Học TậpLớp 5

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó (64 mẫu)

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó bao gồm hướng dẫn viết cùng 64 bài mẫu tham khảo do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn sẽ là nguồn tài liệu hữu ích cho các em học sinh trau dồi thêm vốn từ, rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn ngắn ngày một hoàn thiện hơn.

Đề bài: Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó
Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó

Mục lục

Dàn ý Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó

a. Mở bài: Giới thiệu câu chuyện (theo giọng điệu của chim Phượng Hoàng)

Bạn đang xem: Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó (64 mẫu)

b. Thân bài:

  • Lấy hết nhà cửa, của cải chỉ chia cho em cây khế và góc vườn.
  • Câu chuyện xảy ra ở đâu? Có những ai? Hoàn cảnh sống của họ như thế nào?
  • Tính cách của người anh ra sao? Người em tính tình như thế nào?
  • Sau khi cha mất đi người anh đã đối xử với em mình ra sao? (Chia cho em cây khế ở góc vườn.)
  • Chuyện gì đã xảy ra với cây khế của người em? (Chim Phượng Hoàng đến ăn khế – chở đi lấy vàng).
  • Cuối cùng người em nhận được những gì? (Cuộc sống thay đổi, đỡ vất vả, được sung sướng)
  • Biết chuyện người anh đã hành động ra sao? (đến gạ đổi cây khế với em. Chim Phượng Hoàng lại đến ăn khế,
  • hắn đuổi chim đi. Chim hứa trả vàng, hắn tham lam mang túi mười hai gang đem đi đựng vàng).
  • Kết cục của người anh như thế nào? (Vì quá tham lam, chim không chở nổi, hắn rơi xuống biển sâu mà chết).

c. Kết luận: Câu chuyện có ý nghĩa như thế nào?

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 1

Gia đình tôi có hai anh em trai, tôi là út. Bố mẹ tôi đã theo về với tổ tiên hơn mười năm nay. Tôi ở với anh được một thời gian thì anh tôi lấy vợ. Không muốn cho tôi ở chung, họ bèn chia gia tài. Lợi dụng quyền thế của mình, hai vợ chồng chiếm hết tài sản quý giá, chỉ đế lại cho tôi một mảnh nhỏ và cây khế ngọt ở cuối vườn. Là phận em, tôi không đòi hỏi gì cả, và cũng chẳng phàn nàn, chỉ lo làm thuê cuốc mướn kiếm sông qua ngày.

Đến mùa khế ra qua, bỗng nhiên có một con chim lạ đến ăn hết trái này đến trái khác. Tôi xót ruột lắm bèn than thở cùng chim:

– Chim ơi! Cơ nghiệp nhà tôi chỉ có mỗi cây khế, chim ăn hết, tôi biết trông cậy vào đâu!

Chim lạ liền nói:

– Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng.

Thế rồi hôm sau chim lạ đưa tôi đi ra một hòn đảo ở tít ngoài khơi đầy vàng châu báu. Y theo lời dặn của chim, tôi chỉ lấy vừa đủ một túi ba gang rồi chim trở về nhà. Từ đó, cuộc sống của tôi trở nên khá giá, giàu có.

Biết chuyện, vợ chồng anh tôi ngày nào cũng sang nhà tôi năn nỉ xin đổi bộ gia tài để lấy cây khế. Thương anh, tôi đồng ý đổi. Đến mùa khế, vợ chồng anh tôi thay nhau chờ chực ở gốc cây chờ chim lạ đến. Rồi chim lạ cũng đến ăn. Sự việc giống như trước đây chim lạ đã nói với tôi. Chim lạ đi rồi, hai vợ chồng anh tôi hí hửng về nhà may một cái túi nhưng không phải ba gang như chim lạ bảo mà rộng đến mười hai gang.

Sáng hôm sau chim lạ đến chở anh tôi ra đảo. Vốn là người có tính tham anh tôi chất đầy vàng bạc châu báu ngọc ngà vào túi. Không những thế, anh tôi còn tìm kiếm chỗ nào trên người có thể nhét được, đều nhét vào rồi ì ạch lôi cái túi vàng khổng lồ và thân mình nặng trịch leo lên lưng chim. Nặng quá, chim phải vỗ cánh đến ba lần mới nhấc nổi mình lên được. Lúc bay qua biển, gặp một luồng gió mạnh, chim lảo đảo nghiêng cánh hất anh tôi cùng vàng rơi xuống biển sâu.

Tôi rất buồn vì cái chết của anh tôi nhưng nghĩ cho cùng đó cũng chính là học cho những kẻ tham lam, ích kỉ như lời ông cha đã dạy “tham thì thâm”.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 2

Tôi vốn là một nàng tiên ốc – con gái vua Thủy Tề. Một lần, tôi đang dạo chơi ven bờ sông thì có một bàn tay bắt lấy tôi. Thì ra đó là một bà cụ làm nghề mò cua, bắt ốc. Bà đã già lắm rồi, khuôn mặt khắc khổ, quần áo rách rưới. Bà ngắm tôi kĩ lắm vì tôi là một con ốc xanh xinh xắn. Bà cụ thốt lên:

– Chà con ốc đẹp quá! Ta không bán ốc đâu. Ta sẽ mang ốc về nuôi.

Thế là từ đó tôi sống trong cái chum trong nhà bà cụ. Thương bà cụ cô đơn nghèo khổ, ngày ngày, sau khi bà cụ đi làm, tôi liền chui ra khỏi vỏ ốc để dọn dẹp nhà cửa, cho đàn lợn ăn, làm cỏ, tưới rau… Vì vậy mỗi khi đi làm đồng về nhà, bà đều đều thấy nhà cửa gọn gàng tinh tươm. Thấy vậy, bà lão sinh nghi. Một hôm, bà giả vờ đi làm, đến giữa đường thì bà quay lại đứng rình. Như thường lệ, tôi lại chui ra khỏi vỏ ốc để giúp bà, bỗng từ đâu và chạy đến đập vỡ vỏ ốc, ôm lấy tôi và nói:

– Con ơi, con đừng đi nữa! Hãy ở đây với già cho già bớt cô quạnh.

Thương bà cụ tốt bụng nên tôi ở lại, không trở về Thủy cung nữa. Từ đó hai mẹ con sống hạnh phúc bên nhau.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 3

Tôi là một chàng tiều phu sống ở vùng núi phía Nam. Tôi có một cuộc sống sung túc, nhờ cuộc gặp gỡ kì diệu mấy năm trước.

Lúc ấy, tôi vẫn là một chàng tiều phu nghèo, cả gia tài chỉ có một cây rìu sắt cũ kĩ. Hôm đó, khi đang chặt củi ven hồ, tôi bất cẩn làm rơi rìu xuống nước. Nước hồ sâu lắm, tôi lại không biết bơi nên chẳng biết phải làm sao. Đúng lúc ấy, hồ nước gợn sóng rồi xuất hiện một cụ già râu tóc bạc phơ đứng giữa hồ. Trên tay ông ấy cầm một cái rìu bằng vàng và hỏi tôi đó có phải rìu của tôi không. Nhìn nó, tôi liền lắc đầu từ chối, và nói với ông rìu của tôi làm bằng sắt cơ. Nghe vậy, ông tiên lại lặn xuống nước và một lát sau mới xuất hiện. Lần này, ông mang theo chiếc rìu bằng bạc và hỏi tôi câu hỏi như lần trước, và tất nhiên tôi vẫn lắc đầu. Sau đó, ông tiên lại biến mất. Lần thứ ba xuất hiện, ông tiên cầm theo chiếc rìu sắt cũ của tôi trên tay. Thấy nó, tôi mừng rỡ xin ông cho nhận lại. Nghe tôi nói, ông tiên bật cười, và cho tôi nhận lấy chiếc rìu của mình. Rồi ông còn ban cho tôi hai chiếc rìu vàng và bạc nữa. Ông bảo đó là phần thưởng cho lòng trung thực của tôi. Nói rồi ông biến mất.

Nhờ hai lưỡi rìu đó, tôi có vốn làm ăn, mở cửa hàng buôn bán và dần trở nên giàu có.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 4

Tôi là nhân vật Chim Thần trong truyện Cây khế – một câu chuyện hay trong kho tàng truyện cổ nước ta. Sau đây, tôi xin kể lại câu chuyện ấy cho các bạn cùng nghe.

Ngày xưa, có hai anh em nhà kia cha mẹ đều mất sớm. Đến lúc lấy vợ người anh bèn chia gia tài. Cậy thế mình là anh cả, hắn chiếm hết tài sản cha mẹ để lại, chỉ cho người em một mảnh vườn nhỏ và cây khế ngọt ở cuối vườn. Vợ chồng hắn sống sung sướng trên gia tài có sẵn còn người em thì phải đi cày thuê cuốc mướn. Vất vả lắm người em mới kiếm được bát cơm manh áo sống cho qua ngày.

Đến mùa, cây khế ra hoa trĩu quá, người em sống nhờ vào cây khế. Tôi vốn rất thích ăn trái cây. Một hôm, bay qua khu nhà của người em, thấy những quả khế chín mọng, tôi vội sà xuống chén hết trái này đến trái khác. Thấy vậy, người em đi đến buồn rầu nói với tôi:

– Chim ơi! Gia tài tôi chỉ có mỗi cây khế. Chim ăn hết, tôi lấy gì để sống”

Tôi vội nói ngay:

– Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng.

Y như lời hứa, sáng hôm sau tôi bay đến chở người em ra đảo lấy vàng. Lấy đủ một túi ba gang, người em nhờ tôi chở về nhà. Từ đó, cuộc sống người em trở nên sung túc, giàu có.

Đến mùa khế ra hoa kết trái, tôi lại đến ăn như lần trước và tôi cũ bảo vợ chồng người anh như đã từng nói với người em. Cả hai vợ chồng hí hửng may một cái túi to đến mười hai gang. Rồi tôi cũng đưa họ đến đảo vàng như đã hứa. Đến nơi, anh ta hoa cả mắt, hì hục nhét vàng bạc châu báu chật cứng cả cái túi mười hai gang. Chưa thoả lòng tham, hắn nhét đầy vào người những chỗ nào có thể nhét được rồi ì à ì ạch leo lên lại tụt xuống mãi sau hắn mới bò lên được lưng tôi. Vì nặng quá, tôi phái vỗ cánh đến mấy lần mới nhấc mình lên được khỏi mặt đất. Khi bay qua biển rộng, một phần vì chở quá nặng, một phần do có một luồng gió bất thần xô đến, tôi cũng không giữ thăng bằng được, bèn nghiêng cánh hất hắn và cả túi và rơi xuống biển sâu.

Thế là hết đời một kẻ tham lam, không tình nghĩa. Câu chuyện Cây khế là vậy đó.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 5

Tôi là người em trong câu chuyện Cây Khế. Mỗi lần nhớ lại chuyện xưa, lòng tôi nặng trĩu một nỗi buồn. Đó là nỗi buồn vì anh tôi đã vĩnh viễn ra đi bởi lòng tham lam vô độ.

Lúc sinh thời, bố mẹ tôi có một gia sản tương đối lớn. Khi họ mất đi, anh tôi dành hết nhà cửa, ruộng vườn, đất đai,… Anh chỉ để cho tôi một túp lều nhỏ và một cây khế. Tôi lúc nào cũng hiếu thuận nên nhất mực nghe theo, không dám đòi hỏi gì hơn.

Hằng ngày, vợ chồng tôi ra sức chăm bón nên cây khế mau đơm hoa, kết trái. Nhìn cây khế trĩu quả, vợ chồng tôi vui mừng khôn xiết. Cây khế đã trở thành nguồn sống của gia đình tôi.

Một ngày kia, bỗng có một con chim lạ từ đâu bay đến đậu trên cây khế. Chim thật đẹp. Bộ lông nó mịn màng như nhung, thân hình chim to lớn như đại bàng. Chim ăn khế nhà tôi rất nhiều, nó mổ hết quả này đến quả khác. Tôi thật xót lòng nhưng không nỡ xua đuổi chim đi. Tôi chi đứng dưới gốc mà than thờ với chim rằng:

– Gia đình ta sống nhờ vào cây khế này thôi, nay chim ăn hết thì ta sống làm sao?

Tôi vừa dứt lời thì chim kêu lên thành tiếng:

“Ăn một quả khế Trả một cục vàng May túi ba gang Mang đi mà đựng”

Thật ngạc nhiên! Tôi không nghĩ rằng chim sẽ giúp mình giàu sang, nhưng tôi vẫn bảo vợ may một cái túi vừa đúng ba gang. Sáng hôm sau, chim đến chở tôi đi lấy vàng, tôi vô cùng vui sướng vì quá nhiều vàng ở đấy, nhưng tôi chỉ lấy vừa đủ đựng vào túi rồi leo lên lưng chim để chim chở về nhà. Gia đình tôi đã trở nên giàu có từ dạo ấy. Tôi đã có cơ hội giúp đỡ người nghèo khó trong làng. Vợ chồng tôi thầm cảm ơn chim thần tốt bụng đã giúp đỡ chúng tôi. Chẳng bao lâu, anh tôi biết được sự việc trên nên sang nhà tôi đòi đổi gia sản của anh để lấy lại cây khế. Vốn chiều lòng anh nên tôi chấp thuận. Tôi chỉ mong anh em thuận hòa và gia đình êm ấm. Thế là hằng ngày anh cứ đứng ở gốc cây khế mà trông chờ chim lạ.

Sự chờ mong của anh cũng đến. Chim lạ bay tới ăn khế, anh tôi than thở với chim. Chim lạ cũng kêu thành tiếng như lần trước. Anh tôi mừng quá, lòng tham của anh trỗi dậy. Anh bảo vợ may cái túi mười hai gang để chuẩn bị đi lấy vàng. Sáng sớm hôm sau, chim bay đến chở anh đi đến núi vàng. Đến nơi, chim đáp cánh xuống. Nhìn thấy vàng, anh hoa cả mắt. Anh không cầm được lòng tham nên cố lấy cho thật nhiều vàng. Anh đựng đầy vào túi mười hai gang và còn lấy thêm giấu vào trong người. Lúc về, chim bay qua giữa biển thì gặp cơn gió mạnh, chim mỏi cánh bảo anh thả bớt vàng xuống nhưng anh không chịu nghe lời, cứ khư khư ôm lấy túi vàng. Bỗng cánh chim chao đảo. Chim không chịu đựng được nữa vì quá nặng nên đã trút anh tôi cùng cái túi vàng xuống biển.

Tôi thật đau xót cho anh. Giá như anh tôi đừng tham lam thì đâu có kết cục bi thảm như thế. Từ câu chuyện về cây khế và chim thần, tôi muốn nhắn gửi mọi người một điều:

“Ở hiền thì được gặp hiền Người ngay thì được phật, tiên độ trì”.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 6

Tôi là người em trong câu chuyện “Cây khế”. Tôi xin kể lại câu chuyện giữa tôi và người anh đã quá cố lâu rồi.

Lúc sinh thời, bố mẹ tôi có một gia sản tương đối lớn. Nhờ ăn ở phúc đức nên họ được mọi người quí mến. Khi bố mẹ tôi mất đi, anh tôi đòi chia gia tài. Chiều lòng anh và chị dâu nên tôi nhất mực nghe theo. Tôi lúc nào cũng hiếu thuận để gia đình êm ấm. Thế nhưng, anh tôi đã lấy hết tài sản và chỉ cho tôi một mảnh vườn nhỏ có trồng một cây khế. Hằng ngày, tôi ra sức chăm bón nên cây khế mau đơm hoa và kết trái. Nhìn cây khế trĩu quả, vợ chồng tôi rât đỗi vui mừng. Cây khế đã trở thành nguồn sống của gia đình tôi. Bỗng một hôm, có một chim lạ từ đâu bay đến đậu trên cây khế. Chim thật đẹp. Bộ lông của nó mịn màng như nhung, óng ánh nhiều màu sắc rực rỡ. Chim ăn khế nhà tôi rất nhiều, nó ăn hết quả này đến quả khác. Tôi thật xót lòng nhưng không nỡ xua đuổi chim. Tôi chỉ đứng dưới gốc mà than thở với chim rằng:

– Gia đình ta sống nhờ cây khế này thôi, nay chim ăn hết vậy ta sống làm sao?

Thật không ngờ chim lại kêu lên thành tiếng:

Ăn một quả khế
Trả một cục vàng
May túi ba gang
Mang đi mà đựng.

Tôi không nghĩ rằng chim sẽ giúp mình giàu sang, nhưng tôi vẫn bảo vợ làm theo lời chim dặn. Sáng hôm sau, chim đến chở tôi đi lấy vàng. Đến núi vàng, tôi hoa cả mắt nhưng chỉ lấy vừa đủ đựng vào túi ba gang rồi leo lên lưng chim để được chở về nhà. Từ đó, gia đình tôi trở nên khấm khá. Tôi đã có cơ hội giúp đỡ người nghèo khó trong làng. Anh tôi biết được việc chim lạ giúp tôi giàu có, anh nằng nặc đòi tôi đổi lấy gia sản của anh, trả lại cho anh mảnh vườn có cây khế mà ngày trước anh chia cho tôi. Vốn chiều lòng anh nên tôi chấp thuận và làm theo yêu cầu của anh. Hằng ngày anh cứ đứng ở gốc cây mà trông chờ chim lạ.

Sự trông chờ của anh cũng đã đến. Chim lạ bay tới ăn khế, anh tôi than thở, chim cũng kêu lên như lần trước. Anh tôi mừng quá liền bảo vợ may cái túi mười hai gang. Chim đến chở anh đi lấy vàng. Nhìn thấy vàng, anh không cầm được lòng tham. Anh đựng đầy vàng vào túi lớn và còn lấy thêm để giấu vào người. Lúc về, trời quá nhem tối. Chim mỏi cánh bảo anh thả bớt vàng xuống nhưng anh không chịu nghe. Gặp cơn gió mạnh, chim chao đảo. Thế là anh tôi cùng cái túi vàng nặng trịch ấy đã rơi xuống biển.

Tôi thật đau xót cho anh tôi. Giá như anh đừng tham lam thì đầu có kết cục bi thương như thế.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 7

Tôi là Thạch Sanh, vốn là con của Ngọc Hoàng được vua cha sai xuống để tìm hiểu đời sống trần gian, tôi được đầu thai làm con của một gia đình người đốn củi nghèo nhưng lương thiện. Vừa ra đời chưa được bao lâu thì bố mẹ mất, tôi trở thành đứa bé mồ côi không nơi nương tựa. Cả gia tài bố để lại cho tôi là một cây rìu, tôi đốn củi bán kiếm sống qua ngày. Dù cuộc sống có nhiều khó khăn nhưng tôi luôn cố gắng từng ngày, luyện tập võ nghệ và trở thành một chàng trai khoẻ mạnh và tài năng. Một ngày, đang nghỉ ngơi dưới túp lều tranh thì tôi gặp một người tự xưng là Lí Thông. Hắn bỗng ngỏ ý kết nghĩa làm anh em với tôi, vốn đã tứ cố vô thân từ lâu, được người xưng nhận anh em khiến tôi cảm động vô cùng và đồng ý theo hắn về nhà ngay mà không mảy may biết rằng đằng sau đó là âm mưu lợi dụng sức khỏe của tôi để vụ lợi cho hắn.

Năm đó, trong làng có một con chằn tinh chuyên ăn thịt người, cứ vài ba tháng là dân làng phải dâng cho hắn một trai làng khoẻ mạnh không thì nó sẽ tác oai tác quái hại dân. Lần này, đến lượt mẹ con nhà của Lí Thông, mẹ con hắn tính toán lấy tôi làm vật thế chân, bảo là canh miếu thờ giúp hắn một đêm. Lúc này tôi vẫn tin tưởng và thật thà nhận lời, đồng ý vác rìu lên đường đến cảnh miếu. Về khuya, lúc tôi đang ngủ thì còn chằn tình ở đâu xuất hiện, bất ngờ quấn lấy người tôi. Không sợ hãi, tôi dõi theo tình hình rồi thừa cơ vung rìu chặt đầu nó, mang về khoe với mẹ con Lí Thông. Thấy tôi về, mẹ con hắn vô cùng hoảng sợ và lấy làm ngạc nhiên, khi nghe tôi kể lại đầu đuôi thì bảo với tôi nên trốn vì đó là vật vua nuôi, nếu không sẽ bị xử chết. Còn mẹ con hắn mang đầu chằn tinh đi nhận thưởng.

Tôi không hề biết điều đó, nghe lời, quay lại túp lều xưa của mình sống. Một buổi sáng, tôi đang đốn củi, vô tình ngẩng lên trời thì thấy một con đại bàng lớn cắp theo một cô gái, tiếng kêu cứu thất thanh. Lần theo dấu vết đại bàng, tôi tìm tới tận cửa hang của nó, xông vào cứu người thì con đại bàng tấn công. Tôi ra tay quyết liệt và giết được nó, cứu công chúa, lần này Lí Thông thừa cơ lấp cửa hàng và đưa công chúa trở về nhận công lao. Chính bây giờ, tôi mới thực sự rõ tâm địa ác độc của người anh em mình. Đi lần khắp nơi trong hang tìm cửa ra thì tôi phát hiện thêm một người nữa bị đại bàng bắt là con vua Thủy Tề, xuống thủy cung chơi và được vua cha ban tặng cây đàn thần. Trở về chưa được bao lâu, một đêm hồn chằn tinh và đại bàng tìm cách cách báo thù đã đẩy tôi vào ngục vì án oan. Trong ngục, quá buồn chán tôi mang đàn ra gảy thì được sai nha dẫn đến trước mặt gặp nhà vua. Công chúa nhận ra tôi và kể lại đầu đuôi sự việc, tôi được minh oan rửa tội, nàng sau khi khỏi bệnh đã chọn tôi làm phò mã. Mẹ con Lí Thông lúc này mới chịu nhận tội, tôi được vua giao quyền trừng phạt. Dù rất tức giận nhưng tôi đã cho họ một con đường sống để trở lại làm người lương thiện.

Khi giặc ngoại xâm tới xâm chiếm lãnh thổ, tôi giúp vua cha thu phục 80 nước chư hầu bằng cây đàn thần vua Thủy Tề tặng, với những tiếng đàn làm rệu rã tinh thần quân lính. Bên cạnh đó, tôi còn thách đố chúng ăn hết niêu cơm nhỏ xíu nhưng chẳng ai có thể ăn hết, bởi đó là niêu cơm thần, cứ hết lại có, vơi lại đầy. Từ đó, đất nước sống trong thanh bình, hai vợ chồng tôi sống trong hạnh phúc với sự bình an của muôn dân. Tôi vẫn luôn tin rằng, người tốt sẽ gặp được điều may mắn trong cuộc sống, kẻ độc ác ắt sẽ bị trừng trị đích đáng.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 8

Tôi là vợ của một phú ông giàu có. Tuy nhiên, để có cơ ngơi như ngày hôm nay, vợ chồng tôi cũng đã phải trải qua những khó khăn, vất vả.

Hồi mới kết hôn, tôi và chồng sống cùng gia đình chồng. Tuy cuộc sống không quá giàu sang nhưng cũng gọi là đủ đầy. Năm nọ, bố chồng lâm bệnh nặng rồi qua đời. Anh chồng tôi nghe lời chị dâu xúi dục, cướp hết toàn bộ đất đai, gia sản, đuổi vợ chồng tôi ra sống ở túp lều nhỏ. Tất cả những gì vợ chồng tôi nhận được, chỉ là một cây khế già mà thôi.

Dù vậy, vợ chồng tôi vẫn đành cam chịu, tiếp tục làm thuê kiếm sống. Nhờ công cần cù chăm sóc, cây khế già đã cho quả rất sai. Trái nào cũng to và ngọt. Chúng tôi đinh ninh rằng sẽ bán được nhiều tiền. Ngờ đâu, từ xa có một con chim lớn bay đến, ăn rất nhiều trái. Lo lắng, chồng tôi tìm cách tâm sự với chim và được nó đáp lại. Con chim đã đưa chồng tôi ra một hòn đảo xa, và mang về rất nhiều vàng bạc châu báu. Nhờ đó, mà chúng tôi có vốn liếng làm ăn, xây dựng được cơ ngơi như ngày hôm nay. Thấy thế, người anh chồng đã đến và xin được đổi gia sản lấy cây khế già. Chồng tôi thương anh, đồng ý ngay. Ngờ đâu, hắn ta vẫn không bỏ được thói tham lam. May túi quá lớn, cố nhặt thật nhiều vàng, chim chở không nổi, lại gặp bão lớn nên bị rơi xuống biển.

Đến nay, nhiều năm đã trôi qua, gia đình tôi ngày càng trở nen giàu có. Nhưng vợ chồng tôi vẫn nhớ ơn cây khế năm xưa mà dốc lòng chăm sóc.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 9

Tôi là một cây khế già sống trong ngôi làng ven biển. Tôi chính là cây khế trong câu chuyện cổ tích Cây khế nổi tiếng.

Năm đó, vẫn như thường lệ, tôi ngủ say trong một góc vườn bị bỏ trống nhiều năm. Bỗng một ngày, có đôi vợ chồng trẻ dọn vào túp lều nhỏ cạnh tôi sinh sống. Nghe họ tâm sự tôi mới biết, thì ra bố của họ vừa qua đời, họ đã bị anh trai lấy hết gia sản rồi đuổi ra chỗ này, chỉ phân cho một cây khế là tôi. Thấy họ khó khăn, lại rất cần cù chăm sóc cho tôi. Nên tôi đã cố gắng cho ra thật nhiều quả ngọt, để giúp họ có thêm thu nhập. Ngờ đâu, ngày nọ có một con chim thần từ xa bay đến, ăn rất nhiều khế chín. Người chồng sốt ruột, liền ra tâm sự với chim, mong chim đừng ăn nữa. Thế là chim thần liền dặn anh ta may túi ba gang mang đi theo nó để lấy vàng bù cho những quả khế đã ăn. Nhờ vậy, gia đình anh ta trở nên giàu có, khiến tôi mừng lắm. Ngờ đâu, chỉ hơn hai tuần sau, người anh trai tham lam của anh ta lại sang nhà, xin đổi nhà cửa lấy tôi. Chắc hẳn là hắn ta cũng muốn làm giàu như em mình. Tuy nhiên, sau khi hắn theo chim rời đi thì chẳng thấy quay lại nữa. Mãi khi chim thần lại đến ăn khế, kể cho tôi nghe thì tôi mới biết rằng hắn đã mất tích trên biển rồi. Tất cả là do hắn quá tham lam, may túi những mười hai gang, nhét đầy vàng nên nặng quá, bị bão thổi bay xuống biển.

Kết cục ấy thật xứng đáng cho kẻ tham lam và độc ác như hắn. Còn tôi thì lại được người em hiền lành quay về chăm sóc. Và mỗi mùa khế chín, sẽ có người bạn chim thần ghé qua chơi.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 10

Vào một ngày nắng đẹp, tôi cùng đứa con ngao du trên bầu trời. Bay một lúc lâu, chúng tôi hạ cánh xuống khu vườn nhỏ nghỉ ngơi. Chợt con tôi hỏi: “Cha ơi! Cha đã đi rất nhiều nơi, có chuyện gì mà cha nhớ nhất”. Nghe con hỏi tôi liền nhớ lại câu chuyện Cây khế rồi kể cho con nghe.

“Hồi đó, cha còn rất trẻ. Với đôi mắt xanh biếc, chiếc mỏ đỏ chót và bộ lông đẹp, nhiều màu sắc cùng thân hình cường tráng, cha bay đi khắp nơi ngắm thế gian.

Một hôm, cha đậu xuống cây khế trồng trên một mảnh vườn nhỏ bên cạnh ngôi nhà rách nát. Nhìn những trái khế chín mọng, ngon lành, lúc đầu cha định ăn một quả thôi nhưng càng ăn càng thấy ngon. Cha ăn cho đến khi chỉ còn vài quả trên cây, bỗng có tiếng người nói: “Chim ơi! Nhà ta chỉ có cây khế này thôi, chim ăn hết thì vợ chồng ta lấy gì mà sống?” Lúc này, cha mới để ý thấy một chàng thanh niên gầy gò, xanh xao, mặc bộ quần áo rách rưới đang đứng dưới gốc cây khế. Thấy anh ta có vẻ nghèo khổ, nhất là khi nhìn căn nhà tồi tàn của vợ chồng anh ta thì cha thấy ái ngại quá. Thương họ, cha liền nói: “Ăn một quả, trả một cục vàng, may túi ba gang mang đi mà đựng”, rồi cha bay đi.

Sáng hôm sau, cha đến đón anh ta theo lời hẹn. Trên đường, cha và anh ta nói chuyện rất vui vẻ. Cha được biết, trước đây gia đình anh ta rất giàu có. Nhưng khi cha mẹ mất đi, vợ chồng người anh đã chiếm hết gia tài, nhà cửa, ruộng vườn, chỉ để cho vợ chồng anh ta một căn nhà rách nát, một mảnh vườn nhỏ, trên mảnh vườn cằn cỗi đó chỉ có một cây khế. Hai vợ chồng anh ta phải làm lụng vất vả, cày thuê cuốc mướn để kiếm sống. Vui chuyện, cuối cùng đã đến hòn đảo có một cái hang chứa đầy vàng. Cha hạ cánh xuống hòn đảo để anh ta vào hang lấy vàng. Cha thấy anh ta chỉ lấy vàng vào cái túi ba gang mà anh ta mang theo. Đưa anh ta về tới nhà, cha thầm nghĩ: “Người thanh niên này cũng hiền lành, thật thà”.

Năm sau, đến mùa khế chín, cha lại đến ăn khế. Có một người chạy ra, nhưng không phải là anh thanh niên lần trước mà là một người đàn ông mập mạp, hồng hào, chẳng có vẻ gì là thiếu ăn, thiếu mặc cả. Nghe hắn than thở cha cung nói: “Ăn một quả, trả một cục vàng, may túi ba gang mang đi mà đựng”.

Sáng hôm sau, cha đưa hắn đi, nhưng hắn mang tận cái túi chừng mười hai gang. Đến hòn đảo, nhìn thấy cái hang chứa vàng đó, hắn ta hí hửng chạy vào lấy vàng. Đợi mãi vẫn chưa thấy hắn ra, nhìn biển thấy sắp có bão, cha vào hang giục hắn về nhưng hắn vẫn mê mải lấy vàng không chịu ra. Mãi lâu sau, hắn mới ì ạch kéo cái túi vàng nặng trịch ra, xung quanh người hắn cũng buộc toàn vàng, thế mà ra đến cửa hang rồi, hẳn ta vẫn còn cảm thấy tiếc rẻ. Hắn chậm chạp bước lên lưng cha, vàng nhiều, nặng quá, cha phải cố hết sức mới bay được. Đi đến giữa biển, đôi cánh của cha mỏi rã rời tường như không cắt lên được nữa, chợt giông tố nổi lên, sấm sét ầm ầm. Cha cố gắng bay, cha bảo hắn vứt bớt vàng đi nhưng hắn không chịu. Gió mạnh quá người cha nghiêng ngả, chao đảo làm hắn rơi xuống biển cùng với túi vàng cùa hắn. Thật đáng đời kẻ tham lam!

Con thấy đấy! Người em “ở hiền thì gặp lành”, còn người anh tham lam thì đã phải trả giá. Con hãy nhớ lấy bài học từ câu chuyện này nhé!

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 11

Tôi là cô Út trong một gia đình có ba chị em gái. Tôi may mắn lấy được một chàng trai khôi ngô, tài giỏi. Trong một lần đi sứ, khi quan trạng nhà tôi và các sứ giả khác bàn chuyện, tôi cùng các phu nhân ngồi thưởng trà với nhau. Sau khi nghe một vị phu nhân kể về mối lương duyên thú vị của họ, tôi cũng bèn kể câu chuyện dài giữa mình và chàng trạng nguyên Sọ Dừa.

Thuở trước, nhà tôi cũng được coi là bậc phú quý, có của ăn của để. Cha tôi thuê kha khá người ở, trong đó có hai vợ chồng ngoài năm mươi hiền lành, chịu khó. Họ hiền lành là vậy, nhưng ông trời lại chưa cho họ một mụn con nối dõi.

Mãi sau này, người vợ sinh ra một đứa bé không chân, không tay, tròn trịa chẳng khác nào quả dừa. Nghe mọi người kể, bà có mang khi vào rừng hái củi, khát nước nên uống nước mưa trong một cái sọ dừa. Có lẽ vì thế mà bà đặt cho con cái tên Sọ Dừa. Sọ Dừa đã từng bị mẹ vứt đi khi sinh ra thấy hình hài dị biệt, nhưng cậu đã cất tiếng xin mẹ:

– Mẹ ơi! Con là người đấy. Mẹ cho con sống với mẹ, đừng vứt con đi mà tội nghiệp.

Bao năm trôi qua, Sọ Dừa vẫn chỉ lăn lông lốc, chẳng thể làm việc gì như con nhà người ta. Người mẹ ngày càng phiền lòng hơn. Biết những muộn phiền của mẹ, Sọ Dừa vội xin mẹ nói với cha tôi đến ở chăn bò. Cha tôi ban đầu ngần ngại vì sợ người như cậu không thể chăn dắt tốt cho đàn bò. Nghĩ kĩ, cuối cùng cha vẫn đồng ý.

Trái ngược với sự nghi ngại của cha tôi và mọi người, Sọ Dừa chăn bò rất giỏi. Dù chỉ lăn theo sau đàn bò ra đồng rồi về chuồng nhưng ngày nào cũng như ngày nào, đàn bò no căng bụng. Cha tôi rất hài lòng.

Ngày mùa đến, cha sai ba chị em nhà tôi thay phiên nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Hai chị tôi kiêu kì, thường hắt hủi Sọ Dừa. Tôi thấy Sọ Dừa cũng hiền lành, tốt bụng nên sẵn sàng đối tốt với cậu.

Một hôm, vừa đến chân đồi, tôi đã thoảng thấy tiếng sáo véo von. Tôi ngạc nhiên vì giữa đồi núi lại có ai cất tiếng sáo. Tôi bèn rón rén nấp sau bụi cây rình xem. Tôi càng ngạc nhiên hơn nữa khi thấy một chàng trai khôi ngô đang ngồi trên chiếc võng thổi sáo. Tôi lỡ vin vào cành khô, cành khô khẽ gãy. Tiếng cành gãy làm chàng trai ban nãy biến mất và Sọ Dừa lại nằm lăn lóc ở đấy. Mấy lần như vậy, tôi đoán là Sọ Dừa không phải người phàm trần. Trước một vẻ đẹp kì thú của Sọ Dừa, tôi đem lòng thầm thương chàng.

Dường như Sọ Dừa hiểu lòng tôi. Có hôm cha tôi gắt gỏng với ba chị em tôi về chuyện của Sọ Dừa. Chúng tôi không rõ là chuyện gì, mãi sau tôi mới biết thì ra mẹ Sọ Dừa đã đến thưa chuyện với cha tôi về việc xin cưới. Cha tôi đã thách cưới Sọ Dừa một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo và mười vò rượu tăm. Cả cha tôi lẫn mẹ Sọ Dừa đều nghĩ cậu sẽ thôi việc đòi lấy vợ. Không ngờ, đúng ngày hẹn, hai mẹ con Sọ Dừa đem sính lễ tới cùng với chục gia nhân khiêng lễ. Cha tôi hoa cả mắt, lúng túng cho gọi ba chị em tôi ra. Cha hỏi:

– Sọ Dừa đến xin cưới vợ. Ai trong các con ưng thuận làm vợ thằng Sọ Dừa?

Hai chị tôi bĩu môi, chê bai. Tôi mừng biết bao nên cúi mặt mỉm cười, tỏ ý thuận lòng. Cha tôi thoáng vẻ ngạc nhiên và tức giận nhưng đành nhận lễ.

Ngày cưới của chúng tôi rất linh đình. Nhưng đúng lúc rước dâu, chẳng ai thấy Sọ Dừa đâu. Tôi cũng rất mừng vì người sánh vai cùng mình là chàng trai khôi ngô tuấn tú tôi thường thấy. Ai nấy đều sửng sốt, mừng rỡ, chỉ có hai cô chị tôi là tiếc, vừa ghen tức.

Vợ chồng tôi sống bên nhau rất hạnh phúc. Chồng tôi còn miệt mài đèn sách và đỗ trạng nguyên năm ấy. Nhưng chúng tôi phải chia tay nhau vì khi thành quan trạng, chàng Sọ Dừa ngày nào phải đi sứ theo lệnh vua. Kì lạ, trước khi đi, chàng đưa cho tôi một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà. Chàng còn dặn phải luôn giắt trong người.

Từ ngày đi lấy chồng, hai chị gái tôi đối xử với tôi khác hẳn. Hai chị còn rủ tôi đi chèo thuyền ra biển. Nhưng đúng hôm đó, tôi bị ngã xuống nước rồi bị cá kình nuốt chửng. Trong bụng cá, tôi bèn lấy con dao đâm cá. Cá chết nên nổi lên mặt biển rồi dạt vào hòn đảo ngoài khơi. Tôi khoét bụng cá chui ra, nhóm lửa từ hai hòn đá rồi nước thịt cá ăn cho đỡ đói. Hai quả trứng chồng đưa nay đã nở thành một đôi gà đẹp. Nhờ có chúng mà tôi bớt cô đơn giữa hòn đảo hoang vắng. Rồi chính chú gà trống đã gáy gọi chiếc thuyền lớn đang lướt qua đảo vào cứu tôi. Tôi mừng vui khôn xiết khi đó chính là thuyền của quan trạng. Chàng đón tôi về, mở tiệc mừng, mời hàng xóm đến chung vui. Tôi không ra đón tiếp mọi người. Hai chị tôi không hay biết nên giả vờ kể lể thương xót việc tôi ngã xuống biển. Chồng tôi gọi tôi ra. Hai chị ngạc nhiên và xấu hổ tột cùng, vội tìm cách ra về. Cũng từ đó, chẳng ai thấy hai người chị của tôi nữa.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 12

Tôi tên là Sọ Dừa. Ngày hôm nay tôi muốn kể cho các bạn nghe về câu chuyện cuộc đời của mình.

Cha mẹ tôi là những người nông dân hiền lành và rất chăm chỉ làm việc, dù cuộc sống nghèo khó nhưng luôn sống vui vẻ với làng xóm. Tuy nhiên, chỉ có một điều khiến hai người phiền lòng là dù đã tuổi cao nhưng chưa có một đứa con. Một hôm, mẹ tôi vào rừng lấy củi. Trời nắng to nên mẹ khát nước, nhìn thấy chiếc sọ dừa bên gốc cây có đựng nước mưa, mẹ đã uống dòng nước mát đó. Và rồi, tôi đã được đầu thai như thế. Cha mẹ rất vui mừng những ngày mang thai tôi. Ít lâu sau, cha qua đời và mẹ sinh ra tôi, không có chân tay và người tròn lông lốc như một quả dừa. Mẹ buồn lòng định vứt tôi đi, tôi bỗng lên tiếng: “Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp”. Tôi nhìn thấy những giọt nước mắt lăn dài trên khuôn mặt mẹ và mẹ đặt tên cho tôi là Sọ Dừa.

Khi tôi lớn lên và mẹ dần già yếu, tôi bèn xin với mẹ cho đến nhà phú ông chăn bò để kiếm tiền phụ giúp mẹ. Lúc đầu, phú ông ngần ngại nhưng rồi cũng đồng ý cho tôi làm việc. Hàng ngày, tôi lăn sau đàn bò ra đồng để chăn, đến tối lại lăn sau lùa chúng về chuồng. Cả đàn bò đều béo tốt khiến phú ông mừng rỡ vô cùng.

Vào những ngày mùa bận rộn, khi người làm ra đồng làm việc, phú ông đã sai ba cô con gái lần lượt mang cơm ra cho tôi. Hai người chị gái rất kiêu kì và thường hắt hủi tôi, chỉ có cô út đối đãi với tôi rất tử tế. Đến hôm cô út mang cơm ra cho tôi, khi đó tôi đã cất tiếng sáo du dương cho đàn bò gặm cỏ. Cô đã ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi trong hình dạng mới: một chàng trai khỏe mạnh bình thường, khuôn mặt tuấn tú đang ngồi trên chiếc võng đào. Khi biết cô đến, tôi bỗng trở lại hình dạng Sọ Dừa như cũ. Nhiều lần như vậy, cô biết tôi không phải người thường và yêu mến tôi. Chính tấm lòng nhân hậu của cô út cũng đã khiến tôi đem lòng yêu thương người con gái ấy.

Cuối mùa ở thuê năm đó, tôi về nhà và giục mẹ sang nhà phú ông hỏi vợ cho tôi. Mẹ vô cùng sửng sốt nhưng thấy tôi năn nỉ, quyết tâm nên bà đã chiều lòng. Thấy mẹ tôi đến, phú ông đã mỉa mai và ra điều kiện thách cưới: “Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.” Nhìn mẹ lo âu, tôi đã động viên mẹ yên tâm để tôi lo lắng mọi việc.

Đến ngày cưới, tôi đã chuẩn bị đầy đủ lễ vật và cô út bằng lòng lấy tôi. Cỗ bàn được bày biện linh đình. Lúc rước dâu, tôi đã hóa thân thành chàng trai khôi ngô tuấn tú bên người vợ xinh đẹp, hiền hậu của mình khiến mọi người đều ngạc nhiên và mừng rỡ.

Vợ chồng tôi đã sống bên nhau hạnh phúc. Tôi chăm chỉ ngày đêm miệt mài học tập và trong kì thi năm đó, tôi đỗ trạng nguyên. Triều đình cử tôi đi sứ. Trước lúc lên đường, tôi đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà để phòng thân.

Ganh tị với những thứ vợ tôi có được, hai người chị vợ đã tìm cách hãm hại. Họ rủ vợ tôi chèo thuyền ra biển rồi đẩy nàng xuống dòng nước sâu. Nàng đã bị cá kình nuốt chửng nhưng may mắn khi cầm theo những đồ dùng tôi tặng mà thoát chết. Nàng cầm con dao mổ bụng cá, đánh đá lấy lửa nướng thịt cá ăn. Hai quả trứng gà cũng kịp nở thành một đôi gà đẹp để làm bạn cùng nàng.

Khi đi sứ trở về, tôi vô cùng tức giận khi biết tin vợ mất tích, Tôi bèn đi thuyền ra đảo thì nghe tiếng gà trống gáy to: “ò… ó… o… Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.”

Cho thuyền vào đảo thì biết đó chính là vợ tôi. Gặp lại nhau, chúng tôi mừng mừng tủi tủi. Đưa vợ về nhà, tôi mở tiệc mừng mời bà con đến chia vui, nhưng lại giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai cô chị thấy thế khấp khởi mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em rủi ro ra chiều thương tiếc lắm. Tôi không nói gì, tiệc xong mới cho gọi vợ ra. Hai cô chị nhìn thấy em mình thì xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ đi biệt xứ.

Từ đó, vợ chồng tôi và mẹ sống hạnh phúc bên nhau. Sự biến mất hai người chị vợ không rõ tung tích khiến tôi cũng buồn nhưng đó là bài học cho những kẻ ích kỉ, tham lam và độc ác.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 13

Cha đã mất, tôi là anh lại có gia đình nên phải sống riêng. Vợ tôi thật có lí khi bảo rằng gia tài phải là của tôi vì tôi là anh cả, lo hương hỏa cho cha.

Từ đấy, gia đình tôi sống đầy đủ và sung túc với đất đai vườn tược do cha để lại. Em tôi chỉ có khoảnh đất nhỏ và cây khế già. Có lẽ cũng sống được qua ngày, chú ấy cần cù và chăm chỉ lắm.

Một hôm tôi nghe mọi người trong vùng kháo nhau về sự giàu có của em tôi. Không tin việc ấy, tôi tìm cớ giỗ cha đến thăm nó. Sau khi nghe em kể toàn bộ câu chuyện, như một giấc mơ, tôi vội đề nghị em đổi cả gia tài để lấy cây khế của em. Theo lời dặn và làm đúng như em, tôi chăm chút cây khế đến ngày hái quả. Hôm ấy, cả đàn chim Thần đến ăn khế. Tôi ngồi dưới gốc cây mà than khóc. Quá nhiên con đầu đàn bảo tôi hãy mang túi ba gang để đựng vàng, mỗi quá khế đổi một thỏi vàng. Vợ tôi may túi cả đêm, to thật to, cỡ bảy gang. Hôm sau, ngoài hai túi mang theo nhằm lấy thật nhiều vàng, vợ tôi còn nhét thêm một túi nữa.

Đến đảo, tôi cô hốt đầy cả ba túi, càng nhiều càng tốt. Lúc này, tôi cảm thấy tiếc vì sao không mang theo mười túi. Trên đường về giữa biển, cánh chim xệch sang bên khiến tôi giật mình, vội kéo ba túi vàng nặng trịch sang cánh kia của chim. Chim Thần van nài tôi hãy bỏ bớt. Tôi cũng hơi sợ nhưng nghĩ đến số vàng mà cả đời làm lụng cùng khó có được, uổng lắm.

Không thể gượng nổi, cánh chim còn lại dần nghiêng rồi xụi hẳn xuống. Ban đầu là một túi đã rơi mất, đến túi thứ hai. Cuối cùng, túi thứ ba tôi phải ôm cả vào lòng. Thế là tôi trong trạng thái rơi tự do cùng túi vàng. Và tôi không còn biết gì nữa cả.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 14

Tôi là Sọ Dừa, sứ giả của nước Nam, tôi mới trở về nước sau chuyến đi xa. Niềm hạnh phúc của tôi trọn vẹn hơn khi tôi đã gặp lại người vợ yêu quý của mình. Sau biết bao biến cố, thăng trầm gia đình tôi đã yên ấm, chúng tôi lại dịp bên nhau. Tôi bùi ngùi nhớ lại câu chuyện về cuộc đời sóng gió, thử thách của chính mình.

Sự ra đời của tôi là một điều kì lạ với bố mẹ tôi. Bố mẹ tôi rất nghèo nhưng ăn ở hiền lành, nhân đức, chẳng làm hại ai bao giờ. Bố mẹ tôi phải làm thuê cho gia đình phú ông giàu có. Ẩy vậy mà sao trời chẳng thương, đã năm mươi tuổi mà vẫn chưa có được một mụn con. Mẹ tôi rất buồn khổ về việc này.Thế rồi, vào một hôm trời nắng to, bà vào rừng hái củi cho chủ. Vì khát nước quá mà không tìm thấy suối, lại thấy cái sọ dừa bên gốc cây đựng đầy nước mưa, bà liền bưng lên uống. Sự việc tưởng chừng như rất đơn giản ấy lại khiến mẹ tôi có mang tôi. Chính vì uống nước mưa trong sọ dừa, nên sau này khi mẹ tôi sinh ra tôi một đứa bé không chân, không tay mà biết nói, nên mẹ tôi thương để lại nuôi, và đặt tên cho tôi là Sọ Dừa.

Cha tôi mất khi tôi chưa ra đời, nên mẹ tôi càng vất vả hơn. Còn tôi đã lớn 7, 8 tuổi cũng chẳng giúp gì được cho mẹ, nên đôi lúc mẹ tôi hay than phiền. Tôi thấy thế bè xin mẹ đi chăn bò thuê cho nhà phú ông. Mẹ tôi phải thuyết phục phú ông rất lâu, phú ông mới đồng ý cho tôi đi chăn bò. Hằng ngày, tôi đến nhà phú ông lăn đàn bò ra đồng vào buổi sáng, chiều lại lăn về. Tôi chăn cả đàn bò, con nào con ấy đều căng tròn, béo tốt nên phú ông rất vừa ý. Nhà phú ông có ba cô con gái, buổi trưa vẫn thay nhau mang cơm ra đồng cho tôi. Tôi biết cô cả, cô hai vì thấy thân hình tôi dị dạng, nên hắt hủi tôi. Còn cô út – vợ tôi bây giờ, lại rất thương tôi. Trong thời gian đi chăn bò cho gia đình phú ông, tôi biết mình điều đặc biệt. Chiếc sọ dừa lăn lông lốc mà mọi người vẫn thấy chỉ là cái vỏ bề ngoài của tôi. Thoát khỏi chiếc vỏ kì dị ấy tôi sẽ là một chàng Sọ Dừa khôi ngô, tuấn tú. Từ khi biết mình có phép lạ, khác người nên những lúc rảnh tôi bỏ lốt sọ dừa hóa thân thành cậu bé, ngồi trông đàn bò và thổi sáo. Một hôm, đương lúc ngồi thổi sáo một mình, tôi thấy bên bụi cây có tiếng động lạ. Giật mình, tôi chui ngay vào chiếc vỏ dừa của. Về sau này khi tôi lấy cô út, vợ tôi mới nói nàng biết tôi là một chàng trai tài giỏi từ khi ấy. Cô út, ngày càng thương tôi, hay giấu những đồ ăn ngon mang đến cho tôi.

Thời gian đi ở tại gia đình phú ông không còn dài, phần vì tôi thương mẹ sống trong gia cảnh nhà neo người, phần vì thương cô út. Tôi xin với mẹ, sang nhà phú ông hỏi con gái ông làm vợ. Nghe tôi nói hết câu chuyện, mẹ tôi bàng hoàng, sửng sốt vì quyết định của tôi, nhưng bà thương con, nên cũng sắm buồng cau đến nhà phú ông. Phú ôn chê gia đình tôi nghèo khó, cười mỉa nói với mẹ tôi rằng: “Muốn hỏi được con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây”. Mẹ tôi về nhà, tôi thấy bà buồn lắm vì gia cảnh nhà tôi khó khăn, nên không đủ sính lễ cưới vợ. Tôi an ủi mẹ đừng lo lắng, và nói tôi sẽ lo đủ những thứ ấy. Vì tôi có phép thuật, nên những thứ phú ông nói chẳng làm khó được tôi. Ngày hẹn đến, tôi sắm đủ lễ vật. Và phú ông cũng hoa mắt trước của cải, đồng ý gả con gái cho tôi. Hai cô lớn không đồng ý, vì chê tôi xấu xí, cuối cùng cô út chấp nhận lấy tôi. Tôi vui lắm. Ngày cưới, nhà tôi cỗ bàn linh đình, còn tôi đã bỏ luôn vỏ sọ dừa để biến thành chàng trai tuấn tú, sánh bước bên cô con gái út xinh đẹp. Mọi người trong làng ai cũng chúc phúc cho tôi, còn hai cô chị vợ thì ghen tức ra mặt.

Một thời gian sau, tôi cô gắng học hành để thi cử thành danh. Mùa thi năm ấy, tôi đỗ trạng nguyên, rồi được vua sai đi sứ nước láng giềng.Trước khi chia tay vợ, tôi có đưa cho nàng một con dao, hai hòn đá và hai quả trứng tôi dặn dò vợ cẩn thận tôi mới yên tâm lên đường. Tôi đi sứ không bao lâu thì trở về. Ngày về, tôi đi qua một hòn đảo hoang, thấy trên bờ có tiếng gà gáy lạ: “ Ò…ó…o… Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về”. Linh tính mách bảo cho tôi có sự chẳng lành, tôi bèn cho thuyền cập bến đi vào hòn đảo. Tôi rất bất ngờ khi thấy vợ tôi đang một mình cô quạnh nơi đảo hoang. Vợ tôi khóc nức nở kể chuyện cho tôi nghe rằng, lúc tôi đi chưa được bao lâu, hai cô chị ghen ghét với vợ tôi, nên rủ vợ tôi đi chèo thuyền rồi đẩy nàng xuống biển. Nàng đã bị cá kình nuốt vào bụng. Vợ tôi ghi nhớ lời tôi dặn, nên mang theo những thứ tôi chuẩn bị bên mình, nàng lấy con dao mổ bụng cá, rồi lên bờ đánh hai hòn đá ra lửa nướng thịt cá ăn. Hai quả trứng nở thành một đôi gà đẹp làm bạn với nàng. Nghe nàng kể xong mà tôi thấy thương người vợ hiền của mình nhiều hơn.

Tôi đón nàng lên thuyền. Ngày trở về tôi ở tiệc linh đình mời bà con làng xóm. Hai cô chị vợ thấy thế đến, khóc lóc thương tiếc vợ tôi vì sự ra đi của vợ tôi. Tôi không nói gì, lúc ấy vợ tôi trong nhà đi ra, hai cô chị xấu hổ quá không nói gì lặng lẽ bỏ đi biệt tích.Từ ấy, gia đình tôi sống hạnh phúc vui vẻ bên nhau. Những sóng gió, thử thách đã khiến chúng tôi gắn bó và trân trọng tình yêu đà dành cho nhau nhiều hơn.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 15

Tôi là Sọ Dừa, một trạng nguyên trẻ tuổi của nước ta. Cuộc đời tôi là một câu chuyện được rất nhiều người kể cho nhau nghe như một câu chuyện cổ tích ý nghĩa.

Mẹ của tôi nhờ uống nước đọng trong gáo dừa khô mà sinh ra tôi. Lúc ấy, tôi tròn lông lốc như cái gáo dừa nên mới được mẹ đặt tên là Sọ Dừa. Thương mẹ, tôi xin đi chăn bò cho nhà phú ông. Nhờ tài thổi sáo, tôi đã giúp đàn bò béo tốt hơn nên phú ông tin tưởng lắm. Ngày nào, cô Út nhà phú ông cũng đưa cơm cho tôi. Sự lương thiện của cô khiến em quý cô lắm, nên xin mẹ cưới cô về làm vợ. Được cô đồng ý, tôi quyết tâm trở về lột xác, hoàn toàn trở về hình dáng con người. Tôi cũng biến ra nhiều vàng bạc để cô Út được cưới về nhà tôi một cách linh đình. Sau hôn lễ, tôi quyết tâm học hành, và thi đỗ Trạng Nguyên. Tôi còn được nhà vua cử đi sứ nước ngoài nữa. Trước lúc đi, dự cảm sẽ có tai họa ập đến, tôi dặn vợ luôn mang theo vài thứ để phòng thân. Nhờ vậy, mà vợ tôi đã sống sót được trên hoang đảo, sau khi bị hai người chị xấu xa hãm hại trên biển.

Sau lần ấy, vợ chồng tôi may mắn đoàn tụ khi tàu của tôi đi ngang qua đảo hoang. Trở về nhà, vợ chồng tôi quyết không rời xa nhau nữa. Còn hai người chị xấu xa kia thì bỏ đi biệt xứ.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 16

Tôi là cô Út trong một gia đình có ba chị em gái. Tôi may mắn lấy được một chàng trai khôi ngô, tài giỏi. Trong một lần đi sứ, khi quan trạng nhà tôi và các sứ giả khác bàn chuyện, tôi cùng các phu nhân ngồi thưởng trà với nhau. Sau khi nghe một vị phu nhân kể về mối lương duyên thú vị của họ, tôi cũng bèn kể câu chuyện dài giữa mình và chàng trạng nguyên Sọ Dừa.

Thuở trước, nhà tôi cũng được coi là bậc phú quý, có của ăn của để. Cha tôi thuê kha khá người ở, trong đó có hai vợ chồng ngoài năm mươi hiền lành, chịu khó. Họ hiền lành là vậy, nhưng ông trời lại chưa cho họ một mụn con nối dõi.

Mãi sau này, người vợ sinh ra một đứa bé không chân, không tay, tròn trịa chẳng khác nào quả dừa. Nghe mọi người kể, bà có mang khi vào rừng hái củi, khát nước nên uống nước mưa trong một cái sọ dừa. Có lẽ vì thế mà bà đặt cho con cái tên Sọ Dừa. Sọ Dừa đã từng bị mẹ vứt đi khi sinh ra thấy hình hài dị biệt, nhưng cậu đã cất tiếng xin mẹ:

– Mẹ ơi! Con là người đấy. Mẹ cho con sống với mẹ, đừng vứt con đi mà tội nghiệp.

Bao năm trôi qua, Sọ Dừa vẫn chỉ lăn lông lốc, chẳng thể làm việc gì như con nhà người ta. Người mẹ ngày càng phiền lòng hơn. Biết những muộn phiền của mẹ, Sọ Dừa vội xin mẹ nói với cha tôi đến ở chăn bò. Cha tôi ban đầu ngần ngại vì sợ người như cậu không thể chăn dắt tốt cho đàn bò. Nghĩ kĩ, cuối cùng cha vẫn đồng ý.

Trái ngược với sự nghi ngại của cha tôi và mọi người, Sọ Dừa chăn bò rất giỏi. Dù chỉ lăn theo sau đàn bò ra đồng rồi về chuồng nhưng ngày nào cũng như ngày nào, đàn bò no căng bụng. Cha tôi rất hài lòng.

Ngày mùa đến, cha sai ba chị em nhà tôi thay phiên nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Hai chị tôi kiêu kì, thường hắt hủi Sọ Dừa. Tôi thấy Sọ Dừa cũng hiền lành, tốt bụng nên sẵn sàng đối tốt với cậu.

Một hôm, vừa đến chân đồi, tôi đã thoảng thấy tiếng sáo véo von. Tôi ngạc nhiên vì giữa đồi núi lại có ai cất tiếng sáo. Tôi bèn rón rén nấp sau bụi cây rình xem. Tôi càng ngạc nhiên hơn nữa khi thấy một chàng trai khôi ngô đang ngồi trên chiếc võng thổi sáo. Tôi lỡ vin vào cành khô, cành khô khẽ gãy. Tiếng cành gãy làm chàng trai ban nãy biến mất và Sọ Dừa lại nằm lăn lóc ở đấy. Mấy lần như vậy, tôi đoán là Sọ Dừa không phải người phàm trần. Trước một vẻ đẹp kì thú của Sọ Dừa, tôi đem lòng thầm thương chàng.

Dường như Sọ Dừa hiểu lòng tôi. Có hôm cha tôi gắt gỏng với ba chị em tôi về chuyện của Sọ Dừa. Chúng tôi không rõ là chuyện gì, mãi sau tôi mới biết thì ra mẹ Sọ Dừa đã đến thưa chuyện với cha tôi về việc xin cưới. Cha tôi đã thách cưới Sọ Dừa một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo và mười vò rượu tăm. Cả cha tôi lẫn mẹ Sọ Dừa đều nghĩ cậu sẽ thôi việc đòi lấy vợ. Không ngờ, đúng ngày hẹn, hai mẹ con Sọ Dừa đem sính lễ tới cùng với chục gia nhân khiêng lễ. Cha tôi hoa cả mắt, lúng túng cho gọi ba chị em tôi ra. Cha hỏi:

– Sọ Dừa đến xin cưới vợ. Ai trong các con ưng thuận làm vợ thằng Sọ Dừa?

Hai chị tôi bĩu môi, chê bai. Tôi mừng biết bao nên cúi mặt mỉm cười, tỏ ý thuận lòng. Cha tôi thoáng vẻ ngạc nhiên và tức giận nhưng đành nhận lễ.

Ngày cưới của chúng tôi rất linh đình. Nhưng đúng lúc rước dâu, chẳng ai thấy Sọ Dừa đâu. Tôi cũng rất mừng vì người sánh vai cùng mình là chàng trai khôi ngô tuấn tú tôi thường thấy. Ai nấy đều sửng sốt, mừng rỡ, chỉ có hai cô chị tôi là tiếc, vừa ghen tức.

Vợ chồng tôi sống bên nhau rất hạnh phúc. Chồng tôi còn miệt mài đèn sách và đỗ trạng nguyên năm ấy. Nhưng chúng tôi phải chia tay nhau vì khi thành quan trạng, chàng Sọ Dừa ngày nào phải đi sứ theo lệnh vua. Kì lạ, trước khi đi, chàng đưa cho tôi một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà. Chàng còn dặn phải luôn giắt trong người.

Từ ngày đi lấy chồng, hai chị gái tôi đối xử với tôi khác hẳn. Hai chị còn rủ tôi đi chèo thuyền ra biển. Nhưng đúng hôm đó, tôi bị ngã xuống nước rồi bị cá kình nuốt chửng. Trong bụng cá, tôi bèn lấy con dao đâm cá. Cá chết nên nổi lên mặt biển rồi dạt vào hòn đảo ngoài khơi. Tôi khoét bụng cá chui ra, nhóm lửa từ hai hòn đá rồi nước thịt cá ăn cho đỡ đói. Hai quả trứng chồng đưa nay đã nở thành một đôi gà đẹp. Nhờ có chúng mà tôi bớt cô đơn giữa hòn đảo hoang vắng. Rồi chính chú gà trống đã gáy gọi chiếc thuyền lớn đang lướt qua đảo vào cứu tôi. Tôi mừng vui khôn xiết khi đó chính là thuyền của quan trạng. Chàng đón tôi về, mở tiệc mừng, mời hàng xóm đến chung vui. Tôi không ra đón tiếp mọi người. Hai chị tôi không hay biết nên giả vờ kể lể thương xót việc tôi ngã xuống biển. Chồng tôi gọi tôi ra. Hai chị ngạc nhiên và xấu hổ tột cùng, vội tìm cách ra về. Cũng từ đó, chẳng ai thấy hai người chị của tôi nữa.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 17

Ta là một bà lão sống cô độc một mình trong một ngôi nhà nhỏ. Ta đã già yếu, không thế cấy cày lại chẳng có con cháu đỡ đần nên cuộc sống rất nghèo khó. Hàng ngày, ta phải ra đồng mò cua bắt ốc kiếm sống. Một hôm, ta tình cờ bắt được một con ốc rất xinh đẹp, vỏ của nó phủ một màu xanh biếc, lấp la lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời. Thấy ốc đẹp, không nỡ đem bán nên ta đã đem ốc về và thả vào cái chum nước ngoài sân.

Lạ thay, từ ngày đó trở đi, mỗi lần ta đi làm về đều thấy nhà cửa sạch sẽ, tươm tất, gọn gàng, vườn tược được vun xới, lợn gà được ăn no. Đặc biệt, có cả mâm cơm được sắp sẵn trên bàn. Ban đầu, ta tưởng hàng xóm thương ta già cả côi cút nên sang giúp. Nhưng không phải. Ta quyết định tìm ra cho bằng được người đã lén giúp mình.

Đúng theo kế hoạch. Một hôm, ta giả vờ đi làm như mọi khi. Nhưng thực ra, đi đến nửa đường ta bèn quay lại, tìm nơi kín đáo rình xem… Chờ mãi, cuối cùng ta cũng thấy một người con gái tuổi mới mười tám đôi mươi, đẹp như tiên sa giáng trần chui ra từ trong chum nước. Nàng tiên nhẹ nhàng đi vào nhà rồi cầm chổi quét dọn, lau chùi nhà cửa, sân vườn và cho lợn, gà ăn… Ta hết sức ngạc nhiên. Đoán chắc nàng tiên chui ra từ vỏ ốc, lặng lẽ ta lại gần chum nước, cầm vỏ ốc lên rồi đập vỡ ra thành từng mảnh. Ta không muốn cô gái biến mất vào trong vỏ ốc, ta muốn cô sống với mình nên đã làm vậy. Nghe tiếng động, cô gái vội chạy đến bên chum nước để ẩn mình trong vỏ ốc, nhưng đã quá muộn. Thấy cô gái ngạc nhiên, ta bèn lên tiếng:

– “Con gái ơi! Hãy ở lại đây với ta”.

Cô gái bằng lòng. Từ đó nàng tiên ốc trở thành người con gái yêu của ta và nhờ có nàng mà cuộc sống của ta rất hạnh phúc.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 18

Tôi là nàng tiên ốc trong truyện cổ tích. Nhờ một lần gặp mặt kì lạ, mà giờ đây tôi đã có một gia đình hạnh phúc.

Trước đây, tôi sống và tu luyện một mình trong khe núi sâu. Năm nọ, trời có mưa lớn, nên tôi theo dòng nước, chảy về vùng ruộng đồng. Khi tôi đang định quay về khe núi, thì tình cờ được một bà lão mò trúng. Kì lạ thay, bà ấy đã không hề đem tôi đi bán, dù nếu làm vậy bà ấy sẽ có nhiều tiền của bà thoát cảnh nghèo khó. Sau khi về nhà, bà cho tôi sống trong chum nước sạch, hằng ngày đều cùng tôi trò chuyện, tâm sự. Cảm động trước tình cảm của bà, ngày nào tôi cũng giúp bà quét dọn nhà cửa, chuẩn bị cơm nước và chắm sóc vật nuôi trong nhà. Một ngày nọ, khi tôi đang quét nhà, thì từ sau lưng bà lão bất ngờ xuất hiện, chạy về phía chum nước và đập vỡ vỏ ốc. Khi tôi đang không hiểu chuyện gì xảy ra, thì bà đã ôm chầm lấy tôi, mong được nhận tôi làm con gái. Xúc động trước tấm chân tình của bà, tôi gật đầu đồng ý.

Từ hôm ấy, tôi ở lại ngôi nhà nhỏ, làm con gái của bà lão. Hai mẹ con tôi sống cuộc sống bình dị mà hạnh phúc ngập tràn.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 19

Tôi là một cô bé năm nay lên 7 tuổi, tôi rất yêu quý bà ngoại của mình và ngoại tôi cũng vậy, rất yêu thương và lo lắng cho tôi. Ngoại hay tặng tôi quà, đặc biệt có chiếc khăn đỏ rất đẹp tôi vô cùng thích. Tôi thường đội nón trên đầu như một thói quen nên mọi người hãy gọi tôi là “cô bé trùm khăn đỏ”. Một hôm, bà tôi bị ốm, mẹ làm bánh và dặn tôi mang qua biếu bà, trước khi đi mẹ có nhắc nhở và bảo với tôi rằng: “Con đi đường thẳng, đến nhà bà luôn nhé, đừng la cà. Đường vòng qua rừng có rất nhiều chó sói đấy.”

Tôi vâng lời mẹ rồi nhanh chân đưa giỏ bánh qua nhà bà. Nhưng trên đường đi, nhiều bông hoa đẹp rực rỡ sắc màu, những chú bướm tung tăng bay lượn giữa khu rừng tuyệt đẹp đã thu hút tôi, khiến tôi quên mất lời mẹ dặn trước khi đi, cứ theo đường rừng mà vào chẳng mảy may suy nghĩ. Vừa tung tăng một đoạn thì tôi gặp một bạn sóc nhỏ xinh xinh, chúng tôi nói chuyện một lúc rồi sóc bảo với tôi rằng: “Cô bé quàng khăn đỏ ơi, cô quên lời mẹ dặn à. Mẹ cô dặn phải đi đường thẳng, không được đi đường vòng qua rừng kẻo chó Sói ăn thịt cơ mà. Cô nghe lời mẹ dặn đi.” Nhưng tôi vẫn một mực đi, cố tình không để ý, đi đoạn đường vòng qua rừng để ngắm hoa thơm.

Đến giữa khu rừng, tôi hoảng hốt khi bắt gặp một con sói to, nhảy ra từ bụi rậm bên đường và hỏi tôi rằng: “Này, nhóc con, đang tung tăng đi đâu thế?”. Điệu bộ hống hách của sói khiến tôi sợ hãi vô cùng nhưng vẫn cố trấn an mình và trả lời sói: “Cháu đang đi đến nhà bà ngoại ạ.”. Tôi không nghĩ nó âm mưu muốn ăn thịt hai bà cháu tôi nên khi chó sói hỏi nhà bà ngoại đâu, tôi vẫn thật thà trả lời: “Nhà bà ngoại cháu ở bên kia khu rừng này. Ngôi nhà mà có cái ống khói cao tít ấy, chỉ cần đẩy cửa là vào nhà được luôn”. Không ngờ khi vừa dứt lời, chó sói bỏ tôi một mình ở đó rồi chạy thẳng một mạch. Tôi mừng rỡ vì thoát được tên sói hung hăng, tranh thủ hái thêm vài bông hoa rồi đến nhà bà. Vừa đến nhà bà thì thật lạ, cửa nhà bà mở toang, không có ai. Tôi gọi bà mãi, không thấy trả lời, bèn tiến vào bên giường, hỏi thăm và thưa với bà mẹ bảo mang bánh sang. Càng nhìn bà, tôi càng thấy lạ, bèn cất tiếng hỏi;

– Bà ơi! Sao hôm nay tai bà to thế?

– Tai bà to để bà nghe cháu nói được rõ hơn.

– Thế còn mắt bà, sao hôm nay mắt bà to thế?

– Mắt bà to để bà nhìn cháu được rõ hơn. Thấy chiếc miệng của bà rất khác so với ngày thường, tôi hốt hoảng hỏi bà trong hoảng sợ:

– Thế còn mồm bà, sao……sao….sao.. hôm nay mồm bà to thế?

Vừa nói xong, sói ôm ngoàm lấy tôi và nuốt chửng. Tôi vô cùng hãi hùng và hoảng sợ. May sao có bác thợ săn đi quá, đoán rằng sói đã ăn thịt bà bèn mổ bụng hắn và cứu hai bà cháu tôi ra. Tôi và bà ôm nhau vui mừng, cảm ơn bác.
Trên đường về nhà, tôi thấy ân hận vô cùng, hứa từ nay sẽ nghe lời mẹ và không ham chơi nữa.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 20

Tôi vốn mất bà mẹ từ khi còn nhỏ, lớn lên với tài sản bố mẹ để lại là chiếc rìu quý giá. Để kiếm sống, mỗi ngày tôi lên rừng kiếm củi đem bán lấy tiền cho dân làng trong xóm. Bên bìa rừng có một con sông lớn, nước chảy mạnh, ít khi đến gần vì lỡ rơi xuống là rất khó để cứu được. Một ngày, như bao ngày khác tôi vác chiếc rìu lên rừng đốn củi, đang cần mẫn chặt từng nhánh củi và vui mừng vì vớ được nhành củi to thì chiếc rìu bỗng gãy. Mất cán, lưỡi rìu rơi xuống dòng sông. Dù biết bơi nhưng nước chảy mạnh, quá xiết tôi không thể xuống sông tìm nó. Buồn vì chiếc rìu là tài sản duy nhất tôi có, là công cụ để kiếm sống, vậy mà mất đi. Tôi tủi thân ngồi khóc một mình.
Bất ngờ một cụ già mặt hiền từ, râu tóc bạc phơ xuất hiện, ông nhìn tôi rồi từ tốn hỏi:

– Này con, gặp phải chuyện gì mà còn buồn quá vậy?

Tôi bèn kể lại sự tình cho cụ nghe để giãi bày tâm sự cũng là để vơi đi nỗi buồn. Vì không biết mất đi cây rìu rồi tôi lấy gì để kiếm ăn nuôi thân đây nữa. Nghe câu chuyện của tôi xong, cụ mỉm cười rồi đáp:

– Ta tưởng chuyện gì, thôi đừng khóc nữa cháu ạ, để ta giúp con lấy chiếc rìu ấy lên. Tôi mừng rỡ cảm ơn rối rít ngồi chờ đợi cụ.

Cụ lao xuống sông nhanh chóng, một lúc sau thấy cụ ngồi lên mặt nước cầm theo chiếc rìu bằng bạc sáng loáng rồi hỏi tôi:

– Đây có phải lưỡi rìu của con không?

– Dạ không phải ạ. Tôi trả lời cụ trong thất vọng nặng nề.

Thế là cụ lại lao xuống sống lần thứ hai, lần này cụ cầm trên tay một lưỡi rìu bằng vàng sáng chói, tôi lại lắc đầu thất vọng và nói với cụ:

– Chiếc rìu của con bằng sắt cơ ạ.

Lần thứ ba cụ lao mình xuống sông để giúp tôi, tôi thầm nghĩ chắc cũng không có mà lại khiến cụ thêm vất vả. Ngồi đợi hồi lâu thì thấy cụ lên bờ và cầm theo chiếc rìu bằng sắt của tôi.
Tôi thấy thế bèn reo lên sung sướng, thế là cuối cùng cũng tìm được chiếc rìu của mình rồi, tôi hạnh phúc vô bờ.
Sau đó, cụ đưa cho tôi chiếc rìu của mình và nói:

– Con quả là người trung thực, không tham lam tiền bạc. Nay ta tặng thêm cho con hai lưỡi rìu bằng bạc và vàng này. Con cứ xem đó là phần thưởng cho sự thật thà của mình.

Tôi bất ngờ vô cùng, từ chối không được, sau cũng vui vẻ nhận lấy và cảm ơn cụ. Vừa lúc đó cụ biến mất trong chớp mắt, giờ tôi mới nhận ra là mình vừa được bụt giúp đỡ.
Từ đó, cuộc sống của tôi ngày một thuận lợi và khá giả hơn, tôi đem những phần thưởng của mình giúp đỡ những người dân nghèo khổ quanh mình.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 21

Tôi vốn là một nàng tiên ốc – con gái vua Thủy Tề. Một lần, tôi đang dạo chơi ven bờ sông thì có một bàn tay bắt lấy tôi. Thì ra đó là một bà cụ làm nghề mò cua, bắt ốc. Bà đã già lắm rồi, khuôn mặt khắc khổ, quần áo rách rưới. Bà ngắm tôi kĩ lắm vì tôi là một con ốc xanh xinh xắn. Bà cụ thốt lên:

– Chà con ốc đẹp quá! Ta không bán ốc đâu. Ta sẽ mang ốc về nuôi.

Thế là từ đó tôi sống trong cái chum trong nhà bà cụ. Thương bà cụ cô đơn nghèo khổ, ngày ngày, sau khi bà cụ đi làm, tôi liền chui ra khỏi vỏ ốc để dọn dẹp nhà cửa, cho đàn lợn ăn, làm cỏ, tưới rau… Vì vậy mỗi khi đi làm đồng về nhà, bà đều đều thấy nhà cửa gọn gàng tinh tươm. Thấy vậy, bà lão sinh nghi. Một hôm, bà giả vờ đi làm, đến giữa đường thì bà quay lại đứng rình. Như thường lệ, tôi lại chui ra khỏi vỏ ốc để giúp bà, bỗng từ đâu và chạy đến đập vỡ vỏ ốc, ôm lấy tôi và nói:

– Con ơi, con đừng đi nữa! Hãy ở đây với già cho già bớt cô quạnh.

Thương bà cụ tốt bụng nên tôi ở lại, không trở về Thủy cung nữa. Từ đó hai mẹ con sống hạnh phúc bên nhau.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 22

Ngày xưa có một em bé rất thông minh, tên em là Mã Lương. Cha mẹ em mất sớm. Em thích học vẽ từ nhỏ nhưng không có tiền để mua bút. Hàng ngày em tập vẽ bằng cách đi kiếm củi, em lấy que vạch xuống đất vẽ những con chim bay trên trời. Lúc cắt cỏ, em nhúng tay xuống nước vẽ con cá con tôm. Khi về nhà, em vẽ mọi đồ đạc lên tường.

Mã Lương học vẽ rất say mê và em tiến bộ rất mau. Em vẽ cái gì cũng giống như thật nhưng chỉ khổ nỗi là không có bút.

Một hôm, em nằm mơ thấy có một ông già râu tóc bạc phơ hiện ra đưa cho em một chiếc bút và nói:

– Đây là bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.

Mã Lương vui sướng reo lên.

– Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông, cảm ơn ông!

Mã Lương chưa kịp nói hết lời ông già đã biến mất. Khi tỉnh dậy, em thấy mình đang cầm cây bút thần đó và rất lấy làm lạ.

Mã Lương cầm cây bút vẽ con chim, chim tung cánh hay, vẽ con cá, cá trườn xuống nước. Mã Lương rất thích, rồi em cầm cây hút này đi vẽ cho những người nghèo khó trong làng, nhà nào thiếu cái gì Mã Lương vẽ cho cái đấy.

Chuyện đến tai tên địa chủ, hắn liền sai người đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý hắn. Mã Lương tính tình khảng khái nên không vẽ bất cứ cái gì mà tên nhà giàu độc ác yêu cầu. Hắn tức giận nhốt em vào trong chuồng ngựa. Vài hôm sau, hắn cứ tưởng là Mã Lương chết vì đói và lạnh. Lúc nhìn thì thấy Mã Lương đang ăn bánh và ngồi cạnh lò sưởi, hắn tức quá, bắt bọn đầy tớ đến giết Mã Lương để lấy cây bút thần.

Mười tên đầy tớ xông vào chuồng ngựa thì Mã Lương đã vượt qua tường bằng chiếc thang mà em vẽ. Thoát khỏi nhà tên địa chủ, Mã Lương vẽ một con ngựa và nhảy lên mình ngựa phóng đi. Chẳng bao lâu có tiếng ồn ào ở sau lưng, Mã Lương biết là bọn chúng tới gần, em giương cung bắn vào lên địa chủ và cưỡi ngựa phi thẳng. Sau mấy ngày đêm em dừng lại bên thị trấn nhỏ. Hàng ngày em vẽ tranh để đem bán sống qua ngày nhưng đều cố tình vẽ dở dang. Một hôm khi vẽ một con chim không có mắt, em vô tình đánh rơi giọt mực, mực rơi đúng vào chỗ mắt chim, con chim tung cánh bay. Việc đó làm chấn động đến cả thị trấn, rồi đến tai vua, vua bắt Mã Lương vào cung để vẽ. Mã Lương biết vua là kẻ tham lam nên em không vẽ, vua bảo em vẽ con rồng thì em vẽ con cóc ghẻ, vua bảo em vẽ con phượng thì em vẽ con gà trụi lông, nhà vua tức tối nhốt Mã Lương vào ngục và cướp cây bút thần. Nhà vua vẽ núi vàng song khi xem lại thì không phải là quả núi vàng mà là những tảng đá lớn. Rồi lão lại vẽ tiếp những thỏi vàng. Một viên chưa đủ, hắn còn muốn vẽ một thỏi vàng dài thật là dài, lúc nhìn lại thì không phải là thỏi vàng mà là một con mãng xà đang bò lại phía hắn. May có người đến cứu, nếu không thì nó đã cắn chết nhà vua. Biết nếu không có Mã Lương thì sẽ không làm gì được, vua đành thả Mã Lương ra và hứa sẽ gả công chúa cho. Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua trả bút thần cho em vào bảo em vẽ biển, biển mênh mông không có sóng. Nhà vua ngắm nhìn rồi bảo:

– Sao biển này không có cá?

Mã Lương chấm vài chấm, biển hiện lên đầy cá khiến vua rất thích thú. Vua bảo Mã Lương vẽ một con thuyền để đi dạo. Có thuyền rồi, vua và các quần thần cùng hoàng hậu, công chúa, thái tử lên thuyền ra khơi.

Thuyền đi quá chậm. Vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn: “Cho gió to lên, cho gió to lên!”.

Mã Lương tô thêm vài nét bút đậm. Sóng biển nổi lên. Mã Lương lại tô thêm vài nét sóng nữa, sóng biển nổi lên cuồn cuộn. Biển động, vua cuống quýt kêu lên:

– Đừng cho gió thổi nữa. Đừng cho gió thổi nữa!

Mã Lương không hề đếm xỉa đến những lời nói đó mà cứ thế vẽ những đường cong lớn. Sóng biển xô vào bờ hết đợt này đến đợt khác.

Vua bị ướt hết quần áo một tay ôm lấy cột buồm một tay ra hiệu gào to: “Mã Lương không vẽ nữa”. Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to rồi vùi chôn cả thuyền vua vào lớp sóng dữ.

Sau khi vua chết, câu chuyện Mã Lương được truyền khắp nước. Không ai biết là Mã Lương đi đâu. Người ta đồn rằng chàng về nơi thôn dã sống yên bình bên những người nông dân lương thiện.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 23

Tôi là một bà lão nghèo khổ cô độc, gầy còm sống bằng nghề mò cua, bắt ốc. Cuộc sống cô độc đã xếp từng nếp nhăn trên da mặt tôi. Sự nghèo khổ in hằn trên áo quần vá chằng vá đụp của tôi. Tuổi già đè nặng trên thân thể gầy còm mòn mỏi của tôi. Hằng ngày, tôi vẫn phải lặn lội trên từng đám ruộng, bờ sông mò cua bắt ốc đế đổi lấy gạo.

Một hôm, tôi bắt được một con ốc màu xanh óng ánh. Con ốc nhỏ xinh vỏ màu xanh bạc, lấp lánh dưới ánh mặt trời. Con ốc đẹp quá, có người hỏi mua nhưng tôi không bán. Tôi thấy thương con ốc nên đem nó về thả trong chum nước để nuôi. Từ ngày tôi nuôi con ốc, nhà tôi xảy ra nhiều sự lạ: khi tôi đi làm về, cơm canh đã được dọn sẵn, nhà cửa sạch bóng, cỏ vườn đã được dọn sạch, lợn trong chuồng đã được ăn no. Tôi ngạc nhiên quá, lạ thật, ai đã giúp mình? Tôi tự hỏi rồi quyết chí rình xem. Một sáng, tôi đi ra đồng bình thường như mọi hôm nhưng nửa đường tôi quảy gánh về nhà, rón rén núp ở đầu hè. Từ trong chum nước, một cô gái mặc bộ màu xanh như màu vỏ ốc bước ra. Cô gái ấy đẹp như một nàng tiên: khuôn mặt trái xoan, đôi mắt đen láy nổi bật trên nước da trắng hồng, tươi tắn. Cô gái vén tay áo, dọn dẹp nhà cửa nhanh thoăn thoắt: cô cho lợn ăn, nhặt rau, quét sân. Cô gái nấu cơm, luộc rau. Nắng mai chiếu lên tấm áo lụa cô mặc lóng lánh màu vỏ ốc làm tôi sực tỉnh. Tôi len lén đến bên chum nước, đập tan vỏ ốc ra. Cô gái giật mình, chạy đến chum nước. Tôi ôm lấy cô, tha thiết:

– Già sống một mình buồn tủi làm sao! Con hãy làm con gái già nhé!

Từ đấy, hai mẹ con tôi sống bên nhau hạnh phúc, bình yên.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 24

Tôi là Thạch Sanh – nhân vật chính trong câu chuyện cổ tích được nhiều người yêu quý. Cuộc đời của tôi đã trải qua nhiều biến cố nhưng cuối cùng vẫn được hưởng hạnh phúc.

Tôi mồ côi cha mẹ từ sớm, một mình sống trong túp lều tranh và lên núi đốn củi kiếm sống qua ngày. Tôi bị một tên bán rượu xấu xa là Lý Thông lừa kết nghĩa huynh đệ để giúp hắn làm việc tại quán rượu. Sau đó, hắn còn lừa tôi thay mình đi nộp mạng cho Trăn Tinh. Khi tôi liều chết diệt con quái thú, thì hắn lại lừa tôi bỏ trốn để cướp công. Sau này, khi tôi giết được Đại Bàng Tinh để cứu công chúa dưới hang sâu, thì Lý Thông lại sai lính lấp miệng hang hòng giết tôi và cướp công lần nữa. Tuy nhiên, tôi vẫn thoát được khỏi hang và cứu được con trai Vua Thủy Tề đang mắc kẹt nữa. Sau lần đó, tôi được tặng một cây đàn thần kì. Nhờ cây đàn ấy, khi bị nhốt trong ngục đầy oan ức, tôi đã được nhà vua triệu kiến. Vì tiếng đàn thần đã chữa khỏi bệnh cho công chúa. Thế là tôi đã được giãi bày hết mọi chuyện với nhà vua, khiến mẹ con Lý Thông bị trừng phạt thích đáng. Sau đó, tôi trở thành phò mã và giúp vua cai quản triều chính. Tôi còn một mình đẩy lùi đại quân của mười tám nước chư hầu mà chẳng cần hi sinh một binh lính nào. Điều đó làm cho quần thần nể phục tôi lắm.

Sau này, khi vua cha qua đời, tôi được nối ngôi ông và trở thành một vị minh quân. Những thăng trầm trước đây đã trở thành quá khứ, giờ đây tôi đã được hưởng cuộc sống hạnh phúc bên gia đình nhỏ của mình rồi.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 25

Tôi là Khoai, là một người nông dân hiền lành. Nhà tôi nghèo, bố mẹ lại mất sớm nên tôi phải đi ở cho một lão nhà giàu trong làng. Nhà lão ta rất nhiều ruộng vườn, trâu bò, của cải nhưng lão chưa thoả mãn. Thấy tôi hiền lành, khoẻ mạnh, chăm chỉ lại thạo việc đồng áng, lão ta muốn tôi làm lợi thật nhiều cho lão. Một hôm, lão ta gọi tôi đến và khôn khéo nói với tôi:

-Con chịu khó thức khuya dậy sớm làm lụng giúp ta, chớ quản nhọc nhằn, ba năm nữa ta sẽ gả con gái và cho hai vợ chồng một nửa gia tài.

Nghe lão dỗ ngon dỗ ngọt, tôi tưởng lão nói thật và cứ thế quần quật làm việc cho lão. Sau ba năm, nhờ công sức của tôi, lão có thêm nhà ngói, sân gạch, tậu thêm được trâu bò, ruộng vườn. Rồi một hôm, lão lại gọi tôi đến và bảo với tôi một cách thân mật:

-Con thật có công với nhà ta. Con đã chịu khó ba năm trồng cây sắp đến ngày ăn quả. Cơ ngơi nhà ta chỉ còn thiếu cây tre trăm đốt, con gắng lên rừng tìm cho được đem về, ta sẽ gả con gái cho.

Tôi mừng quá bèn hăm hở xách dao lên rừng. Tôi không hề biết rằng lão nhà giàu đã không giữ lời hứa năm xưa. Lão đã ngấm ngầm nhận lời gả con gái cho con trai một lão nhà giàu khác trong vùng. Hôm tôi lên rừng cũng chính là hôm hai lão nhà giàu chuẩn bị làm lễ cưới cho con trai, con gái của chúng. Sau này nghe mọi người kể lại tôi mới biết rằng: ở nhà, hai lão nhà giàu hí hửng bảo nhau: “Cái thằng ngốc ấy có đi quanh năm, suốt tháng cũng đố mà kiếm được cây tre dài đủ trăm đốt! Thế nào rồi cũng bị rắn cắn, hổ vồ”.

Tôi hì hục trèo đèo, lội suối, luồn hết bụi này bờ khác tìm kiếm, nhưng chỉ thấy những cây tre thấp bé bình thường, cây cao nhất cũng chưa được năm chục đốt. Thất vọng quá, tôi ngồi bưng mặt khóc. Bỗng nhiên có ai đặt tay lên vai tôi và một giọng êm ái cất lên:

-Làm sao con khóc giữa rừng vậy?

Nghe tôi kể lể sự tình, Bụt cười, bảo:

-Khó gì việc ấy! Con hãy chặt đủ một trăm đốt tre, đem xếp nối với nhau rồi hô: “Khắc nhập, khắc nhập” thì có ngay cây tre trăm đốt thôi!”.

Nói xong, Bụt biến mất. Tôi làm đúng lời Bụt bảo. Quả nhiên cả trăm đốt tre dính liền với nhau thành một cây tre dài trăm đốt thật! Tôi sung sướng nâng cây tre lên vác về. Nhưng cây tre dài quá, vướng bờ bụi, không sao đưa ra khỏi rừng được. Không biết làm thế nào, tôi cùng chỉ biết ngồi khóc. Bụt lại hiện lên hỏi:

-Có cây tre trăm đốt rồi, sao con còn khóc?

Tôi nói với Bụt là cây tre dài quá không thể vác về nhà được. Bụt liền ân cần bảo:

-Con hãy hô: “Khắc xuất, khắc xuất” thì những đốt tre ấy sẽ rời ra!

Tôi làm theo lời Bụt và đúng là cả trăm đốt tre rời ra thật. Tôi kiếm dây buộc thành hai bó, gánh về.

Lúc về tới nơi, thấy hai họ đang ăn uống linh đình và sửa soạn đón dâu, tôi mới biết là lão nhà giàu lừa mình. Tôi giận lắm nên không nói gì cả. Tôi lẳng lặng xếp một trăm đốt tre nổi nhau và hô: “Khắc nhập, khắc nhập”. Một cây tre đúng trăm đốt tươi xanh óng ả hiện ra trước mắt mọi người. Ai cũng ngạc nhiên, trầm trồ thán phục. Lão chủ cũng chạy lại gần cây tre để xem, tôi đọc luôn: “Khắc nhập, khắc nhập”. Lão ta bị dính chặt vào cây tre, cố giãy giụa nhưng không tài nào dứt ra được. Lão thông gia thấy vậy, chạy lại định gỡ cho lão chủ nhà. Đợi lão tới gần, tôi lại đọc: “Khắc nhập, khắc nhập”. Thế là lão ta cũng bị dính chặt luôn vào cây tre. Hai lão nhà giàu kêu khóc thảm thiết, van lạy tôi xin tôi gỡ ra cho. Lão chủ hứa trước hai họ sẽ gả con gái cho tôi ngay hôm đó. Lúc bấy giờ, tôi mới khoan thai đọc: “Khắc xuất, khắc xuất”. Tức thì hai lão kia rời khỏi cây tre và cây tre cũng rời ra thành trăm đốt.

Tôi làm lễ cưới với cô gái xinh đẹp con lão nhà giàu đó. Hai vợ chồng tôi sống với nhau hạnh phúc đến đầu bạc răng long.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 26

Tôi vốn là một hoàng tử con nhà trời, nhưng vua cha muốn tôi có những trải nghiệm cuộc sống thực tế dưới trần gian để trưởng thành hơn, cũng là để khảo nghiêm cuộc sống của người dân nơi hạ giới nên đã cho tôi đầu thai vào kiếp người. Nhưng cuộc sống dưới trần thế này không phải cuộc sống nhung lụa, hòa quang như khi còn trên thiên đình mà tôi trở thành một con người hoàn toàn khác với cuộc sống khác, đó là cuộc sống nghèo khó, thiếu thốn tình thương phải tự mình mưu sinh. Hơn thế nữa, lần đầu tôi được tiếp xúc với những con người, tốt có, xấu có và phải vượt qua được hết những thử thách vua cha đặt ra tôi mới đạt được hạnh phúc thực sự.

Tên dưới trần thế của tôi là Thạch Sanh, tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, bố mẹ làm nghề tiều phu, tuy nghèo nhưng bố mẹ luôn giành cho tôi những tình cảm thương yêu, quan tâm nhất. Nhưng bất hạnh thay, khi tôi vừa mới lên mười thì bố mẹ đều ra đi, tôi trở thành một đứa trẻ mồ côi sống cô đơn ở một vùng núi đá hẻo lánh. Gia tài bố mẹ để lại cho tôi chỉ là một căn lều lụp xụp, rách nát vốn chẳng thể che chắn hết những trận mưa, và một chiếc rìu để tôi có thể kiếm sống. Cuộc sống khó khăn, bất hạnh là vậy nhưng tôi không hề chán nản buông xuôi, ngược lại tôi luôn nỗ lực, phấn đấu lớn lên, trở thành một chàng trai khỏe mạnh, cao lớn.

Cuộc sống của tôi có lẽ cứ như vậy trôi qua nếu như không có cuộc gặp gỡ với Lí Thông, một tay buôn rượu. Khi gặp tôi thấy khỏe mạnh hắn ta đã tính toán để mang tôi về làm giàu cho mẹ con hắn, còn chủ động kết nghĩa huynh đệ với tôi. Lúc ấy tôi không hề biết được âm mưu thực dụng của hắn ta mà vô cùng cảm động vì từ nhỏ tôi đã sống quá cô đơn, ngoài bố mẹ thì hắn ta là người đầu tiên quan tâm đến tôi. Vậy là không hề suy tính mà đi theo hắn về nhà, với sức khỏe của tôi công việc làm ăn của Lí Thông ngày càng phát đạt, hắn ta lúc nào cũng ăn nói ngọt ngào làm tôi lầm tưởng hắn ta thực sự coi tôi là anh em.

Năm ấy, trong làng có một con xà tinh tác oai tác quái, đến kì hạn ba tháng người dân lại phải mang đến trước miếu của nó một thanh niên khỏe mạnh để cho nó tu luyện. Và lần này đến lượt Lí Thông, thế là mẹ con hắn đã toan tính mang tôi rat hay thế cho hắn, nói với tôi là trông trước miếu giúp hắn một đêm. Lúc ấy trong cảm nhận của tôi hắn là một người anh em tốt nên việc nhờ vả này đâu có ích gì. Đến tối tôi mang rìu ra canh trước cửa miếu, khi tôi đang thiu thiu ngủ thì bỗng hiện lên một con xà tinh khổng lồ, nó quấn lấy tôi và xiết chặt. Không hề nao núng, tôi vung rìu lên chiến đấu với nó, cuối cùng chặt đầu nó và mang về nhà. Khi thấy tôi về nhà mẹ con Lí Thông đã ngạc nhiên lắm vì chắc mẩm tôi đã nằm trong bụng xà tinh. Khi biết sự tình, mẹ con Lí Thông đã nói đó là vật nuôi của nhà vua, nay tôi chém Xà tinh thì thoát không khỏi tội chết, và nói tôi hãy trốn đi. Và nghiễm nghiên Lí Thông mang đầu xà tinh đi nhận thưởng.

Tôi vẫn không hề hay biết mà trở về típ lều nhỏ trước đây mình sinh sống. Vào buổi sáng nhiều ngày sau đó, khi đang chẻ củi thì tôi nghe thấy tiếng kêu cứu của một cô gái, ngẩng đầu lên nhìn thì ra cô gái bị đại bàng tinh quắp mang đi. Tôi đã lần theo đường bay của đại bàng đến một hang núi, đến trước cửa động đang định xông vào cứu người thì bị địa bàng tấn công, như lần trước tôi cũng giết được đại bàng, khi định xuống cứu thì Lí Thông cũng vừa đến nơi, nghe nói người bị bắt là công chúa và ai cứu công chúa sẽ được nhà vua trọng thưởng. Một lần nữa Lí Thông lừa tôi xuống hang đại bàng cứu công chúa, tôi ngay lập tức đồng ý. Khi công chúa lên đến nơi thì hắn ta lấy đá lấp cửa hang, để tôi không thể lên. Lúc bấy giờ tôi mới biết lòng dạ thâm độc của Lí Thông.

Tôi đã đi xung quanh hang động để tìm cửa ra thì vô tình cứu được con trai của vua thủy tề, sau đó được vị vua này ban cho cây đàn thần. Tôi mang theo đàn thần trở về túp lều của mình, nửa đêm hôm đó oan hồn của xà tinh và đại bàng đã đã lấy trộm bảo vật trong cung cấm, vu oan cho tôi, tôi bị giam vào trong ngục, buồn chán tôi mang cây đàn ra đánh thì có người mang tôi đến diện kiến nhà vua. Lúc này công chúa nhìn tôi và nói với vua cha rằng chính tôi đã cứu nàng. Nhà vua đã chọn tôi làm phò mã còn mẹ con Lí Thông thì bị trừng phạt thích đáng.

Không lâu sau đó, mười tám nước chư hầu đã kéo quân xâm lược, nhà vua đã giao cho tôi trọng trách cầm quân đánh giặc. Khi ra trận tôi dùng cây đàn thần vua thủy tề cho để làm tê liệt ý chí chiến đấu của quân giặc. Khi đã giành đc thắng lợi tôi còn mang liêu cơm thần ra để thiết đãi quân chư hầu, ban đầu chúng tỏ vẻ coi thường lắm vì liêu cơm rất nhỏ mà quân sĩ đến vài chục vạn người. Nhưng liêu cơm ăn bao nhiêu cũng không hết, quân chư hầu bấy giờ mới tâm phục khẩu khục và không dám sang xâm phạm nữa. Cũng từ đó tôi và công chúa Quỳnh Nga sống hạnh phúc mãi mãi.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 27

Tôi là Thạch Sanh – nhân vật chính trong câu chuyện cổ tích được nhiều người yêu quý. Cuộc đời của tôi đã trải qua nhiều biến cố nhưng cuối cùng vẫn được hưởng hạnh phúc.

Tôi mồ côi cha mẹ từ sớm, một mình sống trong túp lều tranh và lên núi đốn củi kiếm sống qua ngày. Tôi bị một tên bán rượu xấu xa là Lý Thông lừa kết nghĩa huynh đệ để giúp hắn làm việc tại quán rượu. Sau đó, hắn còn lừa tôi thay mình đi nộp mạng cho Trăn Tinh. Khi tôi liều chết diệt con quái thú, thì hắn lại lừa tôi bỏ trốn để cướp công. Sau này, khi tôi giết được Đại Bàng Tinh để cứu công chúa dưới hang sâu, thì Lý Thông lại sai lính lấp miệng hang hòng giết tôi và cướp công lần nữa. Tuy nhiên, tôi vẫn thoát được khỏi hang và cứu được con trai Vua Thủy Tề đang mắc kẹt nữa. Sau lần đó, tôi được tặng một cây đàn thần kì. Nhờ cây đàn ấy, khi bị nhốt trong ngục đầy oan ức, tôi đã được nhà vua triệu kiến. Vì tiếng đàn thần đã chữa khỏi bệnh cho công chúa. Thế là tôi đã được giãi bày hết mọi chuyện với nhà vua, khiến mẹ con Lý Thông bị trừng phạt thích đáng. Sau đó, tôi trở thành phò mã và giúp vua cai quản triều chính. Tôi còn một mình đẩy lùi đại quân của mười tám nước chư hầu mà chẳng cần hi sinh một binh lính nào. Điều đó làm cho quần thần nể phục tôi lắm.

Sau này, khi vua cha qua đời, tôi được nối ngôi ông và trở thành một vị minh quân. Những thăng trầm trước đây đã trở thành quá khứ, giờ đây tôi đã được hưởng cuộc sống hạnh phúc bên gia đình nhỏ của mình rồi.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 28

Tôi là Lý Thông, một người chuyên bán rượu. Trong một lần đi bán rượu ở xã Cao Bình, ngồi nghỉ chân tại một quán nước gần gốc đa, tôi thấy một người vác về một đống củi to, tôi nghĩ bụng đây chắc chắc là một người có sức khỏe phi thường, liền lấn lá làm quen. Anh ta tên là Thạch Sanh, từ nhỏ đã mồ côi cha mẹ, của cải chẳng có gi ngoài chiếc búa cha để lại. Tôi biết tên này thật thà, dễ lợi dụng nên đã quyết định kết nghĩa anh em với nó và cho nó về nhà tôi ở.

Thật đúng là gặp phải của hớ, từ ngày có nó mẹ con tôi đỡ vất vả đi nhiều. Bấy giờ, trong vùng có một con chằn tinh rất hung ác, phép thuật vô song, thường xuyên bắt người ăn thịt. Để yên ổn, dân làng tình nguyện nộp người cho nó để nó ăn thịt, không quấy phá dân làng nữa. Lần đó, đến lượt tôi, tôi bèn nghĩ ra cách là nhờ Thạch Sanh đi thay mình. Tối đó, tôi mời Thạch Sanh ăn uống no say, rồi cất lời nhờ cậy đi trông miếu thay mình vì mình còn phải cất mẻ rượu mới. Thạch Sanh không nghĩ ngợi nhiều liền nhận lời ngay. Tôi và mẹ vui mừng lắm.

Đêm hôm đó, tôi đang ngủ say thì bỗng có tiếng gọi của Thạch Sanh, mẹ con tôi nghĩ Thạch Sanh về đòi mạng, ,mẹ con tôi van xin khẩn thiết. Thạch Sanh mới kể lại chuyện giết chằn tinh, bây giờ mẹ con tôi mới an tâm. Tôi còn nghĩ ra một kế lừa Thạch Sanh rằng đó là con vật Vua nuôi, không giết được và bảo thạch Sanh về lại gốc đa cũ đi, không sẽ bị trách tôi. Việc ở đây cứ để anh xử lý cho. Lừa được Thạch Sanh, tôi liền mang đầu chằn tinh lên quan lĩnh thưởng. Tôi được vua khen ngợi và phong làm đô đốc.

Năm đó, Vua có một người con gái đến tuổi lấy chồng nhưng chưa chọn được ai thích hợp, vua cha bèn nghĩ ra cách ném cầu kén rể, ai bắt được cầu sẽ được làm phò mã.Nhưng khi công chúa vừa lên lầu chuẩn bị ném cầu thì bị một con đại bàng cắp đi mất. Thạch Sanh đang ngồi gốc đa, thấy đại bàng cắp người đi qua, chàng bèn lấy tên bắn trúng nó 1 phát, nhưng do đại bàng quá khỏe mạnh, nên nó vẫn bay được về hang. Chàng lần theo vết máu tìm được hang của Đại bàng.

Tôi được vua cha giao cho nhiệm vụ đi tìm công chúa và hứa sẽ gả con gái, truyền ngôi cho tôi nữa. Nhưng tôi chỉ vừa mừng vừa lo, không biết tìm công chưa kiểu gi cả. Tôi liền nghĩ đến Thạch Sanh, tôi về lại gốc đa năm xưa tìm nó. Thật vui mừng khi nó chính là người bắn trúng con đại bàng. Thạch Sanh còn tình nguyện xuống hang sâu để tìm công chúa. Tôi buộc dây vào thắt lưng hắn, dặn rằng khi vào cứu được công chúa thì hãy lay dây để kéo công chua lên, sua đó sẽ thả dây xuống để cứu em. Khi hắn cứu được công chúa, tôi đã không thả dây xuống cứu hắn nữa mà vít luôn của hang lại.

Từ lúc công chúa về cung không nói không rằng, vua cha rất lo lắng. Tôi đã mời rất nhiều nhà sư, đạo gia về để lễ tế nhưng không có tác dụng. Một hôm, trong từ trong tù phát ra một tiếng đàn của ai đó. Bỗng công chúa cất tiếng nói và muốn gặp người đánh đàn. Vua liền truyền người đánh đàn vào cung. Trước mặt mọi người tôi đã bị Thạch Sanh vạch mặt, Thạch Sanh vẫn thương tình tôi nên tha cho mẹ con tôi về quê làm ăn. Nhưng giữa đường do giữ lời thề năm xưa lúc kết nghĩa anh em. Tôi đã bị sét đánh chết.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 29

Tôi vốn là một hoàng tử con nhà trời, nhưng vua cha muốn tôi có những trải nghiệm cuộc sống thực tế dưới trần gian để trưởng thành hơn, cũng là để khảo nghiêm cuộc sống của người dân nơi hạ giới nên đã cho tôi đầu thai vào kiếp người. Nhưng cuộc sống dưới trần thế này không phải cuộc sống nhung lụa, hòa quang như khi còn trên thiên đình mà tôi trở thành một con người hoàn toàn khác với cuộc sống khác, đó là cuộc sống nghèo khó, thiếu thốn tình thương phải tự mình mưu sinh. Hơn thế nữa, lần đầu tôi được tiếp xúc với những con người, tốt có, xấu có và phải vượt qua được hết những thử thách vua cha đặt ra tôi mới đạt được hạnh phúc thực sự.

Tên dưới trần thế của tôi là Thạch Sanh, tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, bố mẹ làm nghề tiều phu, tuy nghèo nhưng bố mẹ luôn giành cho tôi những tình cảm thương yêu, quan tâm nhất. Nhưng bất hạnh thay, khi tôi vừa mới lên mười thì bố mẹ đều ra đi, tôi trở thành một đứa trẻ mồ côi sống cô đơn ở một vùng núi đá hẻo lánh. Gia tài bố mẹ để lại cho tôi chỉ là một căn lều lụp xụp, rách nát vốn chẳng thể che chắn hết những trận mưa, và một chiếc rìu để tôi có thể kiếm sống. Cuộc sống khó khăn, bất hạnh là vậy nhưng tôi không hề chán nản buông xuôi, ngược lại tôi luôn nỗ lực, phấn đấu lớn lên, trở thành một chàng trai khỏe mạnh, cao lớn.

Cuộc sống của tôi có lẽ cứ như vậy trôi qua nếu như không có cuộc gặp gỡ với Lí Thông, một tay buôn rượu. Khi gặp tôi thấy khỏe mạnh hắn ta đã tính toán để mang tôi về làm giàu cho mẹ con hắn, còn chủ động kết nghĩa huynh đệ với tôi. Lúc ấy tôi không hề biết được âm mưu thực dụng của hắn ta mà vô cùng cảm động vì từ nhỏ tôi đã sống quá cô đơn, ngoài bố mẹ thì hắn ta là người đầu tiên quan tâm đến tôi. Vậy là không hề suy tính mà đi theo hắn về nhà, với sức khỏe của tôi công việc làm ăn của Lí Thông ngày càng phát đạt, hắn ta lúc nào cũng ăn nói ngọt ngào làm tôi lầm tưởng hắn ta thực sự coi tôi là anh em.

Năm ấy, trong làng có một con xà tinh tác oai tác quái, đến kì hạn ba tháng người dân lại phải mang đến trước miếu của nó một thanh niên khỏe mạnh để cho nó tu luyện. Và lần này đến lượt Lí Thông, thế là mẹ con hắn đã toan tính mang tôi rat hay thế cho hắn, nói với tôi là trông trước miếu giúp hắn một đêm. Lúc ấy trong cảm nhận của tôi hắn là một người anh em tốt nên việc nhờ vả này đâu có ích gì. Đến tối tôi mang rìu ra canh trước cửa miếu, khi tôi đang thiu thiu ngủ thì bỗng hiện lên một con xà tinh khổng lồ, nó quấn lấy tôi và xiết chặt. Không hề nao núng, tôi vung rìu lên chiến đấu với nó, cuối cùng chặt đầu nó và mang về nhà. Khi thấy tôi về nhà mẹ con Lí Thông đã ngạc nhiên lắm vì chắc mẩm tôi đã nằm trong bụng xà tinh. Khi biết sự tình, mẹ con Lí Thông đã nói đó là vật nuôi của nhà vua, nay tôi chém Xà tinh thì thoát không khỏi tội chết, và nói tôi hãy trốn đi. Và nghiễm nghiên Lí Thông mang đầu xà tinh đi nhận thưởng.

Tôi vẫn không hề hay biết mà trở về típ lều nhỏ trước đây mình sinh sống. Vào buổi sáng nhiều ngày sau đó, khi đang chẻ củi thì tôi nghe thấy tiếng kêu cứu của một cô gái, ngẩng đầu lên nhìn thì ra cô gái bị đại bàng tinh quắp mang đi. Tôi đã lần theo đường bay của đại bàng đến một hang núi, đến trước cửa động đang định xông vào cứu người thì bị địa bàng tấn công, như lần trước tôi cũng giết được đại bàng, khi định xuống cứu thì Lí Thông cũng vừa đến nơi, nghe nói người bị bắt là công chúa và ai cứu công chúa sẽ được nhà vua trọng thưởng. Một lần nữa Lí Thông lừa tôi xuống hang đại bàng cứu công chúa, tôi ngay lập tức đồng ý. Khi công chúa lên đến nơi thì hắn ta lấy đá lấp cửa hang, để tôi không thể lên. Lúc bấy giờ tôi mới biết lòng dạ thâm độc của Lí Thông.

Tôi đã đi xung quanh hang động để tìm cửa ra thì vô tình cứu được con trai của vua thủy tề, sau đó được vị vua này ban cho cây đàn thần. Tôi mang theo đàn thần trở về túp lều của mình, nửa đêm hôm đó oan hồn của xà tinh và đại bàng đã đã lấy trộm bảo vật trong cung cấm, vu oan cho tôi, tôi bị giam vào trong ngục, buồn chán tôi mang cây đàn ra đánh thì có người mang tôi đến diện kiến nhà vua. Lúc này công chúa nhìn tôi và nói với vua cha rằng chính tôi đã cứu nàng. Nhà vua đã chọn tôi làm phò mã còn mẹ con Lí Thông thì bị trừng phạt thích đáng.

Không lâu sau đó, mười tám nước chư hầu đã kéo quân xâm lược, nhà vua đã giao cho tôi trọng trách cầm quân đánh giặc. Khi ra trận tôi dùng cây đàn thần vua thủy tề cho để làm tê liệt ý chí chiến đấu của quân giặc. Khi đã giành đc thắng lợi tôi còn mang liêu cơm thần ra để thiết đãi quân chư hầu, ban đầu chúng tỏ vẻ coi thường lắm vì liêu cơm rất nhỏ mà quân sĩ đến vài chục vạn người. Nhưng liêu cơm ăn bao nhiêu cũng không hết, quân chư hầu bấy giờ mới tâm phục khẩu khục và không dám sang xâm phạm nữa. Cũng từ đó tôi và công chúa Quỳnh Nga sống hạnh phúc mãi mãi.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 30

Tôi sống cùng mẹ và chị Tấm người chị cùng cha khác mẹ của tôi. Vốn được mẹ nuông chiều, tôi chẳng phải động tay đến một công việc nào. Còn chị Tấm phải làm lụng từ sáng đến tối mà vẫn không hết việc.

Một hôm, mẹ gọi chúng tôi lại, đưa cho mỗi đứa một cái giỏ và bảo: Hai con nếu ai bắt được đầy tôm tép sẽ được thưởng một chiếc yếm đào. Hai chị em tôi đi ra đồng. Chị Tấm chăm chỉ lại quen tay nên chẳng mấy chốc giỏ đã đầy tôm tép. Còn tôi, vì mải chơi mà đến cuối buổi chẳng bắt được gì. Chợt tôi nghĩ ra được một kế hay. Tôi chạy lại và bảo chị: Chị Tấm ơi! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu kẻo về mẹ mắng.

Chị Tấm tin thật, liền hụp xuống ao sâu tắm rửa sạch sẽ. Tôi liền trút hết tôm tép ở giỏ của Tấm sang giỏ của mình, rồi chạy về gặp mẹ để lấy yếm đào. Chị Tấm trở về nhà với cái giỏ trống không. Chị ta bị mẹ mắng cho một trận. Tôi thấy vậy thì lấy làm hả hê lắm.

Nhưng từ hôm đó, tôi thấy chị Tấm thường giấu một phần cơm mang ra giếng. Thấy kỳ lạ, tôi bèn rình xem chị ta đang giấu bí mật gì. Khi biết được sự thật, ngày hôm sau mẹ tôi lấy lý do làng đã bắt đầu cấm đồng để bắt chị chăn trâu ở đồng xa. Còn ở nhà, mẹ con tôi bắt cá bống đem đi giết thịt để nấu ăn. Về đến nhà, như mọi ngày chị Tấm lại đem cơm ra giếng nhưng gọi mãi không thấy cá bống đâu. Lúc đó, chị Tấm chỉ biết ngồi khóc lóc chứ không dám hỏi ai trong nhà.

Ít lâu sau, nhà vua mở hội cho người dân khắp nơi đến dự. Hai mẹ con tôi cũng sắm sửa quần áo mới để đi dự hội. Chị Tấm thưa với mẹ tôi muốn đi. Nhưng mẹ lại trộn một đấu gạo với một đấu thóc bắt chị ở nhà nhặt cho xong. Mấy ngày sau, mẹ con tôi nghe được tin: Nếu ai đi vừa chiếc hài do nhà vua tình cờ nhặt được trên đường đi dự tiệc sẽ được làm hoàng hậu. Người dân đến tranh nhau ướm thử nhưng không vừa. Tôi cũng vậy. Đến lượt chị Tấm ướm thử thì vừa như in. Tấm được vua rước vào cung làm hoàng hậu. Tôi ghen tức lắm nhưng không thể làm gì.

Đến ngày giỗ cha, chị Tấm về ăn giỗ. Đây là một cơ hội tốt để tôi thay thế chị ta. Mẹ tôi bảo chị Tấm trèo cây cau, hái cau cúng cha. Nhân lúc chị ta không để ý mà ở dưới chặt đổ cây cau. Chị Tấm ngã xuống ao chết đuối. Mẹ đưa tôi vào cung khóc lóc kể lể sự tình và xin cho tôi ở lại thay chị Tấm hầu hạ vua.

Một hôm, có một con chim vàng anh ở đâu bay đến đang lúc tôi giặt quần áo cho vua. Vàng anh kêu lên: “Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao”. Rồi chim vàng anh bay vào cung vua, ngày ngày quấn quýt khiến nhà vua không thèm ngó ngàng đến tôi. Tôi tức lắm, tìm cách giết chết vàng anh theo lời mẹ, đem lông chim vứt ngoài vườn.

Khi vua hỏi thì nói dối là mình có mang thèm ăn thịt chim nên vua không hỏi gì nữa. Từ chỗ lông chim vàng anh, một cây xoan đào mọc lên, cành lá xum xuê tỏa bóng mát. Vua sai người mắc võng nằm nghỉ ở đây. Tôi thấy vậy liền mách mẹ. Mẹ tôi lại bày mưu giúp tôi. Tôi sai người chặt cây làm thành khung cửi. Vua có hỏi thì tôi lại nói dối là do cây bị đổ vì bão, sai thợ chặt làm khung cửi để dệt áo cho vua. Nhưng lúc tôi ngồi dệt, bỗng vang lên một giọng nói giống hệt của chị Tấm:

“Cót ca cót két
Lấy tranh chồng chị,
Chị khoét mắt ra”

Tôi sợ quá, về nhà mách mẹ. Mẹ tôi lại bảo tôi đốt khung cửi đi, đổ ra xa khỏi hoàng cung.

Một thời gian sau, chị Tấm theo vua về cung làm tôi ngạc nhiên lắm. Không những vậy, chị ta còn xinh đẹp hơn xưa. Vua càng ngày càng yêu chiều chị Tấm. Tôi liền đến hỏi Tấm cách làm đẹp. Chị Tấm bày cho tôi tắm với nước sôi. Tôi hí hửng làm theo không chút nghi ngờ, và nhận lấy cái chết đau đớn. Đến lúc này tôi mới nhận ra rằng “ác giả thì ác báo” nhưng đã quá muộn rồi.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 31

Tôi là Hươu, cũng như Nai, Hoẵng, Thỏ trên đầu chỉ có hai cái tai mềm mại. Nhưng so với các bạn thì tôi là nhút nhát nhất. Cái gì tôi cũng sợ: Sợ bóng tối, sợ cả thú dữ nữa.

Tuy vậy, bạn bè ai cũng quý tôi vì tôi chăm chỉ, tốt bụng. Hôm trước, nghe tin bác gấu ốm nặng, tôi đã xin mẹ cho đến thăm bác. Đến nơi, tôi nghe trong hơi thở yếu ớt:

– Bệnh của bác nặng lắm. Chỉ có là Thảo Huyền mọc ở khe núi sâu mới chữa được.

Tôi nhanh nhảu đáp:

– Cháu chạy nhanh như tên bay, để cháu vào rừng lấy lá thuốc cho bác.

Không đợi bác Gấu nói gì, tôi vội chào bác và lên đường ngay. Nhưng đường rừng hiểm trở, rất nhiều thú dữ, tôi bắt đầu thấy run. Khi bóng tối tràn xuống cả khu rừng, tôi lại càng sợ. Tôi nép vào một gốc cây khác.Thần cây hiện lên hỏi:

– Tại sao cháu khóc? Cháu bị lạc mẹ à?

– Dạ không ạ. Cháu muốn đi vào khe núi để lấy lá Thảo Huyền về cho bác Gấu. Nhưng rừng thì rộng, có bao nhiêu thú dữ nên cháu sợ lắm.

– Sợ thì cháu hãy mau quay về nhà đi!

– Nhưng cháu thương bác Gấu lắm. Không có thuốc bác ấy chết mất.

Thần cây ân cần:

– Cháu là một đứa trẻ có tấm lòng nhân hậu. Đây ta cho cháu những cành cây khoẻ khoắn của ta. Cháu hãy đội lên đầu, cháu sẽ có thêm sức mạnh.

Tôi rối rít cảm ơn Thần cây rồi lên đường. Tôi băng qua suối, qua đèo mà không sợ thú dữ hay bóng đêm nữa. Khi tôi đem lá thuốc về, trời cũng rạng sáng. Tôi thấy muông thú trong rừng đang ngồi vây quanh bác Gấu. Tôi vội đưa lá thuốc cho bác nhai. Thật kỳ diệu, chỉ trong ít phút bác gấu đã khoẻ lại. Tất cả muông thú có mặt đều hỏi:

– Cây thuốc gì mà quý đến thế hở bác?

– Thuốc quý nhưng tấm lòng của Hươu còn quý hơn nhiều. Chính Hươu đã cứu bác đấy – Bác gấu ôn tồn nói.

Khi ấy, tất cả mới để ý đến tôi. Và ai cũng ngạc nhiên khi thấy trên đầu tôi là những cành cây vững chắc. Tôi kể lại đầu đuôi câu chuyện khi gặp Thần cây cho mọi người nghe. Và kỳ lạ chưa, cái cành cây trên đầu tôi đã dính chặt từ bao giờ. Mẹ tôi vuốt ve món quà Thần cây tặng cho tôi và gọi đó là Sừng Hươu.

Từ đó, loài Hươu chúng tôi luôn mang sừng trên đầu để chống lại thú dữ và tôi chẳng còn nhút nhát như trước nữa.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 32

Tên tôi là Khang, vốn làm nghề tiều phu. Bố mẹ mất sớm, tôi sống thui thủi một mình trong một căn lều dựng tạm nơi bìa rừng. Cuộc sống của tôi cứ êm đềm trôi qua cho đến một ngày tôi gặp một sự lạ kì.

Hôm ấy, cũng như mọi khi, tôi vác rìu vào rừng đốn củi. Không hiểu tay chân vụng về thế nào, tôi làm rơi rìu xuống con sông gần đó. Nước sâu, sông rộng, khó lòng lấy lại được rìu. Mà đó lại là kế sinh nhai duy nhất. Tôi buồn lắm! Ngày mai, ngày kia … và những ngày sau nữa tôi lấy gì mà kiếm củi nuôi thân đây? Càng nghĩ nước mắt tôi càng tuôn nhiều, chảy dài trên khuôn mặt đen sạm của tôi. Đúng lúc đó, một cụ già râu tóc bạc phơ xuất hiện trước mặt tôi. Trông cụ thật hiền lành và phúc hậu với vầng trán cao, khuôn mặt hồng hào. Ôn tồn cụ hỏi:

– Có chuyện gì mà con khóc thảm thiết vậy?

Tôi bèn thật thà kể đầu đuôi mọi chuyện cho ông lão nghe. Nghe xong, ông lão cười và hứa sẽ tìm lại chiếc rìu cho tôi. Tôi vui lắm!

Nói rồi, ông lão lặn ngay xuống sông. Chỉ một lát sau ông đã ngoi lên, trên tay cầm một lưỡi rìu bằng vàng sáng lấp lánh. Ông giơ rìu lên hỏi tôi:

– Đây có phải rìu của cháu không?

Dù chiếc rìu đó rất đẹp và có giá trị nhưng không phải rìu của mình thì đừng có lấy. Tôi vội trả lời:

– Không! Đó không phải cây rìu của cháu đâu ông ạ!

Nghe tôi nói xong, ông cụ lại lặn xuống sông một lần nữa. Lần này khi ngoi lên ông cụ cầm trên tay cầm một lưỡi rìu bằng bạc trông rất thích mắt. Cụ vẫn hỏi như cũ:

– Đây có phải rìu của cháu không?

Tôi không ngần ngại mà từ chối ngay:

– Thưa ông, cái này cũng không phải rìu của cháu.

Không nản, ông cụ lại tiếp tục lặn xuống sông lần nữa. Một lát sau, ông ngoi lên khỏi mặt nước với chiếc rìu bằng sắt hết sức bình thường, cán rìu nhìn còn hơi cũ. Nhưng đó chính là chiếc rìu của tôi. Sung sướng tôi reo to:

– Đây mới chính là rìu của cháu ông ạ!

Nghe vậy, ông lão đưa lại rìu cho tôi và nói. Cháu quả là một chàng trai thật thà, nghèo nhưng không tham lam. Cháu xứng đáng được thưởng. Ta tặng cho cháu cả ba lưỡi rìu này. Nói xong, ông lão vụt biến mất. Tôi biết mình gặp tiên nên chắp tay cảm tạ rồi về nhà. Nhờ ba chiếc rìu đó, tôi có cuộc sống ấm no và hạnh phúc trọn đời.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 33

Ta là sứ giả của nước Đại Việt. Suốt mấy năm nay, ta phụng sự cho nhà vua – một người hết lòng yêu nước, thương dân. Đặc biệt, nhà vua hết sức tin dùng và quý mến người tài. Vì thế, lần này người đã phái ta đi đến các ngôi làng tìm kiếm người tài về giúp ngài cai trị đất nước.

Một ngày, khi đi qua ngôi làng nọ, ta nhìn thấy có hai cha con đang cùng nhau cày ruộng. Thế là, ta nảy lên sự tò mò, thử đặt một câu hỏi:

– Này, lão kia! Trâu của lão một ngày cày được mấy đường?

Tuy nhiên, thật bất ngờ khi người trả lời ta lại là người con chứ không phải người cha:

– Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời đúng ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi một ngày cày được mấy đường.

Nghe cậu bé hỏi ngược lại như thế, ta nhận ra ngay cậu chính là nhân tài mà mình luôn tìm kiếm. Thế là, ta vội thúc ngựa về bẩm tấu cho nhà vua. Biết được câu chuyện nhà vua mừng lắm, nhưng để chắc chắn hơn, ngài quyết định sẽ thử cậu bé thêm lần nữa. Ngài ban cho làng cậu bé ba con trâu đực và ba thúng gạo nếp, yêu cầu một năm sau phải nộp lên chín con trâu. Trước lời đố đó, ta vô cùng thấp thỏm, không biết cậu bé sẽ trả lời thế nào. Một thời gian sau, khi ta đang cùng nhà vua bàn việc trong thư phòng, thì nghe tiếng khóc ầm ĩ ở trước cửa cung. Thấy lạ, nhà vua cho mời vào. Ta nhận ra ngay đó chính là cậu bé thông minh đó. Cậu ta khóc lóc đòi nhà vua bảo bố sinh em cho mình. Trước lời đề nghị vô lý đó, nhà vua vô cùng khó xử. Đúng lúc ấy, cậu bé hỏi ngược lại nhà vua, sao lại bắt làng cậu chăm cho ba con trâu đực đẻ ra chín con trâu con. Nghe thế, nhà vua liền nhận ra mình đã bị bẫy ngược rồi. Nhà vua vừa lòng lắm.

Nhưng để cho cả triều đình cùng tin tài của cậu, người cho thử tài lần thứ ba. Ngài sai ta đem một con chim sẻ nhỏ đến, yêu cầu cậu bé làm thành ba mâm cỗ. Ngay lập tức, cậu bé bảo ta đem về cho vua một cây kim, nhắn rằng. nhờ ngài mài kim thành một con dao thật sắc để mổ thịt chim. Lần này, ai cũng tâm phục khẩu phục.

Một hôm nọ, sứ giả của nước láng giềng sang chơi, mang theo một câu đố vô cùng khó. Biết đây là ý muốn thăm dò xem nước ta có người tài không của họ, nhà vua vô cùng tức giận. Đúng lúc mọi người đang vò đầu bứt tai để suy nghĩ, ta nhớ ngay đến cậu bé thông minh kia. Được sự đồng ý của nhà vua, ta đem câu đố đến chỗ cậu. Nào ngờ, trước câu hỏi cả triều đình đều bó tay ấy, cậu vừa nghe đã giải được ngay. Không những thế, còn đọc đáp án thành bài đồng dao:

“ Tang tình tang ! Tính tình tang!
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ kiến mừng kiến sang…”

Nhờ trí thông minh của cậu bé, mà triều đình ta giải được câu đố khó. Khiến sứ giả phải e dè. Sau sự kiện lần đó, cậu bé được phong làm trạng nguyên trẻ tuổi nhất. Còn ta, được nhà vua thưởng hậu hĩnh vì đã tìm được người tài cho đất nước.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 34

Tôi tuy là một tảng đá vôi nhưng cuộc đời của tôi lại rất dài. Tôi không phải là một tảng đá vôi bình thường như bao tảng đá khác. Bỏi vì xưa kia tôi chính là một con người.

Hồi đó, nhà họ Cao chúng tôi có hai anh em. Tôi và anh của tôi. Chúng tôi giống nhau như đúc, đến nỗi người ngoài không thể phân biệt được ai là anh, ai là em. Hai anh em tôi hơn nhau một tuổi và rất thương yêu, quý trọng nhau. Những tháng năm được sống vui vầy bên cha mẹ, bên người anh ruột thịt là những ngày tháng hạnh phúc nhất trong đời tôi. Nhưng những ngày tháng êm đềm ấy không cùng tôi suốt cuộc đời. Khi hai anh em tôi mới mười bảy, mười tám tuổi thì cha mẹ chúng tôi đều lần lượt qua đời. Từ đó, chúng tôi lại càng yêu quý nhau hơn trước.

Không được cha mẹ dạy dỗ cho nữa, tôi và anh tôi đến xin học tại ông thầy họ Lưu. Chúng tôi đều cố gắng chăm chỉ học hành nên được thầy Lưu yêu như con. Thầy Lưu có một người con gái, tuổi chừng mười sáu, mười bảy rất xinh đẹp, dịu dàng, con gái trong vùng ít ai sánh kịp. Từ khi hai anh em tôi đến học, cô gái có vẻ quấn quýt với hai anh em chúng tôi lắm. Một hôm, nhà nấu cháo, cô gái múc một bát cháo và một đôi đũa mời chúng tôi ăn. Cầm bát cháo từ tay cô gái, tôi nghĩ: “Anh mình lớn hơn mình, vì vậy mình phải nhường cho anh ăn trước mới phải.”. Nghĩ vậy, tôi bèn mời anh ăn trước. Sau đó, anh tôi đã lấy cô gái làm vợ. Việc mời ãn cháo chính là một cái cớ để cô gái phân biệt được chúng tôi ai là anh, ai là em. Cũng từ khi anh tôi lấy vợ, tôi cảm thấy rằng tình cảm anh em giữa chúng tôi hình như không được thắm thiết như trước nữa thì phải. Tôi buồn lắm nhưng anh tôi vẫn vô tình không để ý đến. Một buổi chiều nọ, anh và chị dâu đã đi vắng, tôi ngồi trước cửa và nhìn ra khu rừng xa xa. Càng nghĩ, tôi càng cảm thấy mình là đồ thừa trong cái gia đình nhỏ bé, hạnh phúc này.

Vừa tủi thân, lại cảm thấy thật cô đơn, tôi vùng đứng dậy ra đi. Tôi cứ đi mãi, đi mãi đến khi rừng già ở trước mắt. Theo con đường mòn, tôi đi thẳng vào rừng. Trời đã tối, trăng đã lên cao. Tôi đi mải miết cho tới khi gặp một con suối rộng, nước sâu và xanh biếc trong rừng. Không thể lội qua được, tôi đành ngồi nghỉ bên bờ. Tôi đã khóc, khóc nhiều lắm. Đêm đã khuya, sương lạnh rơi xuống mỗi lúc một nhiều. Những giọt sương cứ thấm dần, thấm dần vào da thịt tôi. Cuối cùng tôi đã chết mà vẫn ngồi trơ trơ, biến thành tảng đá vôi như bây giờ. Tôi có ngờ đâu, anh tôi về nhà, không thây tôi đâu bèn vội vàng đi tìm nhưng không nói cho ai biết cả. Cũng theo con đường tôi đã đi. Anh cũng tới được con suối rộng, nước xanh biếc đang chảy cuồn cuộn dưới ánh trăng vàng. Không lội qua được nữa, anh tôi bèn ngồi xuống, tựa lưng vào tảng đá bên bờ suối. Anh có ngờ đâu tảng đá ấy chính là đứa em ruột thịt của mình. Anh cứ ngồi đấy gọi tên tôi, những giọt sương từ cành lá rơi lã chã xuống vai áo anh, thấm vào da thịt anh. Anh tôi đã ngất đi và chết cứng, biến thành một cái cây không cành mọc thẳng lên bên tảng đá. Cái cây cứ rì rào, rì rào, tán lá trên cao như nói lời xin lỗi muộn màng. Anh ơi, em sẵn sàng tha thứ cho anh bởi vì chúng ta là ruột thịt của nhau, chính em phải nói lời xin lỗi với anh. Tôi chỉ muốn hét thật to lên như vậy. Nhưng đâu còn thời gian nữa, giờ đây, tôi đã biến thành tảng đá. Đá thì làm sao nói được.

Dân trong vùng gọi tôi là đá vôi, anh tôi là cây cau còn người chị dâu là cây trầu.

Ở nhà, chị dâu tôi chẳng thấy chồng đâu, cũng chẳng thấy em đâu bèn tất tả đi tìm. Bước thấp, bước cao. Cuối cùng chị cũng tới được con suối trong rừng. Cũng như anh em tôi, không lội qua được, chị đành ngồi lại bên bờ tựa lưng vào cái cây. Chị ơi, cái cây chị đang tựa vào chính là chồng của chị đấy. Tôi rất muốn nói cho chị biết điều đó. Chị dâu tôi cứ ngồi đấy, than khóc, vật vã. Chưa đầy nửa đêm, chị đã mình gầy xác ve, thân dài lêu nghêu biến thành cây leo cuốn chặt lấy cây không cành, về sau, chuyện chúng tôi đến tai mọi người, ai nấy đểu thương xót. Dân trong vùng gọi tôi là đá vôi, anh tôi là cây cau còn người chị dâu là cây trầu. Tôi cũng rất mong rằng bây giờ cũng sẽ có những tình cảm anh em vợ chồng gắn bó như chúng tôi đây.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 35

Gia đình tôi có hai anh em trai, tôi là út. Bố mẹ tôi đã theo về với tổ tiên hơn mười năm nay. Tôi ở với anh được một thời gian thì anh tôi lấy vợ. Nhà có thêm người, anh tôi không muốn tôi ở chung nữa nên quyết định chia gia tài. Gia tài và mọi thứ đều thuộc về anh tôi, anh để tại cho tôi một mảnh đất nhỏ và một cây khế ngọt ở cuối vườn. Là phận em, tôi không đòi hỏi gì cả, và cũng chẳng phàn nàn, chỉ lo làm thuê cuốc mướn kiếm sống qua ngày.

Đến mùa khế ra quả, bỗng nhiên có một con chim lạ đến ăn hết trái này đến trái khác. Tôi xót ruột lắm bèn than thở cùng chim:

– Chim ơi! Cơ nghiệp nhà tôi chỉ có mỗi cây khế, chim ăn hết, tôi biết trông cậy vào đâu!

Chim lạ liền nói:

– Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng.

Thế rồi hôm sau chim lạ đưa tôi đi ra một hòn đảo ở tít ngoài khơi đầy vàng châu báu. Y theo lời dặn của chim, tôi chỉ lấy vừa đủ một túi ba gang rồi chim trở về nhà. Từ đó, cuộc sống của tôi trở nên khá gỉa, giàu có.

Biết chuyện, vợ chồng anh tôi ngày nào cũng sang nhà tôi năn nỉ xin đổi bộ gia tài để lấy cây khế. Thương anh, tôi đồng ý đổi. Đến mùa khế, vợ chồng anh tôi thay nhau chờ chực ở gốc cây chờ chim lạ đến. Rồi chim lạ cũng đến ăn. Sự việc giống như trước đây chim lạ đã nói với tôi. Chim lạ đi rồi, hai vợ chồng anh tôi hí hửng về nhà may một cái túi nhưng không phải ba gang như chim lạ bảo mà dài đến mười hai gang.

Sáng hôm sau chim lạ đến chở anh tôi ra đảo. Vốn là người có tính tham lam, anh tôi chất đầy vàng bạc châu báu ngọc ngà vào túi. Không những thế, anh tôi còn tìm kiếm chỗ nào trên người có thể nhét được, đều nhét vào rồi ì ạch lôi cái túi vàng khổng lồ và thân mình nặng trịch leo lên lưng chim. Nặng quá, chim phải vỗ cánh đến ba lần mới nhấc nổi mình lên được. Lúc bay qua biển, gặp một luồng gió mạnh, chim lảo đảo nghiêng cánh. Chú chim tốt bụng nhắc nhở anh tôi thả bớt vàng xuống cho đỡ nặng nhưng anh tôi lại giữ khư khư túi vàng, không muốn mất dù chỉ một chút. Chim khuyên can không được bèn hất anh tôi cùng vàng rơi xuống biển sâu.

Tôi rất buồn vì cái chết của anh tôi. Câu chuyện này tôi kể chỉ muốn khuyên mọi người một bài học đừng sống quá tham lam và ích kỷ, như lời ông cha ta thường dạy “tham thì thâm”.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 36

Bố mẹ tôi mất sớm, từ nhỏ tôi sống với anh hai. Gia đình tôi chỉ có hai anh em nên sống nương tựa vào nhau. Một thời gian sau, anh đi lấy vợ, anh không muốn cùng chung sống với tôi nên đòi chia gia tài, lợi dụng là anh cả cùng cô chị dâu tính toán, đã giành hết phần tài sản quý giá mà cha mẹ tôi để lại, anh chia cho tôi một mảnh đất nhỏ có cây khế ngọt trong vườn. Tôi biết phận mình là em út, cũng không đòi hỏi nhiều, nhận phần chia rồi về lo lắng làm ăn, cày thuê cuốc mướn sống qua ngày. Mùa khế đến, quả trĩu cành, quả nào cũng to, ngon ngọt, cây khế là tài sản vô cùng quý giá với tôi lúc này. Một hôm, có một con chim lạ bay đến, đậu trên cây khế ăn quả này đến quả khác, vừa ăn vừa tấm tắc khen ngon. Tôi xót ruột quá, nhưng không nỡ bắn chim, bèn than với nó rằng:

– Chim ơi, tôi chỉ có cây khế này nữa thôi, chim ăn hết quả rồi, tôi biết lấy gì nuôi thân.

Vừa dứt lời, chim bàn trả lời:

– Ăn một quả trả một cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng.

Tôi vốn không tin lắm, nhưng vẫn nghe lời chim, may chiếc túi vừa vặn, rồi chim đến chở tôi ra một hòn đảo nhỏ, nơi đây nhiều vàng bạc khôn xiết. Nghe lời chim, tôi lấy đầy túi rồi chim mang tôi trở về nhà. Từ đó, cuộc sống của tôi trở nên khá giả hơn, đỡ cực khổ và vất vả hơn nhiều. Mọi người ai nấy cũng mừng cho tôi, người anh trai tôi biết chuyện thì năn nỉ đòi tôi đổi gia tài. Được tôi đồng ý, hai vợ chồng anh chuyển về sống nơi căn nhà cũ, khi khế kết quả, họ chực chờ chim bay đến ăn từng ngày. Như thường lệ, năm nay chim cũng bay đến ăn. Anh tôi cũng than thở với chim như trước, được chim lạ dặn dò như lời chim dặn với tôi. Thế là vợ chồng anh nhanh chóng may túi, do tính tham lam nên anh may cái túi to đùng phải tới mười gang tay để mang đi. Sáng hôm ấy, chim lạ chở anh tôi ra hòn đảo cũ. Anh nhanh tay chất đầy vàng bạc vào túi khổng lồ của mình, rồi cố nhét thêm vào túi trên người cho đầy. Chim lạ chở anh tôi về, nhưng đồ nặng quá, khi qua biển gặp phải trận gió mạnh khiến cánh chim bị nghiêng, anh tôi cùng bao châu báu rơi chìm xuống biển sâu.

Anh chết, chị dâu phải sống cảnh cô độc, một mình nuôi hai đứa con. Tôi thương anh chị vô cùng và tự nhủ mình phải thật thà lương thiện, không được tham lam, ích kỷ, hẹp hòi để có cuộc sống tốt đẹp hơn.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 37

Ta là sứ giả của nước Đại Việt. Suốt mấy năm nay, ta phụng sự cho nhà vua – một người hết lòng yêu nước, thương dân. Đặc biệt, nhà vua hết sức tin dùng và quý mến người tài. Vì thế, lần này người đã phái ta đi đến các ngôi làng tìm kiếm người tài về giúp ngài cai trị đất nước.

Một ngày, khi đi qua ngôi làng nọ, ta nhìn thấy có hai cha con đang cùng nhau cày ruộng. Thế là, ta nảy lên sự tò mò, thử đặt một câu hỏi:

– Này, lão kia! Trâu của lão một ngày cày được mấy đường?

Tuy nhiên, thật bất ngờ khi người trả lời ta lại là người con chứ không phải người cha:

– Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời đúng ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi một ngày cày được mấy đường.

Nghe cậu bé hỏi ngược lại như thế, ta nhận ra ngay cậu chính là nhân tài mà mình luôn tìm kiếm. Thế là, ta vội thúc ngựa về bẩm tấu cho nhà vua. Biết được câu chuyện nhà vua mừng lắm, nhưng để chắc chắn hơn, ngài quyết định sẽ thử cậu bé thêm lần nữa. Ngài ban cho làng cậu bé ba con trâu đực và ba thúng gạo nếp, yêu cầu một năm sau phải nộp lên chín con trâu. Trước lời đố đó, ta vô cùng thấp thỏm, không biết cậu bé sẽ trả lời thế nào. Một thời gian sau, khi ta đang cùng nhà vua bàn việc trong thư phòng, thì nghe tiếng khóc ầm ĩ ở trước cửa cung. Thấy lạ, nhà vua cho mời vào. Ta nhận ra ngay đó chính là cậu bé thông minh đó. Cậu ta khóc lóc đòi nhà vua bảo bố sinh em cho mình. Trước lời đề nghị vô lý đó, nhà vua vô cùng khó xử. Đúng lúc ấy, cậu bé hỏi ngược lại nhà vua, sao lại bắt làng cậu chăm cho ba con trâu đực đẻ ra chín con trâu con. Nghe thế, nhà vua liền nhận ra mình đã bị bẫy ngược rồi. Nhà vua vừa lòng lắm.

Nhưng để cho cả triều đình cùng tin tài của cậu, người cho thử tài lần thứ ba. Ngài sai ta đem một con chim sẻ nhỏ đến, yêu cầu cậu bé làm thành ba mâm cỗ. Ngay lập tức, cậu bé bảo ta đem về cho vua một cây kim, nhắn rằng. nhờ ngài mài kim thành một con dao thật sắc để mổ thịt chim. Lần này, ai cũng tâm phục khẩu phục.

Một hôm nọ, sứ giả của nước láng giềng sang chơi, mang theo một câu đố vô cùng khó. Biết đây là ý muốn thăm dò xem nước ta có người tài không của họ, nhà vua vô cùng tức giận. Đúng lúc mọi người đang vò đầu bứt tai để suy nghĩ, ta nhớ ngay đến cậu bé thông minh kia. Được sự đồng ý của nhà vua, ta đem câu đố đến chỗ cậu. Nào ngờ, trước câu hỏi cả triều đình đều bó tay ấy, cậu vừa nghe đã giải được ngay. Không những thế, còn đọc đáp án thành bài đồng dao:

“ Tang tình tang ! Tính tình tang!
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ kiến mừng kiến sang…”

Nhờ trí thông minh của cậu bé, mà triều đình ta giải được câu đố khó. Khiến sứ giả phải e dè. Sau sự kiện lần đó, cậu bé được phong làm trạng nguyên trẻ tuổi nhất. Còn ta, được nhà vua thưởng hậu hĩnh vì đã tìm được người tài cho đất nước.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 38

Tôi là Cám, là một cô gái đang độ tuổi trăng tròn, có một vẻ đẹp sắc sảo. Tiếc thay tôi lại có chị gái cùng cha khác mẹ tên là Tấm nết na, xinh đẹp, hiền lành nổi tiếng cả vùng. Vì thế mà tôi ghen ghét và hay đành hanh với chị.

Mà lý do cũng bởi chị là con vợ cả của cha tôi. Sau khi bà mất sớm, cha đi thêm bước nữa với mẹ ruột tôi, rồi có tôi. Từ nhỏ, tôi đã được yêu thương, chiều chuộng hết mực. Còn chị Tấm lại bị hắt hủi, ghẻ lạnh. Vài năm trước, cha không may qua đời trong một trận bệnh nặng. Hai mẹ con tôi bắt Tấm phải làm hết công việc của người hầu trong nhà. Nhìn Tấm người lúc nào cũng lấm lem, vất vả, lại phải mặc quần áo vụn vá mà lòng tôi thích chí lắm.

Có hôm, mẹ tôi sai hai chị em tôi đi bắt tôm tép, hứa sẽ có thưởng cho ai bắt được nhiều tép nhất. Tôi thì có bao giờ lội xuống bùn tanh tưởi để bắt tôm, bắt cá bao giờ? Thế này sao mà được. Tôi nũng nịu xin mẹ đủ kiểu mà cũng không được, thế là đành lấy cái giỏ đi cùng con Tấm. Xuống đến bờ ao, tôi thì mải mê bắt bướm, hái hoa, còn Tấm thì chăm chỉ lội bùn bắt tép. Thấy thế tôi cười khẩy. Hết buổi sáng, chị Tấm bắt được đầy giỏ, con nào con nấy mập đáo để. Tôi mới nói: Chị Tấm ơi! Đầu chị lấm bùn rồi. Chị xuống ao gội lại cho sạch không kẻo về mẹ mắng”. Nghe thấy thế, chị ta cũng tin thật quay lại ao tắm giặt. Còn tôi nhanh chân chút hết tôm tép của chị sang giỏ mình rồi chạy về trước. Về đến nhà tôi được mẹ tặng cho chiếc yếm đào mới tinh, đẹp ơi là đẹp. Còn cái Tấm thì đã về muộn còn bị mẹ mắng. Tôi đúng là thông minh, nhanh trí mà!

Bẵng đi một thời gian, tôi thấy Tấm ăn rất ít, cứ để dành phần cơm rồi mang ra giếng. Thế là hai mẹ con tôi cùng rình coi. Phát hiện chuyện cá bống, chúng tôi lừa chị ta đi chăn trâu để ở nhà thịt con cá bống lên ăn, rồi vứt xương ra sân cho gà mổ.

Đến ngày hoàng tử mở hội kén vợ. Tôi cùng mẹ sung sướng, nghĩ đã đến lúc đổi đời rồi đây. Mẹ đầu tư cho tôi rất nhiều quần áo mới, giày đẹp để chuẩn bị đi hội. Ấy thế mà con Tấm không biết thân biết phận, cũng đòi đi hội cho bằng được. Mẹ liền nghĩ ra cách trộn thóc và gạo bắt nó nhặt cho kì hết mới được đi. Nhìn nó ngồi khóc mà chúng tôi hả hê lên kinh dự hội. Một lúc thì có thông báo, hoàng tử lệnh ai đeo vừa chiếc hài sẽ được chọn làm hoàng hậu. Tôi cố thử mà khốn nỗi không tài nào vừa được. Đang bực tức thì thấy con Tấm đến thử, thế mà nó lại đi vừa chiếc hài ấy. Ngay hôm ấy, cái Tấm được đón về cung làm vợ vua. Thật tức chết đi được.

Đến ngày giỗ cha, mẹ tôi nghĩ kế gọi Tấm về để giết nó. Mẹ sai chị ta trèo lên cây hái cau cúng, còn ở dưới gốc, mẹ lấy dao chặt cây. Chị ta trúng kế, rơi xuống ao chết đi. Mẹ đưa tôi vào cung làm vợ vua thay Tấm, nói dối rằng đây là di nguyện của chị Tấm trước khi chết. Mà ngặt nỗi, vào cung rồi mà vua cứ ngày đêm quấn quýt lấy chim vành anh, tôi có quyến rũ thế nào người cũng chẳng ngước nhìn. Tôi bắt và giết thịt nó. Thế mà chàng lại tiếp tục ra cây xoan đào ngồi mắc võng chứ. Tôi lại đốn luôn cây xoan đào ra làm khung cửi. Nhưng mỗi lần ngồi trước cung cửi, tôi đều nghe thấy tiếng dọa nạt đòi khoét mắt tôi. Quá sợ hãi, tôi đem đốt luôn khung cửi và vứt tro nó ở một nơi thật xa.

Lâu sau, hoàng tử đi tuần xa cung bỗng đem Tấm về. Nhìn Tấm còn sống sờ sờ đứng đó, trắng trẻo, xinh đẹp hơn xưa, tôi sợ hãi vô cùng, bỏ chạy về nhà. Rồi hai mẹ con tôi bị trừng phạt phải đi biệt sứ, sống những tháng ngày khổ cực, lang thang khắp nơi.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 39

Cha mẹ mất sớm, để lại hai anh em tôi nương tựa nhau. Kể từ ngày tôi lấy vợ, bèn chướng mắt chú em, sợ chú ta cướp mất gia sản. Nghe lời vợ, tôi đuổi em trai ra khỏi nhà, rồi phân cho túp lều tranh rách nát và cây khế già.

Ấy vậy mà một thời gian sau, em trai tôi chẳng biết có tiền từ đâu mà trở nên giàu có nức tiếng mọt vùng. Tôi lân la lại hỏi chuyện mới biết: hóa ra do có chim thần ăn khế nên trả vàng. Tôi bèn lấy cả gia sản của mình để đổi lại cây khế với người em. Em trai tôi cũng ngoan ngoãn đồng ý.

Để chuẩn bị cho chuyến đi, tôi còn bản vợ may cái túi mười hai gang để chở vàng. Buổi sáng hôm ấy, chim thần lại đến ăn khế, tôi cũng ra bắt chước chú em bảo: “Chim thần hãy bay đi chỗ khác, đừng ăn khế nhà tôi. Nhà tôi nghèo, phải trông chờ vào việc bán khế kiếm miếng ăn qua ngày.” Chim cũng đáp lại: “Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng.” Thế là chim chở tôi bay qua biển lớn, đến một hòn đảo xa. Trời ơi, khi bước chân đến đây, trước mắt tôi là những núi vàng lung linh, rực rỡ. Tôi chạy đến rồi nhét lấy, nhét để vào túi 12 gang đã chuẩn bị.

Ngồi lên chim thần lần nữa, chim bảo tôi bỏ bớt vàng lại, vì nặng quá rồi không bay được. Tôi vẫn tiếc lắm, chả bỏ cục vàng nào, nói chim cứ cố bay đi. Ra đến biển lớn, gió to quá, chim chẳng bay nổi mà rớt xuống biển. Tôi cũng bị sóng đánh bay mất. Nhìn số vàng rời khỏi tay cùng sự sống đang tuột từng phút giây khỏi cơ thể, tôi hối hận vô cùng. Giá như tôi không tham lam thì tốt biết bao nhiêu

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 40

Truyện cổ tích “Nàng tiên Ốc” kể về một bà lão nghèo đơn độc và cuộc gặp gỡ đầy kỳ diệu với một nàng tiên chui ra từ con ốc bà bắt về nuôi trong chum nước. Bà lão bắt được một con ốc đẹp và quyết định nuôi nó trong chum nước thay vì bán để kiếm tiền. Mỗi khi bà lão đi làm, nàng tiên Ốc xuất hiện và làm việc giúp đỡ bà lão, làm cho nhà cửa sạch sẽ và nấu ăn ngon cho bà. Bà lão không biết về sự tồn tại của nàng tiên Ốc cho đến khi cảm thấy nghi ngờ vì nhà cửa luôn sạch sẽ mỗi khi bà trở về nhà và bà đã quyết định lén quay trở về nhà đột ngột vào một hôm. Khi bà lão nhìn thấy nàng tiên Ốc, bà vui mừng chạy đến ôm cô, đạp vỡ vỏ ốc.

Từ đó, bà lão không còn cô đơn nữa mà bà nhận nàng tiên ốc là con. Nàng tiên Ốc trở thành người con ngoan và chăm sóc bà lão. Bà lão không chỉ được đỡ đàn công việc nhà mà còn có sự yêu thương và sự chăm sóc từ nàng tiên Ốc. Bà lão và nàng tiên Ốc sống trong tình yêu thương và sự hạnh phúc; bà lão coi nàng tiên ốc như con ruột của mình lo lắng quan tâm nàng.

Câu chuyện “Nàng tiên Ốc” giáo dục chúng ta về lòng nhân hậu và tình yêu thương. Đồng thời, nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của sự chia sẻ và sẵn lòng giúp đỡ người khác, dù cho chúng ta có ít hay nhiều. Bà lão bất chấp nghèo khó để nuôi ốc và không bán nó đi vì bà thấy tình thương trong trái tim mình. Điều đó đã mang lại sự giúp đỡ và tình yêu của nàng tiên Ốc. Câu chuyện này cũng khuyến khích chúng ta đối xử với nhau với lòng nhân ái và sẵn lòng giúp đỡ. Nó nhấn mạnh rằng, dù cho chúng ta có ít hay nhiều, việc chia sẻ và yêu thương không chỉ làm cho người khác hạnh phúc mà còn làm cho chúng ta cảm thấy đầy đủ và có ý nghĩa trong cuộc sống.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 41

Tôi là người em trong câu chuyện “Cây Khế”, và tôi luôn mang trong lòng một nỗi buồn sâu sắc. Đó là nỗi buồn vì anh trai của tôi đã mất vì lòng tham vô độ. Trong gia đình chúng tôi, khi bố mẹ mất đi, chúng tôi được thừa hưởng một gia sản đáng kể. Tuy nhiên, anh trai của tôi đã lấy đi tất cả nhà cửa, ruộng vườn và đất đai, chỉ để lại cho tôi một căn nhà nhỏ và một cây khế. Tôi luôn nghe theo và hiếu thuận, không dám đòi hỏi gì hơn từ anh trai vì đối với tôi anh trai là gia đình của tôi.

Hàng ngày, vợ chồng tôi cố gắng chăm sóc cây khế, và cây khế luôn đơm hoa và kết trái nặng trĩu, với những trái khế ngon ngọt. Sự hạnh phúc tràn đầy trong lòng khi thấy cây khế mang lại nhiều quả. Cây khế trở thành nguồn sống của gia đình tôi. Một ngày nọ, một con chim lạ đến và đậu trên cây khế. Con chim rất đẹp, với bộ lông mịn màng và thân hình to lớn. Chim ăn quả khế của chúng tôi không ngừng, nó ăn hết từ quả này đến quả khác. Tôi xót xa nhưng không thể đuổi chim đi.

Thay vào đó, tôi trò chuyện với chim: “Gia đình chúng ta sống nhờ vào cây khế này, giờ chim ăn hết thì chúng ta sẽ sống sao?”

Đến lúc này, chim lạ đáp lại: “Ăn một quả khế, trả một cục vàng. May túi ba gang, mang đi mà đựng.”

Tôi ngạc nhiên không thể tin được! Tôi không ngờ rằng con chim sẽ giúp tôi trở nên giàu có. Tôi nửa tin nửa ngờ bảo vợ tôi may một cái túi vừa đúng ba gang để chuẩn bị lấy vàng. Sáng hôm sau, chim đến và đưa tôi đi lấy vàng. Tôi rất vui mừng khi nhìn thấy lượng vàng khổng lồ ở đó, nhưng tôi chỉ lấy đủ để đựng vào túi và leo lên lưng chim để trở về nhà. Gia đình tôi trở nên giàu có, đủ ăn đủ mặc từ đó. Tôi có cơ hội giúp đỡ những người nghèo trong làng. Vợ chồng tôi biết ơn chim thần đã giúp đỡ chúng tôi.

Chẳng bao lâu sau đó, anh trai của tôi biết được về sự việc và đến nhà tôi đòi lại tài sản của mình chỉ để lấy lại cây khế. Với lòng tin yêu anh trai và muốn san sẻ cho anh, tôi đồng ý và hy vọng rằng anh em chúng tôi có thể sống hòa thuận và gia đình có thể yên bình. Từ đó, anh trai tôi thường đứng dưới gốc cây khế chờ đợi chim lạ xuất hiện. Cuối cùng, ngày chờ đợi của anh đã đến. Chim lạ lại đến ăn khế, và anh trai tôi than thở với nó. Chim lạ trả lời như lần trước. Anh trai tôi vui mừng quá, lòng tham của anh bùng lên. Anh bảo vợ may một cái túi mười hai gang để chuẩn bị lấy vàng. Sáng sớm hôm sau, chim đến và đưa anh đi đến một ngọn núi có vàng. Khi nhìn thấy lượng vàng, lòng tham của anh trai tôi bùng phát. Anh không kiềm chế được mà cố gắng lấy thật nhiều vàng. Anh đựng đầy túi và thậm chí còn giấu thêm trong người. Khi trở về, chim gặp phải một cơn gió mạnh giữa biển. Chim yếu đuối và yêu cầu anh trai tôi thả bớt vàng xuống, nhưng anh ta không lắng nghe và cứ ôm túi vàng. Cuối cùng, cánh của chim không thể chịu đựng nặng nề nữa và đã giật mình, làm cho anh trai tôi và túi vàng rơi xuống biển.

Tôi thật đau lòng và xót xa cho anh trai tôi. Tôi ước rằng anh ta không tham lam để không có kết cục bi thảm như vậy. Từ câu chuyện về cây khế và chim thần, tôi muốn gửi đi một thông điệp đến mọi người: “Ở hiền lành thì được gặp hiền lành. Người trung thực sẽ được sự giúp đỡ từ các vị thần.”

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 42

Bây giờ, cuộc sống của tôi thật sung túc, nhưng mỗi lần nghĩ đến anh trai mình, tôi lại cảm thấy đau lòng. Tôi xin kể lại chuyện của mình cho các bạn cùng nghe.

Cha mẹ tôi mất sớm, chỉ còn hai anh em sống với nhau. Chúng tôi dần lớn lên, có gia đình riêng. Anh trai tôi tham lam chiếm hết gia tài cha mẹ để lại, chỉ cho tôi túp lều và mảnh vườn có cây khế ngọt. Tôi không muốn tranh cãi với anh, liền nhận lấy. Hằng ngày, hai vợ chồng tôi cày thuê cuốc mướn kiếm sống.

Năm ấy, khế ra quả rất sai. Tôi sung sướng chờ ngày khế chín để mang ra chợ bán lấy tiền đong gạo. Nhưng một sáng tỉnh dậy, ra chăm cây, tôi thấy có con chim lạ đang ăn khế. Nó to lớn lạ thường, màu sắc rực rỡ thật đẹp mắt. Tôi bảo chim :

– Cả gia tài của tôi chỉ có cây khế này, thế mà giờ chim ăn mất…

Tôi chưa nói hết câu đã thấy chim cất giọng :

– Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng.

Trời, con chim không chỉ hiểu mà còn nói được tiếng người, đúng là chim thần. Tôi kinh ngạc vô cùng, vội kể chuyện với vợ. Hai vợ chồng nửa tin nửa ngờ. Cô ấy khuyên tôi cứ nghe theo chim. Đêm ấy, vợ tôi thức khâu cho tôi một chiếc túi mỗi bề đúng ba gang.

Sớm hôm sau, tôi cầm túi ba gang đợi dưới gốc cây. Không ngờ chim đến, hạ cánh trước mặt, bảo tôi ngồi lên lưng. Bám chặt vào cổ chim thần, tôi được đưa bay bổng trên cao, cùng với những đám mây trôi bồng bềnh. Nhìn xuống dưới, làng xóm, nhà cửa bé xíu.

Chim bay qua biển, đưa tôi tới một hòn đảo xa, trên đó cơ màn nào là vàng bạc châu báu. Tôi lấy đầy túi rồi lại lên lưng chim trở về. Từ đó, vợ chồng tôi trở nên giàu có.

Ít lâu sau, anh cả tôi đến, nằn nì vợ chồng tôi đổi gia tài lấy túp lều và cây khế. Không nỡ từ chối, tôi nhận lời.

Năm sau, khế lại ra quả rất sai. Chim thần lại đến ăn khế và nhắc lại lời nói với tôi năm trước, bảo may túi ba gang. Anh chị tôi đã may sẵn một cái túi đến mười hai gang chờ chim đưa ra đảo. Những chim đưa anh tôi đi mà mãi mãi chẳng thấy về. Có lẽ vì tham, anh tôi lấy nhiều vàng ngọc quá, chim nặng không bay nổi nên hất anh ấy rơi xuống biển. Từ đó, không thấy chim thần đến nữa.

Tôi trả lại nhà cửa cho chị dâu rồi trở về sống bên cây khế của mình.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 43

Tôi tên là Tấm. Mẹ mất sớm, cha tôi ở vậy được hơn một năm thì lấy vợ kế. Dì ghẻ sinh đứa con gái, đặt tên là Cám. Khi tôi vừa tròn mười lăm tuổi thì cha tôi qua đời.

Vốn rất ghét tôi nên mọi việc lớn nhỏ trong nhà, dì ghẻ đổ cả lên đầu tôi. Chăn trâu, cấy lúa, xay thóc, giã gạo… vừa xong việc này dì bắt làm ngay việc khác; trong khi đó, Cám được rong chơi. Cậy thế mẹ, Cám thường mắng mỏ buộc tôi phải hầu hạ nó. Thui thủi một thân một mình, tôi buồn khổ lắm, nhưng chỉ biết khóc thầm.

Một hôm, dì ghẻ bảo: “Sáng nay hai đứa ra đồng mò tép. Đứa nào bắt được đầy giỏ, ta sẽ thưởng cho cái yếm đào!”. Nghe lời dì nói, tôi mừng thầm và tự nhủ sẽ cố gắng hết sức để đoạt được phần thưởng quý giá mà cô gái nào cũng mơ ước.

Tôi và Cám mang giỏ cùng đi. Chẳng ngại vất vả, bẩn thỉu, tôi lội xuống ruộng, xuống mương hì hục mò, còn Cám thì cứ nhởn nhơ. Lúc mặt trời đã lên cao, giỏ của tôi đã gần đầy. Tôi rửa chân tay qua loa rồi lên bờ ngồi nghỉ. Bỗng Cám đến gần bảo: “Chị Tấm ơi chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về mẹ mắng”. Tưởng thật, tôi lội xuống ao gội đầu thật kĩ.

Xong xuôi, tôi vui vẻ hỏi: “Cám ơi! Em xem giùm chị đã sạch chưa?”. Không một tiếng trả lời. Tôi ngẩng nhìn bốn phía, chẳng thấy Cám đâu, chỉ có chiếc giỏ của tôi nằm lăn lóc bên vệ cỏ. Tôi mở ra xem, trong giỏ rỗng không. Thì ra Cám đã lừa để trút hết giỏ tép của tôi, mang về nhà trước.

Vừa tức giận, vừa tủi thân, tôi ôm mặt khóc. Bỗng nhiên, có một giọng nói trầm ấm vang bên tai tôi: “Vì sao cháu khóc?”. Tôi ngẩng lên nhìn, trước mặt tôi, Bụt hiện ra giữa một vầng hào quang lấp lánh. Tôi thuật lại đầu đuôi câu chuyện, Bụt ân cẩn bảo: “Cháu xem kĩ lại trong giỏ có còn sót con cá nào chăng!”. Tôi ghé mắt nhìn vào thì thấy một con cá bống bé xíu nằm dưới đáy giỏ. Theo lời Bụt dặn, tôi đem con cá bống ấy về thả xuống giếng, mỗi ngày bớt một ít cơm để nuôi nó. Mỗi lần cho ăn, tôi lại gọi bống bằng câu Bụt dạy:

Bống bống bang bang,
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta,
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người.

Bống ngoi lên mặt nước, đớp những hạt cơm mà tôi rắc xuống. Từ đó, tôi và cá bống trở thành bạn thân. Cá bống ngày một lớn lên trông thấy.

Để ý thấy tôi sau bữa cơm chiều thường ra giếng gánh nước, dì ghẻ sinh nghi, sai Cám đi rình. Cám nấp sau bụi cây, nghe tôi gọi bống bèn nhẩm theo cho thuộc rồi về kể cho mẹ nghe. Đến tối, dì ghẻ bảo tôi:

– Con ơi con! Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu.

Tôi vâng lời, sáng hôm sau dẫn trâu đi ăn cỏ thật xa. Ở nhà, Cám bắt chước tôi gọi bống. Nghe đúng câu hát, bống ngoi lên thì bị dì ghẻ chực sẵn, bắt làm thịt.

Đến chiều, tôi dắt trâu về. Theo lệ thường, ăn xong tôi lại giấu cơm trong thùng gánh nước đem ra cho bống. Tôi gọi mãi, gọi mãi mà chẳng thấy bống đâu. Chỉ có một cục máu đỏ tươi nổi lên mặt nước.

Tôi òa khóc. Bụt hiện lên hỏi: “Làm sao con khóc?”. Tôi kể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo: “Con bống của con đã bị người ta ăn thịt mất rồi. Thôi, con hãy nín đi rồi tìm nhặt lấy xương nó, kiếm bốn cái lọ bỏ vào, đem chôn dưới bốn chân giường con nằm”.

Tôi tìm khắp xó vườn, góc sân mà không thấy gì cả. Tự nhiên, một con gà cất tiếng: “Cục ta cục tác! Cho ta nắm thóc, ta bới xương cho!”. Tôi lấy nắm thóc ném cho gà. Gà chạy vào bới đống tro bếp một lúc thì tìm thấy xương bống. Tôi nhặt bỏ vào bốn chiếc lọ nhỏ, chôn dưới bốn chân giường đúng như lời Bụt dặn.

Tết đến, xuân về, nhà vua mở hội trong mấy ngày đêm. Già trẻ, trai gái nô nức đi xem hội. Mọi người ăn mặc đẹp đẽ, dập dìu tuôn về kinh thành như nước chảy. Mẹ con Cám cũng sắm sửa quần áo mớ ba mớ bảy, háo hức đi trẩy hội.

Thấy tôi cũng muốn đi, dì ghẻ hấm hứ nguýt dài. Chẳng biết nghĩ sao, dì lấy một đấu gạo trộn lẫn với một đấu thóc rồi bảo: “Mày hãy nhặt cho xong chỗ gạo này rồi đi đâu hãy đi, đừng có bỏ dở. Tao về mà không có gạo thổi cơm là tao đánh đó!”.

Nói xong, hai mẹ con Cám đi xem hội. Tôi ngồi nhặt một hồi lâu mà chỉ được chút ít, sốt ruột nghĩ nhặt thế này thì biết bao giờ cho xong? Biết dì ghẻ độc ác không muốn cho đi xem hội, tôi tủi thân, bật khóc nức nở. Bụt lại hiện ra hỏi: “Vì sao con khóc?”. Tôi chỉ vào cái thúng đựng thóc trộn lẫn gạo rồi kể sự tình. Bụt bảo tôi mang thúng ra đặt giữa sân rồi sai một đàn chim sẻ xuống nhặt giúp. Tôi sợ chim ăn mất thì Bụt dạy:

– Con cứ bảo chúng nó thế này: “Rặt rặt xuống nhặt cho tao. Ăn mất hạt nào thì tao đánh chết”. Chúng sẽ không ăn của con đâu!

Thoáng chốc, đàn chim sẻ đã nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, không mất một hạt. Nhưng khi chúng đã bay đi rồi, tôi chợt nghĩ mình làm gì có quần áo đẹp mà đi xem hội?! Tủi thân tủi phận, tôi lại rơi nước mắt. Bụt bảo tôi hãy đào bốn chiếc lọ đựng xương bống ở dưới chân giường lên, sẽ có đủ. Tôi làm đúng theo lời Bụt, quả nhiên điều kì lạ đã xảy ra: Lọ thứ nhất có một bộ áo mớ ba và một cái váy lụa, một yếm lụa đào và chiếc khăn nhiễu. Lọ thứ hai có một đôi hài thêu, đỉ vừa như in. Lọ thứ ba có một con ngựa bé tí, nhưng vừa đặt xuống đất thì nó hí vang, to bằng con ngựa thật. Lọ cuối cùng có một bộ yên cương xinh xắn.

Tôi mừng rỡ vô cùng, vội cảm tạ Bụt rồi tắm rửa sạch sẽ, mặc bộ quần áo đẹp vào và cưỡi lên lưng ngựa. Ngựa phi rất nhanh, chẳng mấy chốc đã đến kinh đô. Lúc ngựa phóng qua chỗ lội, tôi đánh rơi một chiếc hài xuống nước, không kịp nhặt lên. Đến đám hội, tôi dừng ngựa, lấy khăn gói kĩ chiếc hài còn lại rồi chen vào biển người.

Kiệu vàng của nhà vua vừa đến chỗ lội thì hai con voi dẫn đầu không chịu đi, cứ cắm ngà xuống đất và kêu rống lên. Biết có sự lạ, nhà vua sai quân lính thử tìm xem. Họ nhặt được chiếc hài thêu của tôi, vội trình nhà vua. Nhà vua cầm chiếc hài lên, ngắm nghía mãi rồi buột miệng khen: “Chiếc hài xinh quá! Người đi hài này hẳn phải là một trang tuyệt sắc!”.

Vua ra lệnh cho tất cả đàn bà, con gái thử hài và tuyên bố ai đi vừa thì sẽ cưới làm hoàng hậu. Đám hội lại càng náo nhiệt. Các bà, các cô chen nhau đến chỗ thử hài nhưng không ai đi vừa. Mẹ con Cám cũng vào cầu may. Lúc tôi bước ra thử, nhìn thấy tôi, Cám liền mách mẹ nhưng dì ghẻ không tin, bĩu môi nói: “Con nỡm! Chuông khánh còn chẳng ăn ai, nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre!”.

Tôi là người thử cuối cùng. Chân tôi đặt vào hài vừa như in. Tôi mở khăn lấy chiếc hài còn lại đi vào. Hai chiếc giống nhau như đúc. Lính hầu hò reo, vui mừng báo với vua. Lập tức, vua sai đoàn thị nữ rước tôi về cung. Tôi bước lên kiệu trước vẻ mặt ngơ ngác và hằn học của mẹ con Cám.

Tôi được sống sung sướng, hạnh phúc bên nhà vua trẻ. Đến ngày giỗ cha, tôi xin phép về giúp dì và em sửa soạn cỗ cúng. Thấy tôi được làm hoàng hậu, hai người ghen ghét nhưng cố giấu. Dì bảo tôi trèo cau, lấy một buồng để cúng cha. Tôi vừa leo lên đến ngọn thì dì chặt gốc. Cau đổ, tôi ngã xuống ao chết đuối. Dì ghẻ lấy quần áo của tôi cho Cám mặc rồi đưa vào cung nói dối vua rằng tôi chẳng may đã chết, nay cho em gái thay thế.

Hồn tôi biến thành chim vàng anh, suốt ngày quanh quẩn ở vườn ngự uyển. Cám giặt áo cho vua, đem ra phơi ở bờ rào, tôi hót: “Phơi áo chồng tao, thì phơi bằng sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao!”. Rồi tôi bay thẳng vào cung, đậu ở cửa sổ. Nhà vua đang ủ ê, buồn bã, chắc là nhớ thương người vợ bạc mệnh. Thấy tôi cứ quanh quẩn bên cạnh, nhà vua bảo: “Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo!”. Tôi âu yếm đậu lên vai rồi rúc vào tay áo nhà vua. Một chiếc lông được làm bằng vàng cho tôi ở. Nhà vua suốt ngày quấn quýt bên tôi, chẳng hỏi han gì đến Cám.

Nhân lúc nhà vua đi vắng, mẹ con Cám bắt tôi làm thịt rồi vứt lông ra vườn. Thấy mất vàng anh, vua hỏi thì Cám đặt điều nói dối: “Thiếp có mang, thèm ăn thịt chim nên trộm phép bệ hạ đã giết ăn thịt mất rồi”. Nhà vua giận lắm nhưng không nói gì. Ngày hôm sau, từ đám lông chim mọc lên hai cây xoan đào thật đẹp. Khi nhà vua đi dạo trong vườn, cây xòe cành lá che đầu vua, giống như hai cái lọng. Vua thấy vậy sai lính hầu mắc võng vào giữa hai thân cây rồi chiều chiều ra nằm đong đưa hóng mát.

Cám lại đem chuyện ấy mách mẹ. Nhân một hôm gió bão, dì ghẻ xúi nó sai thợ chặt hai cây xoan đào rồi nói là đóng khung cửi để dệt áo cho vua. Hồn tôi nhập vào khung cửi nên mỗi lần Cám ngồi vào dệt, khung cửi lại phát ra tiếng kêu đầy đe dọa:

Cót ca cót két,
Lấy tranh chồng chị,
Chị khoét mắt ra!

Cám hoảng hốt mách với mẹ, dì ghẻ bảo hãy đốt khung cửi thành tro rồi đem đổ thật xa. Cám làm theo, nhưng từ đống tro bỗng mọc lên một cây thị cao lớn, cành lá xanh tươi. Đến mùa, cây thị ra nhiều hoa mà chỉ đậu có mỗi một quả. Hồn tôi náu trong quả thị vàng thơm ấy.

Một hôm, bà lão hàng nước ở gần đấy đi ngang qua, ngửi thấy mùi thơm bèn ngẩng lên nhìn rồi giơ miệng bị ra, lẩm bẩm:

– Thị ơi thị rụng bị bà. Bà để bà ngửi chứ bà không ăn.

Trái thị liền rụng xuống. Bà lão vui mừng mang về cất vào buồng, thỉnh thoảng lại đem ra ngắm nghía. Những lúc bà lão đi chợ hoặc vắng nhà, tôi từ quả thị bước ra, dọn dẹp nhà cửa, nấu sẵn cơm dẻo canh ngon cho bà lão.

Bà lão lấy làm lạ, cố ý tìm ra sự thật. Một lần, vờ đi chợ được một lúc thì bà lão quay lại. Tôi đang lúi húi làm việc nhà như mọi khi thì bà lão bước vào, ôm chầm lấy tôi rồi xé nát vỏ quả thị. Từ đó, bà lão coi tôi như con gái. Tôi giúp bà gói bánh, nấu nước, têm trầu để bà ngồi bán hàng.

Ít lâu sau, một hôm có người đàn ông trẻ tuổi ghé vào quán nước. Nhìn thấy mấy miếng trầu cánh phượng, người ấy hỏi ai têm, bà lão đáp là con gái mình têm. Tôi đứng nép sau bức mành, nghe rõ câu chuyện và nhận ra nhà vua. Nhà vua năn nỉ bà lão đưa con gái ra cho mình xem mặt. Tôi vừa xuất hiện, nhà vua đã nhận ra ngay, bèn bảo bà lão thuật lại sự tình, rồi ra lệnh cho lính hầu mang kiệu rước tôi về cung.

Mẹ con Cám thấy vậy thì hết sức sợ hãi. Cám hỏi tôi làm thế nào để trẻ đẹp được như thế, tôi bảo muốn đẹp thì tôi sẽ giúp. Tôi sai quân hầu nấu một nồi nước sôi, rồi bảo Cám đứng xuống hố. Cám bằng lòng. Lính đổ nước sôi vào hố, Cám chết nhăn răng. Dì ghẻ thấy vậy kinh hoàng, cũng lăn đùng ra mà chết. Tôi được sống yên ổn hạnh phúc bên nhà vua. Tình cảm vợ chồng lại càng thắm thiết, mặn nồng hơn trước.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 44

Bây giờ đã là hoàng hậu hạnh phúc nhất cung đình nhưng mọi người vẫn quen gọi tôi là cô Tấm như ngày nào. Nhớ lại những gì đã qua tôi không khỏi kinh sợ. Cuộc đời tôi ba chìm bảy nổi, chín lênh đênh cũng bởi tại mẹ con nhà Cám luôn chú tâm làm hại.

Tôi còn nhớ, vào một ngày gần Tết, khí trời vẫn còn lạnh. Con Cám như mè nheo suốt ngày đòi mẹ nó một cái yếm thắm. Tôi cũng mơ một món vật như thế nhưng có bao giờ điều đó lại đến với tôi cơ chứ?

Mụ gì ghẻ đưa cho hai chị em chúng tôi hai cái giỏ và nói.
– Tụi bây đi bắt tôm bắt tép về đây làm thức ăn. Ai bắt được nhiều tao sẽ thưởng cho cái yếm đỏ – Mụ giơ chiếc yếm đỏ thắm ra chói lóa cả mắt. Rồi mụ gọi con gái lại nhỏ to với nó vài điều gì không rõ.

Ra cái đầm đầu làng, tôi thì lo bắt và đã được một giỏ gần đầy. Con Cám sợ lạnh nên nó xuống nước một chút rồi ngồi trên bờ co ro nhìn tôi ngụp lặn lên xuống. Sắp về nó có nói với tôi “Chị Tấm ơi chị Tấm đầu chị lấm chị ngụp cho sâu kẻo về mẹ mắng”. Khi tôi ngoi đầu lên, thì con Cám đã đỏ hết còn tôm tép cua tôi mà chạy về già tôi. Tôi ngồi khóc. Bụt hiện lên nói với tôi về nuôi con cá bống còn lại trong giỏ.

Hằng ngày tôi lén đem cơm ra giếng cho Bống ăn với câu hát mà Bụt dạy cho “Bống bống bang bang, lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”. Tôi lầm lũi ra đi mà linh cảm điều chẳng lành. Chiều về, vừa cài then chuồng trâu tôi đã đem cơm ra cho bống. Tôi hát khản cả giọng nhưng không thấy bống mà chỉ thấy một cục máu đỏ bầm nổi lên. Trời ơi tôi khóc như mưa như gió. Bụt lại hiện lên an ủi tôi và nói với tôi hãy tìm xương bống bỏ vào bốn chiếc lọ chôn ở bốn chân giường. Nhờ gà trống giúp tôi đã làm đúng lời Bụt dặn.

Thấm thoắt thế mà một mùa xuân nữa lại đến. Mẹ con nhà Cám mặc yếm đỏ xúng xính trong bộ quần áo sang trọng đi dự hội. Tôi khâu vội một chiếc yếm rách định đi, nhưng mụ dì ghẻ đã đặt trước mặt một thúng đầy thóc và gạo bảo tôi với giọng ngọt ngào.
– Con nhặt thóc giùm cho dì đi rồi hãy đi chơi.

Con Cám lườm tôi một cái rồi cả hai nhập vào tiếng cười nói vui vẻ của đoàn người dự hội. Nhặt mỏi cả tay mà chẳng được bao nhiêu, tôi òa khóc. Bụt hiện lên nói: Con đào bốn lọ lên sẽ có quần áo đẹp để đi dự hội, còn thúng thóc để đó cho chim sẻ nhặt giúp cho.

Tôi không ngờ mình lại được trang phục đẹp thế. Ngoài quần áo đẹp còn có một con ngựa trắng như tuyết. Tôi lên đường ai cũng tấm tắc ngỡ là hoàng hậu.

Khi qua chiếc cầu nhỏ, tôi đánh rơi một chiếc hài. Quân lính nhà vua vớt được, vua kinh ngạc trước chiếc hài kỳ lạ với ra điều kiện là ai ướm vừa chiếc giày thì vua lấy làm vợ. Dĩ nhiên tôi được hạnh phúc đó. Chao ôi, thật sung sướng trào nước mắt khi không từ một con bé nhà quê bỗng trở thành vợ của Vua.

Lại một năm nữa lại đến tôi về làm giỗ cha. Tôi tự tay mình hái cau để têm trầu trước bàn thờ, Thế nhưng, mụ dì ghẻ đã chặt cau và tôi ngã xuống ao. Hồn tôi nhập vào chim vàng anh bay ngang và lạ thay tôi vẫn sống trong con chim bé nhỏ ấy.

Hôm ấy tôi đã bay về đến cung vua, thấy Cám đang giặt áo cho Vua. Tôi biết Cám đã vào thế chị nó vào làm Hoàng Hậu. Tôi hát: “Giặt áo chồng tao thì giặt cho sạch, giặt mà không sạch tôi rạch mặt ra”.

Vua nghe thấy tôi liền nói “Vàng ảnh vàng anh có phải vợ anh chui vào tay áo”. Lập tức bay vào lòng vua. Và từ đó tôi được Vua chăm sóc. Nhưng một đêm Cám thò tay vào chuồng bóp cổ tôi một cách tàn nhẫn. Nó ăn thịt tôi rồi vứt lông ra vườn. Tôi lại được hóa thân mọc thành hai cây xoan tươi tốt. Vua hằng ngày mắc võng nằm ngủ dưới bóng mát của tôi.

Con Cám biết vậy, nó sai người chặt cây và biến tôi thành khung cửi, tôi giận quá mỗi lần nó dệt vải tôi lại nghiến răng “Kẽo cà kẽo kẹt, lấy tranh chồng chị chị khoét mắt ra”. Lần này thì, nó đốt tôi ra tro rồi đổ tận đường cái. Bụt lại cho tôi hóa thân thành cây thị. Và đến mùa thị thì chỉ ra một trái thơm nức. Bụt cho tôi giấu mình trong đó.

Một hôm, tôi nghe câu hát của một bà lão bán nước: “thị ơi thị thị rụng bị bà, bà đem bà ngửi chứ bà không ăn”. Hẳn bà già sẽ ngạc nhiên khi thấy tôi rơi đúng vào bị của bà. Thấy tội nghiệp bà lão côi cút lại tốt bụng, hằng ngày tôi làm cơm tươm tất cho cụ xong tôi lại chui vào vỏ thị. Nhưng một hôm khi đang nấu cơm bất ngờ bà cụ đẩy cửa vào ôm chầm lấy tôi và xé tan vỏ thị. Từ đó tôi sống với bà lão như mẹ con. Một hôm thấy bà cụ dẫn chồng tôi đến. Sở dĩ biết được vì vua nhận ra miếng trầu cánh phượng mà tôi hay tiêm cho vua ăn. Vợ chồng gặp nhau mừng mừng, tủi tủi. Vua sai ngay quân lính rước tôi về cung. Con cám không hề biết xấu hổ mà nó cứ theo tôi nhờ tôi làm cho nó cũng đẹp như tôi. Giận quá tôi bảo nó đúng trong một cái hố rồi tôi sai người dội cho nó chết. Xong quân lính còn làm mắm gửi về cho mẹ đẻ Cám.

Nghe đâu mụ ăn gần hết thịt thì mới thấy đầu lâu con mụ nằm ở đáy chĩnh. Mụ uất lên lăn đùng ra chết.

Thực ra thì cả hai mẹ con chúng chết là rất xứng đáng, Chúng ăn ở quá thất đức. Cũng may có Bụt nếu không tôi chết từ rất lâu rồi.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 45

Bố mẹ tôi sinh được hai anh em. Bố mẹ tôi mất sớm, để lại cho anh em tôi một gia tài. Lúc chia gia tài, anh tôi chiếm hết nhà cửa, ruộng vườn. Anh ấy chỉ chia cho tôi một mảnh vườn nhỏ trong đó có một cây khế.

Vợ chồng tôi phải làm lụng vất vả mà cũng không đủ ăn. Cũng may, năm nào cây khế ở vườn của tôi cũng sai trĩu quả. Hai vợ chồng tôi hái khế đem ra chợ bán lấy tiền để mua gạo.

Vào một buổi sáng, tôi ra vườn thấy có một con chim lớn đang mổ ăn khế trên cây. Tôi liền nói với chim:

– Chim ơi, nhà ta nghèo chỉ có cây khế này bán lấy tiền mua gạo. Chim đừng ăn khế của ta nữa!

Tôi thật bất ngờ khi nghe chim kêu lên thành tiếng:

Ăn một quả
Trả cục vàng
May túi ba gang
Mang đi mà đựng.

Tôi thấy rất lạ, bèn kể lại cho vợ tôi nghe. Rồi hai vợ chồng tìm vải, chắp vá lại may cái túi vừa đúng ba gang.

Hôm sau, con chim lạ cũng bay đến. Nó ăn khế xong thì đưa tôi đi lấy vàng. Chim bay qua biển rồi đậu xuống một hòn núi. Trên núi đầy vàng, những thỏi vàng lóng lánh làm loá cả mắt. Tôi nhặt các thỏi vàng bỏ đầy cái túi ba gang rồi leo lên lưng chim trở về. Từ đó, vợ chồng tôi trở nên giàu có. Bà con đến nhà chơi, tôi kể cho họ nghe câu chuyện chim ăn khế và trả vàng cho vợ chồng tôi.

Chuyện tôi giàu có nhờ chim ăn khế trả vàng đến tai anh tôi. Thế là chiều nào vợ chồng anh cũng sang nhà tôi và gạ tôi đổi cho anh mảnh vườn và cây khế đế tôi lấy toàn bộ gia tài của anh. Chiều lòng anh, vợ chồng tôi đồng ý đổi cho anh. Từ hôm đó, tôi dọn sang ở bên nhà anh.

Từ ngày được cây khế, vợ chồng anh tôi nóng ruột ngồi chờ chim đến. Vào một buổi sáng, con chim lạ lại đến ăn khế. Anh tôi giả vờ than thở. Chim cũng kêu lên như lần trước. Hai vợ chồng anh tôi liền may một cái túi mười hai gang. Hôm sau, chim đến đưa anh tôi đến đảo vàng. Anh tôi được chim đưa ra đảo. Anh tôi thấy vàng quá nhiều nên liền nhét đầy túi mười hai gang rồi leo lên lưng chim.
Vàng quá nhiều, quá nặng, chim bay chậm chạp. Đến giữa biển, cánh chim mỏi rã rời. Một cơn gió mạnh làm chim lảo đảo nghiêng cánh. Thế là anh tôi cùng túi vàng rơi tõm xuống biển.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 46

Tôi là Hươu, cũng như Nai, Hoẵng, Thỏ trên đầu chỉ có hai cái tai mềm mại. Nhưng so với các bạn thì tôi là nhút nhát nhất. Cái gì tôi cũng sợ: Sợ bóng tối, sợ cả thú dữ nữa.

Tuy vậy, bạn bè ai cũng quý tôi vì tôi chăm chỉ, tốt bụng. Hôm trước, nghe tin bác gấu ốm nặng, tôi đã xin mẹ cho đến thăm bác. Đến nơi, tôi nghe trong hơi thở yếu ớt:

– Bệnh của bác nặng lắm. Chỉ có là Thảo Huyền mọc ở khe núi sâu mới chữa được.

Tôi nhanh nhảu đáp:

– Cháu chạy nhanh như tên bay, để cháu vào rừng lấy lá thuốc cho bác.

Không đợi bác Gấu nói gì, tôi vội chào bác và lên đường ngay. Nhưng đường rừng hiểm trở, rất nhiều thú dữ, tôi bắt đầu thấy run. Khi bóng tối tràn xuống cả khu rừng, tôi lại càng sợ. Tôi nép vào một gốc cây khác.Thần cây hiện lên hỏi:

– Tại sao cháu khóc? Cháu bị lạc mẹ à?

– Dạ không ạ. Cháu muốn đi vào khe núi để lấy lá Thảo Huyền về cho bác Gấu. Nhưng rừng thì rộng, có bao nhiêu thú dữ nên cháu sợ lắm.

– Sợ thì cháu hãy mau quay về nhà đi!

– Nhưng cháu thương bác Gấu lắm. Không có thuốc bác ấy chết mất.

Thần cây ân cần:

– Cháu là một đứa trẻ có tấm lòng nhân hậu. Đây ta cho cháu những cành cây khoẻ khoắn của ta. Cháu hãy đội lên đầu, cháu sẽ có thêm sức mạnh.

Tôi rối rít cảm ơn Thần cây rồi lên đường. Tôi băng qua suối, qua đèo mà không sợ thú dữ hay bóng đêm nữa. Khi tôi đem lá thuốc về, trời cũng rạng sáng. Tôi thấy muông thú trong rừng đang ngồi vây quanh bác Gấu. Tôi vội đưa lá thuốc cho bác nhai. Thật kỳ diệu, chỉ trong ít phút bác gấu đã khoẻ lại. Tất cả muông thú có mặt đều hỏi:

– Cây thuốc gì mà quý đến thế hở bác?

– Thuốc quý nhưng tấm lòng của Hươu còn quý hơn nhiều. Chính Hươu đã cứu bác đấy – Bác gấu ôn tồn nói.

Khi ấy, tất cả mới để ý đến tôi. Và ai cũng ngạc nhiên khi thấy trên đầu tôi là những cành cây vững chắc. Tôi kể lại đầu đuôi câu chuyện khi gặp Thần cây cho mọi người nghe. Và kỳ lạ chưa, cái cành cây trên đầu tôi đã dính chặt từ bao giờ. Mẹ tôi vuốt ve món quà Thần cây tặng cho tôi và gọi đó là Sừng Hươu.

Từ đó, loài Hươu chúng tôi luôn mang sừng trên đầu để chống lại thú dữ và tôi chẳng còn nhút nhát như trước nữa.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 47

Tôi là con rể của nhà phú ông. Để được nên duyên với con gái ông ấy, tôi đã trải qua nhiều khó khăn, vất vả.

Khi tôi còn là thanh niên trẻ mới vào nhà phú ông làm việc, ông ấy đã nhận ra tiềm năng của tôi nên có giao hẹn rằng: Nếu tôi giúp ông làm việc không công ba năm thì sẽ được cưới con gái ông. Theo lời hẹn, tôi dốc sức giúp phú ông làm ra rất nhiều của cải trong suốt ba năm và không lấy một đồng tiền công. Ngờ đâu, khi đến kì hẹn, ông ta lừa tôi đi tìm cây tre trăm đốt để ở nhà tổ chức đám cưới cho con gái với con trai phú ông làng bên. Còn tôi, sau mấy ngài đau khổ tìm kiếm, thì được Bụt thương tình chỉ cho câu thần chú gắn một trăm đốt tre thành cây tre trăm đốt. Lúc tôi về đến nhà, đám cưới đang diễn ra linh đình. Tức giận vô cùng, tôi dùng thần chú gắn phú ông vào làm đốt tre thứ một trăm lẻ một. Ông ta sợ hãi lắm, bèn xin hứa sẽ thực hiện đúng lời hứa.

Sau lần đó, tôi và con gái phú ông tổ chức đám cưới như đã hẹn. Và tôi thì ra sức làm lụng, giúp cho gia đình càng thêm giàu có.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 48

Tôi là người em trai trong câu chuyện cổ tích Cây khế mà mọi người vẫn thường nghe kể.

Tôi có một người anh trai khá lười biếng và tham lam. Sau khi cha mất, anh ta đã chiếm hết gia sản, chỉ để cho tôi và vợ một túp lều cũ và cây khế ngọt sau vườn. Nhưng thương anh, tôi đành cam chịu.

Năm đó, cây khế ra rất nhiều trái. Vợ chồng chúng tôi hái và đem ra chợ bán để trang trải cuộc sống. Ngờ đâu có con chim lạ từ xa bay đến, ăn hết rất nhiều trái. Thế là tôi đành ra thủ thỉ với chim về nỗi lo của mình. Thế là chim đã chở tôi ra một hòn đảo lớn để nhặt vàng làm thù lao. Nhờ số vàng đó, gia đình tôi trở nên giàu có, đủ đầy.

Anh trai thấy vậy, liền gạ tôi đổi ngôi nhà lấy cây khế. Sau đó, anh bắt chước tôi để đòi chim chở ra đảo giấu vàng. Ngờ đâu, do tham lam, nhặt quá nhiều vàng nên chim không chở nổi, lại gặp gió bão nên anh rơi xuống biển rộng. Những điều ấy, là do chim trở về kể với tôi.

Biết tin, tôi buồn lắm. Tất cả cũng là do thói tham lam của anh ấy mà ra. Vậy nên, các bạn nhớ là không được có tính tham lam như vậy nhé.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 49

Tôi tên là Sơn Tinh, một vị thần đến từ vùng núi Tản Viên. Từ khi sinh ra, tôi đã có tài dời non lấp bể.

Năm đó, Vua Hùng mở hội kén rể cho con gái là Mị Nương. Thấy nàng xinh đẹp lại dịu hiền, tôi liền đến xin cưới về làm vợ. Vượt qua nhiều đối thủ, tôi gặp một người ngang tài ngang sức là Thủy Tinh – một vị thần có tài hô mưa gọi gió. Cuối cùng, chúng tôi đã quyết đấu với nhau bằng việc chuẩn bị sính lễ. Và tôi là người đã chiến thắng trong thử thách này.

Cưới được Mị Nương, tôi vui lắm, vội dẫn nàng về núi Tản Viên. Ngờ đâu Sơn Tinh thua cuộc lại tức giận dẫn quân đuổi theo tấn công tôi. Hắn dâng nước, gọi mưa, nhấn chìm cả thành Phong Châu. Tôi đã cố hết sức mình dựng thành lũy, nâng núi lên cao để chắn nước. Sau bao ngày dằng co, tôi đã dành chiến thắng. Người dân được trở lại cuộc sống bình yên.

Tuy thua cuộc nhưng Thủy Tinh vẫn không cam lòng. Từ đó, năm nào hắn cũng dâng nước để đánh ta nhưng chẳng lần nào thắng được cả.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 50

Chào các bạn, tôi là Thạch Sanh. Từ nhỏ, tôi đã mất cha và mẹ, sống một mình dưới gốc đa. Hằng ngày, tôi cầm rìu lên núi chặt củi kiếm sống qua ngày.

Một hôm, có người hàng rượu tên là Lý Thông đến mời tôi kết nghĩa huynh đệ. Tôi mừng rỡ đồng ý ngay. Sau đó, tôi chuyển đến nhà Lý Thông, giúp hắn làm hết những việc nặng nhọc trong quán rượu. Rồi còn thay hắn đi nộp mạng cho chằn tinh. May mà tôi có tài nghệ cao cường mới tiêu diệt được nó. Thế nhưng, Lý Thông đã cướp công của tôi để được rất nhiều vàng bạc, còn tôi thì lại trở về bên túp lều cũ.

Một lần đi xem hội, tình cờ tôi thấy công chúa bị đại bàng tinh bắt đi nên đã lần đến hang ổ của nó. Tôi đã liều mình xuống hang tiêu diệt đại bàng tinh và cứu công chúa, nhưng lần nữa lại bị Lý Thông cướp công. Hắn còn bịt cửa hang hòng giết tôi bịt miệng. Nhưng ngờ đâu, trong lúc tìm lối thoát, tôi đã cứu được con trai vua Thủy Tề, nên được trở về nhà bình an và nhận được cây đàn thần.

Nhờ cây đàn ấy, mà khi bị hồn chằn tinh và đại bàng tinh vu oan nhốt vào ngục, tôi đã được cứu thoát. Bởi tiếng đàn của ta đã vang vào cung, chữa khỏi bệnh cho công chúa. Thế nên, tôi được vua cho triệu kiến. Tại đó, tôi kể hết mọi chuyện, được vua ban thưởng cho cưới công chúa. Còn mẹ con Lý Thông thì bị trừng trị.

Hay tin công chúa cưới tôi, hoàng tử các nước chư hầu mang quân sang đánh. Nhưng tôi đã dùng niêu cơm thần để chiến thắng thử thách với quân chư hầu. Lại dùng tiếng đàn thần để gợi lên nỗi nhớ quê hương trong lòng binh lính, khiến họ buông bỏ vũ khí đầu hàng. Thế là tôi đã chiến thắng mà không cần chiến đấu.

Cuối cùng, ta được cưới công chúa. Rồi khi nhà vua qua đời, tôi nối ngôi ngài trở thành một vị minh quân.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 51

Tuần vừa rồi, em đã đọc được ở thư viện một câu chuyện cổ tích của Hàn Quốc rất hay và ý nghĩa. Đó là câu chuyện Non-bu và Heng-bu.

Câu chuyện kể về hai người anh em trai có tính cách trái ngược nhau. Người anh Non-bu tham lam, xấu xa bao nhiêu, thì người em Heng-bu hiền lành, tốt bụng bấy nhiêu. Một lần nọ, Heng-bu gặp một chú chim nhỏ bị gãy cánh. Cậu đã chăm sóc chú chim đến khi chú khỏi bệnh mới thả chú rời đi. Sau này, chú chim nhỏ đã trả ơn Heng-bu bằng một hạt bầu thần. Hạt bầu ấy mọc thành cây, cho ra rất nhiều quả bầu bên trong chứa đầy vàng bạc châu báu. Thấy em trở nên giàu có, Non-bu nảy lòng tham, nên quyết làm theo. Nhưng thay vì chờ đợi, thì hắn đã bẻ gãy cánh một chú chim nhỏ rồi giả vờ chăm sóc chú, hòng bắt chim phải đền ơn. Thế là, chú chim ấy thực sự quay lại cho Non-bu một hạt bầu thần. Nhưng những quả bầu ấy lại đem đến những tên côn đồ và tên cướp xấu xa. Bọn chúng đánh Non-bu bầm dập và cướp hết của cải của hắn. Thật đáng đời.

Từ hai nhân vật Non-bu và Heng-bu, câu chuyện đã gửi gắm đến chúng ta bài học về việc ở hiền gặp lành. Từ đó, nhắn nhủ chúng ta phải giữ một tâm hồn lương thiện và không được tham lam, bắt nạt người khác.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 52

Truyện cổ tích Tấm Cám là một câu chuyện có từ rất lâu, và đã đồng hành với biết bao thế hệ trẻ em Việt Nam ta.

Câu chuyện xoay quanh cuộc đời của nhân vật chính là cô Tấm dịu dàng, nết na. Cô Tấm mồ côi mẹ từ sớm. Cha sau khi đi bước nữa không lâu thì qua đời, dể cô sống một mình với bà dì ghẻ và người con riêng của bà là Cám. Biết bao đau khổ của đời Tấm đều do hai mẹ con độc ác này gây nên.

Suốt những năm tháng tuổi thơ đến khi lớn lên, Tấm bị dì ghẻ bắt làm việc quần quật suốt ngày, lại chịu cảnh mắng nhiếc, thiếu thốn đủ đường. Một lần, dì ta lấy chiếc yếm đào mới để tổ chức cho Tấm và Cám thi mò cua bắt ốc. Dĩ nhiên với tính chăm chỉ của mình, phần hơn sẽ phải nghiêng về Tấm. Ngờ đâu Cám gian xảo đã bày mưu lừa Tấm đi gội đầu sạch sẽ, để cướp giỏ tôm cua về nhà trước. Chờ Tấm lên bờ thì trong giỏ chỉ còn mỗi con cá bống nhỏ xíu. Tấm bật khóc nức nở, thì ông Bụt hiện lên và dặn dò cô mang cá bống về nuôi.

Tấm nuôi cá trong cái giếng sau nhà. Hôm nào cũng mang cơm ra cho cá ăn, và hát bài hát riêng của mình thì bống mới ngoi lên. Ngờ đâu, mụ dì ghẻ độc ác đã rình mò và nghĩ ra kế xấu. Mụ ta lừa Tấm đi chăn trâu ở đồng xa, rồi ở nhà bắt chước Tấm gọi cá bống lên và ăn thịt. Ăn xong, mụ chôn xương cá ở góc bếp. Chờ đến lúc Tấm về nhà, mang cơm ra giếng, gọi bống lên thì chỉ còn cục máu đỏ tươi mà thôi. Buồn bã, Tấm bật khóc nức nở. Ông Bụt lại hiện lên, chỉ cho Tấm lấy nắm thóc cho gà ăn, để nó bới đất tìm xương cá bống cho. Rồi ông dặn Tấm chôn xương vào bốn chiếc bình, đặt ở chân giường.

Ít lâu sau, nhà vua mở hội tuyển vợ, con gái khắp nơi xúng xính váy áo để đi trảy hội. Tấm cũng hớn hở theo. Cô xin dì ghẻ cho được đi trảy hội. Ngờ đâu, bà ta bắt cô phải nhặt hết một đống đầy hạt gạo, hạt đỗ lẫn vào nhau xong mới được đi hội. Đau khổ, lần nữa Tấm lại òa khóc. Ông Bụt lại hiện lên lần nữa, gọi đàn chim sẻ đến giúp Tấm. Nhờ vậy, cô nhanh chóng hoàn thành xong công việc dì ghẻ giao. Nhưng bây giờ, cô lấy gì mặc để đi hội, khi cô chỉ toàn những bộ trang phục cũ rích? Thấy cô băn khoăn, ông Bụt bảo cô lấy những chiếc bình ở chân giường lên. Chao ôi, bên trong là bộ váy và đôi hài lộng lẫy. Mặc lên, Tấm đẹp như một nàng công chúa vậy.

Có váy áo, Tấm cảm ơn ông Bụt rồi hớn hở đến hội. Lúc đi qua sông, cô đánh rơi một bên giày xuống nước. Người đến hội đông quá, cô không sao xuống tìm giày được. Đúng lúc đó, voi của vua đi ngang qua, vướng chiếc giày nên mãi chẳng chịu đi. Vua cho lính xuống mò lên, ngắm đôi giày một lát, vua ra chỉ: Ai đi vừa chiếc giày ấy, sẽ được làm vợ vua. Biết bao cô gái đến thử vận may, nhưng chẳng ai vừa cả. Đến lượt Tấm, cô vừa đi thử là vừa ngay như in. Thế là Tấm trở thành hoàng hậu.

Tuy trở thành vợ vua, nhưng cô Tấm vẫn giữ nguyên những đức tính chăm chỉ ngày nào. Năm đó, đến giỗ cha, cô xin vua được trở về quê lo giỗ. Về nhà, cô tự tay mình chuẩn bị một mâm cũng tươm tất để thờ cha. Đến lúc sau, mụ dì ghẻ nhờ Tấm trèo lên cây hái buồng cau. Rồi nhân lúc cô ở trên cau thì chặt gốc, khiến cô ngã xuống ao rồi qua đời.

Nhờ phép lạ, Tấm không chết mà hóa thành vàng anh bay vào cung vua. Vua quý vàng anh lắm, đi đâu cũng mang theo. Điều này khiến Cám – kẻ mặc áo của Tấm vào cung để thay chị hầu vua ghen tức vô cùng. Nhân một hôm vua đi vắng, Cám bắt chim ăn thịt, rồi vứt lông chim ở góc vườn. Từ đống lông chim ấy, mọc lên một cây xoan cao lớn xum xuê lạ thường. Ở dưới bóng mát của cây, vua cảm thấy rất thoải mái, nên cho lính mắc võng dưới cây rồi thường xuyên ra đó nghỉ ngơi. Ghen tức với cây xoan, chờ vua đi tuần, Cám cho người chặt cây làm thành khung cửi. Nhưng mỗi lần Cám dệt vải, khung cửi lại kêu lên kẽo cà kẽo kẹt những tiếng chửi mắng đáng sợ khiến cô ta khiếp vía. Nên cô ta cho người đốt khung cửi thành tro, rồi đem ra đổ ở ngã tư thật xa cung vua.

Cám cứ tưởng thế là xong nên hả hê lắm. Ngờ đâu từ đống tro ấy, mọc lên một cây thị to lớn, rồi cây cho ra một quả thị duy nhất, tỏa hương thơm ngát. Có bà bán nước ở gốc cây thấy vậy đã xin cây cho lấy trái thị về nhà để ngửi, và hứa là không ăn quả. Thế là quả thị rớt vào bị của bà. Từ hôm đó, chờ bà cụ đi vắng, cô Tấm từ trong quả thị bước ra, giúp bà việc nhà, cơm nước. Bà cụ thấy lạ, nên rình xem và phát hiện ra cô. Bà đã ôm chầm lấy Tấm và xin được nhận cô làm con nuôi. Từ đó, hai người trở thành mẹ con của nhau.

Một hôm, nhà vua đi tuần về, nghỉ chân ở quán nước của bà cụ. Nhìn những miếng trầu cánh phượng hệt như vợ têm, vua liền mời người têm trầu ra gặp mặt. Khi nhìn thấy nhau, hai người mừng mừng tủi tủi, ôm chầm lấy nhau trọng hạnh phúc. Sau đó, Tấm theo vua về cung, chung sống hạnh phúc. Còn mẹ con Cám thì bị đuổi đi biệt xứ, không bao giờ trở về nữa. Thật xứng đáng cho hai kẻ độc ác.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 53

Ta tên là Mai An Tiêm. Ta từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, lại được nhà vua nuôi lớn, hết mực tin tưởng, nên đã rất kiêu căng. Một lần, ta buông lời chưa đúng mực, nên bị vua đày ra đảo hoang.

Ra đảo hoang, ta vô cùng hối hận, vì đã khiến cả gia đình phải cùng chịu khổ. Tại đó, ta đã ra sức dựng nhà, trồng trọt để sống sót. Một hôm, ta nhìn thấy mấy chú chim đang tranh nhau ăn một quả gì đó màu xanh, ruột đỏ. Ta liền chạy lại lấy nếm thử, thấy rất ngon nên đã lấy hạt đem trồng.

Mấy tháng sau, trên bờ cát mọc đầy dây leo màu xanh với các quả lớn tròn. Khi quả chín, bổ ra bên trong đỏ tươi, ăn giòn lại ngọt. Ta đem loại quả ấy bán cho các thuyền buôn đi ngang qua, đổi lấy gạo thịt, vải vóc. Nhờ vậy cuộc sống trở nên đủ đầy.

Tiếng tăm của ta và loại quả ngon kia ngày càng lan xa. Nhà vua biết được ta có khả năng tự gây dựng cơ nghiệp, nên đã công nhận khả năng của ta. Cho mời lại về triều đình để cống hiến cho đất nước. Loại quả mà ta trồng ra được đặt tên là dưa hấu và trồng rộng rãi khắp đất nước ta.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 54

Tôi là bạn nhỏ trong câu chuyện Sự tích bông hoa cúc trắng. Từ nhỏ, tôi đã sống cùng với mẹ. Hai mẹ con tôi yêu thương nhau lắm.

Một ngày nọ, mẹ của tôi trở bệnh nặng, bao nhiêu thầy thuốc cũng không chữa khỏi. Tôi buồn lắm. Khi tôi đang buồn bã vừa đi vừa khóc, thì được một ông lão chỉ cho phương thuốc quý là bông hoa trắng ở bên cây cổ thụ trong rừng sâu.

Trèo đèo, lội suối, gặp bao vất vả, nguy hiểm, cuối cùng tôi cũng tìm thấy cây hoa đó. Nhưng nhìn thấy nó chỉ có vài cánh nhỏ, nghĩa là mẹ tôi dùng thuốc xong chỉ còn sống thêm vài ngày. Tôi đau khổ ngồi khóc nức nở. Nhưng không cam lòng, tôi cố nghĩ ra cách khác. Và cuối cùng, tôi đã tìm ra cách mới, đó là xé nhỏ các cánh hoa ra. Cuối cùng tôi đã có một đóa hoa có rất nhiều cánh nhỏ.

Mang hoa về nhà, tôi liền nhìn thấy mẹ đã khỏe mạnh đứng ở cửa, tươi cười chào đón. Tôi liền biết rằng phép màu đã trở thành hiện thực. Từ đó về sau, loài hoa màu trắng có nhiều cánh nhỏ như tôi mang về mọc ở khắp nơi. Và được gọi là hoa cúc trắng.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 55

Tôi là một chú chim lớn sinh sống ở hòn đảo xa trên biển. Nơi tôi sống có rất nhiều đá quý và vàng bạc, châu báu.

Một ngày nọ, khi đang đi chơi, tôi phát hiện một cây khế ngọt rất sai quả. Sà xuống ăn thử, thấy rất ngon, nên hôm nào tôi cũng đến ăn. Một hôm, tôi nhìn thấy người trồng cây tiến lại gần và buồn bã tâm sự. Thì ra anh ta có một người anh trai tham lam. Sau khi cha mất đã cướp hết tài sản, chỉ cho anh ta một túp lều nhỏ và cây khế này. Chăm bón mãi mới đến mùa quả để bán lấy tiền. Nghe kể, tôi thương lắm, nên đã chở anh ta ra đảo của mình để nhặt vàng về trang trải cuộc sống. Mà tôi cũng yên tâm ăn quả.

Mấy hôm sau, chủ cây khế lại đổi thành anh trai tham lam. Nhưng thấy anh ta kể lể công chăm cây, tôi vẫn chở anh ta ra đảo giấu vàng. Nào ngờ, hắn mang theo cái túi những mười hai gang, rồi còn nhét vàng vào túi áo nên nặng lắm. Tôi mãi mới bay lên được, thì lại gặp gió bão, rớt xuống biển. May là tôi vùng cánh bay lên trời lại còn tên tham lam kia thì bị cuốn trôi đi mất.

Thật đáng đời một kẻ tham lam.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 56

Trong những câu chuyện cổ tích Việt Nam, thì Sọ Dừa là một trong những câu chuyện hay và ấn tượng nhất mà em được biết.

Câu chuyện kể về cuộc đời với nhiều điều kì lạ của Sọ Dừa. Mẹ chàng nhờ uống nước trong một cái sọ dừa mà mang thai rồi sinh ra chàng. Khi mới sinh ra, chàng có hình dáng kì lạ, mình tròn lông lốc như trái dừa, nên mới được mẹ đặt tên cho là Sọ Dừa.

Tuy bề ngoài kì lạ, nhưng Sọ Dừa rất yêu thương mẹ và ngoan ngoãn. Chàng chủ động xin được đi chăn bò cho phú ông để đỡ đần cho mẹ. Nhờ tài thổi sáo, chàng không chỉ chăn đàn bò không mất con nào, mà còn khiến chúng béo tốt, mũm mĩm. Trong quá trình đó, cô út hiền lành đã phải lòng chàng sau nhiều lần đi đưa cơm.

Thế là, Sọ Dừa nhờ mẹ sang nhà phú ông hỏi vợ cho mình. Điều bất ngờ, là chàng đã chuẩn bị đầy đủ những sính lễ mà phú ông yêu cầu, để cưới được con gái ông ta. Đến ngày, điều ngạc nhiên hơn nữa đã xảy ra, khi Sọ Dừa tổ chức đám tiệc linh đình, với kẻ hầu người hạ tấp nập. Còn chàng thì trở về lốt người, khôi ngô tuấn tú.

Sau khi kết hôn, Sọ Dừa chăm chỉ dùi mài kinh sử và thi đỗ trạng nguyên. Ít lâu sau, chàng còn vinh dự được nhà vua tin tưởng, cử đi sứ. Điều này khiến cho hai cô chị của vợ chàng ghen ăn tức ở, quyết hãm hại em. Hai ả ta mời cô em gái đi chơi thuyền, rồi đẩy em xuống sông, nhằm cướp chồng. Nhưng may thay, nhờ những đồ vật mà Sọ Dừa trước khi đi dặn luôn mang theo, mà cô út sống sót trên hoang đảo. Rồi một ngày, tàu của quan trạng đi qua, gặp được vợ và đón về nhà.

Cuối cùng, người tốt như Sọ Dừa và cô út được sống hạnh phúc bên nhau. Còn kẻ xấu xa, nham hiểm như hai cô chị, thì phải bỏ đi biệt xứ. Đó cũng chính là ước mơ của nhân dân ta ngày xưa, về một xã hội công bằng, hạnh phúc.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 57

Ngày xưa, có hai vợ chồng một lão nông nghèo đi ở cho nhà một phú ông. Họ hiền lành, chăm chỉ nhưng đã ngoài năm mươi tuổi mà chưa có lấy một mụn con.

Một hôm, người vợ vào rừng lấy củi. Trời nắng to, khát nước quá, thấy cái sọ dừa bên gốc cây to đựng đầy nước mưa, bà bèn bưng lên uống. Thế rồi, về nhà, bà có mang.

Ít lâu sau, người chồng mất. Bà sinh ra một đứa con không có chân tay, mình mẩy cứ tròn lông lốc như một quả dừa. Bà buồn, toan vứt nó đi thì đứa bé lên tiếng bảo.

– Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp. Bà lão thương tình để lại nuôi rồi đặt tên cho cậu là Sọ Dừa.

Lớn lên, Sọ Dừa vẫn thế, cứ lăn lông lốc chẳng làm được việc gì. Bà mẹ lấy làm phiền lòng lắm. Sọ Dừa biết vậy bèn xin mẹ đến chăn bò cho nhà phú ông.

Nghe nói đến Sọ Dừa, phú ông ngần ngại. Nhưng nghĩ: nuôi nó thì ít tốn cơm, công sá lại chẳng đáng là bao, phú ông đồng ý. Chẳng ngờ cậu chăn bò rất giỏi. Ngày ngày, cậu lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về nhà. Cả đàn bò, con nào con nấy cứ no căng. Phú ông lấy làm mừng lắm!

Vào ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Trong những lần như thế, hai cô chị kiêu kì, ác nghiệt thường hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có cô em vốn tính thương người là đối đãi với Sọ Dừa tử tế.

Một hôm đến phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Mới đến chân núi, cô bỗng nghe thấy tiếng sáo véo von. Rón rén bước lên cô nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi trên chiếc võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Thế nhưng vừa mới đứng lên, tất cả đã biến mất tăm, chỉ thấy Sọ Dừa nằm lăn lóc ở đấy. Nhiều lần như vậy, cô út biết Sọ Dừa không phải người thường, bèn đem lòng yêu quý.

Đến cuối mùa ở thuê, Sọ Dừa về nhà giục mẹ đến hỏi con gái phú ông về làm vợ. Bà lão thấy vậy tỏ ra vô cùng sửng sốt, nhưng thấy con năn nỉ mãi, bà cũng chiều lòng.

Thấy mẹ Sọ Dừa mang cau đến dạm, phú ông cười mỉa mai:

– Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.

Bà lão đành ra về, nghĩ là phải thôi hẳn việc lấy vợ cho con. Chẳng ngờ, đúng ngày hẹn, bỗng dưng trong nhà có đầy đủ mọi sính lễ, lại có ca gia nhân ở dưới nhà chạy lên khiêng lễ vật sang nhà của phú ông. Phú ông hoa cả mắt lúng túng gọi ba cô con gái ra hỏi ý. Hai cô chị bĩu môi chê bai Sọ Dừa xấu xí rồi ngúng nguẩy đi vào, chỉ có cô út là cúi đầu e lệ tỏ ý bằng lòng.

Trong ngày cưới, Sọ Dừa cho bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập. Lúc rước dâu, chẳng ai thấy Sọ Dừa trọc lốc, xấu xí đâu chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Mọi người thấy vậy đều cảm thấy sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc lại vừa ghen tức.

Từ ngày ấy, hai vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau rất hạnh phúc. Không những thế, Sọ Dừa còn tỏ ra rất thông minh. Chàng ngày đêm miệt mài đèn sách và quả nhiên năm ấy, Sọ Dừa đỗ trạng nguyên. Thế nhưng cũng lại chẳng bao lâu sau, Sọ Dừa được vua sai đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà nói là để hộ thân.

Ganh tị với cô em, hai cô chị sinh lòng ghen ghét rắp tâm hại em để thay làm bà trạng. Nhân quan trạng đi vắng, hai chị sang rủ cô út chèo thuyền ra biển rồi cứ thế lừa đẩy cô em xuống nước. Cô út bị cá kình nuốt chửng, nhưng may có con dao mà thoát chết. Cô dạt vào một hòn đảo, lây dao khoét bụng cá chui ra, đánh đá lấy lửa nướng thịt cá ăn. Sống được ít ngày trên đảo, cặp gà cũng kịp nở thành một đôi gà đẹp để làm bạn cùng cô út.

Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy bèn gáy to:

Ò… ó… o

Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.

Quan cho thuyền vào xem, chẳng ngờ đó chính là vợ mình. Hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Đưa vợ về nhà, quan trạng mở tiệc mừng mời bà con đến chia vui, nhưng lại giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai cô chị thấy thế khấp khởi mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em rủi ro ra chiều thương tiếc lắm. Quan trạng không nói gì, tiệc xong mới cho gọi vợ ra. Hai cô chị nhìn thấy cô em thì xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ đi biệt xứ.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 58

Gia đình tôi có hai anh em, cha mẹ chết sớm nên tôi chỉ còn biết nương tựa vào anh trai. Nhưng không lâu sau anh trai cũng phải lấy vợ, cô vợ đã xui anh tôi phân chia gia tài, mọi thứ đều là của anh chị còn tôi chỉ có một khoảnh vườn và cây khế.

Đến mùa khế, cây khế sai trĩu quả, tôi mừng thầm vì có thể đem khế đi bán kiếm đồng mua gạo mua rau. Thế nhưng bỗng dưng lại có com chim đen ở đâu bay đến, nó cứ đậu trên cây mà mổ khế rồi ăn, ăn hết quả này lại đến quả khác, tôi thấy xót ruột bèn nói với chim “Chim ơi, có ăn chỉ ăn một hai quả thôi, chứ ăn nhiều thế khế đâu tôi bán”. Ai ngờ chim kia lại biết nói tiếng người, còn bảo tôi rằng “Ăn một quả khế, trả một cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng”.

Hôm sau chim bay đến chở tôi ra một hòn đảo hoang, ở đây rất nhiều vàng bạc châu báu, thế nhưng tôi chỉ lấy đủ số vàng bằng số quả khế chim đã ăn. Lấy xong chim lại chở tôi bay về nhà, từ đó tôi trở nên giàu sang. Anh chị tôi biết chuyện, khăng khăng muốn đổi toàn bộ gia tài chỉ để lấy cây khế, tôi không nghĩ ngợi nhiều liền đồng ý. Ai ngờ, chim cũng đến ăn khế, bảo may túi ba gang trả vàng nhưng anh tôi may túi mười gang. Đến khi ra đảo lấy vàng vì anh tôi lấy quá nhiều, vàng quá nặng chim không thể bay nổi nên đã ngã và rơi xuống biển sâu.

Từ ngày anh tôi chết tôi vẫn luôn buồn phiền, nhưng thiết nghĩ cũng tại anh tôi quá tham lam nên mới ra nông nỗi này.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 59

Trong các câu chuyện cổ tích mà em đã từng được đọc, thì câu chuyện em thích nhất chính là truyện cổ tích Thạch Sanh.

Câu chuyện kể về cuộc đời của Thạch Sanh – một chàng trai dũng cảm, tốt bụng và tài năng. Chàng vốn là thái tử ở trên thiên đình, được Ngọc Hoàng phái xuống làm con của hai vợ chồng già tốt bụng. Cha chàng qua đời trước khi chàng được sinh ra. Mấy năm sau, mẹ chàng cũng qua đời. Để lại Thạch Sanh sống cánh tứ cố vô thân, lủi thủi trong một túp lều cũ dựng dưới gốc đa. Cả gia tài của chàng là một lưỡi búa của cha để lại. Năm chàng biết dùng búa, Ngọc Hoàng sai thiên thần xuống dạy cho chàng đủ các môn võ nghệ và mọi phép thần thông.

Thạch Sanh là người luôn khát khao mái ấm gia đình. Vì vậy, chàng đã bị Lý Thông lừa gạt, đến sống chung và làm lụng giúp đỡ mẹ con nhà hắn. Sau này, chàng còn bị Lý Thông lừa đến miếu thờ nộp mạng cho chằn tinh thay hắn. May mắn nhờ có võ nghệ và phép thần thông, Thạch Sanh đã giết chết và chặt đầu chằn tinh mang về. Lần này, chàng lại bị Lý Thông lừa gạt cướp công giết chằn tinh, còn bản thân thì lại trở về lủi thủi một mình dưới gốc đa.

Sau này, trong một lần tình cờ, chàng nhìn con đại bàng tinh đang bắt một cô gái bay ngang qua. Thế là Thạch Sanh liền bắn bị thương cánh của đại bàng, rồi lần theo vết máu mà đuổi tới hang của đại bàng, nhằm tìm cách cứu cô gái. Tuy biết được hang ổ của đại bàng, nhưng Thạch Sanh vẫn chưa tìm ra cách cứu cô gái vì cái hang quá sâu, một mình chàng thì không đưa cô gái lên được. Đúng lúc đó, chàng gặp lại Lý Thông, một lần nữa hắn lại tìm cách lừa chàng. Thì ra, cô gái đó chính là công chúa, và nhà vua đã ra lệnh rằng, nếu ai cứu được công chúa sẽ được cưới nàng và nối ngôi vua. Thạch Sanh không chút nghi ngờ, lập tức dẫn Lý Thông và quân lính đến hang đại bàng. Chàng chủ động nhảy xuống đưa công chúa lên trước. Đến lượt chàng, Lý Thông sai quân lính lấp cửa hang lại. Đến lúc này chàng mới nhận ra bộ mặt độc ác, xảo trá của hắn.

Cửa hang bị lấp lại, Thạch Sanh cố tìm cách ra ngoài bằng một lối đi khác. Trong quá trình đó, chàng gặp mặt và cứu thoát con trai vua Thủy Tề khỏi cũi sắt. Sau đó, chàng được mời xuống thủy cung và được vua thủy tề tạ ơn hậu hĩnh. Thế nhưng với tính cách thật thà, chàng chỉ xin nhận một cây đàn rồi lại trở về túp lều cũ dưới gốc đa.

Trở về nhà, chàng lại tiếp tục cuộc sống như xưa. Ngày ngày, sau khi làm việc mệt mỏi thì chàng lại lấy cây đàn ra để giải khuây. Tiếng đàn của chàng vẳng đến cung công chúa, khiến nàng bật cười vui vẻ. Thì ra từ lúc được cứu ra khỏi hang đại bàng, công chúa lúc nào cũng ủ rũ, buồn bã. Thấy vậy, nhà vua liền cho mời Thạch Sanh vào cung để truy hỏi cho rõ ràng. Đến nơi, Thạch Sanh kể rõ sự tình cho mọi người. Đến đây, sự thật được phơi bày. Mẹ con Lý Thông bị đem ra xử phạt, còn Thạch Sanh trở thành phò mã. Thế nhưng với lòng thương người, chàng đã tha cho mẹ con Lý Thông và để họ về quê. Nhưng trên đường về họ bị sét đánh trúng và biến thành bọ hung.

Sau khi đám cưới của Thạch Sanh và công chúa diễn ra thì hoàng tử các nước chư hầu đem quân sang tấn công nước ta vì ganh ghét. Thạch Sanh đã xin nhà vua cho mình được ứng chiến. Đến nơi, chàng dùng tiếng đàn để làm quân địch bủn rủn tay chân, không nghĩ suy gì về việc chiến đấu. Sau đó, chàng dùng niêu cơm thần ăn mãi không hết khiến cho quân lính các nước chịu thua. Vì không ai có thể ăn hết cơm được. Do đó, quân của các nước chư hầu buộc phải rút về. Sau này, Thạch Sanh nối ngôi vua, trở thành một vị hoàng đế.

Câu chuyện vô cùng hay và hấp dẫn em không chỉ vì nó có nhiều chi tiết kì ảo thú vị. mà còn bởi vì trong nó, chứa đựng những ước mơ, niềm tin của nhân dân về cái thiện, cái chính sẽ luôn thắng cái ác, cái tà. Đây là một tư tưởng vô cùng tốt đẹp, cần được giữ gìn và phát huy.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 60

“Thạch Sanh” là một truyện rất hay mà em luôn nhớ đến bây giờ. Câu chuyện này đã được cô giáo em kể thật hấp dẫn vào cuối tiết học như sau đây.

Ngày xưa, có hai vợ chồng tuổi già mà chưa có con. Thấy họ tốt bụng, hay giúp mọi người, Ngọc Hoàng bèn sai Thái tử xuống đầu thai làm con. Từ đó, người vợ có mang nhưng đã qua mấy năm mà không sinh nở. Rồi người chồng lâm bệnh mà mất. Mãi về sau người vợ mới sinh được một cậu con trai.

Khi cậu bé vừa khôn lớn thì mẹ chết. Cậu sống lủi thủi trong túp lều cũ dựng dưới gốc da, cả gia tài chỉ có một lưỡi búa của cha để lại. Người ta gọi cậu là Thạch Sanh.

Một hôm, có người hàng rượu tên là Lý Thông. Lý Thông gạ cùng Thạch Sanh kết nghĩa anh em để lợi dụng. Thạch Sanh vui vẻ nhận lời và đến sống chung với mẹ con Lý Thông.

Bấy giờ trong vùng có con chằn tinh có nhiều phép lạ thường ăn thịt người. Quan quân không làm gì được, dân làng hàng năm phải nộp một người cho chằn tinh.

Năm ấy, đến lượt Lý Thông nộp mình. Mẹ con hắn nghĩ kế lừa Thạch Sanh đi canh miếu để chết thay. Thạch Sanh thật thà, nhận lời đi ngay. Nửa đêm, chằn tinh hiện ra. Thạch Sanh dùng búa chém chết chằn tinh. Chàng chặt đầu chằn tinh và lấy được một bộ cung tên bằng vàng mang về nhà. Mẹ con Lý Thông lúc đầu hoảng sợ vô cùng, nhưng sau đó Lý Thông nảy ra một kế dụ Thạch Sanh trốn đi vì đã chém chết con trăn của vua nuôi đã lâu.

Thạch Sanh lại thật thà tin ngay. Chàng từ giã mẹ con Lý Thông, trở về dưới gốc đa. Còn Lý Thông hí hửng đem đầu con yêu quái vào kinh đô nộp cho vua. Hắn được vua khen và phong cho làm Quận công.

Năm ấy, vua mở hội lớn để chọn chồng cho công chúa nhưng không may nàng bị con đại bàng khổng lồ quắp đi. Đại bàng bay qua túp lều của Thạch Sanh và bị chàng dùng tên vàng bắn bị thương. Thạch Sanh lần theo dấu máu, tìm được chỗ ở của đại bàng.

Từ ngày công chúa bị mất tích, vua vô cùng đau khổ, hứa gả công chúa và truyền ngôi cho ai tìm được công chúa. Lý Thông tìm gặp lại Thạch Sanh và được chàng cho biết chỗ ở của đại bàng. Thạch Sanh xuống hang để cứu công chúa. Chàng giết chết con quái vật rồi lấy dây buộc vào người công chúa, ra hiệu cho Lý Thông kéo lên. Không ngờ, sau đó Lý Thông ra lệnh cho quân sĩ dùng đá lấp kín cửa hang lại. Thạch Sanh tìm lối ra và tình cờ cứu được con trai vua Thủy Tề. Chàng được vua Thủy Tề tặng cho cây đàn.

Hồn chằn tinh và đại bàng gặp nhau tìm cách báo thù. Chúng ăn trộm của cải trong kho nhà vua, đem tới giấu ở gốc đa để vu vạ cho chàng. Thạch Sanh bị bắt hạ ngục.

Lại nói chuyện nàng công chúa từ khi về cung, trở nên buồn rầu, chẳng nói chẳng cười. Bao nhiêu thầy thuốc giỏi cũng không chữa được. Một hôm, khi nghe tiếng đàn vẳng ra từ trong ngục, công chúa bỗng cười nói vui vẻ. Nhà vua lấy làm lạ, gọi Thạch Sanh đên. Chàng kể hết sự tình. Vua sai bắt hai mẹ con Lý Thông giao cho Thạch Sanh xét xử. Chàng không giết mà cho chúng về quê làm ăn. Giữa đường, chúng bị sét đánh chết, hóa kiếp thành bọ hung.

Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh. Hoàng tử các nước chư hầu đến cầu hôn không được, liền tức giận họp binh lính cả mười tám nước kéo sang đánh. Thạch Sanh lấy cây đàn ra gảy. Binh lính mười tám nước bủn rủn tay chân, không đánh nhau được nữa, các hoàng tử phải cởi giáp xin hàng. Thạch Sanh thết đãi những kẻ thua trận bằng một niêu cơm tí xíu. Quân sĩ mười tám nước ăn mãi mà không hết. Bọn chúng bái phục và kéo nhau về nước.

Về sau, vua nhường ngôi cho Thạch Sanh.

Càng nghe câu chuyện, em càng yêu quý tính tình hiền lành, tốt bụng của Thạch Sanh và càng căm ghét những kẻ vong ân bội nghĩa như mẹ con Lý Thông. Em tự hứa với lòng là sẽ noi theo tấm gương tốt để trở thành người có ích cho xã hội vì em hiểu được ý nghĩa sâu xa của truyện cổ tích này là ở hiền gặp lành” và “ác giả ác báo”.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 61

Tôi là một người anh cả trong gia đình, cha mẹ tôi chết sớm, tôi sống cùng em trai. Được một thời gian tôi lấy vợ, vì hoàn cảnh khó khăn lại thêm sau này phải lo cho con cái nên tôi quyết định chia gia tài. Nghĩ em trai còn sức khỏe lại một mình nên chỉ cần mảnh vườn nhỏ là được, trong mảnh vườn lại có cây khế, cứ thế mà sống.

Ấy thế mà số em tôi may mắn thật, cây khế ra quả, có con chim đến ăn lại trả một quả khế bằng một cục vàng. Em tôi đã mấy lần được chim bay đưa ra đảo lấy vàng, nhờ đó mà trở nên giàu sang, tôi thấy vậy thật dễ dàng. Về nhà tôi kể chuyện và bàn với vợ, tôi quyết định đổi hết gia tài đang có chỉ để lấy cây khế, rồi sẽ lấy vàng do chim ăn khế trả mà không phải lo nghĩ làm ăn.

Em tôi cũng là người hiếu thảo, đồng ý đổi cho tôi. Hôm đó chim đến ăn khế như mọi khi, cũng bảo tôi may túi ba gang đi đựng vàng, tôi mừng lắm, không nghĩ nhiều liền may chiếc túi thật to để đựng được nhiều. Chim bay chở tôi ra chỗ đảo nhặt vàng, tôi nhặt đầy túi to, còn nhét thêm vào người. Ai ngờ vì vàng nặng quá, mãi sau chim mới cất cánh bay lên được. Đang bay thì bị cơn gió mạnh thổi làm chao liệng vài vòng, tôi vì ôm quá nhiều vàng không bám chắc nên đã bị ngã vào không trung rồi rơi xuống biển.

Thế là tôi đã mất tất cả, mất cả mạng sống của mình chỉ vì lòng tham.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 62

Tôi xin kể cho các bạn nghe về cây khế nhà tôi. Trong vườn nhà tôi có một cây khế, nó đã mọc ở đó nhiều năm. Từ lúc cha mẹ mất, anh trai lấy vợ chỉ chia cho tôi mảnh vườn và cây khế, tôi đã xem cây khế như người bạn của mình.

Cây khế cũng không phụ lòng tôi, mùa hoa khế năm đó nó ra sai trĩu quả. Đến ngày khế đã chín vàng mọng nước trên cây, tôi định trèo lên hái vừa ăn vừa mang đi bán thì thấy có con chim bay đến. Nghĩ là đất lành chim đậu nên tôi mặc kệ nó ăn, ai ngờ nó ăn nhiều quá, tôi bèn trách “Ngươi ăn nhiều khế của ta như vậy ta lấy gì mà sống?”, chim lại bảo tôi ăn một quả khế sẽ trả một cục vàng, may túi ba gang mà đựng. Tôi vốn không tin nhưng hôm sau chim lại đến ăn, lại hót lên như thế tôi liền làm theo. Chim bay mang theo tôi cùng túi ba gang ra đảo ngoài biển, tôi nhặt vàng bỏ vào túi trong vui sướng. Dù nhiều vàng nhưng tôi chỉ nhặt đủ túi ba gang đã may sau đó lại về nhà.

Nhờ có chim ăn khế mà tôi trở nên giàu sang. Anh trai và chị dâu tôi từ khi biết chuyện lại muốn đổi toàn bộ nhà cửa, gia tài lấy cây khế của tôi. Tôi cũng muốn giúp họ làm giàu nên đồng ý. Ai ngờ chuyện đau lòng đã xảy ra, anh tôi vì quá lam tham, may túi những mười hai gang để đựng vàng, con chim không thể chở số vàng nhiều đến thế nên giữa đường đã chao đảo khiến anh tôi rơi xuống biển mà chết.

Nếu biết trước anh tôi là người có lòng tham vô đáy như thế tôi đã không đổi cây khế cho anh. Biết rằng đó là quả báo mà anh phải trả vì tham lam nhưng tôi vẫn buồn vì đã không còn người thân, giờ đây tôi có giàu sang cũng chẳng có ý nghĩa gì.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 63

Văn học Việt Nam là kho tàng của những câu ca dao tục ngữ, những câu chuyện cổ tích đã nhẹ nhàng đi vào lời ru của bà, của mẹ. “Cây khế” là một trong những truyện cổ tích gần gũi, thân quen với tuổi thơ các bạn nhỏ. Tôi chính là nhân vật Chim Thần trong truyện cổ tích đó. Hôm nay, tôi xin được kể lại câu chuyện để chúng ta cùng suy nghĩ ý nghĩa của nó.

Ngày xửa ngày xưa, có hai anh em nhà kia cha mẹ đều mất sớm. Người anh tham lam lười biếng. Người em lại hiền lành, chăm chỉ. Khi hai anh em lấy vợ chưa được bao lâu thì người anh chia gia tài. Vốn bản tính tham lam sẵn có lại cậy thế mình là anh cả hắn chiếm hết tài sản cha mẹ để lại chỉ cho người em một mảnh vườn nhỏ và cây khế ngọt. Vợ chồng người anh sống sung sướng, an nhàn trên gia tài có sẵn còn người em thì phải đi cày thuê cuốc mướn sống qua ngày. Tuy cuộc sống vất vả nhưng ngày nào người em cũng không quên tưới nước, chăm sóc cho cây khế.

Mùa khế năm ấy, cây khế trong vườn nhà người em ra hoa kết trái, cành nào cành ấy đều sai trĩu quả. Vợ chồng người em thầm nghĩ bán quả lấy tiền mua thóc gạo. Tôi vốn rất thích ăn trái cây. Một hôm, tình cờ lại bay ngang qua khu vườn của người em, thấy những quả khế chín mọng hấp dẫn, tôi vội sà xuống ăn hết trái này đến trái khác. Thấy tôi ăn khế, người em ở đâu đi đến đứng ngước mắt nhìn tôi, anh ta không đuổi tôi đi mà chỉ buồn rầu than thở với tôi:

– Chim ơi! Gia tài nhà tôi chỉ có mỗi cây khế này thôi. Chim ăn hết rồi, tôi biết lấy gì để sống?

Tôi vốn là loài chim biết trả ơn bèn đáp:

– Ăn một quả, trả một cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng.

Vợ chồng người em có vẻ bất ngờ vì tôi biết nói tiếng người. Nhưng cũng theo lời đi may một cái túi ba gang. Mấy hôm sau, theo như lời hẹn, tôi bay đến chở người em ra đảo lấy vàng. Người em thấy vàng chất đầy đảo nhưng không hề tỏ vẻ tham lam, chỉ lấy đủ một túi ba gang rồi nhờ tôi chở về nhà. Từ đó, cuộc sống người em trở nên sung túc, giàu có. Vợ chồng người em còn đem tiền và gạo giúp đỡ mọi người trong vùng.

Chuyện đến tai người anh. Người em không giấu diếm kể hết sự việc. Lòng tham nổi lên, người anh bèn gạ đổi gia tài của mình để lấy cây khế. Vợ chồng người em đồng ý, thế là anh ta chuyển về chỗ người em ở. Mùa khế ra hoa kết trái năm sau tôi lại đến ăn như lần trước.

Người anh cũng than thở với tôi y như người em. Tôi vẫn đáp:

– Ăn một quả, trả một cục vàng. May túi ba gang, mang đi mà đựng.

Anh ta vui mừng khôn xiết, nhưng hai vợ chồng người anh lại may một cái túi to đến mười hai gang. Tôi đưa anh ta đến đảo lấy vàng. Đến nơi, anh ta hoa cả mắt, hì hục nhét vàng bạc châu báu chật cứng cả cái túi mười hai gang và cố gắng nhét đầy mọi chỗ trên người mình. Lúc trở về, ì à ì ạch leo lên lại tụt xuống mãi hắn mới bò lên được lưng tôi. Nhưng vì nặng quá, tôi phải vỗ cánh đến mấy lần mới nhấc mình lên khỏi mặt đất được. Đường về nhà hắn phải bay qua biển rộng, phần vì chở quá nặng, phần vì có một luồng gió bất chợt thổi đến, tôi không giữ được thăng bằng, bèn nghiêng cánh hất hắn và cả túi vàng xuống biển sâu.

Câu chuyện qua đã lâu nhưng vẫn nhắc nhở mỗi người không nên tham lam. Tham lam sẽ nhận lại hậu quả thích đáng.

Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó- Mẫu 64

“Bống bống bang bang

Lên ăn cơm vàng, cơm bạc nhà ta

Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”

Tôi vừa cho cất tiếng gọi vừa ngó nghiêng xem Bống ở đâu. Nàng ta quẫy đuôi ngoi lên mặt nước, đớp nhanh những hạt cơm tôi vừa thả xuống. Nhìn Bống ăn, bao nhiêu mỏi mệt trong tôi tan biến hết.

Tôi là Tấm. Mẹ tôi mất sớm nên tôi sống với cha và dì. Chẳng may, cha tôi cũng bỏ tôi đi để lại tôi giữa dòng đời vất vả. Tôi có người em gái cùng cha khác mẹ, là Cám. Hằng ngày, tôi làm lụng vất vả từ thái khoai, vớt bèo, chăn trâu, gánh nước thì em Cám chỉ ăn trắng mặc trơn, suốt ngày quanh quẩn ở nhà. Nhưng chẳng thể ganh tị, tôi đành gắng làm hết công việc của mình. Tôi có được Bống là nhờ ông Bụt tóc bạc râu trắng chỉ cho. Hôm đó, dì đưa cho chị em tôi hai chiếc giỏ và hẹn, ai bắt được đầy giỏ thì thưởng cái yếm đỏ. Bấy lâu nay, tôi chỉ mặc quần áo cũ, nay nghe thấy yếm đỏ tôi mừng lắm. Ra đồng, tôi mò cua bắt ốc thật nhanh chỉ mong về nhà nhận thưởng. Lúc về, em Cám bảo tôi: “Chị Tấm ơi chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về mẹ mắng.” Tôi bèn xuống ao, lội ra chỗ sâu để tắm rửa mà nào ngờ rằng Cám ở trên bờ đã trút hết tôm cá từ giỏ tôi sang giỏ nó. Lên bờ, tôi thấy chiếc giỏ chẳng còn gì, chỉ biết ôm mặt khóc hu hu. Bỗng, Bụt hiện lên hỏi chuyện, tôi kể lể sự tình. Bụt bảo tôi nhìn xem trong giỏ còn gì nữa không. Tôi thấy một con cá bống, Bụt dặn dò tôi cách chăm sóc Bống rồi biến mất.

Từ đó, tôi có Bống làm bạn. Nhưng cũng không thể ngờ, mẹ con dì ghẻ đã tìm cách ăn thịt nó. Khi đi chăn trâu về, tôi không thấy Bống ngoi lên mặt nước nữa, chỉ thấy một cục máu nổi lên. Tôi lại òa khóc. Như nghe thấy tiếng khóc, Bụt lại hiện lên bảo tôi tìm xương Bống, bỏ vào lọ và chôn dưới chân giường. Tôi làm theo lời Bụt dặn.

Ít lâu sau, nhà vua mở hội trong mấy ngày đêm. Ai ai cũng nô nức đi trẩy hội. Mẹ con dì ghẻ cũng xúng xính quần là áo lượt để đi xem. Thấy tôi muốn đi, mụ dì ghẻ trộn một đấu thóc với một đấu gạo, bảo tôi nhặt hết mới được đi. Khi hai mẹ con dì đã đi, tôi thấy tủi hờn nên òa khóc. Bụt lại hiện lên hỏi chuyện rồi nhờ đàn chim sẻ sà xuống nhặt giúp. Bụt bảo tôi đi đào bốn lọ xương Bống ở chân giường. Tôi vô cùng ngạc nhiên và vui mừng khi mỗi một chiếc lọ lại biến thành những thứ đẹp đẽ mà tôi vẫn thầm ao ước. Vì mong dự hội, tôi đã đánh rơi một chiếc giày xuống nước. Khi đến hội, thấy mọi người đang xúm vào vẻ đông vui. Tôi tiến tới, thì ra họ đang tranh nhau thử chiếc giày tôi vừa làm rơi. Tôi cũng thấy cả mẹ con dì đang ướm thử. Tôi đi vào, xỏ chiếc giày vào chân và bỏ nốt chiếc giày kia. Vua ngạc nhiên rồi mừng rỡ, mọi người vỗ tay khen tấm tắc.

Từ đó, tôi trở thành hoàng hậu. Nhưng có lẽ, cuộc sống của tôi lại gặp thêm muôn vàn thử thách. Ngày giỗ cha, dì bảo tôi trèo lên cây cau để hái cau. Tôi leo tít lên ngọn thì dì vung tay đẵn gốc. Tôi ngã xuống ao mà chết. May thay, Bụt lại biến tôi thành một chú chim vàng anh có giọng hót ngọt ngào, lanh lảnh. Tôi bay về cung thì biết Cám đã vào cung. Nhà vua vẻ mặt rầu rĩ, chẳng buồn ăn uống. Tôi liền sà xuống tay áo chàng để bầu bạn. Dì ghẻ bày cách cho Cám bắt vàng anh làm thịt. Tôi lại hóa thân thành một cây xoan đào xanh ngát rợp bóng để che mát cho nhà vua. Dì ghẻ và Cám lại chặt xoan đào để làm khung cửi. Lúc này, tôi uất ức quá nên cất tiếng đe dọa Cám. Cám có vẻ sợ sệt nhưng rồi lại đốt khung cửi. Chỗ tro khung cửi mọc lên một cây thị cao lớn. Tôi được ẩn náu trong quả thị. Bà cụ qua đường ngả bị ra vẫy gọi, tôi liền rụng xuống. Tôi âm thầm bước ra, nấu cơm, dọn nhà cho bà rồi lại bước vào quả thị vì sợ bị phát hiện. Một hôm, bị bà bắt gặp nên tôi không thể chui lại vỏ thị nữa. Thật may mắn khi một hôm, nhà vua đi ngang qua, nhận ra miếng trầu têm cánh phượng quen thuộc của tôi. Tôi gặp lại nhà vua trong niềm vui mừng khôn xiết.

Tôi trở về cung trong sự ngỡ ngàng của mẹ con dì ghẻ. Cám tò mò hỏi tôi sao lại vẫn xinh như thế, tôi bèn bày cách cho Cám, nhưng thực chất để trừng trị kẻ đã năm lần bảy lượt giết mình. Cảm nhảy xuống hố, quân lính dội nước sôi và chết. Nghe đâu, khi nghe tin con gái chết, dì tôi cũng lăn đùng ra chết. Có lẽ, đó là cái kết của những con người tàn độc.

*****

Trên đây là hơn 64 mẫu Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong câu chuyện đó lớp 5 do thầy cô biên soạn. Hy vọng nội dung trong bài học hôm nay sẽ giúp các em có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình đạt điểm số cao nhất nhé.

Đăng bởi thầy cô trường THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học tậplớp 5

5/5 - (8 bình chọn)


Nguyễn Thanh Tùng

Trường THCS Bình Chánh với mục tiêu chung là tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh có thể phát triển khả năng và đạt được thành công trong quá trình học tập. Chúng tôi cam kết xây dựng một không gian học tập đầy thách thức, sáng tạo và linh hoạt, nơi mà học sinh được khuyến khích khám phá, rèn luyện kỹ năng và trở thành những người học suốt đời.

Bài viết liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button