, trên đầu có mào đỏ chót, bộ lông rực rỡ, lông đuôi dài, chân có cựa

– lực lưỡng và oai vệ.

+ Gà mái yểu điệu, đoan trang, lông mượt mà, lông đuôi ngắn, mắt tròn xoe, trên đầu không có mào, chân không cựa.

+ Thức ăn của gà là thóc, các loài côn trùng, giun đất, chuối cây thái nhỏ băm nhuyễn trộn cám, các loại bột dạng viên, …

– Gà mái đẻ trứng, mỗi lứa có thể đẻ từ 15 đến hơn 20 quả. Trứng được ấp trong khoảng 3 tuần thì nở ra những chú gà con xinh xắn. Những chú gà con này vừa mở mắt có thể tự kiếm ăn, nhưng đối với gà nhà, chúng thường được mẹ dẫn đi kiếm mồi. Mỗi khi gà mẹ tìm được mồi liền cục cục,…gọi đàn con đến ăn. Những lúc gà mẹ dẫn con đi ăn, nếu có loài vật nào dám đụng đến đàn gà con thì lập tức bị gà mẹ chống trả quyết liệt.

– Vai trò của gà trong đời sống con người:

Gà là một động vật có ích, đem lại nhiều lợi ích về kinh tế cho con người.

+ Trứng gà là nguồn thực phẩm lớn trong đời sống con người. Từ trứng gà có thể chế biến nhiều món ăn ngon như món trứng gà luộc, trứng gà chiên, trứng gà ốp la,…Trứng gà đánh với bột mì có thể làm bánh, bánh ga tô, bánh kem,…Trứng gà còn là một dược phẩm dùng để dưỡng da. Ông bà ta thường luộc trứng để cạo gió mỗi khi bị cảm sốt.

+ Thịt gà là món ăn ngon. Có nhiều món được chế biến từ gà như gà luộc chấm muối tiêu, gà xé trộn rau răm, gà hấp, gà chiên, gà quay,…

+ Lông gà qua xử lí hoá học có thể trở thành một loại bột giặt hữu hiệu. Ngoài ra còn dùng làm cây cọ để viết, vẽ; làm chổi, làm quạt, làm áo lông gà, làm cầu cho môn thể thao đá cầu,…

+ Ngay cả chất thải của gà cũng có thể dùng làm phân bón cho cây cối. Loại phân này rất thích hợp cho cây ớt và cây thuốc lá.

– Không chỉ có lợi ích về vật chất, mà còn có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của con người.

+ Tiếng gà gáy là chiếc đồng hồ báo thức cho người dân quê. Tiếng gà gáy mỗi sớm, mỗi chiều trở nên quen thuộc gợi cuộc sống thanh bình, yên ả. Vì thế mà nó đi vào thơ văn một cách tự nhiên. Ngay từ thời xa xưa, trong truyện cổ tích “Sọ Dừa”, tiếng gà gáy xuất hiện đã đem lại sự đoàn tụ cho Sọ Dừa và cô Út. Và “Tiếng gà trưa ” của Xuân Quỳnh là một bài thơ rất hay về âm thanh “tiếng gà”: “Trên đường hành quân xa – Dừng chân bên xóm nhỏ – Tiếng gà ai nhảy ổ – Cục cục tác cục ta – Nghe xao động nắng trưa – Nghe bàn chân đỡ mỏi”

+ Trên mâm cỗ cúng ông bà tổ tiên, đất đai, thần thánh thường có gà luộc nguyên con, để tỏ lòng trân trọng biết ơn ông bà, tổ tiên.

+ Gà còn xuất hiện trong các lễ hội truyền thống với trò chơi chọi gà độc đáo. Ở nước Pháp chú gà trống Gô-la tượng trưng cho sự phồn thịnh của nước nhà.

– Hình ảnh gà mẹ dẫn đàn gà con đi kiếm mồi điểm thêm cho bức tranh làng cảnh Việt Nam.

– Tuy nhiên hiện nay do bị ảnh hưởng của môi trường sống, nhiều loại dịch bệnh xuất hiện trong những năm gần đây, nhất là bệnh dịch cúm gia cầm H5N1. Vì thế mà con người cần chăm sóc cẩn thận để nguồn bệnh đỡ lây lan, không nên ăn gà bệnh. Cần phải có mạng lưới kiểm duyệt chặt chẽ nguồn thực phẩm này.

III. Kết bài:

– Khẳng định vị trí của loài gà.

– Tình cảm của em với loài vật nuôi này

20 bài mẫu Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em hay nhất

Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em- Mẫu 1

Sau khi chào tôi, chị mèo hào hứng kể rằng họ mèo nhà chị có nguồn gốc từ mèo rừng. Mèo bắt đầu được thuần hóa và nuôi ở Ai Cập sau đó lan nhanh sang Châu Âu và các khu vực khác trên thế giới. Riêng ở Việt Nam, mèo bắt đầu được nuôi từ khoảng hai nghìn năm trước đây.

Quả đúng như chị mèo Thông Thái nói, họ nhà chị ai ai cũng có vẻ ngoài nhanh nhẹn, tràn đầy sức sống. Đầu mèo tròn, nhỏ và ở phía trước hơi nhô ra, đó là mõm mèo. Trông mèo nhỏ bé thế nhưng hàm răng nó lại có tới ba mươi chiếc. Trong số này, ngoài bốn chiếc răng nanh sắc nhọn thì hầu hết đều nhỏ xíu. Kỳ lạ nhất là đôi mắt mèo, đôi mắt trong veo như hai hòn bi ve.

Đồng tử mèo có khả năng co giãn cực tốt. Ban ngày, đồng tử thu nhỏ đến đêm mới giãn ra. Thế là mèo ta có thể nhìn rõ trong đêm tối. Thân hình nhỏ bé của mèo được nâng đỡ bởi bốn chân chắc khỏe. Vì nằm trong nhóm động vật bậc thấp nên mèo vẫn có một cái đuôi dài. Mỗi chân mèo đều có bốn ngón, dưới những ngón chân có vuốt cực sắc này là đệm thịt giúp mèo đi lại nhẹ nhàng.

Chắc chẳng có em bé nào mà lại không biết đến câu hát: “Meo meo meo, rửa mặt như mèo…” hay “mèo con ra bể nước, bàn chân nó vuốt vuốt, xoa mấy sợi râu cước…”. Hình ảnh chú mèo liếm láp lòng bàn chân trước bên phải của mình cho thật sạch rồi lấy chính chân đó cọ cọ vào mặt mình đã khắc sâu vào tâm trí trẻ thơ. Một tập tính nữa mà ai cũng biết ở mèo đấy là bắt chuột. Bọn chuột xấu xí chuyên đi ăn vụng mỗi khi nghe thấy tiếng “meo meo” của mèo là hồn vía chạy đi đâu hết cả, chỉ còn biết bạt mạng chạy. Cộng thêm với đôi râu và đôi tai nhạy như ra đa mà trời đã ban cho, mèo lại càng bắt được nhiều chuột.

Nghe chị mèo nói đến đây, tôi đã thấy khoái loài mèo lắm rồi, bèn giục: “Chị ơi, chị kể cho em nghe về sự sinh trưởng của mèo đi”. Chị mèo mỉm cười rồi tiếp: “Mèo con được một tháng tuổi đã được mẹ dạy cho những kỹ năng bắt chuột cơ bản như chạy, nhảy, rình mồi, vồ mồi. Trong thời kỳ này, mèo mẹ sẽ dẫn mèo con đi quanh nhà để chúng “tìm hiểu” mọi thứ. Lớn hơn một chút, khoảng từ bốn đến năm tháng tuổi là có thể tự săn mồi. Mèo từ mười đến mười hai tháng tuổi là có thể sinh sản được.

Lúc này, mèo cái có bộ lông mới mượt hơn, dày hơn bình thường. Cơ thể mèo lúc này phát ra một mùi đặc biệt và có tiếng kêu khác thường để hấp dẫn các chàng mèo đực. Sau khi giao phối, mèo cái lại sống đơn độc như trước và tự nuôi con. Mỗi lứa, mèo mẹ đẻ khoảng hai đến sáu con. Mèo con mới đẻ mắt nhắm nghiền, khoảng một tuần sau mới mở mắt”.

Rồi chị đố chúng tôi kể được tên thật nhiều loài mèo. Hừm, để xem nào. Mèo mun lông đen tuyền từ đầu tới gót này. Mèo mướp với bộ lông xám tro, mèo vàng lông vàng óng nữa. Có lẽ giống mèo đông đúc nhất, được nuôi phổ biến nhất là mèo tam thể. Loài này lông có màu đen, vàng, trắng pha lẫn với nhau. Nghe chúng tôi kể, chị gật gù: “Họ nhà người cũng am hiểu về họ nhà mèo ghê”.

Chị còn kể cho chúng tôi về nỗi kinh hoàng của họ nhà chị. Xưa, người ta dùng ruột mèo để căng dây vợt tennis (Nói đến đây, mặt chị hơi nhăn lại). Và bây giờ người ta còn ăn thịt mèo nữa. Nghe đâu, Chính phủ đã cấm bán và ăn thịt mèo. Song mấy người bạn chị bảo ở dưới Thái Bình, số quán nhậu “tiểu hổ” vẫn ở mức hàng trăm. Và cứ mỗi ngày, lại có hơn một ngàn anh chị em cô bác mèo “ra đi” tại đây. Chị lắc đầu “Cứ đà này, chẳng mấy chốc, bọn chuột dưới đó lại nổi loạn cho xem”. Vì mèo là “khắc tinh” của chuột mà.

Các bạn có muốn góp tay ngăn chặn nạn chuột không? Hãy nuôi một chú mèo trong nhà nhé. Theo kinh nghiệm của chị mèo Thông Thái thì mèo con dưới hai tháng tuổi nên cho ở với mẹ. Khi lớn lên thì cho tập ăn cơm trộn cá, trộn thịt hoặc thậm chí cả rau nữa. Mèo là loại động vật có xuất xứ từ sa mạc nên rất ưa hơi ấm. Chính vì thế nên mèo rất hay trườn mình cọ vào chân người. Lúc đó, bạn hãy ôm mèo vào lòng, ủ ấm cho nó hoặc mang nó ra nắng sưởi ấm nhé! Thấy chưa, mèo ta đã lim dim đôi mắt và gừ gừ khoan khoái rồi kìa. Mèo cũng rất thích chơi với các em bé từ bốn tuổi trở lên. Đây là thời kỳ hình thành nhân cách của các em nên nếu trong gia đình nuôi một chú mèo thì trẻ nhỏ sẽ sớm biết yêu động vật. Thật đáng tiếc nếu bạn bị dị ứng với lông mèo vì khi đó bạn chỉ có thể ngắm nó từ xa chứ đừng nuôi mà cũng đừng âu yếm vuốt ve nó. À, các bạn nhớ đem mèo đi tiêm phòng mỗi năm một lần và thường xuyên tắm hoặc bắt rận cho mèo nhé. Để mèo luôn khỏe mạnh và sạch sẽ mà.

Ối, vì trời nắng ấm quá nên chị mèo Thông Thái đã ngủ quên mất rồi. Thôi, chúng ta sẽ để yên cho chị ấy ngủ nhé. Tôi chắc rằng lần sau chị ấy sẽ kể cho chúng ta rất nhiều chuyện thú vị về loài mèo đấy. Vì loài mèo là bạn tốt.

Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em- Mẫu 2

Từng ngày trôi, cuộc sống sẽ buồn tẻ biết bao nếu bên cạnh chúng ta không có những người bạn động vật nhỏ. Em rất thích mèo và luôn tìm hiểu về chúng. Mèo là vật nuôi quen thuộc trong các gia đình từ xưa đến nay.

Mèo là động vật thuộc lớp thú, có bốn chân. Trên mình phủ một bộ lông dày, mượt mà. Mèo nhà có nguồn gốc từ mèo rừng. Mèo được nuôi đầu tiên ở châu Phi, sau được nuôi ở các nước châu Âu và các nước nước khác. Thời đại phát triển ngày nay thì người ta đã lai tạo nhiều giống mèo mới như: mèo tam thể. mèo lông xù, mèo mướp, mèo mun,… Trên mặt mèo có bộ ria mép, đó chính là trợ thủ đắc lực của mèo.

Những lúc đuổi chuột, chuột chạy vào hang, mèo muốn đuổi theo thì ria mép không được chạm vào cửa hang, còn nếu ria mép chạm vào thì mèo không thể đuổi theo được, vì chiều dài của ria đúng bằng chiều rộng thân. Đặt biệt tai mèo rất thính và mắt mèo rất tinh. Tai mèo có thể nghe mọi cử động của chuột, dù là nhỏ nhất. Mắt mèo có cấu tạo đặc biệt, có thể co giãn, ban ngày mắt mèo co lại, ban đêm mắt mèo giãn ra, có thể nhìn được trong bóng tối. Điều đó giải thích vì sao mèo hay bắt chuột vào ban đêm.

Loại mèo rất sợ lạnh, nên chúng rất thích ngủ ở những nơi ấm áp, thích cuộn tròn người và vuốt ve bộ lông. Do đó vào mùa đông, mèo hay ngủ cạnh bếp lò, chui vào trong chăn ấm. Vào những ngày nắng, mèo hay nhảy lên mái bếp hoặc nằm ngoài sân để sưởi nắng. Lông mèo rất đặc biệt, khi được chiếu sáng sẽ tổng hợp thành vitamin D, mèo lấy vitamin bằng cách liếm lông, chúng ta hay nhầm tưởng mèo tự làm sạch cho mình. Dưới chân mèo có một đệm thịt dày, dù nhảy trên cao xuống cũng không phát ra tiếng động. Thức ăn chính của mèo là chuột, ngoài ra mèo còn ăn thêm cơm, cá và rau. Chân mèo có móng vuốt đàn hồi, bình thường móng cụp lại, khi tự vệ hay vồ mồi thì móng duỗi ra.

Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em- Mẫu 3

Từ xa xưa, lợn là loài vật đã gắn bó thân thiết với người dân Việt Nam, nó là nét đặc trưng của vùng quê lam lũ, con vật hiền lành và được nuôi phổ biến trong những hộ gia đình. Nó đóng vai trò quan trọng đối với kinh tế của người nông dân nghèo khó.

Trong ngành chăn nuôi gia súc, lợn là loài vật đem đến lợi nhuận kinh tế cao. Ở Việt Nam hiện nay có nhiều giống lợn được người nông dân nuôi như: lợn ỉn, lợn sề, lợn mán, lợn cắp nách. Trong đó loại lợn ỉn được nuôi nhiều nhất, phát triển mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ. Chúng có thân màu đen, hoặc đen khoang trắng, lông chúng thưa, mõm ngắn, bụng sệ khiến lưng của chúng cũng võng xuống theo, có bốn chân nhỏ và thấp chính vì thế mà chúng di chuyển khá chậm chạp, ì ạch và nặng nhọc. Lợn ỉn sau bảy đến tám tháng nuôi sẽ đạt cân nặng là 60-70 ki lô. Khi lợn đạt đến cân nặng tiêu chuẩn, người dân có thể bán đi hoắc tiếp tục nuôi để lợn sinh sản ra lứa sau. Mỗi lứa sinh, lợn thường đẻ tới hàng chục con và nuôi chúng bằng sữa mẹ.

Lợn là loài vật rất dễ nuôi, thức ăn của chúng đa phần là bèo cái, khoai nứa hoặc cám và các loại rau như rau lang, rau muống, cây chuối. Chúng ăn rất nhiều, ăn xong nằm ngủ, đặc tính của chúng khá dễ bao gồm hai việc ăn và ngủ, chúng không có những đặc điểm giống như các loài vật khác. Thịt lợn ỉn rất ngon, thịt nạc mềm và da chúng mỏng nên được nhiều người ưa chuộng, dần chúng trở thành thực phẩm phổ biến trên thị trường thực phẩm Việt Nam nói riêng và thị trường nước ngoài nói chung. Trong các gia đình nông thôn, thường hộ nuôi hai lứa lợn, mỗi lứa dăm chục con, không chỉ nuôi lấy thịt, phân của chúng còn được tận dụng bón cho cây trồng.

Ngoài lợn ỉn ở vùng đồng bằng Bắc Bộ thì cũng có nhiều giống lợn khác phân bố ở các tỉnh thành vùng núi phía Bắc như : lợn rừng, lợn cắp nách, lợn móng cái. Lợn ở trên các vùng núi thường được nuôi thả rông, thân nhỏ, mõm dài,lông cứng, nặng từ bảy đến hơn chục ki lô. Khi đủ độ lớn, chúng được người dân mang ra các phiên chợ địa phương để trao đổi mua bán.

Hiện nay, khi Việt Nam càng tập trung phát triển mạnh về chăn nuôi gia súc, với sự kết hợp của các nhà nghiên cứu và người dân, nhiều giống lợn được nhập khẩu và nuôi theo phương pháp mới, quy mô trang trại lợn hơn, tăng thêm lợi ích kinh tế cho người dân. Ví dụ như giống lợn của nước Anh, chúng có thân trắng hồng, lông mượt, đầu nhỏ và hai tai dựng, thân dài bụng thon gọn và bốn chân cao. Trọng lượng của một con lợn trưởng thành có thể lên tới 100 ki lô, cơ thể khá săn chắc do quy cách chăn nuôi được nâng cao và đổi mới. Giống lợn này hiện nay hầu như đáp ứng nhu cầu của mọi người tiêu dùng trên thị trường, Từ thịt lợn ấy, người ta chế biến được nhiều món ăn dinh dưỡng như: Thịt rang, thịt lợn luộc, thịt ba chỉ, thịt nạc vai băm để nấu canh, kho hay rán cùng với trứng,.. Hầu hết thịt lợn xuất hiện hàng ngày trong các bữa ăn gia đình đến những ngày giỗ, ngày Tết,.. Bên cạnh đó lợn còn xuất hiện trong những bức tranh Đông Hồ của các nghệ sĩ vẽ tranh, chúng mang một vẻ đẹp giản dị trong đời sống nhân dân Việt Nam.

Lợn là con vật quen thuộc mang lại nhiều lợi ích cho con người, gắn bó thân thiết với người nông dân, với xóm làng, vườn tược và quê hương Việt Nam.

Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em- Mẫu 4

Cuộc sống của con người sẽ trôi đi tẻ nhạt và buồn chán biết bao nếu như không có những con vật để bầu bạn. Nếu như những chú mèo nhỏ xinh là con vật cưng của nhiều người, chú chó là người canh dữ dũng cảm thì chú lợn hiền lành, đáng yêu luôn đem lại cho người ta những giây phút thư giãn và yêu đời.

Chắc hẳn là ai cũng nhận biết được loài vật này, lợn đã trở thành một con vật nuôi quen thuộc với chúng ta. Lợn nhà có nguồn gốc từ lợn rừng, đầu tiên do con người săn bắn và hái lượm, họ bắt được lợn rừng và đem về nuôi. Dần dần con người ý thức và chọn lựa những con lợn tốt để nuôi còn những con kém chất lượng có thể giết thịt nhằm cung cấp thực phẩm. Tổ tiên của lợn chính là lợn rừng, cho rằng lợn nhà được tạo ra từ các giống lợn rừng châu Âu và châu Á.

Các giống lợn được phân thành các giống lợn chính và các giống lợn phụ. Ở rừng châu Á và châu Âu có tới bốn giống lợn chính và 25 giống lợn phụ. Lợn ngày nay được tạo thành ba giống lợn phụ của châu Á là Sus orientalis, Sus vitatus, một giống lợn châu Âu Sus crofa. Lợn rừng và lợn hoang dã cũng là những giống lợn khác nhau ở vùng nhiệt đới và ôn đới. Lợn nước hoặc lợn đầm lầy là giống lợn thích nghi như các động vật bán thủy sinh.

Lợn thuộc vào thứ có guốc. Kích cỡ và hình dạng của lợn thường thay đổi khác nhau tùy theo từng giống. Đầu và toàn thân lợn có thể dài đến 190500mm, đuôi dài từ 35- 450mm. Lợn trưởng thành cơ thể nặng tới 350kg. Mắt của chúng nhỏ và dẹt, nằm cao trên hộp sọ. Tai của lợn khá dài và rủ xuống với một nhúm lông nằm gần đầu mút. Hộp sọ của lợn thường dài và có một điểm chấm khá bằng phẳng. Mũi của lợn to bằng bàn tay nắm lại và khá linh động. Cả bốn chân của lợn đều có móng nhưng nó chỉ thể hiện chức năng trong vận động ở các ngón giữa. Những chú lợn khoác lên mình bộ áo màu trắng phớt hồng, điểm xuyết một vài chiếc lông trắng.

Lợn được nuôi để lấy thịt có chất lượng thịt thơm ngon, tỷ lệ thịt xẻ và tỉ lệ mỡ cao trong thân thịt. Lợn có thể sản xuất một lượng mỡ đáng kể. Mỡ là một nguồn dự trữ năng lượng lớn, giúp cho thịt có mùi và vị ngon hơn. Ngoài ra thịt lợn vốn là loại thực phẩm có giá cao, ổn định trên thị trường. Lợn có rất nhiều đóng góp giá trị cho đời sống của con người. Hầu hết thân thịt lợn đều sử dụng để chế biến hoặc làm thức ăn cho con người. Da của lợn có thể làm thức ăn hoặc cung cấp cho ngành thuộc da, lông có thể được dùng để làm bàn chải, bút vẽ. Sự phát triển của công nghệ chế biến thịt hun khói, lên men đã tạo nên một số lượng sản phẩm rất đa dạng từ thịt lợn, các công nghệ này đã giúp cho quá trình bảo quản, nâng cao tính đa dạng, hương vị và nâng cao phẩm chất khẩu phần ăn cho con người.

Sau khi được thuần hóa, lợn sớm trở thành một món hàng có giá trị cho việc kinh doanh và buôn bán. Trước khi tiền tệ xuất hiện, con người đã tiến hành trao đổi lợn để lấy các loại hàng hóa khác. Quá trình thương mại diễn ra cũng có nghĩa là con lợn bắt đầu có giá trị kinh tế. Việc bán lợn và các sản phẩm lợn cung cấp một nguồn thu nhập cho hàng triệu gia đình nông dân trên thế giới. Các sản phẩm này đã ảnh hưởng rộng đến các hoạt động kinh doanh khác như: thương mại, vận chuyển, thị trường, giết mổ, chế biến thức ăn và nhiều lĩnh vực khác nữa. Ngoài ra nó còn có tác dụng kích cầu đối với các ngành chế biến thức ăn, sản xuất con giống, tinh dịch, thuốc thú y và các thiết bị khác. Khi lợn có giá trị kinh tế, chúng là một hình thức tiết kiệm cho người dân.

Lợn đã được xem là một loài vật nuôi có tầm quan trọng không chỉ vì giá trị thức ăn mà còn có các giá trị văn hoá độc đáo. Điều này được thể hiện trong các bài hát, thơ ca, tranh ảnh hội hoạ, sách. Lợn được xem là có các đặc tính của con người. Nó được thể hiện là các đấng anh hùng hay là kẻ hung dữ trong các truyện ngụ ngôn.

Những con lợn đem lại nguồn lợi không hề nhỏ cho người dân và mang những giá trị tinh thần to lớn. Vì vậy, ta cần chăm sóc và yêu quý loài vật này.

Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em- Mẫu 5

Nếu bạn đã từng đi qua những làng quê ở Việt Nam thì không thể không bắt gặp những chú trâu đang cần mẫn cày ruộng hay đang thong thả gặm cỏ. Con trâu là người bạn thân thiết của người dân và gắn bó lâu đời với nhau từ hàng ngàn năm nay. Và chúng được xem như biểu tượng của người nông dân Việt Nam.

Trâu bắt nguồn từ loài trâu rừng. Lông trâu thường có màu xám đen, thân hình vạm vỡ. Với đôi sừng nhọn, uốn cong như hình một lưỡi liềm. Chúng được con người sử dụng làm đồ trang sức. Trâu là loài động vật thuộc lớp có vú. Trâu nuôi chủ yếu để kéo cày. Một con trâu đực trung bình cày bừa từ 3 – 4 sào còn trâu cái có thể cày bừa từ 2 – 3 sào.

Trong những thời đại trước trâu còn dùng để kéo xe, chở hàng và có thể kéo tải trọng từ 400 – 500kg. Con trâu còn có thể kéo gỗ củi và hàng hóa. Trâu cung cấp cho ta rất nhiều sản lượng về lương thực và sữa. Đem bán thịt trâu cũng thu được những khoản tiền đáng kể. Người ta thường trồng cây xen lẫn các cây ăn quả, phân trâu ủ xanh là thuốc bón tốt nhất cho cây. Trâu chính là tài sản nên rất được người dân chăm sóc rất chu đáo.

Hình ảnh con trâu ung dung gặm cỏ non, xanh mát và trên trời là những cánh diều bay cao giữa không trung đã in sâu trong tâm trí người Việt Nam. Chăn trâu thả diều là một trong những trò chơi của trẻ em nông thôn, một thú vui đầy lý thú. Trên lưng trâu còn có bao nhiêu là trò như đọc sách, thổi sáo… Những đứa trẻ đó lớn dần lên, mỗi người mỗi khác nhưng sẽ ko bao giờ quên được những ngày thơ ấu.

Ngoài ra trâu con gắn liền với những lễ hội truyền thống như chọi trâu đâm trâu. Lễ hội chọi trâu ở Hải Phòng là nổi tiếng nhất ở Việt Nam. Hải Phòng là vùng đất có truyền thống văn hoá với nhiều di tích lịch sử và danh thắng mang đặc trưng của miền biển. Trong những di sản văn hoá ấy, nổi bật là lễ hội chọi trâu Đồ Sơn – một lễ hội mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Lễ hội nói chung là một sinh hoạt văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật truyền thống phản ánh cuộc sống vật chất và tâm linh của một cộng đồng trong quá khứ. Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn được khôi phục lại hơn 10 năm nay và được Nhà nước xác định là 1 trong 15 lễ hội quốc gia, bởi lễ hội này không chỉ có giá trị văn hoá, tín ngưỡng, độc đáo mà còn là điểm du lịch hấp dẫn với mọi người. Ở Đồ Sơn vẫn có câu thành ngữ “Trống mọi làng cùng đánh, thánh mọi làng cùng thờ” để lập luận Hội chọi trâu ra đời cùng với việc trở thành hoàng làng.

Tìm hiểu nguồn gốc ấy để thấy rằng lễ hội chọi trâu có một ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống người Đồ Sơn từ xưa tới nay. Ngoài nhu cầu vui chơi, tìm hiểu, qua lễ hội người ta tưởng nhớ đến công ơn của các vị thần, duy trì kỷ cương làng xã, để cầu nguyện cho “nhân khang, vật thịnh”.

Người vùng biển đã gửi gắm tinh thần và ý chí của mình vào những “kháp đấu” giữa các “ông trâu”. Mỗi “ông trâu” trên xới đấu thắng thua ra sao sẽ chứng tỏ tài năng của các ông chủ trâu, của phường xã mình. Như vậy các “kháp đấu” giữa những ông trâu đã trở thành nghệ thuật, có tính biểu tượng sinh động, thể hiện bản sắc văn hoá. Như vậy chọi trâu đã nói hộ tích cách của người dân vùng biển, nó đã được định hình từ lâu với nội dung phong phú gồm nhiều yếu tố văn hoá dân gian, lành mạnh kết tinh của cả một vùng văn hoá ven biển mà Đồ Sơn là trung tâm. Đây là một lễ hội độc đáo của người dân Đồ Sơn, nó gắn liền việc thờ cúng thuỷ thần với nghi lễ chọi và hiến sinh trâu, có cả sự giao thoa giữa những yếu tố văn hoá nông nghiệp đồng bằng với văn hoá cư dân ven biển.

Con trâu đã gắn bó với người những người nông dân Việt Nam. Nó không những mang lại cho những người nhân dân việt nam về mặt vật chất mà còn mang lại cả về mặt tinh thần. Con trâu còn gắn bó với những lễ hội tiêu biểu của người dân Việt Nam. Nó đã là biểu tượng của của làng quê việt nam và Đất nước Việt Nam.

Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em- Mẫu 6

Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.

Bao đời nay, hình ảnh con trâu đã trở nên gắn bó với người nông dân Việt Nam. Trâu Việt Nam là trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy và thường sống ở miền khí hậu nhiệt đới. Thân hình vạm vỡ nhưng thấp và ngắn. Bụng to. Da dày có màu xám đen nhưng vẫn tạo cảm giác mượt mà bởi bên ngoài được phủ một lớp lông mềm. Điều đặc biệt ở trâu mà không thể không nhắc đến đó là trâu thuộc họ nhai lại.

Quanh năm suốt tháng, trâu cùng người chăm lo việc đồng áng vì vậy người nông dân coi trâu như người bạn thân thiết nhất của mình. Trâu to khỏe, vạm vỡ lại chăm chỉ cần cù chịu thương chịu khó nên thường gánh vác những công việc nặng nhọc của nhà nông. Từ sáng sớm tinh mơ. khi mặt trời còn ngái ngủ, trâu đã cùng người ở “trên đồng cạn” rồi lại xuống “dưới đồng sâu”, cho đến khi ông mặt trời mệt mỏi sau một ngày làm việc, chuẩn bị đi ngủ trâu vẫn miệt mài bên luống cày.

Trâu là nguồn cung cấp sức kéo quan trọng. Lực kéo trung bình của trâu trên đồng ruộng là 70 – 75kg, tương đương 0,36 – 0,1 mã lực. Trâu loại A một ngày cày được 3 – 4 sào Bắc Bộ, loại B khoảng 2 – 3 sào và loại C 1,5 – 2 sào. Trâu còn được dùng để kéo đồ, chở hàng; trên đường xấu tải trọng là 400 – 500kg, đường tốt là 700 – 800kg, còn trên đường nhựa với bánh xe hơi thì tải trọng có thể lên đến 1 tấn. Trên đường đồi núi, trâu kéo từ 0,5m khối gỗ trên quãng đường 3 – 5km. Khỏe như vậy nhưng bữa ăn của trâu rất giản dị, chỉ là rơm hoặc cỏ.

Trâu cũng là một trong những nguồn cung cấp thực phẩm cho con người. Thịt trâu có hàm lượng đạm khá cao, hàm lượng chất béo thấp. Sữa trâu có tính năng cao trong việc cung cấp chất đạm chất béo. Da trâu làm mặt trống, làm giày. Sừng trâu làm đồ mỹ nghệ như lược, tù…

Không chỉ góp phần quan trọng trong đời sống vật chất của người dân, trâu còn có mặt trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Từ xa xưa, trâu hay còn gọi là ngưu, sửu – có mặt trong 12 con giáp. Con trâu trở thành con vật gắn liền với tuổi tác của con người. Người mang tuổi trâu thường là những người chăm chỉ cần cù, thậm chí vất vả. Trong đời sống văn hóa tinh thần, trâu còn là con vật thiêng dùng để tế lễ thần linh trong ngày lễ hội cơm mới, lễ hội xuống đồng.

Trâu còn gắn liền với những lễ hội đình đám như lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng. Những chú trâu được chăm sóc, luyện tập rất chu đáo. Con nào con nấy vạm vỡ, sừng cong như hình vòng cung, nhọn hoắt, da bóng loáng, mắt trắng, tròng đỏ chỉ chờ vào sân đấu. Trong tiếng trống giục giã, trong tiếng hò reo cổ vũ của mọi người hai con trâu lao vào nhau mà húc, mà chọi. Ngoài ra, chúng ta còn có lễ hội đâm trâu. Đây là phong tục tập quán của một số dân tộc ở Tây Nguyên. Con trâu bị giết được đem xẻ thịt chia đều cho các gia đình trong buôn làng cùng liên hoan mừng một vụ mùa bội thu.

Hình ảnh con trâu còn in đậm trong kí ức của những đứa trẻ vùng quê. Chắc không ai quên Đinh Bộ Lĩnh, người làm nên kỳ tích thống lĩnh mười hai sứ quân, đã có một tuổi thơ gắn bó với chú trâu trong trò đánh trận giả hay trò đua trâu đầy kịch tính. Chắc mỗi chúng ta đều có lần bắt gặp những hình ảnh rất đặc trưng, rất nên thơ của làng quê Việt Nam, đó là hình ảnh chú bé mục đồng ngồi vắt vẻo trên lưng trâu đọc sách hay hình ảnh chú cũng đang ngồi trên lưng trâu nghiêng nghiêng cái đầu trái đào với cây sáo trúc… Những hình ảnh tuyệt vời đó đã trở thành nguồn cảm hứng cho những nghệ nhân làng tranh Đông Hồ và cũng là nguồn cảm hứng cho các tác giả dân gian:

Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ăn no cỏ trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.

Trong những năm gần đây, chú trâu đã vượt ra khỏi lũy tre làng, tham gia vào các hoạt động văn hóa thể thao. Với hình ảnh “trâu vàng” trong SEA Games 22. Trâu không còn là giống vật nuôi quen thuộc của người nông dân Việt Nam mà đã trở thành hình ảnh thú vị đối với bạn bè quốc tế. Con trâu là biểu tượng cho sự trung thực, cho sức mạnh và tinh thần thượng võ. Từ hình ảnh chú trâu vàng, các sản phẩm trâu tập võ, trâu chạy marathon, trâu đội nón… rất ngộ nghĩnh, độc đáo đã ra đời. Ngày nay, nhiều loại máy móc hiện đại đã xuất hiện trên cánh đồng làng Việt Nam nhưng con trâu vẫn là con vật không thể thiếu đối với người nông dân. Hình ảnh con trâu cần cù, chung thủy mãi mãi in sâu trong trái tim mỗi người dân Việt Nam.

Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em- Mẫu 7

Trong cuộc sống, mỗi chúng ta ai cũng cần có những người bạn thân thiết. Sẽ thật cô đơn và buồn tủi nếu không có ai bên ta để chia sẻ mọi thứ. Xã hội ngày càng phát triển, đôi lúc những người bạn của ta không ai có đủ thời gian để gặp gỡ. Chính vì vậy, càng ngày lại càng có nhiều người xem việc nuôi thú cưng là cách để có người bầu bạn. Bản thân tôi cũng vậy, gia đình tôi có nuôi một chú chó.

Chú chó nhà thôi có cái tên khá đặc biệt là Đốp. Nó thuộc dòng chó Corgi được nhập từ nước ngoài về. Loài chó này có giá thành khá cao từ 12 – 20 triệu tùy con. Chúng là giống chó chăn gia súc có nguồn gốc từ Pembrokeshire, xứ Wales. Tổ tiên là giống chó đuôi cuộn kiểu Bắc Cực. Ở nước ta, những năm gần đây, giống chó này ngày càng trở nên phổ biến và quen thuộc. Tuy nhiên, việc chăm sóc chúng khá khó khăn, đòi hỏi người nuôi phải có những hiểu biết nhận định và sự quan tâm đặc biệt dành cho chúng.

Đốp là một chú chó trưởng thành. Thân hình dài khoảng 60cm, bốn chân rất ngắn (chưa bằng một gang tay người lớn). Bộ lông màu vàng óng, nhưng lông chân lại màu trắng. Một đặc trưng nổi bật của giống chó này là có đôi tai rất to, luôn dỏng cao lên, thỉnh thoảng vẫy vẫy cùng với đôi mắt to tròn đen láy như hòn bi ve nhìn rất thông minh khiến chú được mọi người yêu quý vì quá đỗi dễ thương. Chiếc mõm khá dài và màu đen huyền, bên trong là cái lưỡi hồng hào cùng hàm răng thưa không đều nhau rất ngộ nghĩnh. Cái đuôi ngắn ngủn lấp ló sau đám lông dày nhìn mãi chẳng thấy đâu.

Khác với giống chó ta, loại chó này khá kén ăn và cần được chăm sóc kĩ lưỡng. Mỗi khi mùa hè đến, tôi đều phải đưa Đốp ra cửa hàng chăm sóc thú cưng để người ta cắt tỉa bớt lông nhằm ngăn không cho thân nhiệt của nó không quá cao. Loại chó này có riêng thức ăn dành cho thú cưng. Ngoài ra, Đốp còn rất khoái khẩu với sữa chua và xúc xích. Để chăm sóc tốt loại chó này, chúng ta cần hiểu và nắm được tính cách, thói quen và sở thích để có thể chơi với chúng và nuôi chúng tốt nhất có thể. Chỗ ngủ của Đốp luôn được dọn dẹp sạch sẽ. Corgi là loài chó thông minh và gần gũi với con người. Đốp chính là một minh chứng cho sự thông minh của loài chó này.

Không chỉ có chó mà những loài động vật khác đã, đang và sẽ trở thành những người bạn thân thiết của con người. Mỗi chúng ta cần phải có ý thức bảo vệ động vật nói chung để tạo ra một xã hội văn minh hơn.

Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em- Mẫu 8

Mỗi một loài vật đều có những đặc tính riêng, vai trò riêng. Và loài chó – một loại vật nuôi rất phổ biến của con người cũng vậy.

Chó là một trong số rất nhiều vật nuôi trong gia đình. Nó là giống vật nuôi mà con người thuần hóa. Tổ tiên của loài chó là cáo cáo và chó sói (loài động vật gần giống chồn).

Trên thế giới có rất nhiều loại chó. Dựa vào đặc điểm khác nhau mà người ta đặt tên cho chúng. Tuy nhiên vẫn có những đặc điểm nhận dạng riêng về chó. Nhưng chúng đều mang những đặc điểm chung, đó là một loài động vật có bốn chân: hai chân trước và hai chân sau. Chân nó thường có bốn ngón và một ngón treo, móng con. Giống như mèo, lòng bàn chân nó có lớp thịt đệm rất êm. Trên người chó có hai lớp lông, lớp bên ngoài mắt nhìn thấy, còn lớp lót bên trong có nhiệm vụ giữ ấm cho chúng trong những ngày mưa rét và “hạ nhiệt” trong những ngày oi bức rất kì diệu. Đầu nhỏ, mõm dài, răng nanh sắc nhọn tuy nhiên không sắc bén như khi chưa được thuần hóa. Bộ não nó phát triển và xương quai hàm thì cứng. Não chó nhỏ, thùy não kém phát triển. Mũi chó hình tam giác, lúc nào cũng ướt. Xung quanh mép và mõm có những đốm nhỏ. Lưỡi chó dài, thô ráp. Ngôn ngữ của chó đơn giản là những tiếng kêu “gâu gâu” – tiếng sủa của chúng. Chó càng trưởng thành, tiếng sủa càng lớn, vang hơn. Đuôi chó dài và tỷ lệ phù hợp với kích thước của cơ thể nó.

Đặc biệt là đôi mắt sáng được ví như “đèn pha ô tô” của nó. Mắt chó được cấu tạo với ba mí: mí trên, mí dưới và mí giữa. Mí nằm giữa hơi sâu vào phía trong, bảo vệ mắt chó khỏi bụi bẩn xung quanh. Tai chó thường lớn, hướng ra ngoài để âm thanh rọi vào màng nhĩ. Với khả năng cảm nhận được 35.000 âm rung trong vòng một giây, tai chúng cực kỳ thính, có thể nghe âm thanh ở rất xa. Đặc biệt nhất là chiếc mũi của chúng vô cùng nhạy bén.

Chó sinh con, mỗi lứa sinh từ một đến khoảng năm, sáu con. Có loài sinh nhiều hơn. Khoảng mười lăm ngày sau sinh, chó con mới mở mắt. Giống trẻ sơ sinh chó con ban đầu cũng không có răng. Nhưng bốn tuần sau, chúng có thể có tới hai mươi tám chiếc răng. Quá trình sinh trưởng của chúng diễn ra khá nhanh nên tuổi thọ thường ngắn hơn so với con người. Khi phát triển đến một giai đoạn nhất định, chó sẽ thay lông mới, đổi màu sắc và lông mềm mượt hơn. Thường hai tháng chúng rụng lông một lần.

Khả năng chạy của chó rất nhanh, chúng lao về phía trước với tốc độ khoảng từ bảy mươi đến tám mươi ki-lô-mét một giờ. Loài chó lúc vui mừng thường vẫy đuôi. Chúng không phải loài kén ăn nên khá dễ nuôi. Ngoại trừ các giống chó quý hiếm, quý tộc được sống trong gia đình có điều kiện.

Chó là người bạn thân thiết của con người, là vật nuôi không thể thiếu trong cuộc sống. Trước hết, nhắc đến chó, người ta nghĩ ngay đến lòng trung thành của nó. Chó nuôi trong nhà làm nhiệm vụ trông giữ nhà cửa. Loài chó này dữ dằn và rất thính, tiếng sủa vang và to. Nó sống trong gia đình và trở thành người bạn thân thiết của con người. Dù bị đưa đi xa, chỉ cần được thả nó chắc chắn sẽ tìm đúng đường về. Nhiều câu chuyện cảm động về chó cứu chủ đã chứng minh lòng trung thành, tình nghĩa của nó. Ngày nay, người ta còn nuôi chó làm cảnh, làm thú cưng, chăm sóc nó như con người. Những người cô đơn, già cả hay thích nuôi chó để làm bạn. Với những giống chó lớn như Béc-giê, người ta thuần hóa thành chó nghiệp vụ, phục vụ công tác truy bắt tội phạm, phá án điều tra. Chúng được huấn luyện khả năng đánh hơi, tốc độ và cả khả năng chiến đấu. Ở một số nơi trên thế giới, chó còn chuyên để kéo xe.

Bên cạnh đó, tác hại của chó là gây ra “bệnh dại” cho con người. Đôi khi, chúng còn tấn công con người, gây nguy hiểm đến tính mạng. Điều đó đòi hỏi người nuôi cần chú ý chăm sóc, phát hiện và chữa trị cho nó. Biện pháp tốt nhất là tiêm phòng cho nó thường xuyên.

Chó là vật nuôi đáng quý đối với con người. Hãy trân trọng và giữ gìn vai trò của những loài vật nhỏ bé trong cuộc sống của chúng ta hôm nay.

Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em- Mẫu 9

Chó là một loài động vật rất có ích cho con người. Nó trung thành, dễ gần và là bạn của con người. Cũng có thể vì thế mà người ta gọi nó là “linh cẩu”. Chó có rất nhiều loại và từ đó người ta đặt tên cho chúng. Cho là một trong số những loài động vật được thuần dưỡng sớm nhất. Trung bình chó có trọng lượng là từ một đến tám mươi ki-lô-gam.

Chó là giống vật nuôi đầu tiên được con người thuần hóa được cách đây 12.000 năm vào thời kỳ đồ đá. Tổ tiên của loài chó bao gồm cả cáo và chó sói (một loài động vật có vú gần giống như chồn sinh sống ở các hốc cây vào khoảng 400 triệu năm trước). Còn loài chó như chúng ta thấy ngày nay được tiến hóa từ một loài chó nhỏ, màu xám.

Lúc mới ra đời, chó con không có răng nhưng chỉ sau 4 tuần tuổi đã có thể có 28 chiếc răng. Bộ hàm đầy đủ của loài thú này là 42 chiếc. Mắt chó có đến 3 mí: Một mí trên, một mí dưới và mí thứ ba nằm ở giữa, hơi sâu vào phía trong, giúp bảo vệ mắt khỏi bụi bẩn. Tai của chúng thì cực thính, chúng có thể nhận được 35.000 âm rung chỉ trong một giây. Khứu giác của chúng cũng rất tuyệt vời. Người ta có thể ngửi thấy mùi thức ăn ở đâu đó trong nhà bếp nhưng chó thì có thể phân biệt từng gia vị trong nồi, thậm chí những chú chó săn còn tìm ra những cây nấm con con nằm sâu trong rừng, vì chúng có thể phân biệt gần 220 triệu mùi.

Chó phân biệt vật thể đầu tiên là dựa vào chuyển động sau đó đến ánh sáng và cuối cùng là hình dạng. Vì thế thị giác của chúng rất kém, ta có thấy vào mùa đông lạnh, thỉnh thoảng chó hay đuôi che lấy cái mũi ướt át, đấy là cách chúng giữ ấm cho mình. Chó có đến 2 lớp lông: Lớp bên ngoài như chúng ta đã thấy, còn lớp lót bên trong giúp cho chúng giữ ấm, khô ráo trong những ngày mưa rét, thậm chí còn có nhiệm vụ “hạ nhiệt” trong những ngày oi bức.

Chó là loài động vật có bốn chân, mỗi bàn chân đều có móng vuốt sắc nhưng khi đi thì cụp vào. Chó có bộ não rất phát triển, xương quai hàm cứng. Đặc biệt, tai và mắt chó rất thính và tinh vào ban đêm. Chó vẫy đuôi để biểu hiện tình cảm. Chó là loài động vật có bộ phận tiêu hóa rất tốt.

Chó có đặc tính là chạy rất nhanh bằng bốn chân, tốc độ lao về phía trước khoảng từ bảy mươi đến tám mươi km một giờ. Hơn nữa, chó cũng có khả năng đánh hơi rất tài. Hiện nay chó hoang dã vẫn còn tồn tại, nhưng chó được thuần dưỡng như chó nhà, chó cảnh thì phổ biến hơn.

Chó thuần dưỡng có nhiệm vụ trông, giữ nhà và thường nặng từ mười lăm đến hai mươi ki-lô-gam, có tuổi thọ trung bình từ mười sáu đến mười tám năm. Loại chó bắt được tội phạm được gọi là chó nghiệp vụ, trinh thám, và thường rất to, cao, tai vểnh, hoạt động nhanh nhẹn, linh hoạt và thông minh. Chúng được nuôi rất công phu. Một số loại chó khác như chó săn thường rất khôn. Chó cứu hộ được dùng trong việc cứu nước ở các bến cảng, sân bay,… nơi xảy ra sự cố.

Ở một số nước trên thế giới, chó còn chuyên để kéo xe. Nhưng không hẳn là chỉ có ích, nó còn rất dễ bị bệnh, đó là bệnh “dại”. Thường là thời gian đầu chó rất bình thường, ít người phát hiện ra để đề phòng. Khi bị chó dại cắn, lúc bấy giờ mới thấy rõ việc nguy hiểm đến tính mạng con người. Vì vậy cần phải tiêm phòng cho chó thường xuyên theo định kì để tránh bị mắc bệnh.

Chó là loài động vật rất có ích trong mọi lĩnh vực. Chó còn là bạn của con người bởi sự thông minh, lanh lợi, trung thành và nhiều tác dụng của nó. Chó được coi là loài động vật rất quan trọng và giúp việc đắc lực cho con người.

Con chó luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như trong lúc bần hàn, khi khoẻ mạnh cũng như lúc ốm đau. Nó ngủ yên trên nền đất lạnh, dù đông cắt da cắt thịt hay bão tuyết lấp vùi, miễn sao được cận kề bên chủ là được.

Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em- Mẫu 10

Trong chúng ta, chắc hẳn ai cũng biết chó là một con vật đáng yêu và rất hữu ích đối với con người. Nhiều người xem chúng như dũng sĩ giữ nhà, một số người còn xem chó là một người bạn trung thành. Nhưng chúng ta có biết rõ về chó chưa? Chúng mình hãy cùng tìm hiểu về con vật đáng yêu này!

Chó là giống vật nuôi đầu tiên được con người thuần hóa được cách đây 12.000 năm vào thời kì đồ đá.Tổ tiên của loài chó bao gồm cả cáo và chó sói, còn loài chó như chúng ta thấy ngày nay được tiến hóa từ một loài chó nhỏ màu xám.

Chó là loài động vật 4 chân, ăn tạp. Kích thước trung bình của chó là dài 40-160 cm. Mắt chó có đến 3 mí: Một mí trên, một mí dưới và mí thứ 3 nằm ỡ giữa, hơi sâu vào phía trong, giúp bảo vệ mắt khói bụi bẩn. Tai của chúng rất thính, có thể nhận được 35000 âm rung chỉ trong một giây. Khứu giác của chúng cũng rất thính như tai. Người ta có thể ngửi thấy mùi thức ăn ở đâu đó trong nhà bếp nhưng chó thì có thể phân biệt từng gia vị trong nồi, thậm chí những chú chó săn còn tìm ra những cây nấm con nằm sâu trong rừng, vì chúng có thể phân biệt gần 220 triệu mùi. Chi kiểu có ngón: Chi trước 5 ngón, chi sau 4 ngón. Ngón có vuốt nhưng không co rút được, vì vậy nên nó không leo trèo và khó giữ con mồi lâu. Chó chạy xa và mềm nhờ chân dài. Não chó rất phát triển. Chó phân biệt vật thể đầu tiên là dựa vào chuyển động rồi sau đó đến ánh sáng và cuối cùng là hình dạng. Vì thế thị giác của chúng rất kém, chỉ nhìn thấy 2 màu đen-trắng. Ta có thấy vào mùa đông lạnh, thỉnh thoảng chó hay đuôi che lấy cái mũi ướt át, đấy là cách chúng giữ ấm cho mình. Màu sắc lông đa dạng. Chó có đến 2 lớp lông: Lớp bên ngoài như chúng ta đã thấy, còn lớp lót bên trong giúp cho chúng giữ ấm, khô ráo trong những ngày mưa rét, thậm chí còn có nhiệm vụ “hạ nhiệt” trong những ngày oi bức.

Chó con mới sinh ra thì nhắm mắt, sau một tháng nó mới mở mắt và bắt đầu đi đứng được. Lúc mới ra đời, chó không có răng nhưng chỉ sau 4 tuần tuổi đã có thể có 28 chiếc răng. Bộ hàm đầy đủ của loại thú này là 42 chiếc.

Chúng ta phải thừa nhận một cách chắc chắn rằng chó là một con vật “đa năng”: Chó giữ nhà, chó cảnh, chó săn bắt, chó thể thao, chó nghiệp vụ. Chó nghiệp vụ lại được đào tạo chuyên sâu hơn như chó phát hiện, phòng ngừa mối sử dụng trong ngành nghiên cứu hộ đê điều; chó cảnh sát giúp phát hiện ma túy, săn bắt tội phạm; chó làm các dịch vụ bảo vệ; chó cứu hộ trong các tình trạng khẩn cấp như động đất, thiên tai, bão lũ; chó săn bắt mồi, chim chóc. Không thể kể hết những công việc mà chó có thể giúp đỡ hoặc thay thế con người.

Nhờ trí thông minh, sự nhanh nhẹn. Chó có thể tiếp thu mọi tín hiệu, hiệu lệnh của người điều khiển rồi làm theo sau khi nhìn con người làm mẫu. Trí thông minh của chó chỉ đứng sau khỉ nhưng xếp trên cá heo. Điều đó cho thấy chó là loài vật biết tiếp thu, nghe lời. Nhờ các cơ quan khứu giác, thính giác cực kì phát triển nên chó có khả năng nhận biết, phát triển các vật thể, dấu hiệu lạ từ xa để thông báo cho con người đề phòng.

Trong văn hóa, tâm linh của một số dân tộc, chó được thờ cúng tại các đền thờ, miếu mạo. tục thờ chó Ka phổ biến ở nhiều dân tộc trên thế giới (Đông Nam Á, Tây Nam Á, Đông Á). Trong thần thoại vùng Địa Trung Hải và Cận Đông, hình tượng chó, kẻ canh giữ gia súc đã sớm trở thành kẻ canh giữ thế giới âm phủ.

Chó có rất nhiều loại và từ đó người ta đặt tên cho chúng. Khi nhắc đến những loại chó được huấn luyện để tìm giấu vết tội phạm, phát hiện ma túy thì không thể nói đến một loại điển hình, đó là chó Béc-giê. Chó Béc-giê là giống chó thuần chủng của Đức. Loại chó này thường có chân cao bụng thon, tai to và dựng đứng giống như chó sói. Đặc biệt chó Béc-giê rất thông minh, khứu giác và thính giác rất phát triển. Chính vì vậy mà người ra thường duy trì chó Béc-giê truy tìm giấu vết tội phạm, phát hiện ma túy hay những công việc khác cũng đòi hỏi sự thông minh nhanh nhạy.

Còn khi nhắc đến chó cảnh thì ta cũng hiểu đó chính là chó nhà. Những con chó này thường được nuôi làm cảnh đồng thời kiêm cả nhiệm vụ giữ nhà. Có rất nhiều loại chó cảnh như: Chó xù, chó Nhật, chó mini, chó Bắc Kinh, chó Chihuahua Pox. Nếu như lông chó Béc-giê ngắn và mượt thì chó cảnh thường có bộ lông dài và có thể mượt hay xù.

Chó hữu ích và rất gần gũi với con người, do đó chúng ta cần chăm sóc tốt cho chúng. Chăm sóc chó cũng khá đơn giản, công việc này không phức tạp và việc luyện tập cũng vậy. Với tính hiền lành của chúng thì thật dễ hòa đồng và nhanh hiểu được những điều mà gia đình bạn cần ở chúng, chỉ cần bạn có sự quan tâm đến chúng và dắt đi dạo thường xuyên, mỗi một tuần thì tắm cho nó một lần và đôi khi bạn cũng cần chải lông cho con vật yêu của mình. Tiêm vắc-xin phòng bệnh cho chúng định kì theo chỉ định của bác sĩ thú y giúp chú chó khỏe mạnh.

Chó là loài động vật rất có ích trong mọi lĩnh vực. Chó còn là bạn của con người bởi sự thông minh, lanh lợi, trung thành và nhiều tác dụng của nó. Chó được coi là loài động vật rất quan trọng và giúp việc đắc lực cho con người.

Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em- Mẫu 11

Bức tranh thôn quê Việt Nam là một bức tranh tràn ngập sắc màu rực rỡ nhưng cũng rất yên bình, ở đó chứa đựng mơ ước của người nông dân, có cây đa, giếng nước, mái đình, con trâu,… nhưng gần gũi với mỗi gia đình nhất có lẽ là đàn gà chạy rộn rã trước sân nhà.

Đối với người nông dân Việt Nam thì gà nhà luôn là con vật gần gũi và thân thuộc nhất trong số rất nhiều các loài gà khác nhau. Gà là vật nuôi quan trọng nhất của con người để lấy thịt và trứng. Đặc điểm chung của gà là cánh tròn, ngắn, toàn thân phủ lông. Để thích nghi với cuộc sống bới đất tìm mồi, từ thuở xưa, gà đã được tạo hóa ban cho một đôi chân to móng cùn và cứng, phủ vảy sừng mỏng màu vàng và còn một cái mỏ ngắn khỏe nữa. Không phải từ thuở ban đầu gà sinh ra đã là gã nhà mà tổ tiên của chúng là gà rừng đã trải qua thuần hóa liên chúng không có khả năng bay lượn. Đại đa số thời gian chúng dùng chân nâng đỡ cơ thể đi lại trên mặt đất. Vì vậy, cơ hồng của gà đa số tập trung ở chân, cơ ngực và các bộ phận khác lại là cơ trắng.

Các em thiếu nhi vẫn có bài hát rất dễ thương về loài động vật này: Gà không biết gáy là mẹ gà con. Gà mà không gáy là vợ gà cha. Đi lang thang trong sân có con gà có con gà”. Chỉ mấy câu hát đơn giản như vậy thôi đã cho ta thấy một gia đình gà. Gà trống được coi là gà bố, đúng như một ông bố có dáng bệ vệ, chân có cựa sắc, bộ lông óng mượt rực rỡ, nổi bật bởi bông hoa đỏ rực trên đầu mà người ta vẫn gọi là mào gà. Gà trống có tiếng gáy âm vang, từ lâu đã được coi như là đồng hồ báo thức của người nông dân. Gà mái hay là gà mẹ, cũng giống với một người mẹ, hiền lành và có dáng vẻ chậm chạp hơn, bộ lông không sặc sỡ.như gà trống. Nhưng bù lại, với “thiên chức” của một người mẹ, gà mái có khả năng ấp trứng và nở ra những chú gà con rất đáng yêu: Gà mái đẻ mỗi lứa từ 10 đến 20 trứng. Đa số gà mái sau khi đẻ trứng thường kêu “cục tác”. Đó là biểu hiện sự hưng phấn của gà mái, hay có thể nói đó là niềm vui của gà mẹ, một “người mẹ” có tình mẫu tử mãnh liệt. Gà con vừa chui ra khỏi vỏ trứng giống như một nắm nhưng có sự sống, bé nhỏ trong bộ lông vàng tơ óng mượt. Gà con mới nở có thể theo mẹ đi kiếm mồi ngay.

Đối với gà thì hạt thóc hạt mạch… có thể được coi là sơn hào hải vị của chúng. Nhưng cho dù được ăn những thứ đó hàng ngày thì chúng vẫn thích mổ đông bới tây, đề tìm ăn những hạt sỏi, hạt cát. Thật ra vì không có răng nên gà cần dựa vào thứ khác để nghiền thức ăn và chúng đã lợi dụng sỏi để tiêu hóa thức ăn. Thịt gà và trứng gà là những thức ăn bổ dưỡng rất tốt cho con người.

Không những từ xưa mà đến bây giờ vẫn vậy và không chỉ đối với người nông dân mà đối với hết thảy mọi người dân Việt Nam, con gà đã chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống văn hoá ẩm thực. Có thể nói, con gà đã đi vào tín ngưỡng, vào đời sống tâm linh văn hóa của người dân Việt Nam. Nó là một trong mười hai con giáp, vẫn được gọi bằng cái tên thân mật là “Dậu”. Con “Dậu” là tượng trưng cho một tuổi đời. Ai đã từng đến Việt Nam, từng tìm hiểu và yêu nền văn hóa dân tộc Việt thì chắc hẳn không thể nào quên được những bức tranh Đông Hồ đậm đà bản sắc Việt với hình ảnh phong phú về thể loại, màu sắc cách điệu nhưng cũng giản dị vô cùng, nổi bật với những bức tranh như: “Vinh hoa”, “Gà trống hoa hồng”, “Gà dạ xương”… Dưới con mắt của người Việt Nam, con gà đáng trân trọng và thân thương như vậy đó. Từ lâu đã thành lệ, con gà là thứ không thể thiếu trong bất kì lễ tết truyền thống hay ngày cúng giỗ nào của người Việt Nam. Đêm giao thừa, vào giờ khắc chuyển giao, nhà nhà lại cùng nhau bày một mâm cỗ đặt trước cửa nhà để cầu mong tốt lành, hạnh phúc cho năm mới. Lẽ dĩ nhiên, mâm cỗ không thể thiếu con gà. Con gà luộc được đặt trong một,cái đĩa lớn đặt giữa mâm, miệng ngậm một bông hồng. Đó là tượng trưng cho sự an lành, may mắn mà nhà nhà đều mong đợi. Tự nhiên như thế, con gà trống như linh vật của người dân Việt Nam, tượng trưng cho sự may mắn yên bình, hạnh phúc, luôn luôn rất linh thiêng đối với nhân dân.Con gà còn đi vào văn học, vào ca dao, tục ngữ của dân tộc. Có câu chỉ nói đến kinh nghiệm trong văn hóa ẩm thực như: “Con gà cục tác lá chanh” nhưng có câu còn để răn dạy con người như:

Khôn ngoan đối đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau

Gần đây, dịch cúm gà hoành hành đã làm cho bữa cơm Việt Nam thưa vắng món thịt gà. Người ta cảm thấy thiếu thiếu một cái gì đó, nhất là mỗi độ Tết đến.

Con gà là biểu tượng sự sống, của hi vọng, an lành đối với người dân Việt Nam. Mong rằng nạn dịch cúm sẽ nhanh chóng được đẩy lùi để con gà lại được hồi sinh, lại trở về bên người nông dân, trở về với bữa-cơm thường ngày và luôn gần gũi gắn bó với người dân Việt.

Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em- Mẫu 12

Các giống vật đều có hai loại là đực và cái; riêng đối với gà, người Việt ta gọi con gà đực là gà trống hay gà sống và gọi con gà cái gà mái. Gà trống thì ít mà gà mái thì nhiều

Gà trống trông oai vệ và rất đẹp trai vì có lông dài mượt, óng ả, và nhiều màu sắc. Thêm vào đó, gà trống còn có cái mào đỏ chói trên đầu, có đuôi dài và xòe rộng, có cái bầu diều hay diều gà ở cổ (diều là cái bíu hay cái bọc chứa đồ ăn ở ngay dưới cổ của một vài loại chim), và có cựa gà ở mỗi chân. Chính nhờ đôi cựa gà này mà loại gà trống được nổi tiếng qua việc chọi gà trong dân gian.

Gà Trống còn có một điểm rất đặc biệt khiến người dân Việt ở thôn quê coi gà trống giống như cái đồng hồ vì tiếng gáy “o! o!” của gà trống rất đúng giờ, nhất là “gà đà gáy sáng trời vừa rạng đông” (câu thơ số 3216 trong Truyện Kiều của Nguyễn Du). Tại rất nhiều làng thôn ở quê người Việt chúng ta, dân quê vẫn nhờ tiếng gà gáy, nhìn ánh nắng, nhìn mặt trăng để ước lượng thời gian. Chính vì thế mà gà trống lúc đầu được nuôi để làm vật tôn thờ vì nó biết gáy sáng. Tuy rằng gà trống là loại đa thê, dê xồm, và kiêu ngạo nhưng đó là điều rất nhỏ nếu so sánh với 5 điều rất lớn và đáng ca ngợi của nó. Đó là 5 đức tính lớn: văn, võ, dũng, nhân, và tín. Lý do là đầu gà trống có mào hay mồng giống như đội mũ, đó là văn; chân gà trống có cựa sắc bén như gươm giáo, đó là võ; thấy quân thù, gà trống liền xông vào đá và mổ, đó là dũng; khi kiếm được đồ ăn gà trống bèn gọi bạn bè, gà mái, và gà con đến ăn, đó là nhân; và ban đêm tới giờ sáng, gà trống gáy cầm canh đúng giờ, đó là tín.

Gà mái thì có vẻ nhã nhặn và khiêm nhường. Lông của gà mái thì màu vàng và lấm-tấm đen. Dầu gà mái cũng có mào gà màu đỏ nhưng rất nhỏ. Gà mái có đuôi ngắn hơn gà trống và không có bầu diều ở cổ. Gà mái gáy “cục cục, cục ta cục tác,” gà con thì kêu “chíp chíp chíp.” Gà mái rất bận rộn vì phải tìm đồ ăn, đẻ trứng, ấp trứng, và săn sóc gà con. Chỉ có gà mái trông nuôi đàn con còn gà trống thì không để ý đến. Mỗi sáng, gà mái lấy mỏ rỉa lông làm dáng.

Gà là giống vật có hai chân, có hai cánh, và có lông vũ che phủ toàn thân như các loài chim. Mắt gà thì tròn, nhỏ như hạt đậu đen, và không có lông mi. Hai mắt của đầu gà không nằm cùng trên một mặt ở gần trán như mắt người hay mắt chó mà mỗi con mắt của gà lại nằm riêng rẽ ở phía trên mỗi bên má. Chính vì thế mà khi nhìn, gà thường lắc đầu bên này qua bên kia và bước lên theo hình chữ chi (z). Gà không có vành tai, nhĩ quản của gà rất ngắn và được bảo vệ bằng lông và một miếng da. Tuy thế, thính giác của gà thật hữu hiệu đặc biệt để tránh các cầm thú săn đuổi. Khi gặp nhiệt độ cao và nóng, gà thường há rộng mỏ, thở gấp rút, duỗi cánh, và uống nước cho mát. Tuy có hai cánh nhưng khả năng bay của gà không được tốt như các loài chim khác. Mỗi chân gà có bốn ngón với móng chân rất sắc và nhọn dùng vào việc đào đất, bới đất, và cào cỏ để tìm đồ ăn. Mỏ gà rất cứng và nhọn. Trong mồm gà không có răng. Gà rất dễ tính về việc ăn uống. Gà thích ăn thóc, gạo, rau, cỏ, trái cây, con dế, con gián, con cào cào, con châu chấu, con mối, và con giun. Gà rất ham ăn vặt nên suốt từ buổi sáng đến tận buổi tối gà thường chăm chỉ và tha thẩn đi tìm thức ăn.

Gà rất điều độ về việc thức ngủ, khi vừa mới tối, gà đã rủ nhau về chuồng đi ngủ; khi bắt đầu sáng, đàn gà đã thức giấc và gà trống thì gáy o! o! Gà chỉ ngủ theo cùng đàn ở nơi quen thuộc và an toàn. Gà sợ nhất rắn hổ mang và mùi của củ hành hay lá hành. Vì thế mà gà có đời sống rất thoải mái.

Ở Việt Nam, có nhiều vùng chuyên nuôi gà mái để gà mái đẻ ra nhiều trứng rồi cho ấp ra gà con mà nuôi; sau đó, khi cần thì người ta giết gà để ăn thịt. Nhiều người nuôi gà đã có kinh nghiệm chỉ nhìn quả trứng là biết trứng đó sẽ nở ra gà trống hay gà mái. Nếu một đầu quả trứng gà mà nhọn thì bảo đảm sẽ nở ra gà trống và nếu quả trứng nào tròn trịa, tức là quả trứng đó không có đầu nào nhọn thì sẽ nở ra gà mái. Có nhiều gia đình nuôi gà chỉ để gà đẻ trứng rồi dùng trứng gà để làm đồ ăn. Sau khi gà đẻ trứng rồi, người ta lấy trứng đem ấp trong lò ấp nhân tạo rất tiện lợi. Sau khi ấp trứng gà được vài ngày thì trứng đó được gọi là “trứng gà lộn.” Trứng gà lộn này rất được những người nghiện rượu ưa thích dùng làm đồ ăn để nhậu rượu. Thường thường người dân Việt hay ăn “hột vịt lộn” chứ không ăn “trứng gà lộn.” Tuy nhiên vẫn có một số trong những người nghiện rượu thích ăn “trứng gà lộn.”

Nhiều người nuôi gà để ăn thịt. Với thịt gà, người ta có thể làm được nhiều món ăn ngon như: gỏi gà, gà quay, gà kho sả, gà luộc, gà nướng lá chanh, gà hấp muối, gà hầm thập cẩm, gà rim nước dừa, gà nấu tiêu, gà chưng cách thủy, gà tiềm, phở gà, miến gà, bún gà, mì gà, hủ tiếu gà, gà rút xương bỏ lò, và gà nhồi thập cẩm, v.v. Vào ngày Tết ta, dân Việt rất thích ăn xôi với thịt gà và tổ chức chọi gà để được hưởng vui thú. Gà ở quê ta rất ngon, nhất là vào tháng tám ta vì đã được chứng thực bằng câu tục ngữ “ếch tháng ba, gà tháng tám.” Tháng tám ta là tháng gặt lúa nên gà tha hồ ăn lúa mới; vì thế, thịt gà rất ngon.

Người ta còn nuôi gà để làm đồ cúng bái trong dịp Tết, giỗ gia tiên, và dùng con gà giò còn sống để cúng lễ mở cửa mả. Người ta dùng con gà trống lớn để cúng thần linh khi người dân muốn làm lễ thề thốt. “Gà, xôi, trầu, và rượu” là 4 lễ vật tối thiểu để cúng thần thánh.

Người Việt ta còn dùng gà để bói (kê bốc). Người ta dùng gan gà, đầu gà, mật gà, phổi gà, xương gà, và trứng gà để bói. Tùy theo mỗi nơi người ta ấn định thế nào là tốt và thế nào là xấu trước khi giết gà đem lễ để bói. Thêm vào đó, người ta còn dùng tiếng gáy của gà để bói nữa. Thường thường gà gáy sáng thì tốt và gáy vào buổi chiều thì xấu cho gia đình.

Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em- Mẫu 13

Thế giới xung quanh ta thật đa dạng và phong phú với rất nhiều chủng loại. Theo thời gian, con người dần càng gắn bó với các con vật, coi chúng như những người bạn gần gũi và thân thiện. Một số con vật khác được thuần hóa còn trở thành thú cưng của con người. Trong số đó phải kể đến những chú thỏ vô cùng đáng yêu- loài vật mà em yêu quý nhất.

Các giống thỏ nhà trên thế giới hiện nay đều có nguồn gốc từ thỏ rừng. Thỏ rừng ở châu Âu được phát hiện bởi những nhà ngữ âm học khi họ đến bờ biển Tây Ban Nha vào năm 1000 trước công nguyên. Từ đầu thế kỉ 19 việc nuôi thỏ đã phát triển khắp Tây Âu và được người châu Âu đưa thỏ đi du nhập ở tất cả các nước trên thế giới. Cuối thế kỉ 19 và nhất là đầu thế kỉ 20 các giống thỏ đã thích nghi với điều kiện nuôi nhốt đã được chọn lọc và thay đổi dần về ngoại hình, sinh lý thích nghi với hoàn cảnh cụ thể và khả năng sản xuất phù hợp. Ở Việt Nam, thỏ được nhập vào cách đây hơn một trăm năm và được nuôi khá phổ biến, rải rác trên mọi vùng miền.

Thỏ là loài gia súc tương đối yếu, khá nhạy cảm và dễ có phản ứng cơ thể với những điều kiện thay đổi của môi trường bên ngoài như nắng, mưa, ẩm độ, nhiệt độ, thức ăn, nước uống, tiếng ồn và các ô nhiễm môi trường khác. Loài thỏ khá đặc biệt với một số tập tính như đào hang làm nơi trú ẩn và sinh sản, sống thành bầy và thông thường số cái nhiều hơn đực, thỏ cái thường dùng các vật liệu kết hợp với lông ở bụng để làm ổ trước khi đẻ, thỏ ăn và uống bất kỳ thời gian nào trong 24 giờ , chúng không ăn thức ăn đã dơ bẩn, đã rơi xuống đất,…

Nhiệt độ là yếu tố quan trọng nhất và ảnh hưởng trực tiếp đối với thỏ. Khi nhiệt độ thấp hơn 10 độ C thỏ cuộn mình để giảm diện tích chống lạnh, nhưng khi nhiệt độ từ 25- 30 độ C thì chúng sẽ nằm dài soải thân thể ra để thoát nhiệt. Thỏ rất thích điều kiện thông thoáng, gió sự lưu chuyển trong không khí vào khoảng 0.3m/giây là thích hợp nhất. Tuy nhiên nếu gió thổi trực tiếp vào cơ thể thỏ thì chúng có thể bị bệnh viêm mũi và cảm lạnh.

Cơ quan khứu giác của thỏ rất phát triển, nó có thể ngửi mùi mà phân biệt được con của nó hay con của con khác. Xoang mũi thỏ có nhiều vách ngăn chi chít có thể ngăn chặn được các tạp chất bẩn trong không khí bụi hoặc từ thức ăn. Nổi bật trên bộ lông trắng muốt là chiếc mũi phớt hồng lúc nào cũng ươn ướt như người bị cảm cúm. Cơ quan thính giác thỏ rất tốt. Thỏ rất nhạy cảm với tiếng động dù là rất nhẹ. Khi nghe thấy tiếng động, thỏ rất dễ sợ hãi, do vậy trong chăn nuôi tránh tiếng động ồn ào cho thỏ. Trong đêm tối, đôi mắt tròn xoe sáng lên như hai chiếc đèn pha nên vẫn nhìn thấy mọi vật, do vậy thỏ vẫn có thể ăn uống ban đêm cũng như là ban ngày.

Thỏ là loại động vật đẻ con, mỗi lần sinh đẻ, thỏ cái có thể đẻ từ một đến hai con. Tuổi thọ của một con thỏ có thể lên tới 10 năm hoặc hơn nữa tùy vào điều kiện sinh sống. Thỏ rất ưa những nơi thoáng đãng và khí hậu mát mẻ nên khi chăn nuôi, các hộ trang trại cần chú ý đến yếu tố này. Vào mùa đông, thời tiết lạnh giá, nhiệt độ xuống thấp thì ta cần đảm bảo việc giữ ấm cho thỏ để chúng phát triển bình thường và không bị nhiễm bệnh.

Ngày nay việc nuôi thỏ để lấy thịt hay phục vụ một số nhu cầu khác đã đem lại một nguồn lợi kinh tế không hề nhỏ. Trong đời sống tinh thần, thỏ cũng có vị trí khá quan trọng. Thỏ là biểu tượng của Tây Ban Nha vào thời kỳ La Mã. Trong câu chuyện truyền thuyết Chị Hằng- Chú Cuội, chú thỏ ngọc chính là người bạn thân thiết với chị Hằng nơi cung trăng. Thỏ thường được biết đến trìu mến là con vật cưng của nhiều gia đình.

Như vậy những chú thỏ nhỏ xinh không chỉ đáng yêu, ngoan ngoãn mà còn rất hữu ích trong cuộc sống. Bởi vậy chúng ta hãy luôn yêu quý và chăm sóc thật tốt cho loài vật này nhé.

Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em- Mẫu 14

Với thị hiếu và nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống của con người ngày nay, nhiều loại động vật tự nhiên được đưa vào nuôi nhốt và khai thác. Không ngoại lệ, loài thỏ đã và đang được con người sử dụng để phục vụ đời sống của mình bởi những đặc điểm hữu ích, thông dụng.

Thỏ là loài động vật có vú phổ biến, được nuôi nhốt, nuôi thả hoặc sống tự do trong rừng. Thỏ có lông mao dày, phù hợp sống ở khí hậu hàn đới, ôn đới. Loài thỏ lần đầu được con người biết đến ở châu u, khoảng 1000 năm trước công nguyên. Thỏ được phân thành bảy loại, điển hình như thỏ rừng châu u, thỏ đuôi bông, thỏ cộc,… Tuổi thọ của thỏ kéo dài từ bốn đến mười năm, thời kỳ mang thai kéo dài 31 ngày. Thỏ nhà thường yếu hơn thỏ rừng, được thuần hóa và được nuôi trong các lồng lớn tránh bị đuổi bắt bởi thú ăn thịt.

Về cấu tạo, thỏ là động vật có tứ chi, chạy nhanh, lông dày, mềm, ấm, thường có màu trắng, đen hoặc nâu vàng. Hai tai thỏ dài, bắt tín hiệu rất tốt. Khi săn mồi, thỏ thường dựng tai để lắng nghe chuyển động âm thanh. Khi nghỉ ngơi, tai thỏ cụp lại theo chiều dọc thân. Mắt thỏ thường có màu đỏ, đen hoặc nâu, nhìn rõ trong điều kiện ánh sáng thường, có tuyến lệ hoạt động, phù hợp với việc sinh tồn trên cạn. Mũi thỏ nhỏ và có khả năng đánh hơi. Hàm răng sắc với hai răng cửa là răng chính, nhọn, bén và dài do tập tính gặm nhấm. Thỏ thường có tập tính đào hang làm tổ để đẻ con và sinh sống.

Thỏ thuộc giống động vật ăn cỏ. Nhu cầu dinh dưỡng của thỏ gồm nước sạch và thực vật như bắp cải, cải xanh và các hoa quả có màu xanh lục khác.Trái với suy nghĩ của nhiều người, thỏ không thường xuyên hay thích ăn cà rốt do thực phẩm này có nhiều đường và quá cứng. Chúng thường sử dụng cà rốt như một công cụ mài răng cửa. Thỏ là loại ưa lạnh, sống trong nhiệt độ mát mẻ, từ 10 – 25 độ là nhiệt độ thích hợp nhất để thỏ phát triển và sinh hoạt.

Thỏ đóng vai trò to lớn trong cả công nghiệp chế biến và ngành thời trang, dược phẩm. Thỏ được săn bắn hoặc nuôi lấy thịt. Da thỏ dùng để làm áo hoặc phụ kiện như mũ, khăn. Lông thỏ được đính lên quần áo làm tăng vẻ sang trọng cho người mặc. Chất thải của thỏ cũng là loại phân bón tốt cho cây trồng. Sữa thỏ dùng làm thuốc hoặc chế biến thành thực phẩm giàu dinh dưỡng. Thịt thỏ được dùng làm thức ăn hoặc ngâm rượu. Những món ăn được chế biến từ thịt thỏ rất hấp dẫn và bổ dưỡng, có giá trị kinh tế cao. Ngoài ra, trong y khoa, thỏ được dùng làm vật thí nghiệm cho các loại vắc – xin hay mẫu thử mỹ phẩm. Tuy nhiên, hành động thử nghiệm trên động vật này đang bị lên án vì quá vô nhân đạo và gây hại tới số lượng thỏ sinh sản tự nhiên trong môi trường.

Về giá trị tinh thần, thỏ là loài vật có vẻ ngoài đáng yêu với bộ lông mềm mại nên thường được nuôi làm cảnh trong vườn bách thú hoặc làm vật nuôi trong gia đình. Trong văn hóa Trung Quốc, thỏ là một trong số mười hai con giáp tượng trưng cho mười hai năm tuổi. Thỏ biểu hiện cho sự nữ tính, mềm mại, đáng yêu nên thường được lấy hình tượng cách điệu làm quà tặng hay đồ trang trí cho các cô gái. Tuy nhiên, thỏ là một loài gây dịch bệnh cũng như phá hoại mùa màng do tập tính gặm nhấm. Tại Úc, người ta đánh bẫy và tiêu diệt thỏ để tránh ảnh hưởng xấu tới môi trường

Thỏ vẫn đang là loại động vật quen thuộc được khai thác phục vụ nhu cầu của con người. Nuôi nhốt, kiểm soát số lượng thỏ là cách tốt nhất để duy trì sự sống của loài vật này, đồng thời giảm thiểu tối đa tác động tiêu cực của thỏ tới môi trường tự nhiên.

Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em- Mẫu 15

Cá chép là loài cá nước ngọt, thường sống ở sông, hồ hoặc được nuôi trong đầm, ao…Cá chép có mặt ở nhiều nơi trên thế giới. Người phương Đông coi cá chép là loài cá quý.

Màu đặc trưng của cá chép là màu vàng đen, sẫm dần về phía vây lưng. Mấy năm gần đây xuất hiện loài cá chép có màu đỏ rất đẹp. Vảy cá chép tròn và to, xếp chồng lên nhau như ngói lợp.

Thân cá chép hình thoi, thon dài. Đầu gồm hai mắt, hai đôi lỗ mũi, hai đôi râu, miệng nhỏ. Chỗ giáp với thân là hai nắp mang, bên trong có mấy lớp màng màu hồng. Khúc đuôi bắt đầu từ đuôi vây hông và tận cùng là vây đuôi.

Cá chép có một đôi vây ngực, một đôi vây hông là các vây chẵn và vây đuôi, vây lưng, vây hậu môn là những vây lẻ. Mỗi vây gồm nhiều tia vây được nối liền với nhau bằng một nếp da mỏng, mở ra, thu vào dễ dàng. Khi cá uốn mình, hai thùy của vây đuôi uốn theo hình số tám, đẩy cá tiến lên phía trước. Vây đuôi còn có tác dụng điều chỉnh hướng bơi của cá.

Ngoài nhiệm vụ giữ thăng bằng cho cá khi bơi đứng một chỗ, đôi vây ngực và đôi vây hông còn giúp cá bơi theo hướng lên trên hoặc xuống dưới, rẽ phải hoặc rẽ trái, giảm vận tốc bơi, dừng lại hoặc bơi giật lùi. Khi cá bơi nhanh, các đôi vây chẵn áp sát vào thân để giảm sức cản của nước.

Cá chép thường sống trong suối, sông, hồ, đầm, ao, ruộng, …Chúng thích kiếm ăn ở tầng nước giữa và tầng đáy. Cá chép là loài ăn tạp. Chúng ăn giun, ốc, ấu trùng, côn trùng và cỏ nước. Trong ao nuôi, cá chép còn ăn cả phân xanh, cám, bã đậu, thóc lép… Cá chép dễ nuôi, ít bệnh nhưng tốc độ tăng trưởng không nhanh bằng các loài cá khác. Sau sáu tháng, cá chép có trọng lượng nửa kí trở lên.

Thịt cá chép dai, ngọt và thơm, được nhiều người ưa thích. Cá chép nấu cháo, cá chép rán, hấp, nấu canh chua hoặc sốt với cà, nấm, lẩu cá chép…là những món ăn ngon và bổ. Người ốm, người phụ nữ mới sinh con thường được nấu cháo cá chép ăn để tẩm bổ, mau khỏe lại.

Hiện nay, cá chép được nuôi ở nhiều nơi, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, mang lại nguồn lợi kinh tế đáng kể cho người nông dân. Trong dân gian, cá chép là biểu tượng cho sự may mắn và nghị lực vươn lên của con người. Câu chuyện “Cá chép vượt vũ môn hóa rồng” làm mọi người xúc động và tranh Cá chép Đông Hồ thường được người Việt mua về treo trong nhà ngày Tết.

Cá chép ở Việt Nam còn là một loài cá gắn liền với văn hóa truyền thống của dân tộc. Cứ đến ngày 23 tháng Chạp cuối năm, vào dịp Tết ông Táo, nhà lại thả cá chép ra sông, hồ để đưa ông Công, ông Táo lên Trời báo cáo tình hình gia đình trong năm vừa qua, cũng là cầu phúc, cầu lộc cho năm tới.

Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em- Mẫu 16

Việt Nam ta có rất nhiều loại cá nào là cá chuối, cá rô, cá rô diếc, cá trôi… trong đó không thể quên kể đến cá chép. Loài cá này có rất nhiều dưỡng chất và là một thực phẩm ngon cho nhân dân nước ta. Một lần được thưởng thức cá chép thì chắc chắn bạn sẽ không thể nào quên được mùi vị của nó. Vậy nó có những đặc điểm gì mà được nhân dân ta ưa chuộng đến như vậy.

Trước hết là về chỗ ở và nguồn gốc của nó. Cá chép là loài cá nước ngọt, thường sống ở sông, hồ hoặc được nuôi trong đầm, ao…Cá chép có mặt ở nhiều nơi trên thế giới. Người phương Đông coi cá chép là loài cá quý…Chính vì là loại cá nước ngọt cho nên rất gần gũi với đời sống của nhân dân ta nên cũng rất được ưa chuộng để làm thực phẩm của nhân dân ta. Chúng ta có thể bắt gặp nó dễ dàng trên những mương sâu ở quê. Cá chép hoặc tự có hoặc do nhân dân nuôi trồng trong những ao đầm. Những con cá chép được nuôi trong đầm sẽ có kích thước cơ thể to hơn.

Thứ hai là về đặc điểm màu sắc của nó thì nó có màu vàng đen, sau đó thì có màu sẫm dần về phía đuôi lưng. Cái màu ấy của nó thật sự rất đẹp, chỉ cần nhìn một lần là biết là nó. Ngày nay thì có thêm con cá chép màu vàng đỏ rất đẹp. Vảy của cá chép thì rất to đều nhau, nhỏ dần xuống phía đuôi xếp đều nhau như những mái ngói màu vàng đen vì trải qua mưa gió.

Về thân hình cũng như những cánh vây của nó thì nó có một thân hình dài, không quá dài như cá chuối nhưng cũng đủ để được gọi là dài. Nó mang dáng hình thon thả. Cái đầu với những bộ phận giống như những con cá khác nhưng đặc biệt nó có đôi mắt to và sáng hơn. Cái miệng nho nhỏ và những mang trong có màu hồng nhạt rất đẹp, nó còn có hai cái râu ở miệng nữa. Cá chép có những vây như vây ngực, vây hông là những vây chẵn còn vây lưng, vây hậu môn thì là vây lẻ. Những chiếc vây nhỏ ấy như những cái xương được bao bọc bởi một lớp da mỏng khiến nó giống như cái mái chèo giúp cho cá có thể bơi được. Vận dung vay của cá mà con người chúng ta có thể chế tạo những dụng cụ bơi giống hình vay cá. Vây đuôi thì uốn theo vòng số tám để đẩy cá tiến lên phía trước. Có thể nói rằng nó có nhiệm vụ để làm cho cá định hướng bơi của cá. Tất cả các vây ấy có nhiệm vụ giữ thăng bằng cho cá. Đặc biệt nhiệm vụ quan trọng đó là giúp cá tiến lên hoặc lùi xuống rẽ trái hay rẽ phải.

Cách thức kiếm thức ăn của cá chép là chúng sống ở những đáy hoặc giữa nước để kiếm thức ăn ở đó. Cá chép là một loại ăn tạp chính vì thế mà nó có thể ăn được rất nhiều thứ như: ăn giun, ốc, ấu trùng, côn trùng và cỏ nước. Trong ao nuôi, cá chép còn ăn cả phân xanh, cám, bã đậu, thóc lép. Không những thế thì cá chép còn là một loại rất dễ nuôi vì ít bị bệnh.

Cá chép có công dụng rất lớn đó là một thực phẩm cho con người. Đặc biệt là người phụ nữ có thai thì thường ăn cá chép cho bổ. Thịt cá chép dai, thơm ngon có thể rán ăn chấm nước mắm tỏi, hoặc là nấu canh sốt cà chua, nấu canh dưa cá…

Không chỉ là một loại thực phẩm thơm ngon mà cá chép còn có cả những truyền thuyết nữa. Đó chính là truyền thuyết cá chép hóa rồng vượt thác biểu tượng cho sự vươn lên trong cuộc sống của con người. Đặc biệt trong ngày tết ông công ông táo thì cá chép gắn liền với phương tiện của các táo lên chầu trời. Chính vì thế mà ngày lễ ông công ông táo người dân Việt Nam thường mua cá về cúng tổ tiên sau đó thả chúng ra sông hồ.

Như vậy ta có thể thấy được những đặc điểm nổi bật của con cá chép. Những truyền thuyết của nó và những dưỡng chất của nó mang lại. Chính vì thế chúng ta nên bảo vệ loài cá này trước những hóa chất độc hại để từ đó cung cấp nguồn thực phẩm tươi sạch thơm ngon từ những con cá chép.

Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em- Mẫu 17

Quê hương là nơi chôn rau cắt rốn, nơi mỗi chúng ta sinh ra và lớn lên. Nhớ về quê hương, người ta không chỉ nhớ về những kỉ niệm, những con người mà còn nhớ về những hình ảnh thân thuộc như cây cối, vật nuôi. Quê hương tôi cũng có những loài vật nuôi mà ai đi xa cũng luôn ghi nhớ. Trong đó, tiêu biểu và gần gũi nhất là con gà.

Hình ảnh con gà từ bao đời nay vẫn luôn đi liền với hình ảnh quê hương Việt Nam. Gà có nguồn gốc từ giống gà rừng hoang dại, được con người đem về nuôi trở thành vật nuôi ở nhà. Khoa học kỹ thuật phát triển hiện đại, nhiều giống gà mới được nghiên cứu lai, phối, đặc điểm hình dáng, năng suất khác nhau. Nhưng loài gà được phân thành gà mái và gà trống. Tuy kích cỡ và đặc điểm cơ thể có vài nét khác nhau nhưng nhìn chung cấu tạo của chúng gồm đầu, thân, chân, cánh, đuôi. Đầu gà to nhỏ khác nhau nhỏ hơn nắm tay người lớn. Mắt bé xíu, sáng long lanh như một giọt nước trong veo. Mỏ chúng nhỏ hơi cong xuống ở đầu, màu vàng, khi mổ xuống sẽ phát ra âm thanh. Trên đầu gà là mào gà đỏ tươi, mào gà trống lớn hơn mào gà mái, mào gà mái nhỏ xíu nhìn như không có. Người chúng phủ toàn lông nhưng lông gà trống thường rực rỡ hơn gà mái. Cánh tròn, khép ở hai bên mình, thỉnh thoảng cũng vỗ phành phạch bay từ bờ này sang bờ khác. Do yêu cầu sống bới đất tìm mồi, chúng được tạo hóa ban cho một đôi chân to móng cùn và cứng, phủ lớp vẩy sừng mỏng màu vàng. Gà trống có lông đuôi dài sặc sỡ, chân có cựa – lực lưỡng và oai vệ. Còn gà mái yểu lại có lông đuôi ngắn, mảnh mai, chân không cựa. Gà mái kêu cục tác, gà trống lại gáy ò ó o…Thức ăn của gà là thóc, gạo, các loài côn trùng, giun đất, các loại bột dạng viên, một số loại rau… Chúng có thể tự đi kiếm ăn mà không nhất thiết phụ thuộc vào con người.

Gà nở ra từ trứng, lớn dần thành gà mái, hoặc gà trứng. Gà mái đến tuổi sẽ đẻ trứng, mỗi lứa có thể đẻ từ 15 đến hơn 20 quả. Trứng ấp trong khoảng 3 tuần trong điều kiện nhiệt độ thích hợp sẽ nở ra gà con xinh. Gà con mở mắt sẽ đi theo vật mà nó trông thấy đầu tiên. Chúng cùng mẹ đi kiếm ăn, gà mẹ chỉ cần cất tiếng gọi nhẹ, gà con sẽ nhanh chóng lon ton chạy tới. Gà mẹ hết mực che chở cho con, sẵn sàng giang rộng đôi cánh ngăn cách con khỏi kẻ thù.

Gà là vật nuôi thân thuộc ở mỗi làng quê, có vai trò to lớn trong đời sống con người. Trước tiên gà đem lại lợi ích kinh tế. Trứng gà chứa nhiều chất dinh dưỡng, có thể chế biến thành chiên, luộc, ốp la… Mỗi buổi sáng, một quả trứng ốp la kẹp bánh mì là món ăn được người phương Tây ưa chuộng. Trứng gà đánh tan với bột mì có thể làm bánh ga-tô, bánh kem. Thịt gà là một trong những nguyên liệu được dùng làm món ăn đặc sản ở nhiều vùng miền, với nhiều cách chế biến khác nhau. Có nhiều món được chế biến từ gà như gà luộc chấm muối tiêu, gà xé trộn rau răm, gà hấp, gà chiên, gà quay,… Lông gà xử lý sạch còn dùng để làm quạt, làm cầu đá, áo lông, đặc biệt qua xử lý hóa học còn làm được bột giặt. Ngày xưa, ông bà ta luộc trứng gà kèm theo đồ bạc để cạo gió khi cảm sốt. Ngày nay, chị em phụ nữ dùng trứng gà để đắp mặt nạ, dưỡng da. Chất thải của gà cũng được tận dụng làm phân bón.

Không chỉ có giá trị vật chất, gà còn là vật nuôi mang ý nghĩa tinh thần quý giá. Tiếng gà gáy là chiếc đồng hồ báo thức cho mọi người, trở thành âm thanh bình dị của làng quê. Gà là biểu tượng cho sự sống an lành với người dân Việt Nam. Mâm cơm cúng gia tiên, thần thánh không thể đầy đủ nếu thiếu đi con gà luộc mang hàm ý tỏ lòng trân trọng biết ơn. Gà đi vào thơ ca dân gian, trở thành một trong những chủ thể của tranh Đông Hồ nổi tiếng.

Thời gian trôi đi, gà là vật nuôi không thể thiếu của quê hương tôi và cả nông thôn Việt. Hình tượng con gà cục tác hay gà trống hướng về ánh mặt trời thực sự gợi lên cảm giác thân thuộc và gần gũi. Đó là hình ảnh thuộc về riêng đất nước Việt Nam.

Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em- Mẫu 18

Vịt là loài gia cầm được người nông dân chăn nuôi từ lâu đời bởi nó mang lại rất nhiều lợi ích. Hình ảnh từng đàn vịt khoảng vài chục con thong dong bơi lội trên mặt ao, mặt đầm hay hàng ngàn con sục sạo kiếm mồi, kêu ồn ã cả một quãng đồng là hình ảnh quen thuộc ở làng quê.

Các giống vịt chủ yếu của nước ta gồm vịt đàn hay còn gọi là vịt tàu, vịt cỏ. Loại này thân nhỏ, đầu và mỏ thanh tú, lông có nhiều màu: Đen, nâu, xám, xanh đen pha trắng… trọng lượng chỉ độ 1 kg đến 1,5 kg. Vịt đàn thường được nuôi thành từng đàn lớn, hàng trăm hay hàng ngàn con. Chúng có sức chịu đựng kham khổ và ít mắc bệnh, kiếm mồi rất giỏi trên đồng ruộng. Vịt đàn đẻ nhiều, trứng nhỏ nhưng ngon. Thịt vịt đàn được nhiều người ưa thích vì có vị ngọt đậm và thơm. Nông dân ở các vùng đồng bằng miền Bắc, miền Nam thường nuôi vịt đàn theo lối chăn thả tự nhiên từ trước đến nay.

Bên cạnh giống vịt đàn còn có giống vịt bầu. Vịt bầu lớn con hơn vịt đàn, cổ ngắn, chân thấp, lông nhiều màu, dáng đi lạch bạch. Thịt vịt bầu cũng mềm và ngọt nhưng nhiều mỡ hơn vịt đàn. Các gia đình nuôi vịt bầu vừa phục vụ cho nhu cầu sử dụng ngày giỗ, ngày Tết, vừa bán để tạo nguồn thu nhập quanh năm. Đồng bào miền Nam trước đây nuôi rất nhiều giống vịt cổ lùn, có những đặc điểm tương tự như vịt bầu ngoài Bắc, để tận dụng nguồn thức ăn phong phú từ kênh rạch và đồng ruộng.

Hiện nay, các trại chăn nuôi quốc doanh và tư nhân đầu tư khá lớn về mặt vật chất để nuôi giống vịt nhập từ nước ngoài vào, gọi là vịt siêu thịt. Vịt siêu thịt được nuôi theo kiểu công nghiệp trong chuồng trại, ăn cám hỗn hợp, được theo dõi và tiêm chủng thường xuyên. Trọng lượng của giống vịt này khá lớn, sau 3 tháng có thể đạt tới trên 3 kg một con. Đặc điểm vượt trội của nó là chất lượng thịt đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu, chế biến thành nhiều món ăn cao cấp.

Để việc chăn nuôi vịt ngày càng phát triển, đem lại hiệu quả cao, người nông dân phải nắm vững kĩ thuật chăm sóc, từ khâu chọn giống đến chế độ dinh dưỡng, chuồng trại, vệ sinh phòng bệnh… Vịt là loài thủy cầm ăn tạp. Thức ăn của chúng gồm nhiều loại. Loại cung cấp prô-tê-in có thóc, ngô, khoai, sắn, cám… Loại cung cấp chất khoáng có bột vỏ sò, bột xương… Thức ăn đầy đủ chất dinh dưỡng sẽ giúp cho vịt khỏe mạnh, tăng trưởng nhanh, đẻ nhiều và chất lượng thịt cao.

Trong giai đoạn hiện nay, ngành chăn nuôi trong đó có chăn nuôi vịt đã đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế chung của cả nước. Vịt là loài gia cầm đem lại nhiều lợi ích cho đời sống của con người, là nguồn thu nhập thường xuyên của nông dân.

Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em- Mẫu 19

Chó là một loài động vật rất có ích cho con người. Nó trung thành, dễ gần và là bạn của con người. Cũng có thể vì thế mà người ta gọi nó là “linh cẩu”.

Chó có rất nhiều loại và từ đó người ta đặt tên cho chúng. Chó là một trong số những loài động vật được thuần dưỡng sớm nhất. Trung bình chó có trọng lượng là từ một đến tám mươi ki-lô-gam.

Chó là giống vật nuôi đầu tiên được con người thuần hóa được cách đây 12.000 năm vào thời kỳ đồ đá. Tổ tiên của loài chó bao gồm cả cáo và chó sói (một loài động vật có vú gần giống như chồn sinh sống ở các hốc cây vào khoảng 400 triệu năm trước). Còn loài chó như chúng ta thấy ngày nay được tiến hóa từ một loài chó nhỏ, màu xám.

Lúc mới ra đời, chó con không có răng nhưng chỉ sau 4 tuần tuổi đã có thể có 28 chiếc răng. Bộ hàm đầy đủ của loài thú này là 42 chiếc.

Mắt chó có đến 3 mí: Một mí trên, một mí dưới và mí thứ ba nằm ở giữa, hơi sâu vào phía trong, giúp bảo vệ mắt khỏi bụi bẩn. Tai của chúng thì cực thính, chúng có thể nhận được 35.000 âm rung chỉ trong một giây. Khứu giác của chúng cũng rất tuyệt vời. Người ta có thể ngửi thấy mùi thức ăn ở đâu đó trong nhà bếp nhưng chó thì có thể phân biệt từng gia vị trong nồi, thậm chí những chú chó săn còn tìm ra những cây nấm con con nằm sâu trong rừng, vì chúng có thể phân biệt gần 220 triệu mùi. Chó phân biệt vật thể đầu tiên là dựa vào chuyển động sau đó đến ánh sáng và cuối cùng là hình dạng. Vì thế thị giác của chúng rất kém. Ta có thấy vào mùa đông lạnh, thỉnh thoảng chó hay đuôi che lấy cái mũi ướt át, đấy là cách chúng giữ ấm cho mình.

Chó có đến 2 lớp lông: Lớp bên ngoài như chúng ta đã thấy, còn lớp lót bên trong giúp cho chúng giữ ấm, khô ráo trong nhũng ngày mưa rét, thậm chí còn có nhiệm vụ “hạ nhiệt” trong những ngày oi bức.

Chó là loài động vật có bốn chân, mỗi bàn chân đều có móng vuốt sắc nhưng khi đi thì cụp vào. Chó có bộ não rất phát triển, xương quai hàm cứng. Đặc biệt, tai và mắt chó rất thính và tinh vào ban đêm. Chó vẫy đuôi để biểu hiện tình cảm. Chó là loài động vật có bộ phận tiêu hóa rất tốt.

Chó có đặc tính là chạy rất nhanh bằng bốn chân, tốc độ lao về phía trước khoảng từ bảy mươi đến tám mươi km một giờ. Hơn nữa, chó cũng có khả năng đánh hơi rất tài. Hiện nay chó hoang dã vẫn còn tồn tại, nhưng chó được thuần dưỡng như chó nhà, chó cảnh thì phổ biến hơn.

Chó thuần dưỡng có nhiệm vụ trông, giữ nhà và thường nặng từ mười lăm đến hai mươi ki-lô-gam, có tuổi thọ trung bình từ mười sáu đến mười tám năm. Loại chó bắt được tội phạm được gọi là chó nghiệp vụ, trinh thám, và thường rất to, cao, tai vểnh, hoạt động nhanh nhẹn, linh hoạt và thông minh. Chúng được nuôi rất công phu. Một số loại chó khác như chó săn thường rất khôn. Chó cứu hộ được dùng trong việc cứu hộ ở các bến cảng, sân bay,… nơi xảy ra sự cố.

Ở một số nước trên thế giới, chó còn chuyên để kéo xe. Nhưng không hẳn là chỉ có ích, nó còn rất dễ bị bệnh, đó là bệnh “dại”. Thường là thời gian đầu chó rất bình thường, ít người phát hiện ra để đề phòng. Khi bị chó dại cắn, lúc bấy giờ mới thấy rõ việc nguy hiểm đến tính mạng con người. Vì vậy cần phải tiêm phòng cho chó thường xuyên theo định kì để tránh bị mắc bệnh.

Chó là loài động vật rất có ích trong mọi lĩnh vực. Chó còn là bạn của con người bởi sự thông minh, lanh lợi, trung thành và nhiều tác dụng của nó. Chó được coi là loài động vật rất quan trọng và giúp việc đắc lực cho con người.

Con chó luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như trong lúc bần hàn, khi khoẻ mạnh cũng như lúc ốm đau. Nó ngủ yên trên nền đất lạnh, dù đông cắt da cắt thịt hay bão tuyết lấp vùi, miễn sao được cận kề bên chủ là được.

Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em- Mẫu 20

Có rất nhiều loài vật đã được con người thuần hoá, nuôi dưỡng và trở thành “thú cưng” trong mỗi giã đình. Nhưng trong số đó, có thể nói mèo là loài vật được yêu chiều, nâng niu nhất.

Mèo nhà là một phần loài trong họ mèo (trong họ mèo còn có báo, linh miêu..). Theo những căn cứ khoa học đáng tin cậy thì chúng đã sống gần gũi với loài người trong khoảng từ 3.500 năm đến 8.000 năm.

Có rất nhiều các giống mèo khác nhau, một số không có lông hoặc không có đuôi. Các màu lông mèo rất đa dạng: màu trắng, màu vàng, màu xám tro… Có những chú mèo mang nhiều màu lông nên có những tên gọi như mèo tam thể (có ba màu lông), mèo vằn (hai màu lông chạy xen nhau), mèo đốm,…

Mèo con từ 1 tháng tuổi trở lên đã được mèo mẹ dạy các động tác săn bắt mồi như chạy, nhảy, leo trèo, rình và vồ mồi. Mèo 4 tháng tuổi có thể bắt được chuột, gián, thạch sùng… Chúng giao tiếp bằng cách kêu “meo”, “mi-ao”, “gừ-gừ”, rít, gầm gừ và ngôn ngữ cơ thể. Mèo trong các bầy đàn sử dụng cả âm thanh lẫn ngôn ngữ cơ thể để giao tiếp với nhau.

Thông thường mèo nặng từ 2,5 kg đến 7 kg. Cá biệt, một số chú mèo từng đạt tới trọng lượng 23 kg vì được cho ăn quá nhiều. Trái lại, cũng có những chú mèo rất nhỏ (chưa tới 1,8 kg), ở tình trạng nuôi trong nhà, mèo thường sống được từ 14 năm tới 20 năm. Chú mèo già nhất từng biết đến trên thế giới đã sống 36 năm. Mèo giữ năng lượng bằng cách ngủ nhiều hơn đa số các loài động vật khác, đặc biệt khi chúng già đi. Thời gian ngủ hàng ngày có khác nhau, thường là 12 giờ đến 16 giờ, mức trung bình 13 giờ đến 14 giờ. Một số chú mèo có thể ngủ 20 giờ trong ngày. Vì thường chỉ hoạt động nhiều lúc mặt trời lặn, mèo rất hiếu động và hay đùa nghịch vào buổi tối và sáng sớm.

Mèo là những “vận động viên điền kinh” tài giỏi có thể chạy rất nhanh và nhảy xuống đất từ độ cao lớn. Có điều đó vì chúng có cấu tạo cơ thể rất đặc biệt.

Mèo có bốn chân, mỗi bàn chân đều có vuốt và đệm thịt ở phần tiếp xúc với mặt đất. Giống như mọi thành viên khác của họ mèo, vuốt của mèo thu lại được. Bình thường, ở vị trí nghỉ các vuốt được thu lại trong da và lông quanh đệm ngón. Điều này giữ vuốt luôn sắc bởi chúng không tiếp xúc với mặt đất cũng như cho phép mèo đi nhẹ nhàng rình mồi. Các vuốt chân trước thường sắc hơn so với phía sau. Mèo có thể giương một hay nhiều vuốt ra tùy theo nhu cầu. Khi rơi từ trên cao xuống, mèo có thể sử dụng cảm giác thăng bằng sắc bén và khả năng phản xạ của nó tự xoay thân tới vị trí thích hợp. Khả năng này được gọi là “phản xạ thăng bằng.” Nó luôn chỉnh lại thăng bằng cơ thể theo một cách, khiến chúng luôn có đủ thời gian thực hiện phản xạ này khi rơi. Giống như chó, mèo là loài vật đi trên đầu ngón chân: chúng bước trực tiếp trên các ngón, các xương bàn chân của chúng tạo thành phần thấp nhìn thấy được của cẳng chân. Mèo có thể bước rất chính xác, bởi vì khi đi, chúng đặt bàn chân sau (hầu như) trực tiếp lên đầu của bàn chân trước, giảm thiểu tiếng ồn và dấu vết để lại. Điều này cũng giúp chúng có vị trí đặt chân sau tốt khi bước đi trên bề mặt ghồ ghề.

Hỗ trợ đắc lực cho mèo trong quá trình di chuyển, ngoài chân ra còn có đuôi. Đuôi mèo dài và uyển chuyển, chúng được dùng để xua đuổi ruồi muỗi. Nhưng chức năng chủ yếu là giữ thăng bằng khi chạy nhảy leo trèo.

Tai mèo khá thính. Đa số mèo có tai thẳng vểnh cao. Nhờ tính năng động cao của cơ tai mà mèo có thể quay người về một hướng và vểnh tai theo hướng khác. Mắt mèo cũng là một bộ phận khá đặc biệt. Nghiên cứu cho thấy tầm nhìn của mèo tốt nhất vào ban đêm so với người, và kém nhất vào ban ngày. Màu mắt của mèo khá đa dạng: màu vàng, màu đen, màu nâu, màu xanh… về thính giác, con người và mèo có tầm thính giác ở mức thấp tương tự như nhau, nhưng mèo có thể nghe được những âm thanh ở độ cao lớn hơn, thậm chí tốt hơn cả chó. Khi nghe âm thanh nào đó, tai mèo sẽ xoay về hướng đó; mỗi vành tai mèo có thể quay độc lập về hướng nguồn âm thanh. Khứu giác của mèo cũng rất phát triển. Nó mạnh gấp 14 lần so với của con người. Số lượng tế bào khứu giác ở mũi của chúng cũng nhiều gấp đôi, do dó mèo có thể ngửi thấy những mùi mà chúng ta không nhận thấy được.

Mèo là động vật ăn thịt thế nên đối tượng để nó săn mồi cho nhu cầu sinh tồn là những loài vật nhỏ như: chuột, rắn, cóc nhái, cá… Vũ khí để săn mồi là móng vuốt. Khi gặp con mồi, nó thường đứng từ xa cách con mồi khoảng chừng 5 đến 6 mét. Sau đó nó nằm bẹp hạ cơ thể xuống sát đất, mắt chăm chăm nhìn không nháy mắt đến đối tượng đồng thời bước tới con mồi cần săn rất nhẹ nhàng. Khi đến gần khoảng cách mà nó cảm thấy ăn chắc, loài mèo tung ra sức mạnh cuối cùng bằng cách đẩy mạnh 2 chân sau và đồng thời phóng mạnh toàn cơ thể tới phía trước và dùng móng sắc nhọn duỗi thẳng ra và chụp lấy con mồi. Ngày nay, loài mèo luôn sống với người qua nhiều thế hệ con cháu. Cho nên, thức ăn của loài mèo là cơm hoặc thức ăn sẵn. Nhưng thức ăn ưa thích nhất của loài mèo vẫn là món cá.

Mèo thường tránh nơi ẩm ướt và ở rất sạch sẽ. Để làm vệ sinh cho cơ thể, nó thường thè lưỡi ra, tiết nước bọt vào chân của nó rồi bôi lên mặt và toàn thân thể. Hành động này cho thấy mục đích nó muốn xóa sạch các vết bẩn, ngay cả hơi tay của con người vừa mới bồng hay vuốt ve nó. Loài mèo luôn tự làm lấy vệ sinh cho cơ thể nhiều lần trong ngày, thường là lúc nó mới ngủ dậy hay đi đâu đó về. Hành động đó đã trở thành thói quen thường thấy ở loài mèo ngay cả khi cơ thể của nó không có vết bẩn nào cả.

Trải qua một thời gian dài được con người thuần dưỡng, ngày nay, mèo đã trở thành một loài vật cưng trong nhiều gia đình, đặc biệt là các em nhỏ. Mèo không chỉ là một “người bảo vệ”, một “dũng sĩ diệt chuột” mà còn là một loài vật cảnh hết sức dễ thương. Có lẽ bởi vậy, tinh cảm giữa con người và loài mèo sẽ ngày càng gắn bó hơn.

Trên đây là nội dung bài học Thuyết minh về Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em chọn lọc hay nhất (20 bài mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập

5/5 - (17 bình chọn)


Nguyễn Thanh Tùng

Trường THCS Bình Chánh với mục tiêu chung là tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh có thể phát triển khả năng và đạt được thành công trong quá trình học tập. Chúng tôi cam kết xây dựng một không gian học tập đầy thách thức, sáng tạo và linh hoạt, nơi mà học sinh được khuyến khích khám phá, rèn luyện kỹ năng và trở thành những người học suốt đời.

Bài viết liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button