Cơ thể con người có bao nhiêu lít máu? Mất máu nguy hiểm như thế nào cho cơ thể?

Mời bạn đọc cùng tìm hiểu Cơ thể con người có bao nhiêu lít máu? trong bài viết dưới đây để có câu trả lời nhé.

Mục lục

Cơ thể con người có bao nhiêu lít máu?

Lượng máu trong cơ thể là bao nhiêu phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó có những yếu tố chính sau: kích thước cơ thể hay trọng lượng, độ tuổi, nơi sinh sống và tình trạng sức khỏe.

Theo độ tuổi, trẻ sơ sinh có lượng máu so với tổng trọng lượng cơ thể là lớn nhất, xấp xỉ từ 9 – 10% trọng lượng cơ thể. Trẻ lớn dần thì tổng lượng máu tăng nhưng so với trọng lượng cơ thể sẽ thấp đi, trung bình ở trẻ nhỏ là từ 8 – 9% trọng lượng cơ thể là máu, còn người trưởng thành thì tỉ lệ này chỉ từ 7 – 8%.

Cơ thể con người có bao nhiêu lít máu?
Cơ thể con người có bao nhiêu lít máu?

Cụ thể như sau:

  • Trẻ sơ sinh: Trẻ sinh đủ tháng có khoảng 75ml máu trên mỗi kg cân nặng, vậy trẻ sinh cân nặng khoảng 3.6 kg sẽ có khoảng 270 ml máu.
  • Trẻ nhỏ: Trẻ nhỏ có cân nặng là 36 kg trung bình trong cơ thể có khoảng 2.65 l máu.
  • Người trưởng thành: Người trưởng thành nặng từ 65 – 80 kg thì cơ thể có từ 4.5 – 8 lít máu.

Tùy thuộc vào nơi sinh sống, lượng máu trong cơ thể con người cũng sẽ có sự chênh lệch. Những người sống ở vùng núi cao, nơi có ít oxy hơn vùng đồng bằng thung lũng thì lượng máu trong cơ thể thường cao hơn.

Ở phụ nữ mang thai, để cung cấp máu nuôi dưỡng thai nhi phát triển, lượng máu trong cơ thể cần nhiều hơn từ 30 – 50% so với bình thường.

Cách để đo lường lượng máu trong cơ thể

Để biết chính xác cơ thể bạn có bao nhiêu lít máu, không thể đo lường trực tiếp được mà phải dựa trên xét nghiệm. Trong đó, xét nghiệm phổ biến thường được dùng là xét nghiệm đo hematocrit và xét nghiệm hemoglobin có thể giúp ước tính lượng máu trong cơ thể so với lượng chất lỏng trong cơ thể. Như vậy, ngoài xét nghiệm máu, cần kiểm tra cả cân nặng và mức độ giữ nước trong cơ thể mới có ước tính chính xác nhất lượng máu đang có.

Hầu hết trường hợp cần đo lường lượng máu trong cơ thể là do có dấu hiệu mất máu, chấn thương hoặc phẫu thuật lớn. Khi đó, bác sĩ thường dùng cân nặng là chỉ số đầu tiên để xem xét, dự đoán lượng máu chính xác có được. Cùng với đó, qua kiểm tra huyết áp, nhịp tim, nhịp thở,… có thể ước tính được lượng máu đã thiếu hụt, từ đó sẽ can thiệp bổ sung để cứu sống bệnh nhân và hồi phục sức khỏe.

Ngoài ra, xét nghiệm đo lượng máu trong cơ thể cũng được thực hiện trong chẩn đoán, đánh giá 1 số bệnh lý như: suy thận, suy tim sung huyết, sốc,…

Cách để đo lường lượng máu trong cơ thể
Cách để đo lường lượng máu trong cơ thể

Tại sao phải đo lượng máu?

Thể tích máu được đo để phát hiện các bệnh khác nhau, sự phát triển của bệnh gây ra những bất thường liên quan đến thể tích máu lưu thông. Lượng máu cũng được đo cùng với lượng máu mất trong quá trình phẫu thuật. Đo thể tích máu cũng được thực hiện để có thể phát hiện các tình trạng như tăng hồng cầu, thiếu máu (giảm hồng cầu), giảm thể tích máu và tăng thể tích máu.

Một người có thể mất bao nhiêu máu mà không nguy hiểm đến tính mạng

Chảy máu do chấn thương hoặc bệnh tật có thể đe dọa thực sự không chỉ đến sức khỏe mà còn cả tính mạng con người nếu lượng máu mất đi đủ lớn.

Nguy cơ mất máu

Máu là chất quan trọng nhất trong cơ thể con người, một trong những chức năng chính là mang oxy và các chất cần thiết khác đến tim và các mô. Do đó, mất một lượng máu đáng kể có thể làm gián đoạn đáng kể hoạt động bình thường của cơ thể hoặc thậm chí là dẫn đến tử vong.

Tổng cộng, cơ thể của một người trưởng thành trung bình chứa khoảng 5 lít máu. Đồng thời, anh ta có thể mất đi một phần máu mà thực tế không gây hại cho bản thân: Ví dụ, thể tích máu lấy từ một người hiến tại một thời điểm là 450ml. Lượng máu này được coi là hoàn toàn an toàn cho một người lớn. Nhưng một vấn đề nghiêm trọng hơn hoặc ít hơn có thể là mất 20% tổng lượng máu hoặc nhiều hơn.

Thể tích và tính chất của máu mất

Các bác sĩ cho biết rằng, mức độ nguy hiểm của tình trạng mất máu đối với tính mạng của một người trong một trường hợp cụ thể là không chỉ phụ thuộc vào thể tích mà còn phụ thuộc vào tính chất của máu. Vì vậy, nguy hiểm nhất là chảy máu nhanh, trong đó một người mất một lượng máu đáng kể trong thời gian ngắn, không quá vài chục phút.

Khi mất khoảng một lít máu, hoặc khoảng 20% ​​tổng lượng máu lưu thông trong cơ thể, tim ngừng nhận đủ lượng máu để lưu thông, một người bị gián đoạn nhịp tim, mức độ huyết áp và nhịp tim giảm mạnh. Tuy nhiên, nếu có thể ngừng mất máu ở giai đoạn này, thì theo quy luật, nó không đe dọa đáng kể đến tính mạng con người, và với chế độ dinh dưỡng và nghỉ ngơi đầy đủ, cơ thể có thể tự phục hồi lượng máu đã mất.

Trong trường hợp mất từ ​​20% đến 30% lượng máu trong thời gian tương đối ngắn, tương đương với thể tích máu 1-1,5 lít của một người trưởng thành, có thể tăng tiết mồ hôi, khát nước, buồn nôn và nôn. Một người không đủ khí sẽ trở nên thờ ơ, tay run và tầm nhìn trở nên mờ. Trong trường hợp này, ngay cả khi máu ngừng chảy, việc tự phục hồi thể tích đã mất thường khó và người bệnh cần được truyền máu.

Khi mất 2-3 lít máu nhanh chóng, tức là 30% tổng lượng máu trong cơ thể trở lên, bề mặt da của con người trở nên tái nhợt rõ rệt, mặt và chân tay có màu hơi xanh. Trong hầu hết các trường hợp mất máu như vậy sẽ đi kèm với mất ý thức, và thường rơi vào trạng thái hôn mê. Trong trường hợp này, chỉ có thể truyền máu tức thời mới có thể cứu sống một người. Mất nhanh từ 50% tổng lượng máu trở lên trong cơ thể được coi là tử vong.

Nếu mất máu từ từ, ví dụ như chảy máu trong, cơ thể có thời gian để thích nghi với tình hình và có thể chịu được lượng máu mất đi đáng kể. Ví dụ, y học biết đến những trường hợp sống sót với tình trạng mất 60% lượng máu sau khi được can thiệp kịp thời.

Cơ thể chúng ta tạo bao nhiêu máu một ngày?

Cơ thể của chúng ta tạo ra khoảng 2 triệu tế bào hồng cầu mới mỗi giây. Hầu hết các tế bào máu được sản xuất từ tế bào gốc trong tủy xương. Sự hình thành và thay thế chúng diễn ra liên tục trong suốt cuộc đời của một người.

Cơ thể chúng ta tạo bao nhiêu máu một ngày?
Cơ thể chúng ta tạo bao nhiêu máu một ngày?

Máu được tạo thành từ bốn thành phần: hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu và huyết tương.

Tế bào hồng cầu

Các tế bào hồng cầu mang oxy từ phổi đến các mô của cơ thể. Ngoài ra, chúng cũng mang carbon dioxide trở lại phổi. Các tế bào hồng cầu chiếm gần một nửa tổng lượng máu. Tuổi thọ của các tế bào này là khoảng 120 ngày.

Bạch cầu

Các tế bào bạch cầu giúp bảo vệ cơ thể chống lại bệnh tật và nhiễm trùng – đây là một phần quan trọng của hệ thống miễn dịch. Chúng chiếm một phần rất nhỏ trong tổng lượng máu (dưới 1%).

Có ba loại tế bào bạch cầu: bạch cầu hạt, bạch cầu đơn nhân và tế bào lympho. Mỗi loại đều đóng một vai trò quan trọng khác nhau.

Bạch cầu hạt có 3 loại:

  • Bạch cầu trung tính giúp chống lại nhiễm trùng do vi khuẩn và nấm gây ra.
  • Basophils tham gia vào phản ứng miễn dịch của cơ thể. Tuy nhiên, chức năng chính xác của chúng vẫn chưa được hiểu rõ.
  • Bạch cầu ái toan giúp chống lại nhiễm trùng do ký sinh trùng gây ra.

Bạch cầu đơn nhân tiêu diệt và loại bỏ các vi sinh vật lạ và các tế bào đang chết ra khỏi cơ thể.

Tế bào bạch huyết hình thành hệ thống miễn dịch.

Tuổi thọ của bạch cầu rất khác nhau – từ vài giờ đến vài năm.

Tiểu cầu

Tiểu cầu là những mảnh tế bào nhỏ có chức năng là cầm máu. Chúng chiếm một phần rất nhỏ trong tổng lượng máu (dưới 1%). Tuổi thọ của tiểu cầu khoảng 9-12 ngày.

Huyết tương

Huyết tương là phần chất lỏng màu vàng nhạt của máu chứa tất cả các tế bào máu. Nó chỉ chiếm hơn một nửa tổng lượng máu.

Huyết tương giúp mang nước, chất dinh dưỡng, khoáng chất, thuốc và hormone đi khắp cơ thể. Nó cũng mang chất thải đến thận. Thận sau đó lọc máu để loại bỏ các chất thải này. Huyết tương bao gồm nước, protein, lipid (chất béo). Nó mang nước, chất dinh dưỡng hòa tan trong chất béo và các chất khác đến và đi từ các cơ quan khác nhau.

Cơ thể người mất bao nhiêu lít máu là nguy hiểm?

Mất máu có thể xảy ra trong nhiều trường hợp nhưng mất máu càng nhiều thì càng nguy hiểm. Theo Tổ chức Chữ thập đỏ Hoa Kỳ, lượng máu lớn nhất mà một người có thể mất đi trong một lần hiến máu mà không gặp vấn đề sức khỏe nghiêm trọng là 450 ml tương đương với khoảng 10% tổng lượng máu trong cơ thể. Những người có cân nặng thấp hơn, lượng máu trong cơ thể ít hơn thì sẽ chỉ hiến tối đa lượng máu thấp hơn.

Sau khi mất đi khoảng 10% hoặc ít hơn tổng lượng máu trong cơ thể, mọi người sẽ cảm thấy hơi choáng váng, có thể sốt nhẹ và cơ thể mệt mỏi. Lúc này cần uống nước và nghỉ ngơi ít nhất 10 – 15 phút để cơ thể làm quen.

Trường hợp mất máu nguy hiểm hơn là do bệnh lý hoặc tai nạn, lượng máu mất đi nhiều và đột ngột có thể dẫn đến sốc, đe dọa tính mạng. Một số nguyên nhân thường gặp gây sốc chảy máu gồm:

Cơ thể người mất bao nhiêu lít máu là nguy hiểm?
Cơ thể người mất bao nhiêu lít máu là nguy hiểm?

Chảy máu bên ngoài

Chảy máu bên ngoài nhiều thường do vết cắt ở gần hoặc trên tĩnh mạch, vết thương sâu, vết thương vùng đầu,… Tai nạn, ngã là những rủi ro thường dẫn đến tổn thương và chảy máu nghiêm trọng như vậy, người bệnh cần được nhanh chóng cầm máu, đưa đi cấp cứu để truyền máu bổ sung duy trì tính mạng.

Chảy máu bên trong

So với chảy máu bên ngoài, chảy máu bên trong đôi khi nguy hiểm hơn do người bệnh chủ quan không phát hiện sớm. Có thể là cú đánh hay va chạm mạnh ở vùng bụng, ảnh hưởng đến nội tạng, tim, phổi, vỡ mạch máu bên trong sẽ gây chảy máu nhiều.

Không thể trực tiếp chẩn đoán chảy máu bên trong mà cần đến các xét nghiệm cận lâm sàng để tìm ra nguyên nhân, vị trí chảy máu. Ngoài ra, các bệnh lý như vỡ u nang buồng trứng, ung thư phổi,… cũng có thể biến chứng gây chảy máu trong nghiêm trọng.

Chảy máu nhiều đặc biệt nguy hiểm, khi lượng máu mất hơn 10% tổng trọng lượng, máu và oxy không thể cung cấp được đến tất cả các mô mà chỉ hướng đến các cơ quan quan trọng. Tình trạng này được gọi là sốc, cơ thể có dấu hiệu nhợt nhạt, tê tứ chi do không có máu nuôi dưỡng, nghiêm trọng hơn là gặp phải tổn thương não và nhiều cơ quan quan trọng khác.

Nếu mất nhiều máu hơn từ 20 – 40%, huyết áp giảm, người bệnh cảm thấy bối rối, lo lắng, nhịp tim tăng mạnh đến khoảng 120 nhịp/phút. Khi mất máu nhiều hơn 40%, không chỉ nhịp tim tăng nhanh mà người bệnh có thể rơi vào tình trạng hôn mê, mất ý thức.

Để cứu sống người bệnh mất máu, truyền máu là thủ tục y tế quan trọng, tùy từng trường hợp mà có thể truyền các thành phần khác nhau của máu như: hồng cầu, huyết tương, tiểu cầu,… Người nhận máu có thể gặp phải một số tác dụng phụ như bất đồng nhóm máu, nhiễm trùng, thừa sắt,… nên chỉ truyền máu khi thực sự cần thiết.

Trên đây là nội dung bài viết giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về Cơ thể con người có bao nhiêu lít máu? Mọi thông tin trong bài viết Cơ thể con người có bao nhiêu lít máu? Mất máu nguy hiểm như thế nào cho cơ thể? đều được xác thực rõ ràng trước khi đăng tải. Tuy nhiên đôi lúc vẫn không tránh khỏi những sai xót đáng tiếc. Hãy để lại bình luận xuống phía dưới bài viết để đội ngũ biên tập được nắm bắt ý kiến từ bạn đọc.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Tổng hợp

5/5 - (1 bình chọn)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *