Học TậpLớp 12

So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài ( 15 bài mẫu)

Mời các em theo dõi 15 bài mẫu So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.

Đề bài: So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài

So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài
So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài

Mục lục

Dàn ý So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài chi tiết

Dàn ý So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài- Mẫu 1

I. Mở bài:

Bạn đang xem: So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài ( 15 bài mẫu)

– Kim Lân là mệnh danh nhà văn của người nông dân. “Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn xuất sắc của ông, thành công rung động người đọc với hình tượng “người vợ nhặt” tha phương nhưng khuất lấp sau đó là nghị lực sống mạnh mẽ

– Nguyễn Minh Châu- một cây bút tài ba tiên phong trong thời kỳ đổi mới. “Chiếc thuyền ngoài xa” là lần gặp gỡ định mệnh của một người nghệ sĩ với một thế giới đầy nghịch lí và đau thương của số phận một người phụ nữ làng chài

II. Thân bài: So sánh người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài

1. Nét tương đồng của hai hình ảnh

– Số phận lận đận đầy xót xa của phận người phụ nữ: Cả hai tác giả đã xây dựng hoàn cảnh nhân vật đều là những thân phận bé nhỏ, là nạn nhân của những hoàn cảnh trớ trêu đau thương

– Người vợ nhặt thị

  • Số phận dặt dìu, không rõ tên tuổi quê quán, tình cảnh trôi dạt, nay đây mai đó
  • Vẻ ngoài nhếch nhác, đói khổ do cái đói giày vò
  • Thái độ chao chát, cong cớn, vô phép tắc do bị đẩy đến bước đường cùng, không còn sĩ diện
  • Theo một người lạ về làm vợ chỉ bằng bốn chén bánh đúc chỉ vì mong có cái ăn qua ngày

– Người đàn bà làng chài

Ngoại hình xấu xí, thô kệch như đàn ông do phải dãi dầm nắng mưa làm lụng và bị bạo hành gia đình
Cam chịu, nhẫn nhục đến ngu ngốc, từ bỏ cả hạnh phúc của chính bản thân mình
Quê mùa, thất học, nghèo khổ, sống phụ thuộc vào kẻ khác
– Vẻ đẹp tâm hồn khuất lập bởi bão giông cuộc đời

2. Sự đối lập khi so sánh người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài

– Vẻ đẹp của nhân vật “người vợ nhặt thị” là phẩm chất đáng quý của một nàng dâu thế hệ mới.

Nó được thể hiện qua các chi tiết đầy dư vị lạc quan, yêu đời dù bối cảnh là nạn đói thê thảm, khốn cùng.

– Ngược lại, vẻ đẹp được khắc sâu ở “người đàn bà hàng chài” lại chính là những phẩm chất trân quý của một người mẹ, người vợ tảo tần nặng gánh mưu sinh. Tất cả thể hiện lên qua các chi tiết đầy bất ngờ kịch tính, trong bối cảnh đói khổ nghèo nàn gây nên tình trạng bạo lực gia đình…

III. Kết bài

– Khái quát những điểm giống/khác nhau và nêu cảm nhận của bản thân

Dàn ý So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài- Mẫu 2

I. Mở bài:

Giới thiệu khái quát về hai nhân vật trong hai tác phẩm:

+ Kim Lân là nhà văn chuyên viết về nông thôn và cuộc sống người dân quê, có sở trường về truyện ngắn. Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc , viết về tình huống “nhặt vợ” độc đáo, qua đó thể hiện niềm tin mãnh liệt vào phẩm chất tốt đẹp của những con người bình dị trong nạn đói thê thảm.

+ Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu thời chống Mỹ, cũng là cây bút tiên phong thời đổi mới. Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn xuất sắc ở thời kì sau, viết về lần giáp mặt của một nghệ sĩ với cuộc sống đầy nghịch lí của một gia đình hàng chài, qua đó thể hiện lòng xót thương, nỗi lo âu đối với con người và những trăn trở về trách nhiệm của người nghệ sĩ.

II. Thân bài:

1. Làm rõ đối tượng thứ nhất: Nhân vật người vợ nhặt:

– Giới thiệu chung: Tuy không miêu tả thật nhiều nhưng nhân vật người vợ nhặt vẫn là một trong ba nhân vật quan trọng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc họa sống động, theo lối đối lập giữa bề ngoài và bên trong, ban đầu và về sau.

– Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu:

Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng là một lòng ham sống mãnh liệt. (dẫn chứng)

Phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáng, lại là một người hiểu biết, ý tứ.(dẫn chứng)

Bên trong vẻ chao chát, cong cớn, chỏng lỏn lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan. (dẫn chứng)

2. Làm rõ đối tượng thứ hai: Nhân vật người đàn bà hàng chài

– Giới thiệu chung: Là nhân vật chính, có vai trò quan trọng với việc thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc họa sắc nét, theo lối tương phản giữa bên ngoài và bên trong, giữa thân phận và phẩm chất.

– Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu.

Bên trong ngoại hình xấu xí, thô kệch là một tấm lòng nhân hậu, vị tha, độ lượng, giàu đức hi sinh. (dẫn chứng)
Phía sau vẻ cam chịu, nhẫn nhục vẫn là một người có khát vọng hạnh phúc, can đảm, cứng cỏi. (dẫn chứng)
Phía sau vẻ quê mùa, thất học lại là một người phụ nữ thấu hiểu, sâu sắc lẽ đời. (dẫn chứng)
3. So sánh: Nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật:

– Tương đồng: Cả hai nhân vật đều là những thân phận bé nhỏ, nạn nhân của hoàn cảnh. Những vẻ đẹp đáng trân trọng của họ đều bị đời sống cơ cực lam lũ làm khuất lấp. Cả hai đều khắc họa bằng những chi tiết chân thực…

– Khác biệt: Vẻ đẹp được thể hiện ở nhân vật người vợ nhặt chủ yếu là phẩm chất của một nàng dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh, trong nạn đói thê thảm. Vẻ đẹp được khắc sâu ở nhân vật người đàn bà hàng chài là những phẩm chất của một người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi tiết đầy kịch tính, trong tình trạng bạo lực gia đình…

4. Lí giải sự khác biệt:

+ Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển, biến đổi từ thấp đến cao (cảm hứng lãng mạn), trong khi đó người đàn bà hàng chài lại tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối đang tồn tại (cảm hứng thế sự – đời tư trong khuynh hướng nhận thức lại)

+ Sự khác biệt giữa con người giai cấp (Vợ nhặt) với quan niệm con người đa dạng phúc tạp (Chiếc thuyền ngoài xa) đã tạo ra sự khác biệt này.

III. Kết bài:

Khái quát những nét giống và khác nhau tiêu biểu và nêu những cảm nghĩ của bản thân

15 bài mẫu So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài

So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài- Mẫu 1

Kim Lân là nhà văn chuyên viết về người nông dân, viết về cuộc sống ở nông thôn đầy những cơ cực bày ra trước mắt. Vợ nhặt là một truyện ngắn xuất sắc tại đây đã khắc họa thành công tình huống “nhặt vợ” độc đáo. Cùng gặp gỡ số phận người phụ nữ, ta gặp Nguyễn Minh Châu, phía sau con người nghèo khổ ông cũng thể hiện một tấm lòng của mình với nhân vật người phụ nữ. Thị, và người đàn bà hàng chài đã để lại cho ta nhiều ấn tượng khó phai mờ..

Nhân vật người vợ nhặt xuất thân trong truyện ngắn vợ nhặt và được xây dựng với những tính cách qua ngòi bút góc nhìn của Kim Lân. Tại đây ông đã cho ta thấy một vẻ đẹp tiêu biểu của người phụ nữ, dù có trải qua khốn khổ vẫn đẹp sáng một tâm hồn hướng về cái đẹp, cái thiện.

Phía sau cảnh tình bị trôi dạt trong đói nghèo là một trái tim ham sống đến mãnh liệt và tột cùng. Người đàn bà ấy đã chỉ vì “cơm trắng mấy giò” vì “4 cái bát bánh đúc” đã theo Tràng về làm vợ. Phía sau cái nhếch nhác và đói khổ lại là một tâm hồn có hiểu biết có ý tứ biết bao. Khi mới về nhà Tràng thị rất ý tứ, chỉ dám ngồi mép giường, những hành động ngại ngùng thật nữ tính.

Bên trong cái chao chát, chỏn lỏn lúc gặp Tràng, lại là một tâm hồn cực kì hiền lành và hiền hậu, đúng mực biết lo toan cho gia đình. Sáng sớm Tràng thức dậy đã thấy nhà cửa sạch tinh tươm, là cô vợ mới của Tràng đã giúp Tràng đó.

Còn, đối với người đàn bà hàng chài. Cuộc sống mưu sinh đã nhấn chìm bà thành một con người xấu xí, nghèo đói. Người đàn bà là nhân vật chính trong câu truyện, giữ vai trò quan trọng thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm. Qua nhân vật này ta thấy được sự khắc họa rõ nét và sinh động của nhà văn, theo lối tương phản giữa vẻ bên ngoài và tâm hồn đẹp bên trong. Giữa ngoại hình và phẩm chất của bà.

Người đàn bà hàng chài có vẻ bề ngoài không mấy ưa nhìn. Khi ngoại hình xấu xí, thô kệch, nhưng lại là một người mẹ hi sinh, nhân hậu và bao dung. Trái tim không khi nào vơi tình yêu dành cho con cái của mình. Chỉ cần nhìn thấy chúng ăn no bà đã thấy hạnh phúc. Phía sau vẻ thất học, quê mùa thì ấy lại là một người hiểu biết sâu sắc lẽ đời.

Chính bà đã khiến đẩu và Phùng nhận thức lại được hoàn cảnh và cảm thông sâu sắc trân trọng hơn đối với người phụ nữ ấy. Hóa ra đằng sau đó lại là một con người khác hẳn, đẹp đẽ quá, đáng quý đáng trân trọng.

Cả hai nhân vật đều có nét tương đồng, là những người nhỏ bé, nạn nhân của cuộc sống, nhưng trong họ đều có những vẻ đẹp đáng trân trọng, ngợi ca. Cả hai đều được khắc họa chân thực. Nhưng cũng có khác biệt, vẻ vợ nhặt chủ yếu là hình ảnh của cô con dâu mới. Còn người đàn bà hàng chài được khắc họa chủ yếu thông qua phẩm chất của người mẹ mưu sinh, qua các chi tiết kịch tính, qua nạn bạo lực gia đình.

Cả hai nhà văn đã làm nổi bật lên vẻ đẹp người phụ nữ, họ sống trong hoàn cảnh khác nhau nhưng đều hiện lên vẻ đẹp và một đời sống tâm hồn đáng quý. Từ đó khẳng định tư tưởng nhân đạo và ngòi bút hiện thực sâu sắc của nhà văn.

So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài- Mẫu 2

Kim Lân là nhà văn viết nhiều và viết khá hay về đời sống nông thôn cũng như những người nông dân hiền lành chất phác. Viết về cuộc sống, số phận, cảnh ngộ của những con người trong những năm xảy ra nạn đói năm Ất Dậu, “Vợ nhặt” là một tác phẩm tiêu biểu cho những khám phá của nhà văn về vẻ đẹp của người nông dân mà nổi bật là hình ảnh người vợ nhặt với khát vọng sống mãnh liệt. Nguyễn Minh Châu là một trong những người mở đường xuất sắc cho công cuộc đổi mới nền văn học Việt Nam sau năm 1975. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” được kể lại từ điểm nhìn trần thuật của người nghệ sĩ mang tên Phùng – một nghệ sĩ trên hành trình khai phá nghệ thuật đồng thời tác phẩm cũng góp phần thể hiện những khám phá mới mẻ của nhà văn về hiện thực và về con người. Một thành công nổi bật của tác phẩm là những phát hiện về vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài.

Xuất hiện trong bối cảnh ngày đói quay quắt, ý chí bám lấy sự sống vấn rất mạnh mẽ trong nhân vật (bỏ qua ý thức về danh dự, chấp nhận theo không Tràng).Khi trở thành vợ của Tràng, ở chị không còn vẻ “chao chát”, “chỏng lỏn” mà thay vào đó là sự “hiền hậu đúng mực”, sự “ý tứ” với hành động “ngồi mớm ở mép giường”, “điềm nhiên và vào miệng”, “miếng cám nghẹn bứ, đắng chát”, cách đối xử chân tình với người chồng mới, ý thức tu sửa và dọn dẹp mái ấm gia đình.

Là một người có khao khát chân chính: mơ ước về tổ ấm gia đình, về hạnh phúc.

Nghệ thuật miêu tả nhân vật: đặt nhân vật trong tình huống “nhặt được vợ” vừa lạ vừa tội nghiệp, cùng với khả năng phân tích tâm lí sắc sảo, ngòi bút Kim Lân đã đi sâu khơi tìm đằng sau hiện thực khốn quẫn là vẻ đẹp tâm hồn của con người.

Đối lập với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch là vẻ đẹp tâm hồn trong trẻo và cao khiết.

Mọi sự cam chịu đến nhẫn nhục của nhân vật đều xuất phát từ tình yêu thương con tha thiết, từ trái tim hồn hậu, vị tha của một người mẹ. Chị cũng là một người phụ nữ giàu đức hi sinh. Đặc điểm này cũng xuất phát từ tình mẫu tử, lòng yêu con tha thiết. Không những thế, người đàn bà tưởng như “khép nép”, “sợ sệt” lại là một người thấu hiểu lẽ đời, tình người. Trong khi Phùng và Điểu kết tội gã đàn ông là kẻ độc ác nhất thế gian thì chị lại lí giải những trận đòn kia bằng nỗi khổ vật chất đè nặng lên vai người đàn ông. Qua câu chuyện đời tự kể của chị, Phùng và Đẩu mới dần cảm nhận được lẽ đời và nhân tình thế thái một cách chân thực. Sử dụng biện pháp đối lập (giữa hình thức và tâm hồn), đặt nhân vật trong tình huống nhận thức độc đáo, Nguyễn Minh Châu giúp người đọc khám phá “… ẩn giấu” trong “bể sâu tâm hồn” người đàn bà hàng chài.

Viết về hai người đàn bà trong hai bối cảnh khác nhau nhưng các nhà văn đều dồn tâm sức khai phá vẻ đẹp tiềm ẩn, khó thấy, khuất lấp của người phụ nữ bên cạnh số phận đau khổ, cảnh sống khốn cùng. Người vợ nhặt hay người đàn bà hàng chài đều là những nhân vật không tên tuổi, trở thành những khái quát nghệ thuật đặc sắc. Họ mang những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.Khám phá vẻ đẹp của người phụ nữ, cả hai nhà văn đều thể hiện niềm tin vào phẩm chất của con người dù trong hoàn cảnh khốn cùng nhất.

Đặt nhân vật trong bối cảnh nạn đói nên tâm điểm nghệ thuật của Kim Lân là khát vọng sống mãnh liệt, là những căn tích tốt đẹp bấy lâu bị cái đói làm cho chìm khuất. Nguyễn Minh Châu lại xây dựng hình tượng người đàn bà trong bối cảnh xã hội sau năm 1975, khi chiến tranh đã đi qua nhưng cái nghèo, cái lạc hậu vẫn chưa hết, vì vậy nhân vật của ông được khám phá ở vẻ đẹp của nhận thức của sự thấu trải lẽ đời, tình người.

So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài- Mẫu 3

Chân dung người phụ nữ Việt Nam với phẩm chất vô cùng cao quý đã đi vào biết bao câu văn, vần thơ. Ta không thể quên hình ảnh bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân (1962). Và người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Họ bước ra với những cuộc đời rất khác nhưng gặp gỡ ở trái tim với tám chữ vàng: kiên cường, bất khuất, trung hậu, đảm đang.

Kim Lân – người “một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn ngày trước”. Viết về cuộc sống, số phận, cảnh ngộ của những con người trong những năm xảy ra nạn đói năm Ất Dậu, “Vợ nhặt” là một tác phẩm tiêu biểu cho những khám phá của nhà văn với hình ảnh người vợ nhặt với khát vọng sống mãnh liệt. Đến với Nguyễn Minh Châu là đến với người luôn truy tìm “hạt ngọc ẩn dấu trong tâm hồn con người, người mở đường xuất sắc cho công cuộc đổi mới nền văn học Việt Nam sau năm 1975”. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” được kể lại từ điểm nhìn trần thuật của người nghệ sĩ mang tên Phùng – một nghệ sĩ trên hành trình khai phá mới mẻ của nhà văn về hiện thực và về con người.

Trước tiên là nhân vật Vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Kim Lân. Dưới ngòi bút của Kim Lân, chân dung Thị hiện lên như một con ma đói, áo quần luộm thuộm, gương mặt lấm lem với “cái ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, không có nổi cái tên mà vỏn vẹn chữ “Thị”. Cô gái đói đến độ phải nhặt đồ rơi vãi, nghe ba câu hò mà vội chạy đến đẩy xe bò. Thị gặp Tràng nhưng không ăn trầu mà ăn bánh đúc rồi quẹt đũa ngang miệng “chà ngon”. Ta chỉ thấy chân dung Thị chao chát, chỏng lỏn. Vậy nhưng qua ngòi bút đầy tài năng của tác giả, người vợ anh Tràng hiện lên có cong cớn, rất cong cớn nhưng không nanh nọc và tính cách ấy phải chăng do dốt nát, đói nghèo, tăm tối chứ tuyệt nhiên không sinh ra từ cái ác, cái xấu. Nhân vật Thị hiện lên chua xót hơn khi cuộc hôn nhân cả đời người cũng chỉ bắt đầu bằng vài ba câu tầm phào của Tràng mà khiến người đàn bà quên hết sĩ diện, nết na, đức hạnh để xà xuống ăn hết bát bánh đúc, theo Tràng về làm vợ mà không dò hết ngọn ngành nguồn sông. Chính cái đói đã khiến thân phận con người bọt bèo, rẻ mạt đến vậy.

Khi gặp Tràng thì đanh đá, chỏng lỏn nhưng khi về làm dâu, Thị lại là người vợ đảm đang, con dâu hiếu thảo. Thị theo Tràng về như đến một chốn có thể nương tựa trong cái đói đang rình rập. Trên con đường về nhà Tràng, cô Thị đanh đá bỗng trở nên dịu dàng, e dè, ngượng ngập. Đôi mắt tư lự khi bỡ ngỡ đặt chân đến ngôi nhà mới, dáng điệu khép nép ngồi và câu chào lúng túng…tất cả làm cho Thị có cảm giác của một nàng dâu mới. Từ khi làm vợ, Thị đảm đang và dịu dàng hơn cả, cô cùng mẹ sửa sang cửa nhà, dọn dẹp vườn tược và vui vẻ trong bữa ăn loãng thếch, đắng chát. Thị kể về câu chuyện những người cướp kho thóc Nhật với hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng phấp phới. Chính nó làm lóe lên ánh sáng tia hy vọng về tương lai mới, mở ra con đường đấu tranh đi đến Cách mạng. Rõ ràng, Thị dần dần nhận được đủ đầy cảm xúc từ chữ “tình”, có ý thức về bổn phận và trách nhiệm của mình. Quả đúng, dù trong túng đói tột cùng thì tình cảm vẫn quý hơn manh áo bởi nó khiến con người được sống là chính mình, được nên người.

Người đàn bà hàng chài coi nỗi khổ vận vào đời mình như một lẽ đương nhiên. Chị chấp nhận để chồng đánh chỉ xin chồng là “đánh ở trên bờ, đừng để các con nhìn thấy”. Ở đây, lẽ đời đã chiến thắng. Nó là chất xúc tác để Phùng và chánh án Đẩu hiểu về lẽ thiệt hơn ở đời. Thức nhận được ở người phụ nữ ấy chứa đựng mẫu tính sâu xa như một bản năng: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”, những lời lẽ ấy của người đàn bà hàng chài được thốt lên từ một niềm tin đơn giản mà vững chắc vào cái thiên chức mà trời đã giao phó cho để cảm nhận hạnh phúc dẫu rất nhỏ nhoi trong cuộc sống đầy khó khăn. Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu cũng khẳng định: gian lao không làm mất đi ở người phụ nữ tấm lòng yêu thương, nhân hậu bao dung, vị tha. Và với họ, gia đình hạnh phúc là gia đình trọn vẹn các thành viên cho dù đây đó vẫn có những tính cách chưa hoàn thiện.

Rõ ràng, hai nhà văn với hai ngòi bút khác nhau, hai cá tính khác nhau nhưng khi viết về hai người đàn bà trong hai bối cảnh khác nhau đều đặt ngòi bút nơi trái tim để tìm, phát hiện và ngợi ca người phụ nữ bên cạnh số phận đau khổ, cảnh sống khốn cùng. Họ là những người không tên tuổi mà trở thành những khái quát nghệ thuật đặc sắc. Từ vẻ đẹp của họ để thể hiện niềm tin vào phẩm chất của con người dù trong hoàn cảnh khốn cùng nhất.

Leonit Leonop từng nói “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”. Quả đúng, mỗi nhà văn đã đặt nhân vật của mình trong những hệ quy chiếu khác nhau thể hiện sự sáng tạo và dấu ấn của riêng mình. Nếu Kim Lân chọn bối cảnh nạn đói là tâm điểm nghệ thuật làm đòn bẩy cho là khát vọng sống mãnh liệt, là những căn tích tốt đẹp bấy lâu bị cái đói làm cho chìm khuất thì Nguyễn Minh Châu lại xây dựng hình tượng người đàn bà trong bối cảnh xã hội sau năm 1975 với vẻ đẹp của nhận thức của sự thấu trải lẽ đời, tình người khi chiến tranh đã đi qua nhưng cái nghèo, cái lạc hậu vẫn chưa hết.

Như vậy, hai nhà văn đã vô cùng thành công khi xây dựng hình tượng các nhân vật và đặt trái tim nơi ngòi bút để thấu hiểu, chia sẻ và cảm thông cho những số phận bất hạnh trong xã hội. Họ xứng đáng là nhà văn chân chính với những tác phẩm chân chính như Aimatop từng khẳng định “Tác phẩm chân chính không kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện khi câu chuyện về các nhân vật đã kết thúc. Tác phẩm nhập vào tâm hồn và ý thức của bạn đọc, tiếp tục sống và hành động như một lực lượng nội tâm, như sự dằn vặt và ánh sáng của lương tâm, không bao giờ tàn tạ như thi ca của sự thật.”

So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài- Mẫu 4

Ai đó đã từng nói “Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy mà ta có thể bắt gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành trình kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Kim Lân với truyện ngắn “Vợ nhặt” và Nguyễn Minh Châu với tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trường hợp như vậy. Nếu như với khả năng viết rất hay về nông thôn và cuộc sống của người dân quê, Kim Lân xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt qua tình huống truyện độc đáo thì với phong cách truyện đậm chất tự sự-triết lí, Nguyễn Minh Châu đã khám phá ra những nghịch lí trong cuộc sống của người đàn bà hàng chài. Qua cả hai tác phẩm, các tác giả đều cho ta thấy được vẻ đẹp khuất lấp của người phụ nữ Việt Nam trong những hoàn cảnh khó khăn.

Có thể nói, trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhân vật người vợ nhặt tuy không phải là nhân vật chính nhưng vẫn là một trong ba nhân vật quan trọng của tác phẩm. Tuy là một con người vô danh nhưng nhà văn đã xây dựng cho nhân vật của mình một cá tính đậm nét. Được khắc họa sống động theo lối đối lập giữa bên trong và bên ngoài, ban đầu và về sau, người vợ nhặt hiện lên với đầy đủ những phẩm chất của con người bình dị trong nạn đói thê thảm Từ một cô con gái “ngồi vêu ra ở cửa nhà kho” chao chát, chỏn lỏn đến một nàng dâu hiền hậu, đảm đang, đúng mực là một hành trình đầy bất ngờ với bao biến động trong cuộc đời nhân vật. Nhà văn đã chọn được tình huống truyện thật độc đáo để nhân vật tự bộc lộ giá trị của mình.

Ở đầu tác phẩm, những vẻ đẹp của người vợ nhặt bị che khuất bởi những con số không tròn trĩnh: không quê quán, không nghề nghiệp, không cả một cái tên, không nhan sắc, không lòng tự trọng. Cuộc sống đói khổ càng tô đậm sự xấu xí của thị: “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người “gầy sọp”, “trên cái khuôn mặt xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Khi nghe tiếng hò của Tràng, thị “lon ton chạy theo” đẩy xe thóc cùng, hôm sau lại “sầm sập chạy đến”, “cong cớn” đứng trước mặt anh ta để đòi “nợ” rồi “cắm đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc”. Giữa sự lựa chọn nghiệt ngã: hoặc chết đói để giữ sĩ diện hoặc bỏ lòng tự trọng sang một bên để bám víu lấy sự sống, thị đã chọn cách thứ hai.

Song, qua tiến trình của câu chuyện, con người thực sự của nhân vật người vợ nhặt dần hiện ra dưới ngòi bút truyện tài hoa của Kim Lân. Thị “rón rén, e thẹn, đầu cúi xuống, chân bước díu vào nhau” khi đi qua xóm ngụ cư, trên đường về nhà Tràng. Ở đây, ta chỉ thấy một cô gái hiền hậu, biết ý tứ và ngượng ngùng một cách thật dễ thương chứ không còn cái “cong cớn” vô duyên lúc trước. Buổi sang sau khi về làm vợ Tràng, thị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp, nấu cơm và cư xử, nói năng đúng mực khiến ngay cả Tràng cũng ngạc nhiên vì sự thay đổi ấy. Thị đã trở thành người vợ đảm, người con dâu đảm đang biết lo toan việc nhà. Phải chăng đây mới chính là bản chất tốt đẹp của con người vợ nhặt? Ngay cả trong chi tiết theo không Tràng về làm vợ của thị, nếu xét kĩ, ta sẽ thấy hành động ấy thực chất xuất phát từ khao khát tình yêu, hạnh phúc và tổ ấm gia đình cháy bỏng của những người nông dân bình dị. Tóm lại, với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt với những vẻ đẹp tâm hồn đáng được trân trọng và ngợi ca.

Bên cạnh người “vợ nhặt”, nhân vật người đàn bà hàng chài trong “CTNX” cũng để lại ấn tượng sâu sắc. Là nhân vật chính, nhân vật này có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc thể hiện giá trị tư tưởng của tác phẩm. Nguyễn Minh Châu đã khắc họa nhân vật khá sắc nét bằng bút pháp hiện thực theo lối tương phản giữa bên ngoài và bên trong, giữa than phận và phẩm chất. Xuất hiện trong tình huống đầy nghịch lí dưới khám khá của nhân vật Phùng, nhân vật người đàn bà hàng chài hiện lên với những vẻ đẹp khuất lấp khiến ta xót xa, lo âu và không khỏi trăn trở.

Xuất hiện trước mắt độc giả, người đàn bà hàng chài hiện lên với ngoại hình xấu xí, thô kệch: than hình cao lơn, “khuôn mặt mệt mỏi”, “tái ngắt”, “tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới”. Cuộc sống của chị là một chuỗi những tháng ngày vừa lao động vất vả, vừa phải chịu đòn roi của chồng: “ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Độc giả có thể thông cảm với hoàn cảnh bất hạnh nhưng rất dễ bất bình với sự nhẫn nhục, cam chịu quá đáng của nhân vật khi im lặng chấp nhận trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình.

Nhưng phía sau ngoại hình xấu xí và sự nhẫn nhục ấy là cả một tấm lòng vị tha, độ lượng, đức hi sinh cao cả và sự cứng cỏi, can đảm hiếm có của người phụ nữ. Chị chấp nhận cuộc sống ấy bởi lẽ chị yêu thương các con, sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ tổ ấm gia đình. Đối với chị thì “đàn bà ở thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Và dù bị đánh đập, hành hạ bao nhiêu thì người đàn bà ấy vẫn cảm thông với những khó khăn của chồng, vẫn cứ chắt chiu từng giây phút hạnh phúc trong cuộc sống. Phía sau sự thất học, quê mùa, người đàn bà hàng chài vẫn là người phụ nữ sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Lí lẽ của chị là lí lẽ của con người từng trải bao sóng gió, khó khăn, không chỉ khiến chánh án Đẩu, nhiếp ảnh gia Phùng mà còn khiến tất cả chúng ta phải ngạc nhiên, cảm phục.

Có thể thấy, cả hai nhân vật đều là những thân phận nhỏ bé, là nạn nhân của hoàn cảnh nhưng vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp, lương thiện. Vẻ đẹp ấy, trong những lam lũ của đời thường, trong những khoảnh khắc khó khăn của cuộc sống có thể bị che lấp đi nhưng không bao giờ biến mất. Cả Kim Lân và Nguyễn Minh Châu đều thành công ở điểm này, khi miêu tả nhân vật bằng những chi tiết chân thực vô cùng, vừa làm toát lên số phận đau khổ, cảnh sống khốn cùng của họ, vừa khám phá ra vẻ đẹp khuất lấp bên trong những con người ấy.

Tuy nhiên, giữa hai nhân vật cũng có nhiều điểm khác biệt. Vẻ đẹp của người vợ nhặt được khắc họa qua những phẩm chất của một nàng dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh trong nạn đói thê thảm. Thị như một luồng gió mới “lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối” của những người dân xóm ngụ cư cũng như gia đình Tràng. Trong khi đó, vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu lại là phẩm chất của người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi tiết đầy kịch tính trong tình trạng bạo lực gia đình. Nhân vật này không khỏi khiến ta băn khoăn, trăn trở về cách nhìn nhận con người cũng như mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống. Sở dĩ có sự khác biệt ấy là do phong cách nghệ thuật và thời điểm sáng tác của hai nhà văn. Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển biến đổi từ thấp đến cao, mang cảm hứng lãng mạn, tiêu biểu cho văn học thời kì kháng chiến. Trong khi đó nhân vật người đàn bà hàng chài lại tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối đang tồn tại. Nhân vật này thể hiện rõ cảm hứng thế sự-đời tư trong ngòi bút truyện của Nguyễn Minh Châu sau 1975.

Tóm lại, người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài là hai nhân vật được xây dựng rất thành công của Kim Lân và Nguyễn Minh Châu. Tuy có nhiều điểm khác nhau trong phong cách nhưng với tinh thần nhân đạo cao cả, hai nhà văn đều khám phá và nâng niu trân trọng những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Qua hai tác phẩm, các tác giả còn cho chúng ta thêm tin tưởng vào sự bất diệt của những phẩm chất tốt đẹp trong con người dù ở bất cứ hoàn cảnh nào. Với tất cả giá trị về nội dung và nghệ thuật ấy, chắc chắn cả hai nhân vật cũng như tên tuổi của Kim Lân và Nguyễn Minh châu sẽ có sức sống lâu dài trong kho tàng văn học dân tộc.

So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài- Mẫu 5

Đọc “Vợ nhặt” của Kim Lân và “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu – hai truyện ngắn thật dung dị nhưng đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng sâu sắc về hình ảnh hai người đàn bà: người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài. Họ cũng là những người phụ nữ nghèo khổ, lam lũ nhưng trong học đều ẩn chứa “những vẻ đẹp khuất lấp” tiêu biểu cho vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.

Nhìn hình thức bên ngoài mỗi con người chưa chắc đã phản ánh hết những gì khuất lấp bên trong. Có thể cái xấu xa, thấp hèn núp đằng sau vẻ đẹp cao sang, lịch lãm bên ngoài; có thể cái đẹp, cái cao thượng nấp sau vẻ thô kệch, xấu xí, lấm láp bề ngoài… Nguyễn Minh Châu luôn tâm niệm: thiên chức của nhà văn là suốt đời đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn để nâng đỡ, ca ngợi.

Hình ảnh người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài đã chứa đựng những mâu thuẫn giữa bên ngoài và bên trong như thế. Nếu chỉ nhìn nhận họ với con mắt hời hợt thì không thể thấy được những vẻ đẹp tiềm ẩn, chứa bên trong tâm hồn mỗi con người. Cái đẹp chung của họ đều là những con người vô danh tính, xấu xí, nhạt nhòa trong bao số phận nghèo khổ, thua thiệt, bị cuộc sống dồn đẩy vào những hoàn cảnh trớ trêu, éo le nhưng họ vẫn vẫn luôn giữ được phẩm chất đẹp đẽ mang tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.

Chị xuất hiện trước mặt Tràng lần thứ hai với “thân hình gầy sọp, quần áo tả tơi như tổ đỉa, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt”. Chị ăn nói cong cớn, chỏng lỏn, trơ trẽn. Tràng mời ăn giàu, chị không ăn mà nói thẳng: “Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”. Và chỉ chờ Tràng nói: “Đấy, muốn ăn gì thì ăn”thì mắt chị sáng lên rồi ngồi sà xuống “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Ăn xong cầm doc chiếc đũa quệt ngang miệng thở: “Hà, ngon!”. Thế rồi Tràng nói đùa: “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. “Ai ngờ thị về thật”, chấp nhận theo không người đàn ông về làm vợ mà chẳng rõ ngọn ngành. Người đọc có thể dễ dàng cảm nhận thấy, đó là người đàn bà chẳng còn lòng tự trọng, chẳng còn nhân cách.

Rõ ràng sâu thẳm trong mỗi con người, có biết bao điều đẹp đẽ mà ta mới nhìn không thấy. Nếu đặt chị vợ nhặt vào một hoàn cảnh sung sướng đầy đủ khác, có lẽ chị chẳng thể có những vẻ lấm láp về nhân cách như thế.

Nhà văn không đặt cho nhân vật của mình một cái tên cụ thể, có lẽ hình ảnh của bà nhạt nhòa trong bao hình ảnh những người phụ nữ cùng cảnh ở vùng biển này: đông con, đói khổ, lam lũ mà còn phải chịu cảnh bạo hành của người chồng vũ phu, độc ác.

Xuất hiện trước mắt người đọc là hình ảnh một người đàn bà thân hình cao lớn, đường nét thô kệch, rỗ mặt, dàng đi mệt mỏi, chậm chạp như một bà già… Hình ảnh ấy là hiện thân của sự nghèo khổ, vất vả nhưng chưa đủ, bà còn luôn bị người chồng đánh đập tàn bạo bằng thắt lưng da của lính ngụy ngày xưa, cứ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Vậy mà bà vẫn nhẫn nhục chịu đựng, cam chịu: không kêu la, không chống trả, không tìm cách trốn chạy. Khi được tòa huyện khuyên bỏ người chồng độc ác lên bờ sinh sống thì bà xin: “Con lạy quý tòa. Quý tòa bắt tội con cũng được< phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Qua thái độ nhẫn nhục, cam chịu và cách xưng hô khiến người ta sẽ nghĩ đây là người đàn bà không bình thường.

Nhưng đi sâu khám phá mới thấy chiều sâu trong tâm hồn người đàn bà ấy ánh lên vẻ đẹp lấp lánh của đức hi sinh, lòng vị tha của một người vợ, người mẹ. Vì sao mỗi lần bị đánh đau đớn, tàn bạo như vậy mà bà vẫn cam chịu? Chỉ có bà mới thấu được hoàn cảnh của chính mình: đông con, nghèo khó, vất vả lại làm nghề đặc trưng: nghề biển. Con người đã quen với sóng gió, biển cả thì dù có gian lao, nguy hiểm nhưng vẫn phải bám biển để sống. Bà hiểu thiên chức của một người mẹ, sinh con ra phải có trách nhiệm với con, sống cho con chứ không phải sống cho mình. Bà tự trách mình: “Cái lỗi là chính đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”; “giá mà tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được cái thuyền rộng hơn” thì sẽ đỡ khổ.

Bà hiểu chồng cảm thông, dung tha cho những hành động tàn độc của lão. Trước kia lão là anh con trai hiền lành, cục tính nhưng chưa đánh vợ bao giờ. Về sau, chỉ vì lão đông con, cuộc sống cơ cực vất vả trút lên đầu lão, lúc nào thấy cơ cực quá thì lão xách vợ ra đánh cho hả giận. Bà hiểu tính khí lão cũng như biển khi giông bão, khi hiền hòa. Bà hiểu bà cũng như bao người phụ nữ trên biển rất cần có người đàn ông để chèo chống phong ba bão táp, dù người đàn ông ấy có đọc ác, tàn bạo thì vẫn phải chấp nhận để cùng nhau nuôi đặng sắp con, vì nhà nào cũng chục đứa. Bà chắt chiu niềm vui bé nhỏ trong cuộc sống để mà sống: lúc vui nhất là lúc nhìn thấy đàn con được ăn no và vợ chồng cũng có lúc vui vẻ, hòa thuận.

Bà tỏ ra thông cảm với Đẩu- ông Bao Công phố biển phần nào còn “trẻ người non dạ” chưa có kinh nghiệm trong cuộc sống, mà chỉ có lòng tốt và kiến thức sách vở. Bà càng nói, càng “để lộ ra vẻ sắc sảo”, “con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình”. Nhắc đến con bà lại khóc, mỗi lần bị đánh bà lại xin lão chồng đưa lên bờ mà đánh để tránh cho những đứa con khỏi bị tổn thương khi phải chứng kiến cảnh đau lòng ấy, lớn lên rồi chúng sẽ ra sao? Chúng sẽ gặp phải cảnh như mẹ để rồi nhẫn nhục, cam chịu, hay vũ phu như người cha của chúng? “Tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc thấu hiểu cái lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài”.

Thế ra, nhìn bề ngoài của người đàn bà xấu xí tưởng như dở hơi, đần độn ấy lại chứa chất bao điều uẩn khúc với những đức tính cao đẹp mà nhiều người khác khó có thể có được. Bà đem lại một bài học cho Đẩu và Phùng về cách nhìn đời: không thể nhìn bề ngoài mà đánh giá bên trong, phải biết phát hiện cái thực chất sau cái bề ngoài của hiện tượng. Không thể nhìn sự vật một cách đơn giản, dễ dãi mà phải thâm nhập vào mạch ngầm của cuộc sống để khám phá, phát hiện ra những vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong

Hai nhân vật có những nét riêng trong số phận, có những nét phẩm chất đậm nhạt khác nhau, nhưng ở họ đều toát lên vẻ đẹp của một tâm hồn nhân hậu, hiền thục, bao dung, vị tha. giàu lòng yêu thương và đức hi sinh – biểu hiện cho vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Nhìn ra những vẻ đẹp khuất lấp ấy tiềm ẩn trong tâm hồn của con người lao động bình dị, lam lũ, hai nhà văn đã góp phần tạo nên những giá trị nhân đạo mới mẻ và sâu sắc cho nền văn học Việt Nam hiện đại.

So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài- Mẫu 6

Những người phụ nữ Việt Nam có phẩm chất cao quý đã trở thành từ đề tài thơ ca và câu văn trong nhiều tác phẩm. Những hình ảnh như người vợ nhặt trong Vợ Nhặt của Kim Lân (1962) và người đàn bà hàng chài của Nguyễn Minh Châu vẫn luôn gợi lại sự kiên cường, bất khuất, trung hậu và đảm đang của trái tim những người phụ nữ này. Tuy cuộc đời của họ khác nhau, nhưng tất cả đều được đánh giá cao bởi phẩm chất của họ.

Kim Lân là một nhà văn có tình yêu và sự trung thành đối với đất, nhân dân và phong cách sống nông thôn nguyên thủy. Trong tác phẩm “Vợ nhặt”, ông đã diễn tả cuộc sống, số phận và cảnh ngộ của những con người trong giai đoạn khó khăn của nạn đói năm Ất Dậu với hình ảnh người vợ nhặt mang trong mình khát vọng sống giữa nỗi đau khổ. Với Nguyễn Minh Châu, anh là một nhà văn luôn tìm kiếm “hạt ngọc ẩn dấu trong tâm hồn con người”, mở đường cho sự đổi mới của văn học Việt Nam sau năm 1975. Trong tác phẩm “Người đàn bà hàng chài”, nhà văn khai thác chân thật hiện thực và con người từ góc độ trần thuật của nghệ sĩ về người phụ nữ.

Trong tác phẩm Vợ Nhặt của nhà văn Kim Lân, nhân vật Thị được miêu tả như một người phụ nữ đói khát cơm áo, sống trong hoàn cảnh nghèo khó và luộm thuộm. Cô có một gương mặt lấm lem và hình dáng bộ ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, chỉ có tên là “Thị”. Nhặt rác và nghe thấy những câu hát đang vang lên, Thị lập tức đến và giúp Tràng đẩy xe bò. Cô không ăn trầu, thay vào đó lại thưởng thức bánh đúc rồi cầm đũa quẹt ngang miệng và tấm tắc khen ngon. Mặc dù vẻ ngoài của Thị trông chao đảo, tuy nhiên, tác giả đã cho nhân vật này có sự đỗi mới tích cực hơn, trong đó đói nghèo không phải là nguyên nhân của tính cách xấu, tàn ác. Nhân vật Thị thật đáng thương khi cuộc hôn nhân đời cô chỉ bắt đầu với vài câu nói được Tràng giọng đại, khiến cô quên mất sĩ diện, nghĩa hiệp và đức hạnh của mình, và cứ thế xà xuống ăn hết bát bánh đúc, bỏ lại nguồn sông còn dang dở. Tất cả đều do cái đói khiến con người lạc lối, héo hon.

Khi Thị gặp Tràng, Thị luôn đóng vai trò một người phụ nữ nghiêm khắc và khó tính. Nhưng khi Thị trở thành vợ Tràng và làm dâu trong gia đình, cô ta trở nên đảm đang và hiếu thảo. Thị đi theo Tràng về nhà như đi tới một nơi cô có thể tìm được sự an toàn giữa cuộc khủng hoảng thức ăn. Trên con đường đến nhà Tràng, cô Thị không còn đanh đá như trước đây nữa, mà thay vào đó là sự nhút nhát, dịu dàng. Khi bước vào ngôi nhà mới, Thị có cảm giác như một nàng dâu mới, đôi mắt nhìn chằm chằm, dáng điệu khép nép và câu chào lúng túng. Từ đó, Thị trở nên đảm đang và dịu dàng hơn cả, cô cùng mẹ chồng sửa sang nhà cửa, dọn dẹp vườn tược và vui vẻ trong bữa ăn đơn giản nhưng đầy yêu thương. Thị kể cho mọi người nghe về những người cướp kho thóc Nhật với hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng phấp phới. Đó là điều làm nhen nhóm ánh sáng hy vọng cho tương lai, mở ra con đường đấu tranh vào Cách mạng. Thị dần hiểu và cảm nhận được đầy đủ từ chữ “tình”, với ý thức về trách nhiệm và bổn phận của mình. Dù đang gặp khó khăn trong cuộc sống, tình cảm vẫn là trên hết vì nó giúp con người sống tự do, tạo nên chính mình và trở thành người.

Trong cuộc sống, người đàn bà hàng chài có thể coi nỗi khổ vận của mình như điều đương nhiên. Chị đã chấp nhận để chồng đánh mình, chỉ yêu cầu rằng đánh phải ở trên bờ và không để con cái chứng kiến. Từ đó, có thể thấy rằng lẽ đời đã chiến thắng và tạo nên dòng chảy cho Phùng và chánh án Đẩu hiểu rõ hơn về thực tế cuộc sống. Tấm lòng yêu thương, nhân hậu bao dung và vị tha của người đàn bà hàng chài được chứa đựng trong niềm tin đơn giản và vững chắc rằng ông trời sinh ra người đàn bà để mang thai và sinh con, sau đó nuôi dưỡng chúng cho đến khi trưởng thành. Bằng cách đó, phải gánh chịu mọi khó khăn và nỗi đau, chị cảm nhận được hạnh phúc nhỏ bé trong cuộc sống. Qua nhân vật của người đàn bà hàng chài, tác giả Nguyễn Minh Châu khẳng định rằng gian nan không thể làm mất đi tấm lòng yêu thương, sự bao dung và vị tha trong người phụ nữ. Với họ, một gia đình hạnh phúc là một gia đình đầy đủ tất cả thành viên của nó, dù cho mỗi người trong số họ vẫn có những tính cách chưa hoàn thiện.

Hai nhà văn sáng tác với hai ngòi bút khác nhau và hai cá tính khác nhau. Tuy nhiên, khi viết về hai người phụ nữ trong những bối cảnh khác nhau, cả hai đều đặt ngòi bút vào trái tim để tìm, phát hiện và tôn vinh những người phụ nữ đó trong số khổ cực và nghèo đói. Họ đã trở thành những cái tên không tên, nhưng lại tạo ra những tác phẩm nghệ thuật đầy ý nghĩa. Bằng vẻ đẹp của họ, họ thể hiện một niềm tin vào phẩm chất của con người, ngay cả khi đối diện với hoàn cảnh đáng trách nhất.

Leonit Leonop từng nói rằng “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”. Điều này đúng, mỗi nhà văn đều đặt nhân vật của mình trong các tình huống khác nhau để thể hiện sự sáng tạo và ý nghĩa riêng của họ. Kim Lân đã chọn bối cảnh nạn đói để thể hiện khát vọng sống mạnh mẽ, con người xứng đáng với cuộc sống tốt đẹp nhưng chìm trong nghèo đói. Ngược lại, Nguyễn Minh Châu xây dựng hình tượng người phụ nữ trong một xã hội lạc hậu sau năm 1975, với sự thấu hiểu sâu sắc về cuộc sống và tình yêu thương sau cuộc chiến, trong khi nghèo đói và kết cục vẫn chưa thay đổi.

Hai nhà văn đã rất thành công trong việc tạo dựng những nhân vật sống động và đặt trái tim của mình vào những câu chuyện để hiểu, chia sẻ và cảm thông với những cơn đau khổ của cuộc đời trong xã hội. Họ là những nhà văn chân chính và tác phẩm của họ như Aimatop đã khẳng định rằng “Tác phẩm chân chính không chỉ kết thúc ở trang cuối cùng, nó có thể tiếp tục kể câu chuyện về các nhân vật mãi mãi. Tác phẩm ấy sẽ đi vào tâm hồn của người đọc, tiếp tục sống và hành động như một lực lượng nội tâm, như sự dằn vặt và ánh sáng của lương tâm, không bao giờ tàn tạ như thi ca của sự thật.”

So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài- Mẫu 7

Trong kho tàng văn học Việt Nam, đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ dùng ngòi bút của mình để bảo vệ cho những thân phận người phụ nữ bé nhỏ, chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội. Với nhà văn Kim Lân và Nguyễn Minh Châu cũng vậy, ta bắt gặp hình ảnh người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân với vẻ bề ngoài rách rưới, người đàn bà hàng chài với vẻ ngoài thô kệch xấu xí nhưng ở họ đều hội tụ những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

Nguyễn Minh Châu là nhà văn mở đường và tinh anh nhất của văn học hiện đại Việt Nam sau 1975. Ông là nhà văn luôn đi tìm “hạt ngọc” ẩn sâu trong tâm hồn con người. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” được ông sáng tác năm 1987 và là một trong những tác phẩm thể hiện triết lí nhân sinh quan sâu sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Cũng là một trong những nhà văn của nền văn học hiện đại, nhà văn Kim Lân lại có sở trường về truyện ngắn, nổi bật trong những tác phẩm của ông là vẻ đẹp tâm hồn người Việt Nam, những người sống cực nhọc, lam lũ, nghèo khổ nhưng vẫn yêu đời, chất phác và lạc quan. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân và được rút từ tập truyện “Con chó xấu xí”.

Người vợ nhặt là một nhân vật đặc biệt, nhân vật này không có tên mà được gọi là “thị”, “người đàn bà”, “người con dâu”. Thị chỉ là một trong muôn vàn người đàn bà rơi vào cảnh ngộ đáng thương như thế. Không ai biết gốc tích của chị, chị “ngồi vêu ra ở cửa kho, nhặt hạt rơi, hạt vãi hay ai có việc gì thì làm”. Thị cũng giống như bao kẻ đói khát khác, ngoại hình trông rất tiều tụy, “cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Trong lần đầu gặp mặt, khi nghe lời bông đùa của Tràng, thị đã “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng” – một người đàn ông mà chị không hề quen biết và đã đùa giỡn với anh. Lần gặp thứ hai, thị lớn tiếng trách móc anh Tràng vì đã thất hứa “điêu, người thế mà điêu” làm cho Tràng không hiểu chuyện gì. Cái đói, cái khát đã khiến cho thị trở nên trơ trẽn, táo tợn, không cần đến danh dự để có được miếng ăn. Khi được Tràng mời ăn thì “hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên”, “thị ngồi sà xuống, ăn thật”. Liều lĩnh hơn, thị đã chấp nhận theo không Tràng về làm vợ vì một câu nói đùa. Người vợ nhặt biến lời rủ rê thành lời cầu hôn chính thức, biến tất cả sự bông đùa thành sự thật, chị theo người đàn ông lạ về nhà mà không hề biết gia cảnh, tính tình của người ấy.

Những vẻ đẹp của người vợ nhặt bị cái đói tha hóa, che khuất nhưng trong tâm hồn người phụ nữ ấy vẫn ánh lên những phẩm chất đẹp đẽ của lòng ham sống mãnh liệt, thị khát khao hạnh phúc gia đình, ý tứ hiền hậu đúng mực và lạc quan tin tưởng vào tương lai tốt đẹp. Khi theo Tràng về nhà làm dâu thì người vợ nhặt trở nên nữ tính, dịu dàng, đúng mực. Khi về đến nhà anh Tràng, “thị ngồi mớm ở mép giường” là tư thế e thẹn, ngượng ngùng đầy rụt rè, lo âu của người con gái lần đầu tiên bước về nhà chồng. Thị “hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”, trong đầu là bao suy nghĩ ngổn ngang, lo lắng, e ngại và cả sự xót xa, nỗi tủi nhục cho phận mình. Thế nhưng, người vợ nhặt ấy đã vượt lên trên hoàn cảnh để vun vén cho hạnh phúc mới của mình. Thị chủ động hỏi thăm, trò chuyện với bà cụ Tứ. Sáng hôm sau, thị dậy sớm làm đủ mọi việc như một người vợ hiền tần tảo, đảm đang, thị cùng với bà cụ Tứ dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người phụ nữ này thay đổi đến mức chính Tràng cũng phải ngạc nhiên “Tràng nom thị hôm nay khác lắm”. Người vợ nhặt ấy đã đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho mọi người. Đối với người dân xóm ngụ cư thì người vợ nhặt đã đem đến cho họ niềm tin vào sự đổi thay. Đối với bà cụ Tứ, người vợ nhặt chính là niềm an ủi, hạnh phúc lớn lao. Người vợ nhặt đã đem đến niềm hạnh phúc thực sự cho Tràng, mái ấm gia đình đã khiến cho Tràng thay đổi từ một người đàn ông thô kệch vụng về nay bỗng trở thành người có ý thức, có trách nhiệm với gia đình. Chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe truyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang và làm nảy sinh trong Tràng hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc với lá cờ đỏ tung bay phấp phới, nó gợi lên trong Tràng niềm khát khao về sự đổi đời.

Người vợ nhặt được nhà văn khắc họa độc đáo ở việc chú trọng khắc họa những hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để giúp cho người đọc hiểu tâm tâm lí của người phụ nữ. Người vợ nhặt đã góp phần to lớn trong việc thể hiện giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

Cùng viết về người phụ nữ, về những mảnh đời cơ cực nhưng nhà văn Nguyễn Minh Châu lại có cách xây dựng nhân vật khác so với nhà văn Kim Lân. Nhân vật người đàn bà hàng chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa” là hiện thân cho những mảnh đời tăm tối, cơ cực trong cuộc sống của chúng ta. Người đàn bà hàng chài cũng không có tên gọi giống như người vợ nhặt là dụng ý nghệ thuật của nhà văn, chị cũng giống như bao người đàn bà vùng biển khác đều nhỏ bé, vô danh. Người đàn bà vùng biển ấy có ngoại hình xấu xí, thô kệch, “trạc ngoài bốn mươi” và thường xuyên phải chịu cảnh bạo lực gia đình “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Những trận đòn roi cứ trút lên người chị thật tàn bạo “lão dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”, “hai hàm răng nghiến ken két”. Để tránh những tổn thương cho các con khi chứng kiến cảnh bố đánh mẹ nên chị đã xin chồng đưa lên bờ để đánh, chị đã cố gắng hết sức để che chắn nhưng những đứa con hiểu chuyện cũng biết sự thật, nó đánh bố để bênh vực mẹ. Đối với chị, nỗi đau về tinh thần lớn hơn nỗi đau về thể xác.

Người đàn bà hàng chài thất học, phải chịu nhiều đau khổ nhưng có lẽ những trận đòn roi hành hạ cả về thể xác lẫn tâm hồn cũng không khiến cho “hạt ngọc” bên trong tâm hồn chị bị khuất lấp. Người đàn bà hàng chài giàu đức hi sinh và yêu thương con vô bờ bến cho nên thị thường xuyên bị chồng đánh nhưng vẫn quyết không bỏ chồng. Chị có một tôn chỉ sống thiêng liêng rằng: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Đây là sự giãi bày thật tình cho thấy nguồn gốc của tất cả sự chịu đựng, hi sinh ở vào hoàn cảnh đông con. Cuộc sống đầy bất chắc, nỗi lo cơm áo đeo đẳng nhưng vì sống cho con nên người đàn bà ấy đã tự nguyện sống với lão chồng thô lỗ. Cả cuộc đời chị vui nhất đó chính là khi “được nhìn thấy đàn con được ăn no”. Có thể thấy, đây là niềm vui giản dị, thiêng liêng bởi chúng được chắt chiu từ nước mắt, từ đau khổ và đắng cay. Khi cảnh bạo lực gia đình bị đứa con phát hiện thì chị cảm thấy vô cùng đau đớn, “miệng mếu máo”, “ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé”, “chắp tay vái lấy vái để” là hành động giống như lời tạ lỗi của một trái tim yêu thương con vô bờ. Khi bị chồng đánh, chị không khóc nhưng khi ôm con chị lại “giỏ xuống những dòng nước mắt” bởi chị cảm thấy có tội khi làm tổn thương tâm hồn trẻ thơ của những đứa nhỏ.

Người đàn bà hàng chài là người có tấm lòng bao dung, giàu lòng vị tha nên thị hiểu được nguồn gốc cơn giận của chồng. Chị đã chịu đựng “cơn giận như lửa cháy hàng ngày của chồng” và cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng và cũng không tìm cách trốn chạy. Chị biết Phùng và Đẩu là người có tấm lòng tốt nhưng không hiểu được công việc của người làm ăn khó nhọc nên chị đã kể cho hai người biết về người chồng của mình là một người có bản chất lương thiện, hiền lành nhưng cục tính. Chính cuộc sống đói nghèo đã khiến anh trở thành một người chồng vũ phu độc ác, chị hiểu rằng chồng chị đánh chị như một phương án để giải tỏa hồn. Giống như tất cả những người phụ nữ bao dung khác, chị tự nhận lỗi về mình rằng “giá như tôi đẻ ít đi”. Người phụ này không lạnh lùng, vô cảm trước những đau đớn về thể xác, không phải chị không ý thức được quyền sống của mình bị xâm phạm mà chị ý thức được nguyên nhân dẫn đến hành động bạo lực của chồng nên chị đành phải nhẫn nhục để bỏ qua. Khi cái đói chưa được giải quyết thì chị vẫn cam chịu bị chồng đánh, đó là sự bế tắc cùng quẫn đến tuyệt vọng bộc lộc sức chịu đựng phi thường của người phụ nữ.

Người đàn bà hàng chài còn có nghị lực sống phi thường và rất thấu hiểu lẽ đời. Khi xuất hiện ở Tòa án huyện, lúc đầu người đàn bà tỏ vẻ lúng túng, sợ sệt khi kể lại câu chuyện về cuộc đời mình nhưng thực chất là bảo vệ quan điểm của mình nên người đàn bà ấy đã mất đi vẻ ngoài khúm núm, sợ sệt. Người đàn bà đã khiến cho Phùng và Đẩu thay đổi về cách nhìn nhận cuộc đời từ chỗ thất vọng ngạc nhiên đến thông cảm, sẻ chia. Khi nghe Phùng và Đẩu nói, người đàn bà hiểu ngay hai người đối thoại với mình là tốt cho mình. Chị hiểu được tâm trạng tha hóa của chồng, chồng bị cuộc sống khốn khổ đẩy đến chỗ tha hóa. Câu chuyện của chị đã chứa đựng những nỗi thương cảm, ta thấy người chồng cũng là một người đáng thương và người đọc cũng hiểu được rằng người đàn bà hàng chài chọn như vậy là hợp lí.

Nhà văn đã xây dựng nhân vật bằng thủ pháp đối lập giữa ngoại hình và nội tâm, giữa số phận bất hạnh và phẩm chất nhân hậu, bao dung, thấu hiểu lẽ đời khiến cho nhân vật hiện ra rất chân thực. Nhân vật người đàn bà hàng chài hiện lên với số phận cay đắng, tủi nhục nhưng cũng rất đáng trân trọng ở vẻ đẹp của tình mẫu tử, ở sự bao dung độ lượng và có nghị lực sống phi thường.

Cả hai nhân vật đều là hiện thân của những mảnh đời bất hạnh, phải chịu nhiều cơ cực trong cuộc sống. Cũng vì cái đói, cái nghèo đã khiến cho người vợ nhặt không còn quan tâm đến danh dự mà theo không Tràng về làm vợ, người đàn bà hàng chài thì phải gánh chịu những cú đánh từ người chồng vô trách nhiệm. Thế nhưng, dù hoàn cảnh khắc nghiệt, khó khăn nhưng ở hai nhân vật đều ẩn chứa những phẩm chất tốt đẹp và nghị lực sống phi thường đáng được trân trọng.

Tuy hai nhân vật người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài có những điểm chung nhất định nhưng ở họ vẫn có những nét đẹp riêng biệt thể hiện phong cách sáng tác của mỗi nhà văn. Nhà văn Kim Lân thường tập trung miêu tả vẻ đẹp của những con người lao động xung quanh chúng ta cho nên nhân vật người vợ nhặt chủ yếu được khắc họa ở khía cạnh nàng dâu mới về nhà chồng với những cử chỉ, điệu bộ đúng mực và hóm hỉnh. Còn nhà văn Nguyễn Minh Châu lại đi tìm thứ được gọi là hạt ngọc ẩn chứa bên trong tâm hồn con người nên nhân vật người đàn bà hàng chài được khắc họa nổi bật ở tình yêu thương con và thấu hiểu lẽ đời. Ông đã đặt nhân vật người đàn bà hàng chài vào một tình huống nghịch lí để mang đến cho người đọc những nhận thức ngang trái về thực tế đời sống éo le đáng sợ.

Nhân vật người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài đã đem lại giá trị nhân đạo sâu sắc cho hai tác phẩm. Mỗi nhà văn đều có phong cách nghệ thuật độc đáo riêng biệt trong việc khắc họa hình tượng nhân vật đã giúp cho người đọc có cái nhìn đồng cảm với những số phận bất hạnh. Hai nhân vật trên đều có những phẩm chất tốt đẹp ẩn chứa bên trong tâm hồn cho dù hoàn cảnh có đẩy họ xuống những cái đáy của sự đau khổ, tuyệt vọng.

So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài- Mẫu 8

Kim Lân là một nhà văn viết rất nhiều và khá tốt về cuộc sống nông thôn cũng như những người nông dân hiền lành. Viết về cuộc sống, số phận và hoàn cảnh của mọi người trong những năm đói trong năm Ất Dậu, “Vợ nhặt” là một tác phẩm điển hình cho khám phá của nhà văn về vẻ đẹp của người nông dân. Nổi bật là hình ảnh của người vợ nhặt với mong muốn được sống mạnh mẽ. Nguyễn Minh Châu là một trong những người đã mở rộng một cách tuyệt vời để đổi mới văn học Việt Nam sau năm 1975. Tác phẩm “chiếc thuyền ngoài xa” là từ cách kể chuyện của nghệ sĩ tên Phùng – một nghệ sĩ trên hành trình khám phá nghệ thuật và công việc cũng góp phần thể hiện những khám phá mới của nhà văn về thực tế và con người. Một thành công nổi bật của công việc là khám phá vẻ đẹp của một người phụ nữ câu cá.

Xuất hiện trong bối cảnh của một ngày đói, ý chí bám vào cuộc sống của nhân vật rất mạnh mẽ trong nhân vật.

Một người có một mong muốn thực sự: giấc mơ về nhà của gia đình, hạnh phúc.

Nghệ thuật miêu tả các nhân vật: Đặt nhân vật trong tình huống “nhặt vợ” vô cùng đặc sắc, cùng với khả năng phân tích phân tích tâm lý sắc bén, cây bút của Kim Lân đã đi sâu để tìm thấy phía sau. Thực tế khốn khổ là vẻ đẹp của tâm hồn con người.

Còn đối với hình ảnh của người đàn bà hàng chài với tất cả sự cam chịu cho sự kiên nhẫn của nhân vật đến từ tình yêu của đứa trẻ nghiêm túc, từ trái tim nhân hậu, lòng vị tha của một người mẹ. Cô ấy cũng là một người phụ nữ hy sinh. Bản năng này cũng đến từ các bà mẹ và tình yêu dành cho con một cách nghiêm túc. Trong khi Phùng và Đẩu buộc tội người đàn ông tồi tệ thì cô đã giải thích các trận bạo hành đó chỉ là cách người chồng đối diện với những đau khổ vật chất nặng nề trên vai người đàn ông. Thông qua câu chuyện về cuộc sống của chính họ, Phùng và Đẩu dần cảm thấy cuộc sống thực và tình huống một cách thực sự. Sử dụng các biện pháp đối lập (giữa hình thức và linh hồn), đưa các nhân vật vào một tình huống nhận thức độc đáo, Nguyễn Minh Châu giúp độc giả khám phá vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà hàng chài.

Viết về hai người phụ nữ trong hai bối cảnh khác nhau nhưng các nhà văn đã đưa năng lượng của họ khám phá vẻ đẹp ẩn giấu, cứng rắn và ẩn giấu của người phụ nữ bên cạnh số phận khốn khổ. Người vợ nhặt được hoặc người phụ nữ hàng chài đều là những nhân vật không tên, trở thành nhân vật điển hình. Họ mang lại vẻ đẹp truyền thống của phụ nữ Việt Nam.

Đặt nhân vật trong bối cảnh đói, nghệ thuật nghệ thuật của Kim Lân là mong muốn được sống mãnh liệt, những căn hộ tuyệt đẹp đã được đắm chìm bởi cơn đói. Nguyễn Minh Châu một lần nữa xây dựng hình ảnh của một người phụ nữ trong bối cảnh xã hội sau năm 1975, khi chiến tranh trôi qua nhưng sự nghèo nàn, sự lạc hậu chưa kết thúc, vì vậy nhân vật của tác giả được phát hiện trong vẻ đẹp của nhận thức về cuộc sống – Tình yêu của con người.

So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài- Mẫu 9

Kim Lân là một nhà văn chuyên về nông dân, viết về cuộc sống nông thôn đầy đôi mắt được trình bày trước mắt cô. Vợ nhặt là một truyện ngắn xuất sắc miêu tả thành công tình huống “nhặt vợ” độc đáo. Thị và đàn bà hàng chài đã để lại cho chúng tôi nhiều ấn tượng khó quên.

Nhân vật của người vợ nhặt được từ truyện ngắn của vợ nhặt được và được xây dựng với tính cách thông qua cây bút của Kim Lân. Ở đây, tác giả cho chúng tôi thấy một vẻ đẹp điển hình của một người phụ nữ, mặc dù cô ấy trải qua sự đau khổ, vẫn còn tỏa sáng một cách rực rỡ một tâm hồn cho vẻ đẹp.

Đằng sau tình cảnh nghèo đói là một trái tim mạnh mẽ và cuối cùng. Người phụ nữ chỉ vì “một câu nói đùa” vì “4 bát bánh đúc” đã chấp nhận đi theo để làm vợ Tràng. Đằng sau sự cẩu thả và đói là một người phụ nữ hiền lành. Khi Thị mới trở về nhà của Tràng, tôi dám ngồi trên mép giường, những hành động nhút nhát rất nữ tính.

Và người đàn bà hàng chài đã bị cuộc sống nhấn chìm cô vào vai một người xấu xí và tội nghiệp. Người phụ nữ là nhân vật chính trong câu chuyện, đóng một vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung của tác phẩm. Thông qua nhân vật này, chúng ta thấy mô tả rõ ràng và sống động của nhà văn, sự tương phản giữa ngoại hình và tâm hồn xinh đẹp bên trong.

Kim Lân là một nhà văn chuyên về nông dân, viết về cuộc sống nông thôn đầy đôi mắt được trình bày trước mắt cô. Vợ nhặt là một truyện ngắn xuất sắc miêu tả thành công tình huống “nhặt vợ” độc đáo. Thị và đàn bà hàng chài đã để lại cho chúng tôi nhiều ấn tượng khó quên.

Nhân vật của người vợ nhặt được từ truyện ngắn của vợ nhặt được và được xây dựng với tính cách thông qua cây bút của Kim Lân. Ở đây, tác giả cho chúng tôi thấy một vẻ đẹp điển hình của một người phụ nữ, mặc dù cô ấy trải qua sự đau khổ, vẫn còn tỏa sáng một cách rực rỡ một tâm hồn cho vẻ đẹp.

Đằng sau tình cảnh nghèo đói là một trái tim mạnh mẽ và cuối cùng. Người phụ nữ chỉ vì “một câu nói đùa” vì “4 bát bánh đúc” đã chấp nhận đi theo để làm vợ Tràng. Đằng sau sự cẩu thả và đói là một người phụ nữ hiền lành. Khi Thị mới trở về nhà của Tràng, tôi dám ngồi trên mép giường, những hành động nhút nhát rất nữ tính.

Và người đàn bà hàng chài đã bị cuộc sống nhấn chìm cô vào vai một người xấu xí và tội nghiệp. Người phụ nữ là nhân vật chính trong câu chuyện, đóng một vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung của tác phẩm. Thông qua nhân vật này, chúng ta thấy mô tả rõ ràng và sống động của nhà văn, sự tương phản giữa ngoại hình và tâm hồn xinh đẹp bên trong.

Người đàn bà hàng chài xuất hiện với ngoại hình xấu xí, gồ ghề. Nhưng sâu bên trong đó là người mẹ hy sinh, tốt bụng và khoan dung. Trái tim không bao giờ có tình yêu dành cho con cái của bạn. Chỉ cần nhìn thấy con có cuộc sống đầy đủ, người đàn bà đã hạnh phúc. Đằng sau việc không biết chữ, vùng nông thôn là một sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống.

Bản thân cô đã khiến Đẩu và Phùng nhận ra tình huống và sự đồng cảm sâu sắc hơn với người phụ nữ đó. Hóa ra đó là một người khác, rất đẹp và có giá trị.

Cả hai nhân vật đều có những điểm tương đồng, họ đều là nạn nhân của cuộc sống, nhưng trong đó họ có vẻ đẹp đáng kính và ca ngợi. Cả hai đều được mô tả chính xác. Nhưng cũng có một sự khác biệt, vẻ ngoài của người vợ đã chọn chủ yếu là ngoại hình. Và người phụ nữ câu cá được mô tả chủ yếu thông qua hành động, thông qua các chi tiết kịch tính, thông qua bạo lực gia đình.

Cả hai nhà văn đều làm nổi bật vẻ đẹp của phụ nữ, họ sống trong những tình huống khác nhau nhưng họ thể hiện vẻ đẹp. Kể từ đó, khẳng định hệ thống nhân đạo và bút của thực tế sâu sắc của nhà văn.

So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài- Mẫu 10

Người phụ nữ Việt Nam ta từ xưa đến nay vẫn nổi tiếng với nhiều phẩm đạo đức chất vô cùng tốt đẹp, đặc biệt là càng trong những hoàn cảnh khó khăn đọa đày, ta lại càng nhìn rõ những phẩm chất ấy. Trong các tác phẩm văn học xưa và nay cũng không dưới một lần người ta ngấm ngầm hoặc công khai bày tỏ, đề cao phẩm chất của người phụ nữ Việt để thể hiện tính nhân văn sâu sắc. Đặc biệt là trong các tác phẩm phản ánh hiện thực xã hội, những năm hoàn cảnh đất nước còn nhiều khắc nghiệt, thì hình ảnh những người đàn bà tảo tần mưa nắng, nhẫn nhục, chịu đựng lại càng hiện lên rõ nét. Tiêu biểu có thể kể đến Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, người mẹ Tà-ôi trong Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm, hay hình ảnh người bà trong Đò lèn của Nguyễn Duy,… cùng vô số những tác phẩm khác nữa. Và trong số những tác phẩm ấy người ta vẫn ấn tượng với hình ảnh người phụ nữ với tình mẫu tử sâu sắc trong hai tác phẩm Vợ nhặt và Chiếc thuyền ngoài xa. Có một nhận xét rất chính xác rằng: “Cùng yêu thương con bằng sự thấu hiểu lẽ đời nhưng nếu ở bà cụ Tứ (Vợ nhặt – Kim Lân) là sự vị tha, bao dung, lạc quan thì ở người đàn bà làng chài (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu) là sự chịu đựng, hy sinh, nhẫn nhục”.

Trước hết nói về bà cụ Tứ, là người phụ nữ sinh ra và lớn lên trong buổi đất nước có nhiều biến chuyển, thực dân Pháp xâm lược, chế độ phong kiến tàn lụi thối nát, đặc biệt nhất là đến thuở gần đất xa trời cứ ngỡ là sẽ được an hưởng tuổi già thì phát xít Nhật lại đem đến cái nạn đói khủng khiếp, hành hạ con người ta đến độ khốn khổ. Bà lão là người nghèo khó, chồng cụ có lẽ đã chết từ lâu, vì nạn đói, bệnh tật hay phu dịch gì đó, một mình bà vất vả nuôi lớn Tràng. Tài sản cũng chẳng có gì ngoài căn chòi rách nát, hai mẹ con nương tựa vào nhau qua ngày đoạn tháng. Nhân vật này không xuất hiện ngay từ đầu, bà chỉ bắt đầu có vai sau khi Tràng dẫn Thị về nhà làm vợ. Ấn tượng của độc giả về cụ Tứ chính là cái tiếng ho “húng hắng”, cái dáng người “lọng khọng” tưởng chừng đã già yếu lắm rồi, tuy nhiên vẫn còn rất minh mẫn khi “vừa đi vừa lẩm bẩm tính gì trong miệng”. Chỉ đôi chi tiết ấy thôi người ta cũng đủ biết cụ Tứ là người đàn bà cả đời vất vả nên mới có cái dáng bộ như thế. Cụ Tứ đã sống gần hết đời người, trải qua nhiều gian khó, nên bà yêu thương con bằng sự thấu hiểu lẽ đời sâu sắc. Khi thấy người đàn bà lạ lẫm ngồi trong căn nhà nhỏ bé của mình bà cụ ngạc nhiên lắm, biết bao nhiêu câu hỏi cứ thế tuôn ra trong lòng, nhưng cụ không tỏ ra bối rối mà cụ chỉ quay ra “nhìn con tỏ ý không hiểu”. Cụ thương và hiểu Tràng nên cụ để con tự nói mà không cần phải dò hỏi xét nét, đó là biểu hiện đầu tiên của sự hiền dịu yêu thương dành cho con mình của bà cụ. Rồi đến khi cụ biết Thị là người vợ mà con mình nhặt về, thì lòng bà lặng lại, bà lão lập tức “hiểu ra bao nhiêu là cớ sự”, con trai mình cũng đến tuổi dựng vợ gả chồng, âu cũng là chuyện tất yếu cả. Thế nhưng tấm lòng yêu con của người mẹ cũng từ lúc đó lại diễn ra bao mối lo khác, bà “ai oán xót thương cho số kiếp con trai mình” cũng là xót xa cho kiếp làm mẹ, nuôi con đến từng này tuổi đầu nhưng không có nổi cho con một nhúm trầu cau để hỏi vợ, khiến nó phải tự đưa một người phụ nữ về nhà nhận làm vợ. Bà lão vì thương con mà xúc động “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt”, con trai có vợ bà vui một nhưng buồn mười, trước cái cảnh đói kém, mạng người như rơm rác, cứ lâu lâu lại có một ai đó ngã xuống vì đói thì cái bà lo nhiều nhất là “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không”. Như vậy có thể thấy rằng, bà cụ Tứ không hề phản đối cuộc hôn nhân chớp nhoáng của Tràng, thậm chí bà đã ngầm chấp nhận Thị làm con dâu, cái khiến bà trăn trở chỉ là gia cảnh khốn khó, bà sợ con khổ, rồi làm khổ cả người khác nữa. Một người mẹ thương con và thấu hiểu lẽ đời là vậy. Và sự thấu suốt ấy còn thể hiện rõ ràng thông qua phân cảnh bà nhìn Thị mà nghĩ ngợi “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được. Thôi bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con… Chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?”. Thật tình chẳng mấy người mẹ có thể nghĩ được như bà cụ Tứ, cứ nhìn cái cảnh rách rưới, lại theo không về làm vợ người ta của Thị không khéo chắc chẳng ai muốn nhận. Nhưng cụ Tứ lại khác, bà thậm chí biết ơn Thị, thấu hiểu cho hoàn cảnh của Thị, cũng ý thức rõ được hoàn cảnh của con mình, thế nên bà chọn cách tác hợp, với hy vọng về một mối lương duyên tốt đẹp cho con trai. Bởi lẽ, ngăn cấm chẳng có ý nghĩa gì, thậm chí khiến cả con trai lẫn Thị khổ sở. Bà hiền từ, đối đãi với người con dâu mới một cách khéo léo, không muốn để Thị phải buồn lòng, trong lời với hai vợ chồng là lời khuyên lời dạy bảo với một niềm tin, niềm hy vọng vững chắc vào tương lai “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?” khiến lòng đôi tân nhân cũng thêm phần phấn khởi. Mặc dù lòng bà cụ lúc nào cũng vẫn còn nhiều tối tăm, bà nhìn ra “cánh đồng tối”, “bóng tối bao trùm lấy đôi mắt”, “bà nghĩ đến cuộc đời khổ cực dài đằng đẵng của mình”. Trong nỗi lòng thương con vô bờ bến bà chỉ hy vọng rằng vợ chồng Tràng được khấm khá hơn cuộc đời khốn khổ của mình. Nghĩ đến đời mình bà lão lại càng thấu cảm cho cuộc đời Thị, bà nhìn Thị “lòng đầy thương xót”, cố thân mật với con dâu để Thị đỡ cảm thấy lạnh lẽo, buồn tủi, trước cảnh cưới xin lạ lùng như này.

Sau đêm tân hôn, cả căn nhà vốn tơi tả, u ám bỗng trở nên có không khí hẳn, thấy sự chu đáo tươm tất của Thị bà lão như trút được gánh nặng trong lòng “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Dẫu bữa cơm có thảm hại chỉ toàn rau chuối, cháo và muối nhưng cả nhà vẫn ăn rất ngon lành, bà cụ kể toàn những chuyện vui, thắp nên niềm tin vào tương lai cho vợ chồng Tràng, nào là nuôi gà, nào là chuyện làm ăn, không khí đầm ấm hẳn lên. Nồi cháo cám của bà cụ Tứ có lẽ chính là chi tiết đắt giá nhất của câu chuyện này, đó là món “chè khoán” mừng cặp vợ chồng mới cưới, thể hiện tấm lòng của bà cụ Tứ. Dẫu cuộc sống có khó khăn, kiệt quệ nhưng bà vẫn cố bòn cho được nồi cháo cám để làm giàu bữa ăn gia đình. Có lẽ rằng bà cụ Tứ thương vợ chồng Tràng không muốn họ phải chịu thiệt khi tân hôn mà vẫn phải ăn rau chuối, cháo kèm muối, nên mới có nồi cháo cám tuy đắng ghét, nghẹn ứ nơi cổ họng nhưng đó chính là tình thương sâu sắc của người mẹ dành cho con. Qua những chi tiết kể trên nhận định về tình thương con của bà cụ Tứ với những nét “vị tha, bao dung, lạc quan” là hoàn toàn chính xác.

Về người đàn bà làng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, ta lại thấy một số kiếp khác, một cuộc đời khốn khổ khác. Cách mạng đã thành công, đất nước đã độc lập, không còn nạn đói khủng khiếp những năm 44, 45, thế nhưng số kiếp người phụ nữ vẫn chưa thể khấm khá hơn được. Phải nói rằng người đàn bà trong truyện có một số phận bất hạnh vô cùng, xấu xí, cuộc sống lam lũ vất vả hơn cả nửa đời người để hy sinh cho gia đình, thế nhưng vẫn bị chồng bạo hành không thương tiếc. Cũng như bà cụ Tứ, người đàn bà làng chài cũng yêu thương con bằng sự thấu hiểu lẽ đời sâu sắc nhưng sự yêu thương này ngoài lòng bao dung thì điểm nhấn lại chính là tính hy sinh, nhẫn nhục chịu đựng của người phụ nữ. Cảnh người đàn bà làng chài bị chồng dùng thắt lưng da quất tới tấp, vừa đánh vừa mắng như kẻ thù,thế nhưng nghịch lý “người đàn bà với một vẻ nhẫn nhịn, cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu lên tiếng, không hề chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”. Điều ấy khiến người đọc có phần sửng sốt và khó hiểu, là chị đau đớn, nhục nhã đến chết lặng, hay chị cố chịu đựng vì điều gì khác? Thậm chí lúc được Phùng giúp ly hôn chị cũng một mực không chịu, chị van xin “quý tòa bắt tội con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Thực kỳ lạ khi trên đời lại có người phụ nữ muốn chung sống với kẻ hành hạ mình không tiếc tay như thế, nhưng rồi qua cuộc nói chuyện với Phùng và Đẩu, ta mới chợt vỡ lẽ ra nhiều điều. Có phải rằng chị không thể chống lại những trận đòn roi hay chị không thể ly hôn đâu, nhưng cuộc đời đâu có đơn giản đến thế, đâu có dễ dàng như cái cách mà Phùng vẫn thường tưởng tượng. Những lời bộc bạch sắc bén của chị đã khiến cả Phùng và Đẩu phải nín lặng, phải đổi cách nghĩ về cuộc đời, chị nói một câu “Là bởi vì các chú không phải đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của một người đàn bà trên chiếc thuyền không có đàn ông”. Hóa ra chị nhẫn nhục, chịu đựng mọi sự bạo hành của chồng mà vẫn không chịu ly hôn là vì gần chục đứa con của mình. Phải nói rằng chẳng có gì có thể thiêng liêng và rộng lớn hơn tình mẹ cả, chị đã nguyện hy sinh cuộc đời, hy sinh sức khỏe, lòng tự trọng để mong cho những đứa con bé bỏng được khôn lớn trong một gia đình đầy đủ. “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”, chị cũng tự ý thức cho mình trách nhiệm cao cả của người phụ nữ với hơi hướng rất truyền thống “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khôn lớn nên phải gánh lấy cái khổ”. Có thể nói rằng mỗi câu chữ của người đàn bà làng chài tuy mộc mạc giản đơn vậy, nhưng lại đều có lý lẽ riêng cả, trong đó chứa đựng sự thấu hiểu và từng trải sâu sắc của một người đàn bà đã quá nửa đời người. Là những cái lý mà Đẩu và Phùng không thể nào phản bác, bởi vì nó thật sự đúng, ông bà ta đã nói “Mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh” là vậy, đời nay đâu ai có thể giống ai mà phán xét hay thay nhau quyết định. Nhưng cái thấu hiểu của người đàn bà làng chài không chỉ dừng lại ở sự hy sinh, nhẫn nhục và chịu đựng mà còn là tấm lòng bao dung, vị tha vô cùng. Chị lý giải việc lão chồng mình trở nên nóng nảy và cục cằn là bởi chị đẻ nhiều quá, bấy nhiêu miệng ăn khiến cuộc sống khó khăn đè nặng lên vai của người chồng, khiến ông ta trở nên đổi tính. Chị vẫn luôn nghĩ về người chồng đã cứu vớt chị khỏi những tháng ngày tăm tối nhất của cuộc đời, nghĩ về người con trai hiền lành như cục đất độ hơn chục năm về trước. Những ký ức đẹp đẽ và cả lòng biết ơn đã tiếp thêm sức mạnh khiến chị cố gắng trụ vững, nhẫn nhịn để nhà cửa được êm ấm, con cái được ăn no, mặc ấm thì bao nhiêu khổ cực chị cũng chịu được.

Bà cụ Tứ trong Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa là những nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh đói nghèo, thế nhưng trong bóng tối của đói nghèo, trong nghịch cảnh của số phận ở họ vẫn tỏa sáng những phẩm chất sáng ngời của người phụ nữ Việt Nam.

So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài- Mẫu 11

Kim Lân đã để cho bà cụ Tứ xuất hiện ở giữa tác phẩm, thế nhưng bà cụ Tứ đã trở thành nhân vật trung tâm của tác phẩm. Khi miêu tả bà cụ Tứ, ngòi bút Kim Lân chân thực trong từng hình ảnh và từng chi tiết. Bà cụ Tứ hiện lên là một bà mẹ có số phận bất hạnh vì chồng bà chết sớm, đứa con gái út cũng mất sớm, bà chỉ còn lại một đứa con trai duy nhất làm nghề kéo xe bò và anh ta là người dở hơi. Chính vì vậy, hai mẹ con sống trong một căn nhà tồi tàn, rúm ró ở xóm ngụ cư và người con trai đang có nguy cơ ế vợ. Nỗi đau khổ, tủi nhục suốt đời đè nặng lên thân phận đã tạo nên tính cách của bà. Chân dung nhân vật bà cụ Tứ được tác giả giới thiệu dần dần. Bắt đầu là “tiếng người húng hắng ho”, rồi một bà lão với cái dáng “lọng khọng” từ đầu ngõ “vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Tính từ “lọng khọng” rất dân dã và giàu chất tạo hình giúp người đọc hình dung ra cái dáng gầy gò, xiêu vẹo của bà mẹ già bởi gánh nặng cuộc đời, bởi cái đói nghèo. Và chính cái nghèo khó cũng làm trên khuôn mặt bà hiện lên một nét “bủng beo u ám”. Qua miêu tả ngoại hình bà cụ Tứ, mà chúng ta thấy được, đó là người mẹ có cuộc đời khổ cực, bất hạnh.

Kim Lân rất khéo léo dẫn dắt để người đọc cùng suy nghĩ, cùng hòa vào những nét tâm trạng buồn vui của bà cụ Tứ. Tác giả đặt bà cụ Tứ vào một hoàn cảnh hoàn toàn bất ngờ. Giữa những ngày đói kém khủng khiếp năm 1945 “người chết như ngả rạ” và “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, rồi thứ tiếng “gào lên từng hồi thê thiết” của những con quạ đậu trên “mấy cây gạo ngoài bãi chợ”, thì đứa con trai của bà cụ bỗng dưng “nhặt” được vợ trong một lần kéo xe thóc bò của liên đoàn lên tỉnh và dẫn về nhà giới thiệu với mẹ mình. Chính những điều đó đã tác động rất mạnh khiến cho bà cụ Tứ xuất hiện nhiều nét tâm trạng đan xen. Những nét tâm trạng của bà thể hiện ở hai thời điểm chiều hôm trước và sáng hôm sau rất khác nhau, nhưng những tâm trạng của bà đều là sự nhìn nhận và suy ngẫm về chuyện lấy vợ của Tràng.

bà cụ, gánh hàng Chiều hôm trước, bà cụ Tứ mang một tâm trạng ngạc nhiên khi từ ngoài ngõ đi vào, thấy thái độ khác thường của Tràng “reo lên như một đứa trẻ” và “lật đật chạy ra đón mình” thì bà lão theo con vào trong nhà với tâm trạng “phấp phỏng”. Đó là biểu hiện của sự lo lắng, của sự hồi hộp bởi bà không biết có sự gì sẽ đợi mình ở trong nhà. Khi đến giữa sân, nhìn thấy người đàn bà thì bà cụ ngạc nhiên “đứng sững lại” – một biểu hiện nữa của sự ngạc nhiên và đó là “sự ngạc nhiên hơn”. Điều đó chứng tỏ sự ngạc nhiên trong bà càng lúc càng nhiều, sự ngạc nhiên sau lớn hơn sự ngạc nhiên trước. Tác giả đã dùng ngôn ngữ độc thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng băn khoăn, thắc mắc của bà cụ lúc này. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà: “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia ? Sao lại chào mình bằng u ? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ ?” Một loạt các câu hỏi ấy chính là sự lục tìm trong trí óc của mình để tìm câu trả lời cho thỏa đáng. Nhưng bà cụ vẫn chưa tìm thấy câu trả lời, vì thế mà bà đổ lỗi cho cặp mắt của mình, không tin vào mắt mình “bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải”. Bà lão “nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào” nên bà quay sang dò hỏi con trai với sự ngạc nhiên không hiểu của chính mình. Khi người đàn bà trông thấy bà cụ về, cất tiếng chào “U đã về ạ”, thì kể cả tiếng chào ấy – một lời chào thân mật cũng không làm bà hiểu ra. Bà vẫn băn khoăn, phân vân đoán định và một câu hỏi nữa đặt ra: “Ô hay, thế là thế nào nhỉ ?” rồi bà lão “băn khoăn ngồi xuống giường”. Mãi đến khi Tràng vừa giới thiệu, vừa giải thích “đây là nhà tôi” rồi “chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau… Chẳng qua nó cũng là cái số cả” thì bà lão mới bắt đầu hiểu ra. Khi hiểu ra thì bà lão “cúi đầu nín lặng”. Cái tư thế “cúi đầu nín lặng” của bà cụ Tứ hàm chứa biết bao suy nghĩ, tâm sự, nỗi niềm và những tâm sự, nỗi niềm ấy khó có thể nói thành lời. Dường như qua tư thế đó, người đọc dần dần nhận ra nội tâm phong phú bên trong cái vẻ tưởng chừng như già nua, lẩm cẩm của bà. Trong bà cùng một lúc xuất hiện cả con người lí trí và con người tình cảm. Con người lí trí không chỉ giúp bà hiểu ra là con trai bà đã có vợ mà nó còn giúp cho bà hiểu ra những khó khăn, đói nghèo mà Tràng phải chịu đựng; rồi lại giúp bà hiểu ra chính số phận bất hạnh của đời bà khiến cho con bà sống trong hoàn cảnh trớ trêu như vậy. Còn con người tình cảm của bà tỏ ra rất “xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Sự ai oán, sự xót thương đó vừa hướng tới chính mình, vừa hướng tới con bà, vừa thể hiện nỗi đau của bản thân, vừa mang tình thương tới người con trai. Bởi vậy cho nên bao cảm xúc của bà lão vừa tội nghiệp, lại vừa nhân hậu biết bao!.

Cảm xúc trong bà càng lúc càng cụ thể hữu hình: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này. Còn mình thì…”. Đọc câu văn này, chúng ta có cảm giác như trái tim người mẹ khốn khổ đang rung lên đau đớn, xót xa. Cảm xúc của người mẹ hàm chứa sự so sánh giữa người ta với con mình trong hoàn cảnh dựng vợ gả chồng cho con. Lối so sánh ấy làm nổi bật không phải chỉ sự thiếu thốn, khó khăn trong gia đình bà mà dường như còn hàm chứa sự trách móc của bà với chính bản thân. Một sự ai oán cho bản thân bà ! Đó cũng chính là sự biểu hiện của sự day dứt trong lòng bà. Nhưng tất cả đều là biểu hiện của lòng nhân ái à lòng thương con rất tha thiết.

Cảm xúc xót thương còn được thể hiện qua sự lo lắng của bà hướng tới các con: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Vừa tủi phận mình, vừa thương con khiến cho “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Bà lão kìm nén xúc động, cố nuốt những giọt nước mắt mặn đắng vào cõi lòng vốn đã chất chứa đầy đau khổ của một đời tủi cực. Những giọt nước mắt vẫn cứ lặng lẽ rỉ ra từ đôi mắt đục mờ của người mẹ già tội nghiệp. Đoạn văn không chỉ là những câu trần thuật đơn thuần mà mỗi câu văn đều rưng rức cảm xúc xót thương của tác giả.

Diễn biến câu chuyện đã lên tới đỉnh điểm. Cái sắc sảo, tinh tế trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Kim Lân được thể hiện khá đậm nét. Cả ba nhân vật đều có chung một tâm trạng căng thẳng. Tràng và người “vợ nhặt” chờ đợi người mẹ già nua lên tiếng. Bà cụ Tứ hiểu ra câu chuyện thì sự đau buồn của bà khiến cho bà lão “khẽ thở dài” vì bà muốn giấu đi nỗi buồn khổ và sự lo lắng của chính mình. Bà lão tạm thời bứt ra khỏi tâm trạng triền miên của cảm xúc suy tư để hướng về người vợ nhặt, để “đăm đăm nhìn người đàn bà” khi thị “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Bà lão không chỉ nhìn người con dâu bằng thị giác mà còn hướng tới con dâu bằng cả tấm lòng. Vì thế bà lão nghĩ: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. Trong suy nghĩ đó của người mẹ hướng tới hai đối tượng “người ta” và “con mình”. “Người ta” trở thành người mang ơn và “con mình” là người chịu ơn. Điều đó đã chứng tỏ người mẹ già không hề coi thường, khinh bỉ người vợ nhặt, mà còn cảm thông, trân trọng, mặc dù đó là người đàn bà rách rưới, nghèo đói và không gia đình. Từ tâm tình dành cho người vợ nhặt, bà lão lại nghĩ về bổn phận người làm mẹ, để tiếp tục day dứt “chẳng lo lắng được cho con…”. Bà đã phó thác, trông chờ số phận vào sự may rủi: “May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết làm thế nào mà lo cho hết được”. Hoàn cảnh thật bi đáp khốn cùng ! Mặc dù lo lắng, mặc dù đau buồn nhưng dường như người mẹ đã chấp nhận “nàng dâu mới” tự lúc nào. Sau khi “khẽ dặng hắng một tiếng”, bà lão “nhẹ nhàng” nói với “nàng dâu mới”: “Ừ, thôi thì các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. Một sự chấp nhận tự nguyện của người mẹ trong tâm trạng vui mừng. Hai tiếng “mừng lòng” mà bà lão nói với các con thật chất phác, chân tình biết bao ! Lời nói mộc mạc ấy đã đem lại sự xúc động và yên tâm cho người vợ nhặt đáng thương kia. Sự chấp nhận của bà cụ Tứ khiến anh Tràng “thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi”.

Bà mẹ nghèo khổ, nhân hậu đã thấu hiểu cảnh ngộ và tâm trạng của người phụ nữ xa lạ bỗng dưng trở thành “con dâu” của mình. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm ở đoạn này một lần nữa diễn tả tinh tế tâm trạng phức tạp của nhân vật bà cụ Tứ. Cảm xúc như những đợt sóng cứ cuộn lên trong lòng người mẹ, khiến người đọc xót xa. Chao ôi, người mẹ thật tội nghiệp!. Tình thương con, ý thức trách nhiệm của người mẹ khiến cho bà phải lo cưới vợ cho con bằng tất cả khả năng, dẫu chỉ là lời nói…

Khi đã nhận “nàng dâu mới” thì bà cụ Tứ tiếp tục tâm sự, từ tốn dặn dò các con mình: “Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời ? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”. Trong lời tâm sự của bà, có lời thú nhận rất chân thật là “nhà ta thì nghèo”. Từ cái lí do ấy thì bà mẹ đã nhắc nhở các con “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn”. Tuy nhắc nhở vậy, bà còn động viên các con mình bằng một câu nói rất quen thuộc trong dân gian: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”. Lời động viên đó thể hiện niềm lạc quan của người mẹ nghèo trong hoàn cảnh khốn cùng. Hơn nữa, bà lão còn gieo cho các con niềm tin vào tương lai. Quả là một lời động viên đáng quý, giúp cho các con bà có thể vượt qua giai đoạn khó khăn này. Tâm trạng của bà cụ Tứ lẫn lộn buồn vui, lo lắng. Trong lòng bà cụ vẫn luôn ám ảnh bởi cái nghèo, cái khổ khiến cho bà lão “đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài”. Trong lòng bà còn ám ảnh bởi cả sự bất hạnh về thân phận của bà. Bởi vậy, trong kí ức của bà lão “nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình”. Tất cả đã hiện về như một cuốn phim dài bất tận, như một tấn bi kịch của cuộc đời bà. Từ những cảm xúc đó, tâm trạng lo lắng lại một lần nữa hiện về trong bà, bà lo cho các con: “Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?…”. Mặc dù lo lắng nhưng bà vẫn cố gắng gần gũi với người con dâu bằng lời mời thân mật: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Lời mời ấy đã rút ngắn khoảng cách giữa người mẹ và “con dâu” và cũng đã an ủi người “vợ nhặt” ít nhiều. Lời mời của người mẹ thể hiện tình thương, sự chấp nhận “nàng dâu mới” của bà. Nổi bật hơn cả vẫn là tấm lòng thương xót của bà cụ Tứ với người con dâu mới: “Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ đã là con dâu trong nhà rồi”. Bà lão tiếp tục tâm sự với người vợ nhặt bằng những lời thân mật: “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”. Trong lời nói của bà cụ chứng tỏ bà là người rất hiểu đời và hiểu người. Bà hiểu rằng khi cưới xin cho con thì phải có vài ba mâm cỗ trước trình tổ tiên, ông bà, sau mời làng, mời xóm. Bà cũng hiểu được lòng người, hiểu được sự bao dung của mọi người, họ sẽ thông cảm cho cảnh nghèo của bà mà không chấp nhặt, tính toán. Bà cũng hiểu ra đạo lí tạo nên gắn kết vợ chồng chính là sự hòa thuận. Nói đến đây thì bà cụ “nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Những giọt nước mắt của bà cụ Tứ chất chứa bao tình thương hướng tới các con. Giọt nước mắt của bà là biểu hiện của tấm lòng bao dung, nhân hậu của người mẹ nghèo. Nó rất đáng quý hơn bao những vật chất tầm thường mà bà dành cho các con.

Tâm trạng của bà cụ Tứ vào chiều hôm trước là sự đan xen cảm xúc lo lắng, vui mừng, xót xa, buồn tủi, thế nhưng vào buổi sáng của ngày hôm sau, thì tâm trạng bà luôn tràn ngập một niềm vui. Niềm vui ấy được thể hiện trên khuôn mặt của người mẹ: “bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Niềm vui còn được thể hiện qua hành động của bà: “xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa” với ý nghĩ “thu xếp của nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn”. Bà không vui sao được khi con trai bà đã thành gia thất. Bà cũng vơi đi một mối lo âu bấy lâu cứ canh cánh bên lòng và trong bữa ăn đầu tiên của ba mẹ con, dẫu chỉ có “rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo” nhưng bà “toàn nói chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này”. Câu chuyện người mẹ già kể cho các con vào bữa cơm đầu tiên sau ngày cưới, mặc dù đó vẫn chỉ là chuyện làm ăn, chuyện gia cảnh nhưng trong câu chuyện của bà không còn có quá khứ mà chỉ có tương lai. Câu chuyện của bà thật giản dị ! Đó là chuyện mua gà, nuôi gà, có đàn gà con mà người mẹ nói với Tràng: “Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà con mà xem…”. Chính câu chuyện vui của bà mẹ đã làm cho cuộc sống trở nên vui vẻ và đầm ấm hơn rất nhiều. Tuy vậy, trong bữa ăn càng lúc càng trở nên nghèo nàn khiến cho “câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn”. Thế nhưng, bà lão lại “lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút” và bà lão khen “chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Dường như bà lão cố xua đi cái không khí ảm đạm, cố gắng quên đi tình cảnh khốn khổ bằng thái độ tươi tỉnh. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy là tấm lòng người mẹ đang thổn thức lo âu. Bà lão “đãi” nàng dâu mới món ăn đặc biệt gọi là “cháo khoán”, nấu bằng cám, khen “ngon đáo để” và so sánh “xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Qua đó, bà động viên các con, để các con bà có thêm sức mạnh tinh thần để vượt qua “tao đoạn” ngặt nghèo, khó khăn này. Chi tiết này làm cho chúng ta cũng phải cảm động rơi lệ bởi tình thương, tấm chân tình đáng quý của bà. Kết lại đoạn văn là giọt nước mắt của người mẹ nhưng bà lão “ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc”.

Cái tài của Kim Lân là cứ nhẹ nhàng mà luồn lách ngòi bút động đến nơi sâu thẳm của tâm hồn. Ông đã diễn tả thật sâu sắc và tinh tế tâm lí của bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo khổ mà hiểu biết, yêu thương con hết lòng và yêu thương cả những mảnh đời oái oăm, tội nghiệp bằng một tấm lòng nhân ái sâu xa. Bà đã cố gắng xua đi cái ám ảnh đen tối đáng sợ của thực tại và nhen núm niềm tin, niềm vui cho các con. Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ vì đói khát ấy vẫn nung nấu một ý chí sống mãnh liệt.

Trong văn học Việt Nam, ngoài tình phụ tử như của Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao thì tình mẫu tử trong đoạn trích “Trong lòng mẹ” của nhà văn Nguyên Hồng thật đáng chân trọng. Người mẹ vì phải thoát khỏi cổ tục nghiệt ngã mà tha hương cầu thực nhưng vẫn yêu thương, hi sinh vì con mình. Hay người đàn bà hàng chài không tên trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là người mẹ phải chịu sự hành hạ, đánh đập dã man của người chồng nhưng lại giàu tình thương, lòng bao dung, vị tha, giàu đức hi sinh, luôn sống vì con, hi sinh cho hạnh phúc của con. Và bà cụ Tứ cũng là một người mẹ nhân hậu, giàu đức hi sinh, hết lòng yêu thương con.

Qua truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhà văn Kim Lân đã dựng lên hình ảnh chân thực và cảm động về một người mẹ nghèo khổ hết lòng vì con. Ngòi bút tinh tế, sắc sảo của tác giả đi sâu phân tích diễn biến tâm lí phức tạp của bà cụ Tứ và thể hiện qua từng lời nói, ánh mắt, trong suy nghĩ, hành động và sự lo xa cho tương lai các con. Phải là người có vốn sống phong phú, thấu hiểu và thông cảm, yêu mến và chân trọng những người nghèo khổ thì Kim Lân mới có thể diễn tả một cách chân thực và tài tình đến vậy.

Truyện ngắn “Vợ nhặt” không đơn thuần là những trang văn mà là những trang đời thấm đẫm nước mắt tủi cực, xót xa, phấp phỏng nỗi lo cho hiện tại và le lói niềm tin vào tương lai của bà mẹ nghèo. Hình ảnh bà cụ Tứ khiến người đọc rung động sâu sắc trước tấm chân tình tha thiết của người mẹ già. Người mẹ già ấy chính là ánh sáng le lói trong bối cảnh bi thảm của những kiếp người nghèo khổ. Nhân vật bà cụ Tứ đã làm cho giá trị nhân đạo của tác phẩm trở nên thấm thía, cảm động hơn rất nhiều. Bà cụ Tứ đã đọng lại trong lòng người đọc bao suy nghĩ và rung động sâu xa.

So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài- Mẫu 12

Vợ nhặt và Chiếc thuyền ngoài xa là hai truyện ngắn xuất sắc bậc nhất của Kim Lân và Nguyễn Minh Châu. Điểm gặp gỡ giữa hai tác phẩm là xây dựng thành công hình tượng người mẹ đẹp đẽ, đáng trân trọng với tình thương con vô bờ bến. Tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài cũng chính là cội nguồn tạo nên sức sống mãnh liệt trong tâm hồn của hai người mẹ này.

Cả bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài đều là những người mẹ thương con, tình thương cao cả này đã mang đến sức sống tâm hồn mãnh liệt giúp họ vượt qua những khó khăn của hoàn cảnh để yêu thương, che chở cho những người con.

Trong truyện ngắn Vợ nhặt, hình ảnh bà cụ Tứ hiện lên là một người đàn bà giàu trải nghiệm, một người mẹ giàu yêu thương, có tấm lòng bao dung, vị tha cao cả. Trước tình huống anh Tràng dẫn về một người đàn bà xa lạ và giới thiệu là vợ của mình, bà cụ Tứ vừa “ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Bà thương con vì lấy vợ trong lúc đói khát dữ dội lại tủi cho mình vì làm mẹ mà chẳng thể làm tròn bổn phận với con.

Bao cảm xúc phức tạp được bà cụ Tứ cố giấu trong lòng mà dang rộng vòng tay để đón nhận người con dâu mới “ừ, thôi thì các con phải duyên, phải số với nhau, u cũng mừng lòng”. Trước hạnh phúc bất ngờ của con, bà cụ Tứ đã giấu nỗi buồn cho mình và thật tâm mong muốn các con sẽ hạnh phúc. Không chỉ đón nhận người con dâu mới bằng cả tấm lòng bao dung của người mẹ mà bà cụ Tứ còn động viên, thắp lên trong các con niềm tin, niềm hi vọng vào tương lai tươi sáng với triết lí “Không ai nghèo ba họ, không ai khó ba đời”.

Hạnh phúc của các con cũng làm cho bà cụ Tứ trở nên hạnh phúc, tươi tỉnh hơn “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Trong buổi sáng hôm sau bà đã cùng con dâu dọn dẹp nhà cửa, chuẩn bị bữa cơm ngày đói, ngay khi không khí bữa cơm trầm lại vì miếng cháo đắng nghẹn nơi cổ thì bà cụ Tứ vẫn vui vẻ động viên con. Bà cụ Tứ là người đàn bà khốn khổ đã trải qua bao cay đắng của cuộc đời nhưng lại là người nói nhiều nhất về hạnh phúc và tương lai tươi sáng. Chính tình thương con đã mang đến sức sống, sự lạc quan đầy mạnh mẽ cho người mẹ ấy.

Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, bên cạnh câu chuyện bất hạnh của gia đình người đàn bà hàng chài, độc giả còn xúc động bởi tình mẫu tử thiêng liêng mà người đàn bà ấy dành cho con cái của mình. Người đàn bà đã chấp nhận chung sống với người chồng vũ phu, tàn nhẫn, chấp nhận những trận đòn roi vô lí trên thân xác để các con được ăn no, có một gia đình hạnh phúc. Chị ta đã thu xếp cho thằng Phác lên ở với ông ngoại nhằm tránh những xung đột giữa hai cha con. Người đàn bà ấy cũng cầu xin chồng mang mình lên bờ để đánh để những đứa con không phải chứng kiến cảnh bố đánh mẹ và cũng là cách bảo vệ cho tâm hồn non nớt, dễ bị tổn thương của chúng.

Khi thằng Phác lao vào đánh bố như một mũi tên, người đàn bà hàng chài đã vô cùng đau khổ bởi điều chị ta sợ hãi nhất đã xảy ra, dù cố gắng, nỗ lực như thế nào vẫn không thể bảo vệ được cho tâm hồn mỏng manh của Phác. Người đàn bà hàng chài đã ôm chầm, vái lấy vái để đứa con để mong con không làm những việc trái với đạo lí, đó cũng là hành động cầu xin con tha lỗi cho mình vì đã không bảo vệ được con và khiến nó chứng kiến những cảnh tượng đau lòng.

Nhìn vẻ cam chịu, nhẫn nhục đến vô lí của người đàn bà, Phùng, Đẩu cũng như hàng nghìn độc giả cảm thấy bất bình nhưng thực chất, mọi sự hi sinh của người đàn bà ấy đều xuất phát từ tình thương con, từ sự hiểu biết. Trong cuộc đời tăm tối, khổ đau của mình, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những hạnh phúc nhỏ nhoi: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Chính tình thương con đã mang đến sức mạnh và ý nghĩa cuộc sống cho người đàn bà ấy.

Bằng tấm lòng nhân đạo sâu sắc, Kim Lân và Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự trân trọng đối với những giá trị đẹp đẽ ở con người, đó là ánh sáng của đạo đức, là tình mẫu tử thiêng liêng. Bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài đã góp phần hoàn thiện vẻ đẹp tâm hồn của những người phụ nữ Việt Nam.

So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài- Mẫu 13

Từ thuở văn chương mang đến những giọt nước mắt rớt rơi vào tâm hồn mỗi con người thì cũng là lúc trái tim ta biết rung động. Nếu như đọc Vợ nhặt của Kim Lân, ta không quên được hình ảnh bà cụ Tứ lặng lẽ khóc thầm trong bóng đêm – thì dưới ngòi bút Nguyễn Minh Châu, người đàn bà khốn khổ trong Chiếc thuyền ngoài xa lại làm lòng ta quặn thắt khi vội lau dòng nước mắt để cất bước theo chồng tất tả cuộc mưu sinh. Mỗi nhà văn, với thiên chức của mình đã điểm thêm cho văn học Việt Nam những dòng nước mắt lấp lánh, chứa chan biết bao yêu thương và trân trọng.

Dưới ngòi bút nhẹ nhàng, tinh tế của mình, Kim Lân đã rất thành công khi ba lần miêu tả dòng nước mắt của bà cụ Tứ. Bà cụ Tứ – cũng như bao người mẹ nghèo ở chốn thôn quê ngày ấy-luôn mơ đến ngày được “dựng vợ gả chồng cho con”. Nhưng éo le thay, ước mong giản dị đó lại đến với bà trong một buổi chiều “tối sầm lại vì đói khát”. Khi mà ranh giới giữa sự sống và cái chết quá mong manh, Tràng dẫn về nhà một người vợ, khi gia đình Tràng đang đói quay đói quắt và mỗi sáng, người ta đã quá quen với những cái thây “nằm còng queo bên đường”… Liệu bà cụ Tứ có chấp thuận mối nhân duyên này không? Sau giây lát ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, bà lão “cúi đầu nín lặng”, Tràng, người “vợ nhặt” và cả độc giả nữa dường như cũng nín lặng đi vì hồi hộp. Chợt, “trong kẻ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Dòng nước mắt rỉ ra hiếm hoi trên gương mặt già nua của một người dường như đã cạn khô nước mắt. Bà không chỉ hiểu, mà còn thấy được những tháng ngày khổ cực, lam lũ sắp tới khi gia đình có thêm một miệng ăn. Tâm trạng bà đan xen vui mừng, buồn tủi với thương lo. Vui mừng vì con mình giờ đây đã có vợ. Nhưng nghĩ đến cảnh nhà quá nghèo, bổn phận mình là mẹ mà không lo được gì cho các con khiến niềm vui của bà không sao cất cánh lên được. Và cuối cùng, như bao người mẹ Việt Nam hiền lành, nhân hậu, bà cụ đồng ý tác hợp cho đôi vợ chồng trẻ: “thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng” Lòng ta bỗng nhẹ lại, vui lây niềm vui của Tràng. Giữa những năm “đói mòn đói mỏi” ấy, tình người chợt vụt sáng trên nền trời ảm đạm. Bao nhiêu khó khăn, vất vả dần tan biến, đọng lại bấy giờ chỉ còn là tình thương.

Nhưng vẫn còn đó hiện thực cuộc sống khắc nghiệt, chỉ chực dồn ép con người ta đến chân tường. Nước mắt bà lão lại cứ “chảy xuống ròng ròng”. Bà cũng không buồn lau. Nghĩ về cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình và tương lai của các con, bà vẫn lo lắng không nguôi: “Năm nay thì đói to đấy, chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Nhưng buổi sáng sau đêm “tân hôn” của các con, bà lão “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà nhanh nhẹn, xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa. Ta thấy trong bà dường như có một sự thay đổi theo hướng tích cực: bà toàn nói chuyện vui, chuyện sung sướng sau này. Bức tranh ngày đói dường như được tô sáng lên trong ánh nắng mùa hè và trong niềm vui của mỗi người. Nhưng nồi cháo cám đắng chát đã kéo con người quay về thực tại. Vẫn còn đó tiếng trống thúc thuế dồn dập, đàn quạ vẫn bay từng đám trên nền trời như những đám mây che lấp ánh sáng của niềm tin và của hy vọng. Bà cụ Tứ lại rơi nước mắt, nhưng không dám để mọi người nhìn thấy bà khóc. Đúng là trên gương mặt của người mẹ nghèo khổ thì giọt nước mắt lăn giữa nụ cười. Và do đó, với truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã hòa dòng nước mắt của bà cụ Tứ cùng với những khốn khổ của đồng bào ta trong nạn đói năm Ất Dậu thành dòng chảy đau thương của lịch sử.

Tạm biệt nhà văn của chốn thôn quê, đồng ruộng, ta đến với “người mở đường tinh anh và tài năng” Nguyễn Minh Châu,để lần nữa thấy được nét đẹp tâm hồn ẩn lấp sau giọt nước mắt của những người phụ nữ Việt Nam.

Đọc Chiếc thuyền ngoài xa, nhân vật người đàn bà hàng chài gây ấn tượng bởi một thân hình rắn chắc, thô kệch; bởi một sức chịu đựng, nhẫn nhục phi thường. Hằng ngày, những trận đòn roi tới tấp từ người chồng vũ phu vẫn không làm chị hé môi lấy nửa lời. Ta tưởng chừng con người ấy cũng trơ lì như sỏi đá và chắc sẽ chẳng có điều gì có thể chạm đến trái tim của chị. Nhưng không, chị là người phụ nữ giàu lòng bao dung và thương con rất mực. Chị hiểu người chồng thay đổi tâm tính vì anh là nạn nhân của hoàn cảnh, chị thương con bằng một tình thương lớn lao, cao cả. Chị cũng là một người phụ nữ, chị cũng yếu đuối nhưng phải kìm nén nỗi lòng để sống vì các con. Và khi giọt nước mắt của người đàn bà mạnh mẽ ấy rơi xuống thì những lớp vỏ chai sần của cuộc đời cũng không sao ngăn được con người nội tâm trong chị tỉnh giấc. Là khi chị nhận ra bao nhiêu cố gắng, nỗ lực của chị vẫn không thể cứu vớt một gia đình tan vỡ; Là lúc những luân lý đạo đức bị con mình dẫm đạp; Là khi bất lực nhìn đứa con mình yêu thương nhất đi vào con đường sai trái chỉ bởi nó muốn giải thoát cho mẹ. Nhưng rồi con người bản năng không cho phép chị mềm yếu, chị vội vàng chạy theo chồng mình như vội đuổi theo cuộc sống mưu sinh của hiện thực lạnh lùng, tàn khốc. Lần thứ hai ở tòa án huyện, chị lại khóc khi Phùng nhắc về cậu bé Phác mặc dù chị luôn cố không để lộ ra ngoài. Với chị những đứa con là niềm hạnh phúc, là lý do chị cố gắng nhịn nhục, cam chịu và tồn tại trên cõi đời này. Nhưng cũng chính chúng đã mang lại niềm đau đớn tột cùng, chạm sâu vào tâm hồn yếu ớt của chị để những giọt lệ chị rỏ ra đầy chua xót. Đó chính là bi kịch không lối thoát trong cuộc đời của những người phụ nữ miền biển như chị.

So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài- Mẫu 14

Kim Lân là nhà văn có vốn am hiểu sâu sắc về đời sống nông thôn, cuộc sống và số phận của những người nông dân trong xã hội xưa. Trong những tác phẩm của mình, Kim Lân đã hướng ngòi bút đến những con người nghèo khổ, qua đó thể hiện thái độ trân trọng đối với những giá trị tốt đẹp bên trong họ. Vợ nhặt là truyện ngắn như vậy, thông qua tình huống nhặt vợ đầy độc đáo không kém phần lạ lùng, Kim Lân đã thể hiện niềm tin mãnh liệt vào những phẩm chất tốt đẹp ở những con người nghèo khổ bị nạn đói vắt kiệt sự sống. Nguyễn Minh Châu lại là người tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học trong thời đổi mới sau 1975. Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu khi viết về cái nghịch lí trong gia đình hàng chài, qua đó tác giả thể hiện nỗi đồng cảm, xót thương đối với con người và những trăn trở về trách nhiệm của người nghệ sĩ.

Điểm gặp gỡ của nhà văn Kim Lân trong Vợ nhặt và Nguyễn Minh Châu trong Chiếc thuyền ngoài xa là đều hướng đến tái hiện những thân phận nhỏ bé, bất hạnh, những nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh. Đó là người vợ nhặt trong “Vợ nhặt” và người đàn bà hàng chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa”.

Người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài hiện lên với vẻ ngoài xấu xí, thê thảm, họ là nạn nhân của xã hội đói nghèo, cơ cực bị cuộc sống mưu sinh vắt kiệt sự sống. Người vợ nhặt trong truyện ngắn Vợ nhặt tuy không được miêu tả nhiều nhưng vẫn hiện lên với những vẻ đẹp đáng trân trọng. Với tài năng miêu tả bậc thầy, Kim Lân đã xây dựng nhân vật đầy sống động, gây bất ngờ với những thay đổi ban đầu và về sau, trong cái đối lập giữa vẻ bề ngoài với những giá trị bên trong.

Người vợ nhặt là nạn nhân của nạn đói, đứng trên ranh giới của sự sống và cái chết, chị ta sống lang bạt, vất vưởng. Đây cũng là cơ duyên để chị ta gặp gỡ và nên vợ nên chồng với anh Tràng. Tuy nhiên đối lập với cảnh trôi dạt, vất vưởng ấy lại là lòng ham sống mãnh liệt, chị ta chấp nhận theo không anh Tràng – một người đàn ông xấu xí, nghèo khổ về làm vợ vừa là con đường chạy trốn với cái đói, cái chết vừa thể hiện khát khao hạnh phúc mãnh liệt ở người đàn bà ấy.

Người vợ nhặt hiện lên trong trang văn của Kim Lân với dáng vẻ thê thảm, rách rưới cùng thân hình gày gò xanh xao, bị vắt kiệt sức sống bởi nạn đói. Không chỉ xấu xí, rách rưới mà ấn tượng đầu tiên chị ta mang đến cho độc giả là sự chao chát, chỏng lỏn, một người phụ nữ vô duyên có thể lớn tiếng mắng mỏ và đòi trả công bằng bữa ăn với người đàn ông mà mình từng đẩy xe bò hộ. Tuy nhiên, ẩn chứa bên trong vẻ ngoài nhếch nhác, chỏng lỏn ấy lại là người đàn bà biết điều, một người phụ nữ hiền hậu, một người vợ đúng mực.

Khi theo anh Tràng về nhà, trước sự bàn tán của người dân xóm ngụ cư chị ta dù không thoải mái nhưng cũng chỉ dám lầm bầm trong miệng. Trước ngôi nhà lụp xụp của mẹ con anh Tràng, dù thất vọng nhưng chị ta cũng không bỏ đi hay mắng chửi anh Tràng như trước đó mà chỉ cố nén thất vọng trong tiếng thở dài cố nén, trong ánh mắt tối lại. Khi bà cụ Tứ về, người đàn bà ấy đã chủ động làm quen, buổi sáng đầu tiên về nhà chồng chị ta cũng chủ động dậy sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, chuẩn bị mâm cơm gia đình. Như vậy, ấn tượng về người vợ nhặt hoàn toàn thay đổi khi chị ta theo anh Tràng về làm vợ, đó chính là vẻ đẹp tâm hồn, bản chất đáng quý bên trong cái xù xì, xấu xí bên ngoài.

Người đàn bà hàng chài là nhân vật chính trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa cũng là nạn nhân của đói nghèo, của những trận bạo lực gia đình. Nhân vật người đàn bà được Nguyễn Minh Châu tái hiện rõ nét theo lối tương phản giữa bề ngoài và bên trong, giữa thân phận và phẩm chất.

Bên trong vẻ ngoài cam chịu, nhẫn nhục vô nghĩa lí khi chấp nhận chung sống với người chồng vũ phu, chấp nhận cuộc sống như địa ngục lại là một tấm lòng vị tha, độ lượng, giàu đức hi sinh của một người đàn bà hiểu biết. Người đàn bà hàng chài không chịu bỏ chồng vì muốn các con có một mái ấm với cả bố và mẹ, được ăn no, chị ta hiểu được cái khắc nghiệt của cuộc sống mưu sinh trên biển không thể thiếu bàn tay chèo lái của người đàn ông, và trên hết là người đàn bà ấy hiểu bản chất của người chồng không xấu, hắn ta bạo tàn, vô tình như thực tại cũng vì quá nghèo khổ.

Thông qua câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện, ta mới vỡ nhẽ ra rằng người đàn bà ấy không cam chịu một cách vô nghĩa lí, không nhẫn nhục một cách mù quáng, chị ta chấp nhận hi sinh bản thân để bảo vệ hạnh phúc gia đình, bảo vệ những điều tốt đẹp mà chị ta trân trọng. Như vậy phía sau vẻ thô kệch, quê mùa lại là người phụ nữ thấu hiểu lẽ đời, một người giàu tình thương.

Như vậy, cả người vợ nhặt và người đàn bà đều là đối tượng mà Kim lân và Nguyễn Minh Châu đồng cảm và trân trọng, bên trong vẻ ngoài xấu xí, thô kệch lại là những vẻ đẹp khuất lấp đáng trân trọng. Tuy nhiên, nếu người vợ nhặt hiện lên với những phẩm chất tốt đẹp của nàng dâu mới thì người đàn bà hàng chài lại hiện lên với những phẩm chất của người mẹ nặng gánh mưu sinh. Nét khác biệt của mỗi nhân vật làm nên cái đặc sắc của mỗi tác phẩm.

So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài- Mẫu 15

Đều là những người phụ nữ trong những hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, khó khăn, khổ đau nhưng cả người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài đều bộc lộ những vẻ đẹp riêng của mình. Đây đều là những người phụ nữ bất hạnh nhưng vẻ đẹp trong tâm hồn và nhân cách của họ đều là những điểm sáng cho hai tác phẩm.

Người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Kim Lân không được ưu ái về ngoại hình xuất thân đồng thời khi thị xuất hiện trong tác phẩm, đến cả tính cách của thị cũng khiến người đọc phải ngã ngửa. Đó là một người đàn bà chao chát, chỏng lỏn, là một con người khá vô duyên, xấu xí. Khi Tràng hò bông đùa một câu hò thị cũng xấp mải chạy đến đẩy xe bò cho anh. Sau đó mấy hôm, thị xuất hiện trước mặt Tràng lần nữa và khiến Tràng phải giật mình vì vẻ ngoài của mình. Sự đen đúa, xám xịt vì đói khiến thị trở nên khó nhận dạng, thế nhưng vẫn cái tính cách trơ trẽn ấy, thị chạy lại đòi Tràng mời ăn và khi được Tràng mời ăn bánh đúc thì thị cúi đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc chẳng nhìn ai. Mãi đến khi đánh chén xong xuôi thị mới ngẩng đầu lên, cầm đôi đũa quẹt ngang miệng và chép miệng khen ngon. Ở người vợ nhặt lúc này, người ta không tìm thấy một chút biểu hiện của sự nhẹ nhàng, duyên, dáng, tinh tế của những người phụ nữ. Chỉ có ở đây một người đàn bà cố phần thô thiển, trâng tráo. Thế rồi không đợi Tràng phải mở lời lần thứ hai thị đã gật đầu cái rụp theo Tràng về nhà đồng ý làm vợ anh. Người vợ nhặt ở phần đầu câu chuyện càng bỗ bã, vô duyên bao nhiêu thì đến phần sau thị lại khéo léo, tế nhị bấy nhiêu. Thị biết thẹn thùng khi theo Tràng về nhà, biết ý tứ ngồi mớm ở mép giường. Biết gia cảnh nhà Tràng, thị cũng chỉ nén một tiếng thở dài chứ không sừng sộ, bỏ đi. Thị còn rụt rè, lo sợ khi gặp mẹ chồng. Sáng hôm sau, thị dậy thật sớm cùng mẹ dọn dẹp nhà cửa, phát quang ruộng vườn. Thị bỗng hóa thân thành một nàng dâu hiền thảo, một cô Tấm giữa đời thực. Khi mẹ chồng bưng ra mời cô con dâu mới nồi cháo cám, thị cũng không hề có những phản ứng thô thiển như lúc trước mà chỉ lặng lẽ và miếng cháo chát nghẹn vào miệng. Rồi thị kể cho Tràng và mẹ nghe những câu chuyện về những người đi phá kho thóc, gieo vào lòng họ những niềm tin về một tương lai tươi sáng.

Người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu thì ban ban đầu khi nghệ sĩ Phùng gặp gỡ và chứng kiến lần đầu tiên đã cho thấy đây cũng là một người đàn bà có ngoại hình không lấy gì làm đẹp đẽ. Đã vậy, chị lại cam chịu, cam chịu một cách hèn mọn, để chồng đánh mình, con xông vào can thì chị ngăn cản. Khi Phùng và Đẩu gọi chị đến tòa án và khuyên chị li hôn chị lại một mực từ chối. Người phụ nữ ban đầu bước vào tòa án với vẻ ngoài rụt rè, nhút nhát bỗng dưng chuyển mình thay đổi thành một con người làm chủ, chủ động giải thích về hoàn cảnh của mình. Hóa ra chính chị lại là người chu đáo, tỉ mỉ. Chị biết nghĩ cho từng thành viên trong gia đình, biết cân nhắc nặng nhẹ lớn nhỏ, biết nhìn xa trông rộng. Chị hiểu rằng li hôn không phải là cách giải quyết tốt nhất ngược lại còn khiến cho mọi việc trở nên tồi tệ hơn. Sau khi nghe chị giải thích cả Phùng và Đẩu mới ngộ ra được nhiều điều, hóa ra họ cũng chỉ hiểu được phần nổi của câu chuyện, chỉ nắm được lí thuyết suông mà không biết rằng, thực tế cuộc sống còn rất nhiều khía cạnh, rất nhiều điều mà họ không biết tới. Chính người đàn bà hàng chài lúc này mới là người dạy cho họ những bài học về đường đời sâu sắc, thấm thía và thực tế.

Cả hai người phụ nữ đều là những con người chăm chỉ, dịu dàng, nhu mì. Họ biết chịu đựng, biết nhẫn nhịn và biết hi sinh. Dù cuộc sống đã đẩy họ vào những hoàn cảnh tăm tối nhưng họ luôn cố gắng vươn lên, nhìn về tương lai phía trước chứ không bi lụy vì thực tại, vì quá khứ. Thực ra chính họ mới chính là những người phụ nữ tốt đẹp nhất, mang trong mình những vẻ đẹp đáng quý của con người Việt Nam.

Trên đây là nội dung bài học So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài ( 15 bài mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập

5/5 - (1 bình chọn)


Nguyễn Thanh Tùng

Trường THCS Bình Chánh với mục tiêu chung là tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh có thể phát triển khả năng và đạt được thành công trong quá trình học tập. Chúng tôi cam kết xây dựng một không gian học tập đầy thách thức, sáng tạo và linh hoạt, nơi mà học sinh được khuyến khích khám phá, rèn luyện kỹ năng và trở thành những người học suốt đời.

Bài viết liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button