Viết bài văn nghị luận với chủ đề: “Nhà văn mà tôi hâm mộ” lớp 12 (4 Mẫu)

Viết bài văn nghị luận với chủ đề: “Nhà văn mà tôi hâm mộ” bao gồm hướng dẫn viết cùng 4 bài mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn sẽ là tài liệu hữu ích cho các em học sinh lớp 12 trau dồi vốn từ, củng cố kỹ năng viết đoạn văn ngày một hoàn thiện hơn.

Đề bài: Viết bài văn nghị luận với chủ đề: “Nhà văn mà tôi hâm mộ”.

Viết bài văn nghị luận với chủ đề: “Nhà văn mà tôi hâm mộ".
Viết bài văn nghị luận với chủ đề: “Nhà văn mà tôi hâm mộ”.

Mục lục

Hướng dẫn Viết bài văn nghị luận với chủ đề: “Nhà văn mà tôi hâm mộ” lớp 12

HS đọc kỹ hướng dẫn trong SGK, tham khảo đoạn văn viết về Thạch Lam (Nguyễn Tuân viết) để lập dàn ý cho bài viết ngắn.

Có thể theo dàn ý sau:

– Nhà văn mà anh/ chị hâm mộ là ai? Tên, tuổi, quê quán, thời đại, những tác phẩm chính?…

– Vì sao anh/ chị lại hâm mộ nhà văn này? (Cống hiến lớn hay phong cách độc đáo như thế nào?)…

– Ước muốn, nguyện vọng của anh/ chị đối với nhà văn mà mình ngưỡng mộ (HS đọc và tóm tắt những kiến thức trong mục Ghi nhớ trong SGK).

Viết bài văn nghị luận với chủ đề: “Nhà văn mà tôi hâm mộ” – Mẫu 1

Trong số những nhà văn Việt Nam hiện đại, người để lại trong lòng độc giả cũng như những nhà phê bình văn học sắc sảo niềm tiếc nuối lớn nhất là nhà văn Nam Cao. Chúng ta nhận ra trên trang viết của Nam Cao dấu hiệu của tài năng có một không hai trong nền văn học nước nhà. Nếu bom đạn chiến tranh không cướp đi sinh mạng của ông thì hẳn Nam Cao sẽ mang lại vẻ vang cho cả một dân tộc.Nhưng tôi yêu mến Nam Cao không hoàn toàn bởi những điều chúng ta vẫn tiếc nuối về ông. Tôi hâm mộ nhà văn này bởi quan niệm sống và viết và bởi sự nặng lòng của nhà văn dành cho người nông dân Việt Nam.

Sinh ra ở vùng quê Hà Nam, Nam Cao là một người trí thức chân chính. Những điều kì lạ là trong khi nhiều nhà văn đặt nghệ thuật và sự nghiệp sáng tác của mình lên trên hết thì Nam Cao lại làm khác. Dĩ nhiên đã là nhà văn thì phụng sự nghệ thuật, đam mê sáng tác là lẽ thường tôi không có ý trách. Song chính điều đó càng khiến Nam Cao nổi bật bởi ông đã vượt qua cái lẽ thường ấy của cuộc sống. Không coi sáng tác là nhiệm vụ số một thì nhà văn coi trọng điều gì? Trong những năm tháng chống Pháp gian khổ, Nam Cao gác bút lên đường ra mặt trận, trực tiếp cầm sùng chiến đấu. Nhà văn quan niệm “Sống đã rồi hãy viết”. Đó là một quan niệm sâu sắc. Phải sống đầy đủ với cuộc đời rồi với cuộc đời rồi mới viết. Phải cảm nhận cuộc sống bằng mọi giác quan, mọi cảm xúc, cảm giác của bản thân rồi mang những cảm nhận máu thịt đó của mình lên trang viết. Khi ấy người nghệ sĩ mới có thể chuyển tải đầy đủ, chân thật bản chất cuộc sống đến với độc giả.Trong lời phát biểu của Nam Cao, ta nhận thấy một nhiệm vụ thiêng liêng của văn học: nhiệm vụ phản ánh cuộc sống. Không phải đến tận những năm sau cách mạng tháng 8 Nam cao mới có tư tưởng vĩ đại đó.

Trước cách mạng, trong truyện “Giăng sáng” ông đã từng viết “Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia cất lên từ những kiếp lầm than” vậy là ngay từ sớm Nam Cao đã ý thức được vai trò của người cầm bút là bám sát với đời sống thực tại của nhân dân đề phản ánh và đồng cảm với nó.

Xuất phát từ quan niệm ấy, trước cách mạng ngòi bút Nam cao theo sát đời sống khổ ải, bần cùng của người nông dân đương thời. Đọc văn Nam cao, người đọc bị ám ảnh nặng nề bởi cái đói quay quắt. Cái đói dường như là căn bệnh di căn lây với tốc độ khủng khiếp trên trang viết của ông. Người đọc sợ hãi khi lật giở những trang truyện ngắn của ông. Sợ hãi bởi phải đối mặt cái khổ đau, những cảnh tượng, những vấn đề nhân bản.

Viết bài văn nghị luận với chủ đề: “Nhà văn mà tôi hâm mộ” – Mẫu 2

Có lẽ như chúng ta đã biết trong nền văn học Việt nam hiện đại, người mà để lại trong lòng độc giả những ấn tượng sâu sắc nhất đó là nhà văn Nam Cao. Ông là một nhà văn lớn của dân tộc, nếu chiến tranh không cướp đi sinh mạng ông thì chắc hẳn ông đã ngày càng mang nhiều vẻ vang cho nền văn học của dân tộc. Chính vì thế mà tôi hâm mộ Nam Cao bởi những quan niệm sống và viết về những con người nông dân dưới xã hội cũ một cách tinh tế và nặng lòng.

Nam Cao (1915 – 1951) là bút danh của nhà văn – nhà báo – liệt sĩ Trần Hữu Tri. Ông sinh ra trong một gia đình nông dân tại Hà Nam (cách thành phố Nam Định chừng hơn 10 km). Học xong thành chung, Nam Cao bôn ba nhiều nơi, nhưng bệnh tật đẩy ông về quê. Từ đó, Nam Cao sống chật vật bằng nghề dạy học và viết văn. Năm 1943, ông vào Hội Văn hoá cứu quốc. Tham gia Tổng khởi nghĩa ở quê hương, ông được cử làm chủ tịch xã. Sau Cách mạng, với tư cách phóng viên – Nam Cao có mặt trong đoàn quân Nam tiến, rồi lên chiến khu Việt Bắc làm công tác văn nghệ. Cuối tháng 11 năm 1951, trên đường đi công tác vào vùng địch tạm chiếm, Nam Cao anh dũng hi sinh tại làng Vũ Đại, huyện Gia Viễn, Ninh Bình.Ông là cây bút xuất sắc của dòng văn học hiện thực (1940 – 1945), là người đi tiên phong trong việc xây dựng nền văn học mới, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật ( 1996 ).

Nhìn bề ngoài con người ông, ông là một người ít nói, lạnh lùng nhưng trong thâm tâm ông thì đang sôi sục xung đột gay gắt giữa lòng nhân đạo và thói ích kỷ, giữa tinh thần dũng cảm và thái độ hèn nhát, giữa tính chân thực với sự giả dối, giữa khát vọng cao cả với mong muốn tầm thường. Những điều này được thể hiện rất rõ trên những trang viết của ông. Ông sống ân tình với người nghèo khổ, bị áp bức, khinh miệt. Ông cho rằng: “không có tình thương thì không xứng đáng được gọi là Người”. Vì thế khi viết về đề tài những con người nông dân nghèo khổ bị áp bức bóc lột, ngòi bút Nam Cao lúc nào cũng tràn đầy niềm xót thương, cảm thông…Từ những việc nhỏ nhặt hằng ngày mà ông đã nêu lên được vấn đề lớn của xã hội và nhiều bài học triết lí sâu sắc khiến người đời nể phục.

Trước cách mạng trong truyện ngắn “ Trăng sáng” ông từng viết: “ Nghệ thuật chỉ là tiếng đau khổ kia cất lên từ kiếp lầm than”. Vậy là từ rất sớm ông đã ý thức được rõ vai trò của người cầm bút là phải bám sát vào cuộc sống hiện thực của nhân dân để phản ánh và đồng cảm với nhân dân trong xã hội. Trong đó, đặc biệt là tác phẩm “Chí Phèo” xứng đáng là kiệt tác. Viết về đề tài này, ông khắc họa bức tranh chân thực về nông thôn Việt Nam xơ xác, bần cùng trong khoảng thời gian 1940 -19Ông quan tâm tới tình trạng nghèo đói và quá trình một bộ phận thấp cổ bé họng bị tha hóa, bị cự tuyệt quyền làm người. Càng hiền lành họ càng bị chà đạp phũ phàng. Viết về những con người nông dân, Nam Cao kết án đanh thép xã hội thực dân phong kiến đã huỷ hoại nhân hình, sói mòn nhân tính của những con người lương thiện. Không “bôi nhọ” nông dân, ông đi sâu vào nội tâm nhân vật để phát hiện, khẳng định nhiều phẩm chất cao cả của những người bị xã hội dập vùi.

Như vậy xuất phát từ những quan điểm ấy nguồn bút của Nam cao theo sát đời sống khổ ải, bần cùng của người nông dân đương thời. Khi chúng ta đọc lại những trang của ông, ta vẫn bị ám ảnh nặng nề bởi cái khổ cực khốn cùng nhất là viết về nạn đói khủng khiếp năm 19Dường như cái đói giống như một bệnh lây lan với tốc độ nhanh và khủng khiếp trên những trang viết của ông. Chắc hẳn rằng người đọc hôm nay đã có lúc sợ hãi. Sợ hãi bởi phải đối mặt với những cái đau khổ, rùng rợn. Tôi nghĩ là khi viết những truyện ngắn ấy ông đã sống và cảm nhận đời sống bằng máu thịt để mỗi nhịp tim nhà văn rung lên bắt nhịp cho những cảm xúc vô bờ bến. Tất cả những cái đói, lời chửa rủa trách móc, tiếng khóc thảm thương, sự bế tắc,…Nam cao đã mang cả tấm lòng của mình để đón nhận, quằn quặn và đau đáu viết.

Ông hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc khi mới 37 tuổi, khi đó ông chưa biết ông được tôn vinh là nhà văn lớn. Hơn nửa thế kỉ đã qua đi, những tác phẩm của ông ngày càng khẳng định giá trị hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo. Tôi rất hâm mộ ông, một con người có có tấm lòng chân thành sống hết mình vì nhân dân và cuộc sống hiện thực khắc nghiệt để những trang viết được vẻ vang đến tận ngày hôm nay.

Viết bài văn nghị luận với chủ đề: “Nhà văn mà tôi hâm mộ” – Mẫu 3

Tôi ngưỡng mộ những nhà văn vượt qua ranh giới. Tôi ngưỡng mộ một nhà văn, người mà khi tôi đọc xong chúng sẽ khiến tôi khó thở và hơi sững sờ. Vì vậy, không phải do thể loại hay thời gian mà là chất lượng của bài viết, tất nhiên, mang tính chủ quan cao. Có những nhà văn mà tôi ngưỡng mộ đã không và có lẽ sẽ không bao giờ ‘thành công’ – điều đó có nghĩa là gì. Tôi có một người bạn – một cựu chiến binh Việt Nam, người đã viết về trải nghiệm của anh ấy và đó là một trong những cuốn sách vui nhất, cảm động nhất mà tôi từng đọc. Anh ấy sẽ không bao giờ giàu có hay nổi tiếng, nhưng tôi ngưỡng mộ công việc của anh ấy. Mặt khác, tôi rất ngưỡng mộ tác phẩm của Margaret Atwood, người mà tác phẩm viễn tưởng loạn luân thực sự đã thúc đẩy tôi (theo một cách tốt). Tôi ngưỡng mộ đạo đức làm việc và công việc của cô ấy. Tất nhiên là có những người khác. Alexander Solzhenitsyn, Haruki Murakami, Michael Ondaatje, v.v. Thành công dù sao cũng là chủ quan. Thư viện của tôi, thật may mắn, có đầy sách. Đối với tôi, tác giả có thành công hay không thực sự không quan trọng. Tôi quan tâm đến một thứ quan trọng hơn nhiều – đó có phải là cuốn sách tôi muốn đọc không? Nó có thể không phù hợp với sở thích của bạn, hoặc hàng xóm của bạn, bất cứ điều gì. Nó không thực sự quan trọng. Đọc những gì bạn muốn đọc. Nếu bạn thích nó hoặc cảm động vì nó thì tác giả đã thành công.

Terry Pratchett có rất nhiều điều để nói và tiểu thuyết của ông là vàng. Tôi không biết nhiều về con người của anh ấy, nhưng tôi biết rằng anh ấy là người dí dỏm, hài hước và những cuốn sách của anh ấy đã rất hấp dẫn.

Brian Jacques, người đã thu hút sự chú ý của tôi với tư cách là một độc giả khi tôi còn trẻ hơn nhiều, và người đã viết theo cách anh ấy đã làm vì kinh nghiệm và mục tiêu của anh ấy. Tôi luôn mong chờ được đọc cuốn sách tiếp theo của Redwall.

Carlos Ruiz Zafon vì anh ấy đã khiến tôi sợ hãi khi đọc lại một cuốn sách lần đầu tiên. Shadow of the Wind khiến tôi cảm thấy có điều gì đó mà tôi lo lắng rằng tôi có thể sẽ không cảm nhận được nữa nếu đọc lại cuốn sách đó.

Markus Zusak vì Kẻ trộm sách là cuốn sách đầu tiên và duy nhất khiến tôi khóc.

Những điều này làm cho họ thành công theo quan điểm của tôi vì tất cả họ đã làm được những điều mà những cuốn sách hoặc bộ truyện khác không làm được đối với tôi.

Viết bài văn nghị luận với chủ đề: “Nhà văn mà tôi hâm mộ” – Mẫu 4

Trong số những nhà văn Việt Nam hiện đại, người để lại trong lòng độc giả cũng như những nhà phê bình văn học sắc sảo niềm tiếc nuối lớn nhất là nhà văn Nam Cao. Chúng ta nhận ra trên trang viết của Nam Cao dấu hiệu cùa tài năng có một không hai trong nền văn học nước nhà. Nếu bom đạn chiến tranh không tước đi sinh mạng của ông thì hẳn Nam Cao sẽ mang lại vẻ vang cho cả một dân tộc. Nhưng tôi yêu mến Nam Cao không hoàn toàn bởi những điều chúng ta vẫn tiếc nuối về ông. Tôi hâm mộ nhà văn này bởi quan niệm sống và viết và bởi sự nặng lòng của nhà văn dành cho người nông dân Việt Nam.

Sinh ra trong một làng quê vùng Hà Nam, Nam Cao là một người trí thức chân chính. Hẳn là như vậy. Nhưng điều kì lạ là trong khi nhiều nhà văn đặt nghệ thuật và sự nghiệp sáng tác của mình lên trên hết thì Nam Cao lại làm khác. Dĩ nhiên, đã là nhà văn thì phụng sự nghệ thuật, đam mê sáng tác là một lẽ thường tôi không hề có ý trách. Song chính điều đó càng khiến Nam Cao nổi bật bởi ông đã vượt qua được cái lẽ thường ấy của cuộc sống. Không coi sáng tác là nhiệm vụ số một thì Nam Cao coi trọng điều gì? Trong những năm tháng chống Pháp gian khổ, Nam Cao gác bút lên đường ra mặt trận, trực tiếp cầm súng chiến đấu. Nhà văn quan niệm “sống đã rồi hãy viết”. Đó là một quan niệm sâu sắc, có tính lí luận khái quát cao. Phải sống đủ đầy với cuộc đời rồi mới viết. Phải cảm nhận cuộc sống bằng mọi giác quan, mọi cảm xúc, cảm giác của bản thân rồi mang những cảm nhận máu thịt đó của mình lên trang viết. Khi ấy, người nghệ sĩ mới có thể truyền tải đầy đủ, chân thật bản chất cuộc sống đến với độc giả. Trong lời phát biểu của Nam Cao, ta nhận thấy một nhiệm vụ thiêng liêng của văn học: nhiệm vụ phản ánh cuộc sống. Không phải đến tận những năm tháng sau Cách mạng tháng Tám, Nam Cao mới có được tư tưởng vĩ đại đó. Trước Cách mạng, trong truyện “Trăng sáng” ông từng viết: “nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia cất lên từ những kiếp lầm than”. Vậy là, ngay từ rất sớm, Nam Cao đã ý thức được vai trò của người cầm bút là bám sát với đời sống thực tại của nhân dân để phản ánh và đồng cảm với nó.

Xuất phát từ quan niệm ấy, trước Cách mạng, ngòi bút Nam Cao theo sát đời sống khổ ải, bần cùng của người nông dân đương thời. Đọc văn Nam Cao, người đọc bị ám ảnh nặng nề bởi cái đói quay quắt. Cái đói dường như là một căn bệnh di căn lây lan với tốc độ khủng khiếp trên trang viết của ông. Người đọc hôm nay đã có lúc sợ hãi khi lật giở những trang truyện ngắn có sức bùng nổ dữ dội ấy. Sợ hãi bởi phải đối mặt cái khổ đau, rùng rợn -những cảnh tượng ấy như từ trang viết mà lan ra ám vào lòng người đọc. Tôi nghĩ rằng, khi viết những truyện ngắn ấy, nhà văn thực đã sống đủ đầy với đời sống người nông dân trước Cách mạng, thực đã cảm nhận đời sống ấy bằng máu thịt để mỗi nhịp tim nhà văn rung lên lại bắt nhịp cho những đợt xúc động vô bờ của độc giả. Cái đói, rồi những lời chửi rủa, những tiếng khóc tiếng hờ, những sự bế tắc,… Bao nhiêu sự thực cay đắng của đời sống người nông dân trước Cách mạng. Nam Cao đã mang cả tấm lòng của một người đồng bào để đón lấy, quằn quặn đau và đau đáu viết.

Tôi hâm mộ Nam Cao bởi nhiều điều nhưng trước hết là bởi tấm lòng chân thành và tha thiết với cuộc đời như thế.

*****

Trên đây là 4 bài mẫu Viết bài văn nghị luận với chủ đề: “Nhà văn mà tôi hâm mộ” lớp 12 do thầy cô trường Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập của mình. Chúc các em hoàn thành tốt bài tập của mình với điểm số cao nhất nhé.

Đăng bởi: THCS Bình Chánh 

Chuyên mục: Học tập, Lớp 12

Rate this post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *